THẦN THÁNH TRUNG HOA .NHƯỢC THỦY DỊCH . BÀI 14.

4/08/2015 |
THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu.

LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. dienbatn chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.
 THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP  I
Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy  tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác  để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.
Nhược Thủy
( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).
Phần bổ sung cho bài “Huyền Thiên Thượng Đế”.
66. Thờ Bạch Hổ .


祭白虎
白虎 在中國傳說中,白虎是戰神、殺戮之神。虎具有避邪、禳災、祈豐及懲惡的揚善、發財致富、喜結良緣等多種神力。而它屬四象之一,是由星宿變成的。二十八星宿中,西方七宿:奎、婁、胃、昂、畢、觜、參。西方在五行中屬金,色白。白虎是五行學說的稱呼。
在古人心目中,老虎是既可怕又可敬的東西。因其威猛無比,能夠避邪。古書云:「畫虎於門,鬼不敢入。」「虎者,陽物,百獸之長也。能執摶挫銳,噬食鬼魅。今人卒得惡遇,燒虎皮飲之。擊其爪,亦能辟惡。此其驗也。」古人還認為白虎是一種祥瑞:「德至鳥獸。」
最初古羌族的圖騰由熊變為龍,到黃帝時向東發展,龍的圖騰被帶到東方,跟「東方蒼龍星座」合而為一,朱鳥則成了南方的鳳圖騰,後融合成「龍鳳呈祥」,作為古代圖騰的東鳳西龍,作為星象則是東蒼龍西朱鳥。到周朝以後,把五行天像重新劃分,朱鳥,和祝融火神一起歸南方。而白虎歸西方。後部族鬥爭及遷移,西北方的龍向東移,東方的鳳向南移,南方的虎向北移,形成一個順時針90°轉動的觀念移位運動。到漢代五行觀念成了統一的思想,完成了玄武「四方之神」的配套:「東方蒼龍、南方朱雀、西方白虎、北方玄武。」
《禮記.禮運》中謂:「麟鳳龜龍,謂之四靈。」四靈有麟、四象有虎。由於白虎是戰伐之神,所以有多位的猛將被說成為白虎星扥世的,如:唐代大將羅成、薛仁貴父子等人。除此之外,白虎還被道教神化,成為各廟宇的門神。

一般人在運氣不好的時候,很多時都會去求神靈消災解難,而有一個祭祀儀式去完成,俗稱「作福」。廣東最流行作觀音福。

Thờ   Bạch Hổ
*Theo truyền thuyết của Trung Quốc, Bạch Hổ là một vị Thần Chiến Đấu, Thần Xé Xác.
Hổ còn có chức năng đuổi tà, giải cứu tai nạn, ban cho sự giàu có, trừng phạt kẻ ác, phù hộ người lương thiện, hỉ kết mối lương duyên cho nam nữ …Hổ là một trong “Tứ Tượng” , do tinh tú biến thành. Trong Nhị Thập bát Tú, bảy sao ở phương Tây là :- Khuê—Lâu—Vị— Mão—Tất—Chủy—Sâm . Phương Tây có ngũ hành thuộc Kim, sắc trắng. Từ đó, dựa vào học thuyết ngũ hành mà có Bạch Hổ.

*Trong lòng mọi người, Hổ là “đấng” vừa sợ hãi vừa kính trọng. Do sức lực mạnh mẽ không ai sánh nổi  của hổ mà có năng lực trừ tà. Sách xưa nói :- “Họa hình hổ ở cửa,  ma quỉ không dám xâm nhập” hay “Hổ là con vật thuộc dương, đứng đầu trăm thú, có sức mạnh và nhanh nhẹn, ăn nuốt quỉ mị. Người bị chết xù, đốt da hổ để uống thì khỏe lại, đeo móng hổ có năng lực trừ ác khí, rất linh ngiệm vậy”. Người xưa còn cho rằng, hổ cũng tượng trưng cho sự “lành tốt” vì “đức lành ban rãi cho khắp chim thú”.
*Thời tối sơ, các Bát Quái Đồ  của bộ tộc Khương từ “hình tượng gấu” biến thành “hình tượng rồng”. Thời Huỳnh Đế thì phát triển dần về hướng Đông, nên Bát Quái Đồ cũng được mang theo phương Đông, hợp nhất với “Chòm sao Thanh Long hướng Đông”, như vậy chòm Chu Tước ắt phải đưa về hướng Nam, sau dung hợp thành biểu tượng “Long Phượng trình tường” (hợp điều lành chung rồng phượng). Bát Quái Đồ cổ thì phía Đông là phượng, tây là rồng. Còn khoa Tinh Tượng (Thiên văn) thì cho rằng Đông Thanh Long , tây Chu Tước.
*Từ  đời Châu (Chu)  về sau mới   phân định lại ngũ hành thiên tượng. Lấy Chu Tước và Thần Lửa Chúc Dung ở về phương Nam, còn Bạch Hổ thì đưa về phương Tây. Về sau có sự thiên di của các bộ tộc do đó , dẫn đến việc “rồng” của Tây và Bắc phương dời về Đông, “phượng” của Đông dời về Nam, “hổ” của Nam dời về Bắc, tạo thành chuyển động thuận chiều 90° đúng theo qui luật vận động.
*Cho đến đời Hán, tư tưởng thông nhất quan niệm về ngũ hành , thành hình vĩnh viễn sự bố trí “thần của bốn phương” là :- Đông phương Thanh Long, Nam phương Chu Tước, Tây phương Bạch Hổ, Bắc phương Huyền Vũ” cho đến ngày nay.
*Trong “Lễ Ký—Lễ Vận” nói :- “Long lân qui phượng là Tứ Linh.” Tứ Linh thì có Lân còn Tứ Tượng thì có Hổ . Do vì Bạch Hổ là Thần Chiến Đấu, nên truyền thuyết cho rằng những mãnh tướng các triều đại là do “Bạch Hổ đầu thai”, như :- La Thành , cha con Tiết Nhân Quí … là những đại tướng đời Đường. Ngoài ra, Bạch Hổ còn được Đạo Giáo thần hóa, trở thành vị thần giữ cửa cho các Miếu Vũ.
*Có số người khi gặp vận hạn không tốt, đến cầu Bạch Hổ hóa giải tai nạn. Thêm nữa, làm động tác cúng tế, bố thí gọi là  nghi thức “Tác Phước”.(làm phước)
Tỉnh Quảng Đông rất thịnh hành tục “Làm phước Quan Âm”
*Nhược Thủy  dịch 
(từ http://www.fushantang.com)
*Lời dẫn:- Theo quan niệm của Đạo Giáo, Tam Thanh có trước trời đất, rồi sau khi có trời đất mới có Thiên Đình để cai quản. Vì chưa tìm được bài của Trung Quốc có phần hệ thống hóa những vị Thần Thánh nên tôi tạm dùng bài lấy từ :-
*Nguồn :- http://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn_%C4%91%C3%ACnh
Bài giới thiệu khái quát nầy sẽ giúp các bạn hệ thống lại những bài trước. (có những vị chưa có tài liệu chi tiết, sẽ bổ sung khi tìm được)
*Nhược  Thủy
TAM   THANH
Ba vị Tam Thanh được thờ trong các điện thờ Đạo giáo (gồm Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn tức Thái Thượng Lão Quân và Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn tức Linh Bảo Đại pháp sư).
*Trong Đạo giáo, Nguyên Thủy Thiên Tôn là đấng tối cao, vô thượng, cùng với Thái Thượng Lão Quân và Linh Bảo Đại Pháp sư là chủ của tất thảy, và hóa sinh ra cả vũ trụ, có trước vũ trụ. Nguyên Thủy Thiên Tôn nắm trong tay quy luật vận hành của vũ trụ, hóa thân thành các đấng thần thánh. Những người thờ Tam Thanh tin rằng Nguyên Thủy Thiên tôn hóa thân thành Bàn Cổ tạo lập trời đất; rồi sau đó là đấng chỉ định Ngọc Hoàng Thượng đế làm vua của Thiên Đình.


THIÊN  ĐÌNH
天庭
Thiên đình là triều đình trên bầu trời, trông coi mọi việc của vũ trụ theo quan điểm của Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian Trung Quốc.
Thiên đình có tổ chức giống như Triều đình phong kiến Trung Quốc, đứng đầu là một vị vua tức là Ngọc Hoàng Thượng đế, dưới là các ban văn võ, đều là các thần thánh tiên với các chức năng khác nhau.
*Thiên đình bao gồm :-
•   Lục ngự: Sáu vị Đại đế gồm Ngọc Hoàng Thượng đế và Ngũ thiên đế 
•   Ngũ lão: Năm vị thánh năm phương 
•   Trung ương Thiên quan: Các vị thiên quan 
•   Tam quan đại đế 
•   Tứ đại thiên vương 
•   Tứ trực công tào 
•   Tứ đại thiên sư 
•   Tứ phương thần 
•   Tứ hải long vương 
•   Tứ độc long vương 
•   Tứ đại nguyên soái 
•   Ngũ phương Yết đế 
•   Ngũ Đẩu tinh quân 
•   Ngũ Khí chân quân 
•   Ngũ Nhạc đại đế 
•   Lục Đinh Lục Giáp 
•   Nam Bắc Đẩu tinh quân 
•   Cửu Diệu tinh quân 
•   Bát tiên 
•   Thập nhị Nguyên thần 
•   Nhị thập bát tú 
•   Tam thập lục Thiên Thương 
•   Địa thượng Thiên tiên 
•   Thần tiêu Chư thần 
•   Cửu ty Tam tỉnh                  
*Chi tiết :-
1.- DANH HIỆU CỦA NGỌC HOÀNG :-
Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Ngọc Hoàng Đại Đế, gọi tắt là Ngọc Đế là vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của Thiên đình.
Từ thượng cổ, người Trung Quốc đã tôn thờ một vị vua trên trời, gọi là Thượng Đế. Tuy nhiên từ đời Thương thì Thượng Đế đã hoàn toàn chỉ là một vị thần, không có quyền năng sáng thế. Vị Vua trời này được cho là sống tại một cung điện tại chính giữa bầu trời, tại Thiên Cực Bắc. Đến các triều đại về sau, vị thần này được gọi dưới nhiều danh hiệu khác nhau:
•   Hoàng Thiên, Hạo Thiên, Thiên Đế: đời Chu 
•   Thái Nhất: Thiên quan thư trong Sử ký của Tư Mã Thiên dùng từ này 
•   Thái Vi Ngọc Đế, Tinh Chủ Thái Vi viên: thời Hán Vũ đế 
•   Phạm Thiên Ngọc Đế, Đế chủ Thiên Thị Viên: thời Hán Tuyên đế 
•   Diễm Hoa Thiếu Vi Ngọc Đế, Thiên Tiên Định Vị: thời Hán Ai đế 
•   Tử Vi Ngọc đế: đời Hán Quang Vũ đế 
•   Ngọc Hoàng Đạo Quân, Cao Thượng Ngọc Đế: thời Nam Triều 
•   Hạo thiên Kim khuyết Vô thượng Chí tôn Tự nhiên Diệu hữu Di la Chí chân Ngọc hoàng Thượng đế, Huyền khung Cao thượng Ngọc hoàng Đại đế. 
•   Đến đời Minh, danh hiệu đầy đủ là: Cao thiên Thượng thánh Đại từ Nhân giả Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn Huyền khung Cao Thượng đế. (Nghĩa là Vị thánh tối cao trên đỉnh trời, vô cùng nhân từ, là Vua Ngọc, bậc Thiên tôn vĩ đại, Huyền diệu lớn lao làm chủ trên cao). 
Ngoài ra Ngọc Hoàng Thượng đế còn được gọi bằng các tôn hiệu: Thiên Đế, Ngọc Đế, Đế Tể.


2.- NGŨ THIÊN ĐẾ:-
Ngũ Thiên đế hay Ngũ đế là năm vị thần trên Thiên đình trong Đạo giáo và tín ngưỡng Trung Quốc
Thuyết thứ nhất về Ngũ thiên đế:
•   Bắc phương: Bắc Cực Trung thiên Tử vi Đại đế 
•   Nam phương: Nam Cực Trường sinh Đại đế 
•   Đông phương: Đông Cực Thanh hoa Đại đế Thái Ất Cứu khổ thiên tôn 
•   Tây phương: Thái cực Thiên hoàng Đại đế 
•   Trung ương: Đại địa chi Mẫu, Thừa thiên Hiệu pháp Hậu thổ Hoàng địa 

Thuyết thứ hai về Ngũ thiên đế:
•   Bắc Phương Bạch đế là Nhục Thu 
•   Nam phương Xích đế là Chúc Dung 
•   Đông phương Thanh đế là Câu Mang 
•   Tây phương Hắc đế là Huyền Minh 
•   Trung ương Hoàng đế là Hậu Thổ 


3.- NGŨ  LÃO:-
Ngũ lão Ngũ phương là năm vị thần hoặc các vị thần tiên của năm phương trên Thiên đình trong Đạo giáo và tín ngưỡng Trung Quốc
*Ngũ lão ngũ phương gồm:
•   Nam phương Nam cực Quan Âm: Mặc dù Quan Thế Âm là một Bồ tát trong Phật giáo nhưng cũng được Đạo giáo mượn để làm một vị thần tiên. 
•   Đông phương Sùng Ân thánh đế 
•   Tiên ông Mười châu Ba đảo, Đông Hoa đế quân (tức Đông vương công, Kim thiền thị, Mộc Công) 
•   Bắc phương Bắc cực Huyền linh Đẩu mẫu Nguyên quân 
•   Trung ương Hoàng cực Hoàng giác Đại tiên 


4.- TRUNG  ƯƠNG   THIÊN  QUAN:-
Trung ương Thiên quan là các vị thần tiên có chức tước tại trên Thiên đình trong Đạo giáo và thần thoại Trung Quốc
•   Thiên lý nhãn, Thuận phong nhĩ: Thần có mắt nhìn nghìn dặm, thần có tai nghe theo gió 
•   Kim đồng, Ngọc nữ 
•   Lôi công, Điện mẫu (Kim quang thánh mẫu), Phong bá, Vũ soái: Bốn vị thần làm sấm, chớp, gió, mưa 
•   Du dịch linh quan, Dực thánh chân quân: hai vị thần di chuyển rất nhanh 
•   Đại lực quỷ vương: quỷ vương có sức lực vô hạn 
•   Thái bạch Kim tinh: Sứ giả của trời, tinh của Sao Kim 
•   Xích cước đại tiên 
•   Quảng Hàn tiên tử (Hằng Nga tiên tử, Thường Nga) 
•   Ngô Cương, Thiên Bồng Nguyên Soái, Thiên Hựu Nguyên Soái
•   Cửu Thiên Huyền Nữ 
•   Thập nhị Kim thoa 
•   Cửu Diệu tinh quân 
•   Nhật du thần, Dạ du thần, 
•   Thái Dương tinh quân, Thái âm tinh quân, 
•   Vũ đức tinh quân, Hựu thánh chân quân 
•   Thác tháp thiên vương Lý Tĩnh 
•   Kim Tra, Mộc Tra (Huệ Ngạn hành giả) 
•   Tam đàn Hải hội Đại thần Na Tra tam thái tử 
•   Cự Linh thần 
•   Nguyệt lão 
•   Tả phù Hữu bật 
•   Nhị lang thần Dương Tiễn 
•   Thái Ất Lôi Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn 
•   Vương Thiện Linh Quan 
•   Tát chân nhân, Tử Dương chân nhân (Trương Bá Đoan), Văn Xương đế quân, Thiên lung, Địa á (trời điếc đất câm) 


5.- CỬU DIỆU TINH QUÂN:-
Cửu Diệu tinh quân là chín vị thần trông coi Cửu Diệu là 9 thiên thể chuyển động trên bầu trời theo quan điểm thiên văn học Trung Quốc và thần thoại Trung Quốc
*Cửu Diệu tinh quân bao gồm:
•   Thái Dương tinh quân: vị thần trông coi Mặt Trời 
•   Thái Âm tinh quân: vị thần trông coi Mặt Trăng 
•   Thái Bạch tinh quân: vị thần trông coi Sao Kim, cũng là Thái Bạch Kim tinh 
•   Mộc Đức tinh quân: vị thần trông coi Sao Mộc 
•   Thủy Đức tinh quân: vị thần trông coi Sao Thủy 
•   Hỏa Đức tinh quân: vị thần trông coi Sao Hỏa 
•   Thổ Đức tinh quân: vị thần trông coi Sao Thổ 
•   La Hầu tinh quân: vị thần trông coi thực tinh La Hầu 
•   Kế Đô tinh quân: vị thần trông coi thực tinh Kế Đô 

6.- TAM QUAN ĐẠI ĐẾ:-
Tam quan Đại đế (三官大帝) hay Tam giới công (三界公) là ba vị thần trên Thiên đình trong Đạo giáo và tín ngưỡng Trung Quốc
*Tam quan Đại đế gồm:
•   Thiên quan đại đế 
•   Địa quan đại đế 
•   Thủy quan đại đế 
Trước kia người Trung Quốc chia Vũ trụ làm ba cõi: Thượng nguyên là Trời, Trung nguyên là Đất, Hạ nguyên là Biển. Tam quan Đại đế trông coi chung ba cõi này. Từ "Trung nguyên" về sau để chỉ riêng đất nước Trung Hoa.


7.- TỨ   THIÊN VƯƠNG:-
Thiên vương (zh. tiānwáng 天王, sa. devarāja, ja. tennō) được xem như là người canh giữ thế giới, thường được thờ trong các chùa. Truyền thuyết cho rằng các Thiên vương sống trên núi Tu-di (sa. meru), canh giữ thế giới và Phật pháp. Các vị đó chiến đấu chống cái ác và bảo vệ những nơi Phật pháp được truyền bá. Thân thể các vị được áo giáp che chở, đầu mang giáp sắt.
*Có bốn vị Thiên vương (Tứ Thiên vương, sa. catur-mahārāja) ở bốn hướng:
1.   Bắc Thiên vương với tên là Đa văn thiên (多聞天, sa. vaiśravaṇa) có thân màu lục, tay trái cầm cờ chiến thắng, tay phải mang tượng chùa hoặc một bảo tháp (mà trong đó – theo truyền thuyết – Long Thụ đã tìm được những bộ kinh dưới Long cung), hoặc một con chuột mầu bạc phun ngọc. Vị Bắc Thiên vương là vị quan trọng nhất trong bốn vị Thiên vương; 
2.   Nam Thiên vương là Tăng trưởng thiên (增長天, sa. virūḍhaka) có thân màu xanh, cầm gươm chém Vô minh. Vị này chuyên giữ gìn những chủng tử tốt đẹp trong con người; 
3.   Đông Thiên vương là Trì quốc thiên (持國天, sa. dhṛtarāṣṭra) có thân trắng, tay cầm đàn, tiếng đàn sẽ làm tâm thức con người trở nên thanh tịnh; 
4.   Tây Thiên vương tên Quảng mục thiên (廣目天, sa. virūpākṣa) có thân màu đỏ, tay phải cầm rắn (sa. nāga) nhưng không cho nó chiếm giữ Như ý châu (ngọc như ý). Ngọc như ý chỉ chuyên dành cho những bậc giác ngộ và rắn chỉ là người canh giữ viên ngọc đó. 
Truyền thuyết Trung Quốc đã nhắc các vị này từ thế kỉ thứ 4, nhưng đến đời Đường (thế kỉ thứ 7) người ta mới thật sự thờ cúng các vị Thiên vương. Mỗi vị này có 91 con trai và 8 tướng quân, giúp canh giữ mười phương thế giới. Tương truyền rằng, năm 742, Đại sư Bất Không Kim Cương (sa. amoghavajra, Mật tông) niệm chú Đà-la-ni gọi các vị Thiên tướng xuống giúp chống ngoại xâm. Vị Bắc Thiên vương và Tây Thiên vương hiện xuống đẩy lùi giặc, nhà vua nhớ ơn cho xây tượng các vị trong chùa chiền.


8.- TỨ   TRỰC CÔNG TÀO:-
Tứ trực Công tào là bốn vị thần trông coi về thời gian trên thiên đình trong thần thoại Trung Quốc
Tứ trực công tào gồm:
•   Trực Niên thần Lý Bính: trông coi về năm 
•   Trực Nguyệt thần Thừa Ất: trông coi về tháng 
•   Trực Nhật thần Chu Đăng: trông coi về ngày 
•   Trực Thời thần Lưu Hồng: trông coi về giờ 


9.- TỨ   ĐẠI  THIÊN  SƯ:-
Tứ đại Thiên sư (四大天師) là bốn vị tiên có vai trò đón tiếp như các vị sứ giả trên thiên đình trong Đạo giáo và thần thoại Trung Quốc
Tứ đại Thiên sư gồm:
•   Trương Đạo Lăng thiên sư 
•   Hứa Tinh Dương chân nhân thiên sư (Hứa Tốn, tự Kính Chi) 
•   Khâu Hoằng Tế chân nhân thiên sư 
•   Cát Tiên ông thiên sư Cát Hồng 
Đây là bốn vị đạo sĩ có thật, đã từng tu luyện theo Đạo giáo và được tôn lên như là những vị chân nhân, thiên sư.


10.- TỨ  PHƯƠNG THẦN:-
Tứ phương thần là bốn vị thần trên thiên đình trông coi bốn phương trời đất trong Đạo giáo và thần thoại Trung Quốc
*Tứ phương thần gồm:
•   Đông phương Thanh Long Mạnh Chương Thần Quân 
•   Tây phương Bạch Hổ Giám Binh Thần Quân 
•   Nam phương Chu Tước Lăng Quang Thần Quân 
•   Bắc phương Huyền Vũ Chấp Minh Thần Quân 

11.- TỨ   HẢI    LONG  VƯƠNG:-
Tứ hải Long vương là các vị thần có dạng rồng cai quản bốn đại dương theo thần thoại Trung Quốc.
Hình tượng các long vương vốn có xuất xứ từ Phật giáo, là hiện thân của rắn thần naga được Trung Quốc du nhập và Hán hóa
*Tứ hải long vương bao gồm:
•   Đông hải Long vương Ngao Quảng 
•   Tây hải Long vương Ngao Khâm 
•   Nam hải Long vương Ngao Thuận 
•   Bắc hải Long vương Ngao Nhuận 


12.- TỨ    ĐẠI   NGUYÊN   SOÁI:-
Tứ đại nguyên soái trong thần thoại Trung Quốc là bốn vị thần tướng canh giữ trên thiên đình
Tứ đại Nguyên soái gồm:
•   Mã nguyên soái, còn gọi là Mã nguyên quân, Hoa Quang thiên vương, Hoa Quang đại đế 
•   Triệu nguyên soái, tức là Vũ Tài Thần Triệu Công Minh (Triệu Huyền Đàn) 
•   Ôn nguyên soái, tức là Ôn Quỳnh, Đông Nhạc Đế Bộ Tướng 
•   Quan nguyên soái, tức là Quan Vũ, Quan Thánh Đế quân 
Trong bốn đại nguyên soái này, Triệu nguyên soái Triệu Công Minh được thờ như là vị thần tài giữ của cải, được các nhà buôn bán thờ. Quan nguyên soái tức Quan Vũ là người có thật, sống vào thời Tam Quốc, được thờ ở rất nhiều nơi.


13.- NGŨ  PHƯƠNG   YẾT-ĐẾ:-
Ngũ phương Yết đế là năm vị thần trong thần thoại Trung Quốc, luôn túc trực để giúp đỡ người tốt.
Ngũ phương Yết đế vốn có nguồn gốc Phật giáo, được người Trung Quốc chuyển thành các vị thần.
Ngũ phương Yết đế bao gồm:
•   Kim Quang yết đế 
•   Cân Đầu yết đế 
•   Ba La yết đế 
•   Ba La Tăng yết đế 
•   Ma Ha yết đế 

14.- NGŨ  NHẠC   ĐẠI   ĐẾ:-
Ngũ Nhạc đại đế là năm vị thần trông coi Ngũ nhạc - năm ngọn núi thiêng của Đạo giáo tại Trung Quốc, còn gọi là Ngũ Nhạc đế quân
Ngũ Nhạc đại đế gồm:
•   Đông nhạc Thái sơn Thiên tề Nhân thánh đại đế: trông coi Thái Sơn 
•   Nam nhạc Hành sơn Tư thiên Chiêu thánh đại đế: trông coi Hành Sơn 
•   Trung nhạc Tung sơn Trung thiên Sùng thánh đại đế: trông coi Tung Sơn 
•   Bắc nhạc Hằng sơn Anh thiên Huyền thánh đại đế: trông coi Hằng Sơn 
•   Tây nhạc Hoa sơn Kim thiên Nguyên thánh đại đế: trông coi Hoa Sơn 
Thần thoại Trung Quốc cho rằng Đông Nhạc đại đế họ Kim Hồng, là cha của tứ nhạc còn lại. Đông nhạc Thái Sơn là núi chủ, quan trọng nhất trong Ngũ nhạc.
Theo truyện Phong thần diễn nghĩa thì Đông Nhạc đại đế là Võ Thành vương Hoàng Phi Hổ.


*Năm ngọn núi lớn nổi tiếng:-(ngũ nhạc)
1/- Thái Sơn (chữ Hán: 泰山; bính âm: Tài Shān) là một ngọn núi có giá trị văn hóa và lịch sử tọa lạc tại ở phía bắc thành phố Thái An, tỉnh Sơn Đông, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đỉnh cao nhất của núi này là 1.545  Đỉnh Hoàng Đế.
Thái Sơn là một trong năm núi linh thiêng của Trung Quốc. Thái Sơn được dân Trung Quốc liên hệ với bình minh, sinh, tái sinh và được xem như thiêng nhất trong năm ngọn núi. Các đền thờ bên sườn núi là điểm đến cho dân hành hương trong 3000 năm qua.
Núi Thái Sơn được nhắc đến trong ca dao của Việt Nam
Công cha như núi Thái Sơn 
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.. 
*Trong tiểu thuyết Kim Dung, có một môn phái võ đã lấy tên Thái Sơn kiếm phái.

2/- Hành Sơn (tiếng Hoa: 衡山) là một dãy núi dài 150 km ở Hồ Nam, có 72 đỉnh cao với đỉnh cao nhất 1290 m. Đây là một trong các núi linh thiêng của Trung Quốc.

3/- Tung Sơn (giản thể: 嵩山; bính âm: Sōngshān), là một trong năm ngọn núi linh thiêng của Trung Quốc, nằm tại Đăng Phong, Trịnh Châu, Hà Nam, bên bờ sông Hoàng Hà. Ngày 13 tháng 2 năm 2004 được tổ chức UNESCO công nhận là Công viên địa chất thế giới.
(Chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn)
Tung Sơn nằm ở Trung Nguyên, ngày xưa gọi là Trung Nhạc, phía bắc trông ra Hoàng Hà, Lạc Thuỷ, phía nam nhìn ra Dĩnh Thuỷ, Cơ Sơn, phía đông nối với kinh đô Biện Lương của 5 triều đại, phía tây liền với cố đô Lạc Dương của 9 triều đại. Thế cho nên mới được gọi là "Biện Lạc lưỡng kinh, kì nội danh sơn", là đệ nhất danh sơn Trung Nguyên.
Có hơn 30 vị hoàng đế và hơn 150 văn nhân trứ danh đã từng tới thăm Tung Sơn, càng làm cho Tung Sơn trở thành nơi tương tụ của thần tiên. Trong Kinh Thi có câu "Tung cao duy nhạc, Tuấn Cực vu thiên" (núi cao chỉ có Tung Sơn, Tuấn Cực so với trời).
Đỉnh cao của núi là đỉnh Tuấn Cực, cao 1.491,7 m [1] trên mực nước biển. Thiếu Lâm Tự gần đấy là nơi khai sinh Thiền tông và bộ sưu tập các tháp chứa hài cốt của Thiếu Lâm Tự được coi là lớn nhất Trung Quốc hiện nay. Trung Nhạc miếu được xây dựng từ thời nhà Tần là một trong những công trình kiến trúc cổ đại nhất tại Trung Quốc.

4/- Hằng Sơn (tiếng Trung phồn thể: 恆山; giản thể: 恒山; bính âm: Héng Shān) còn gọi là Nguyên Nhạc hay Thường Sơn, nằm ở huyện Hồn Nguyên tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, là một núi trong “Ngũ Nhạc”, nên còn gọi là Bắc Nhạc. Đỉnh cao nhất của Hằng Sơn là Thiên Phong Lĩnh cao 2.016,1m[1], miếu thờ chính là miếu Bắc Nhạc, thờ thần Hằng Sơn (Bắc Nhạc đại đế). Tương truyền rằng vua Thuấn khi đi tuần thú tới đây đã phong Hằng Sơn là Bắc Nhạc. Theo Đạo giáo, một trong bát tiên là Trương Quả Lão cũng tu tiên tại đây, và sau cùng, tại đỉnh Hằng Sơn, ông đã cưỡi một chiếc lông bay lên trời. Từ đầu thời kỳ Tây Hán, Hằng Sơn đã có chùa miếu; đến thời kỳ Minh, Thanh thì chùa miếu đã khá đông đúc, với "tam tự, tứ từ, cửu đình các, thất cung, bát động, thập nhị miếu" (ba chùa, bốn đền thờ, chín đình gác, bảy cung, tám động, mười hai miếu). Phong cảnh Hằng Sơn vừa hùng vĩ, vừa hiểm trở với các ngôi chùa kì lạ, các dòng suối đẹp, được Từ Hà Khách (1587-1641) thời nhà Minh ghi chép lại trong Từ Hà Khách du kí. Thời cổ Hằng Sơn có tới 18 thắng cảnh, ngày nay còn tồn tại Triều điện, Hội Tiên phủ, Cửu Thiên cung cùng Kim Long khẩu và Huyền Không tự. Chùa Huyền Không cách cửa núi Hằng Sơn khoảng 3 km, được xây dựng khoảng cuối thời Bắc Ngụy với kiến trúc đặc sắc, có thể khái quát là "kì, huyền, xảo".

5/- Hoa Sơn (华山 hay 華山) là một trong năm ngọn núi thuộc Ngũ Nhạc Danh Sơn của Trung Quốc.
Dáng vẻ của năm ngọn núi nổi tiếng này cũng thật phong phú không giống nhau hay trùng lặp. Thái Sơn như tọa (ngồi), Hành Sơn như phi (bay), Tung Sơn như ngọa (nằm), Hằng Sơn như hành ( đi), Hoa Sơn như lập (đứng).
Hoa Sơn thuộc tỉnh Thiểm Tây, cao 1.997m, là đoạn đông của dãy Tần Lĩnh, toàn đá hoa cương, từ xa vọng về, hình núi dựng đứng như một bông hoa và vì vậy mà có tên là Hoa Sơn, đỉnh chính cao 2.083m, gọi là Thái Hoa Sơn hoặc Tây Nhạc. Hoa Sơn nổi danh là nơi hiểm nguy, thử thách tài nghệ của những dũng sĩ leo núi.
(Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/Tung_S%C6%A1n”)


15.-  NAM-BẮC   ĐẨU  TINH QUÂN:-
Nam - Bắc đẩu tinh quân là các vị thần trông coi các ngôi sao trong hai chòm Nam Đẩu và Bắc Đẩu trong thần thoại Trung Quốc
Các ngôi sao này có liên hệ mật thiết với môn Tử vi
1/- Nam đẩu tinh quân 6 vị tương ứng với 6 ngôi sao chòm Nam Đẩu, bao gồm:
•   Đệ nhất Thiên phủ cung: Tư mệnh tinh quân 
•   Đệ nhị Thiên tương cung: Tư lộc tinh quân 
•   Đệ tam Thiên lương cung: Duyên thọ tinh quân 
•   Đệ tứ Thiên đồng cung: Ích toán tinh quân 
•   Đệ ngũ Thiên xu cung: Độ ách tinh quân 
•   Đệ lục Thiên cơ cung: Thượng sinh tinh quân 

2/- Bắc đẩu tinh quân 7 vị tương ứng với 7 ngôi sao chòm Bắc Đẩu, bao gồm:
•   Bắc đẩu đệ nhất Dương Minh Tham lang tinh quân 
•   Bắc đẩu đệ nhị Âm Tinh Cự môn tinh quân 
•   Bắc đẩu đệ tam Chân Nhân Lộc tồn tinh quân 
•   Bắc đẩu đệ tứ Huyền Minh Văn khúc tinh quân 
•   Bắc đẩu đệ ngũ Đan Nguyên Liêm trinh tinh quân 
•   Bắc đẩu đệ lục Bắc Cực Vũ khúc tinh quân 
•   Bắc đẩu đệ thất Thiên Quan Phá quân tinh quân 


16.- CỬU   DIỆU  TINH QUÂN:-
Cửu Diệu tinh quân là chín vị thần trông coi Cửu Diệu là 9 thiên thể chuyển động trên bầu trời theo quan điểm thiên văn học Trung Quốc và thần thoại Trung Quốc
*Cửu Diệu tinh quân bao gồm:
•   Thái Dương tinh quân: vị thần trông coi Mặt Trời 
•   Thái Âm tinh quân: vị thần trông coi Mặt Trăng 
•   Thái Bạch tinh quân: vị thần trông coi Sao Kim, cũng là Thái Bạch Kim tinh 
•   Mộc Đức tinh quân: vị thần trông coi Sao Mộc 
•   Thủy Đức tinh quân: vị thần trông coi Sao Thủy 
•   Hỏa Đức tinh quân: vị thần trông coi Sao Hỏa 
•   Thổ Đức tinh quân: vị thần trông coi Sao Thổ 
•   La Hầu tinh quân: vị thần trông coi thực tinh La Hầu 
•   Kế Đô tinh quân: vị thần trông coi thực tinh Kế Đô
* Thái Bạch Kim Tinh:- là tên một vị thần trong thần thoại Trung Quốc.
Vị thần này theo truyền thuyết có họ Lý, hình dáng là một ông già râu bạc áo trắng, là Tinh chủ của Sao Kim, ngôi sao sáng nhất vào chập tối và buổi sáng, vì thế gọi là Lý Thái Bạch.
Chính vì thấy Sao Kim xuất hiện đầu tiên của buổi đêm và ban ngày, nên Thái Bạch Kim Tinh được cho là sứ giả của Thiên đình, và gọi là Lý Trường Canh.
17.TỨ   TƯỢNG
(Nhị thập bát tú)
Nhị thập bát tú (二十八宿) là 28 "Tú = chòm sao" (宿 Xiu) nằm trên Hoàng đạo theo cách chia của thiên văn học Trung Quốc cổ đại.
Hoàng đạo được chia thành 4 phần, hay Tứ Tượng (四象), gắn với một con vật, và mỗi phần có bảy “Tú”
18.- ĐỊA  THƯỢNG    THIÊN   TIÊN:-
Địa thượng Thiên tiên là tên gọi chung cho các vị thần tiên Trung Quốc được cho là thuộc về dòng Địa tiên, nghĩa là tu hành thành tiên và ngụ trên mặt đất chứ không phải lên trên trời.
*Một số vị Địa tiên:
•   Khương Tử Nha (cũng là Đông Hoa đế quân, thời cổ cho là Mộc Công) 
•   Bồng Lai tam tiên, hay Phúc Lộc Thọ tam tinh: Phúc thần thiên quan đại đế, Tài thần Triệu Công Minh, Thọ tinh Nam cực tiên ông, Nữ thọ tinh là Ma Cô 
•   Chân Vũ đại đế, Cửu thiên Hàng ma Nguyên soái, Huyền Vũ nguyên soái 
•   Quy xà nhị tướng (Thái huyền Thủy tinh Hắc linh tôn thần, Thái huyền Hỏa tinh Xích linh tôn thần) 
•   Tiểu Trương thái tử, Ngũ đại thần long 
•   Lê Sơn lão mẫu 
•   Trấn Nguyên Tử Dữ Thế Đồng Quân đại tiên 


*KHƯƠNG TỬ NHA :
Khương Tử Nha là tên chữ của Khương Thượng, là đại tướng quân thống lĩnh quân đội nhà Chu đời Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương. Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập lên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc và nhân loại.
 1/- Một số tên gọi khác
Khương Tử Nha 姜仔呀còn được dân gian và các nhà nghiên cứu lịch sử gọi bằng nhiều tên khác như: Khương Thái Công; Thái Công Vọng (tên này nguồn gốc từ truyền thuyết); Lã Vọng (chả cá Lã Vọng ở Hà Nội có tên xuất phát từ đây)...
2/-Lịch sử
Khương Tử Nha sống ở giai đoạn lịch sử cuối nhà Thương, đầu nhà Chu ở Trung Quốc. Ông là người có tài thao lược, cầm quân khi tuổi đã già, tóc đã bạc nhưng đã thống lĩnh quân đội nhà Chu phò vua Chu Văn Vương (Cơ Xương) chống lại triều đình nhà Thương, bấy giờ đã suy tàn trong tay Trụ Vương. Trong khi cuộc chiến đấu lật đổ chính quyền nhà Thương còn dang dở thì Chu Văn Vương qua đời, Khương Tử Nha tiếp tục phò vua Chu Vũ Vương (là Cơ Phát, con của Cơ Xương lên nối ngôi). Cho đến khi sự nghiệp lật đổ nhà Thương hoàn thành, nhà Chu được thành lập, Khương Tử Nha làm Tướng Quốc.
Giai đoạn đó, lịch sử Trung Quốc còn rất sơ khai, các dữ liệu lịch sử cho đến nay chủ yếu dựa vào các truyền thuyết dân gian. Nhưng hiện nay vẫn còn một bản lưu được cho là binh pháp của Khương Tử Nha có tên là: Lục Thao, đây có thể nói là bộ binh pháp lâu đời nhất của Trung Quốc và nhân loại. Một số người coi binh pháp này là bằng chứng thuyết phục nhất chứng minh sự tồn tại có thật của nhân vật Khương Tử Nha.
3/- Truyền Thuyết
Dân gian thì vẫn lưu truyền những câu truyện thần thoại, truyền thuyết vô cùng huyền bí về Khương Tử Nha. Thậm chí còn có cả một bộ sách truyền thuyết Phong Thần nói xoay quanh Khương Tử Nha và cuộc chiến Chu - Thương. Theo truyền thuyết, Khương Tử Nha là một người có pháp thuật cao siêu, sau khi hoàn thành sứ mệnh phò Chu diệt Thương đã được phong làm quan trên thiên đình và ông chính là Thái Thượng Lão Quân. (chú thích nguồn gốc?) (Một số truyền thuyết lại nói rằng Thái Thượng Lão Quân chính là Lão Tử, cha đẻ của đạo Lão).
Bấy giờ, Cơ Xương nuôi chí lật đổ nhà Thương, đi khắp nơi tìm kiếm người hiền tài. Một hôm, lên núi Bàn Khê thấy Khương Tử Nha ngồi câu cá với một lưỡi câu thẳng. Thấy lạ, Cơ Xương mới hỏi: "ông lão, sao câu cá bằng lưỡi câu thẳng thế thì câu sao được?". Khương Tử Nha mới trả lời: "Lưỡi câu bình thường chỉ câu được cá, lưỡi câu này mới câu được minh chủ." (Một truyền thuyết khác nói rằng có người tiều phu hỏi ông sao câu được cá với lưỡi câu thẳng, ông trả lời rằng ông không câu cá mà câu Công, câu Hầu). Thấy vậy Cơ Xương mới đem những chuyện thế cuộc ra hỏi, quả nhiên Khương Tử Nha trả lời thông suốt cho thấy những kiến giải siêu phàm thế là từ đó Khương Tử Nha theo phò Cơ Xương. Lúc bấy giờ ông đã 80 tuổi.
Trong cuộc chiến Chu - Thương, nhà Chu còn có sự trợ giúp của các tướng nhà trời khác như: Nhị Lang Thần, cha con Tháp Lí Thiên Vương - Na Tra thái tử... Trong khi đó phía nhà Thương cũng được sự trợ giúp của Cửu Vĩ Hồ, Thân Công Báo...
Cuộc chiến là một câu chuyện truyền thuyết về những cuộc so tài phép thuật và mưu lược sinh động, hấp dẫn mà các nhân vật trong đó còn ảnh hưởng tới cả các truyền thuyết khác.
4/- Binh pháp Lục Thao
Lục Thao có thể nói là bộ binh pháp lâu đời nhất của Trung Quốc và nhân loại. Còn gọi là Binh Pháp Thái Công. Trong sách Chiến Quốc, các tướng quân cũng thường coi sách Lục Thao như sách giáo khoa về binh pháp.
Bộ binh pháp Lục Thao gồm 6 quyển:
Quyển I: Văn Thao - gồm 12 thiên. 
Quyển II: Võ Thao - 5 thiên. 
Quyển III: Long Thao - 13 thiên. 
Quyển IV: Hổ Thao - 12 thiên. 
Quyển V: Báo Thao - 8 thiên. 
Quyển VI: Khuyển Thao - 12 thiên. 
*BỒNG LAI:-
Bồng Lai (tiếng Trung:蓬莱市, Hán Việt: Bồng Lai thị) là một thị xã của địa cấp thị Yên Đài, tỉnh Sơn Đông, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thị xã này có 374.400 nông dân và 75.600 làm việc trong những lĩnh vực khác. Thị xã Bồng Lai nằm bên vịnh Bột Hải và có hải cảng, là hải cảng đầu tiên ở bán đảo Sơn Đông mở cửa cho ngoại quốc trong thập niên 1800.


69.THẠCH  CẢM  ĐƯƠNG
石敢當
「泰山石敢當」在元朝已流行。
古人認為:泰山乃五嶽之首,東嶽泰山是管理妖魔鬼怪之神;同時,泰山是群山之尊,統轄眾山,又是古帝王封禪大典所在地,加“泰山”二字更神聖化。但因為石敢當愈大則法力愈強,而師傅做的泰山石敢當越大型則越容易“受傷”,因此一些地方只在石上刻“石敢當”三個字。
傳說石敢當是古代的大力神,專司抓鬼鎮邪,破邪驅魔,在門前立“石敢當”,能辟邪。民間亦有稱“石敢當”為“石將軍”者,把它當做勇敢和力量的象徵。石敢當既是壓煞禳災的神物、鎮物,也就具有威懾力和帶有神秘的色彩。
《輟耕綵》記載:「今人家正門適當巷陌橋道之衝,則立一小石將軍,或植一小石碑,鐫其上曰石敢當,以厭禳之。」
西漢史游《急就章》云:「石敢當。」顏師古注曰:「衛有石偕、石買、石惡;鄭有石制,皆為石氏;周有石速;齊有石之紛如,其後亦以命族。敢當言所向無敵也」。
可見拜石敢當,係取所向無敵之意,把疾病、災難等煞氣擋住。
社稷之神即四方之神,這是中國各處鄉村都有的,不必細表。
墟市和鄉村的街巷,其排列有時並不整齊,加以屋宇興建年代不同,有些地點,成為街巷直衝之所,或變為彎折角落。堪輿學認為這些地點不佳,而習俗亦認為它是陰氣聚集,鬼魅出沒之所,對居住在鄰近或路經該處的人,會有不良影響。為了阻擋煞氣,和避邪鎮妖,多在該處樹立石敢當的碑。
石敢當的信仰並不只是一種迷信,而是長久以來,我們祖先與天抗爭、克服惡劣環境的一種精神防衛系統。『石敢當』自然就成為民間信仰的精神標誌了。人們認為石敢當是鎮壓凶地之物,只要在住宅、通衢要道、山頂、巷陌、沼地、三叉路口、橋頭、海邊,豎立著『石敢當』,就可以鎮妖、避邪、制煞、拍穢、止風、止煞,所以,紛紛於自家壁上、屋角及村落四周、路沖地帶、荒郊野外,海邊港口安放了『石敢當』,以求平安。也習慣在“路沖”之處的房屋牆上或閘前立“石敢當”。如住宅朝巷口正中(即丁字街口)的,必須於朝巷(街)正中的牆面上立上一個“石敢當”,以避開路箭的銳氣,祈求闔家平安,成為南方民間建築的一個特色,十分奇特。如今,有的則於巷口的牆下,築一座祀土地公的小廟或刻“泗洲佛”像替代,道教信眾認為可以避邪。
其碑文共有九種:石敢當、太山石敢當、泰山石敢當、鎮邪石敢當、伏魔石敢當、安全石敢當大吉、魯班作用太山石敢當、泰山石敢當止風制煞、太極福祿壽全拍穢石敢當制煞。
石敢當的祭祀,據說起於皇帝,皇帝蚩尤之戰,因蚩尤角頭崢嶸,所向無敵,不免狂妄自大、目中無人,一日,登泰山高呼「天下誰敢當」,女媧娘娘認為他自傲無禮,有心懲治一番,於是投下練石一粒,上刻「太山石敢當」五字,蚩尤拼盡全力卻不能損其一角,於是落荒而逃,此後皇帝遍立「太山石敢當」於天下,蚩尤一見,畏懼潛逃,後於涿鹿被擒。民間即以此典故,豎立太山石敢當於三叉路口或門外,以防止陰邪直衝民宅。
又一說它是泰山腳下的一位猛士,姓石名敢當,好打抱不平,降妖除魔所向無敵,豪名遠播。一日,泰安南邊大汶口鎮張家,其年方二八的女兒因妖氣纏身,終日瘋瘋癲癲,多方醫治未見起色,特求石敢當退妖,當晚石敢當就嚇跑了妖怪。妖怪逃到福建,一些農民被它纏上了,請來石敢當,妖怪一看又跑到東北,那裏又有一位姑娘得病了又來請他。石敢當想:這妖怪我拿它一回就跑得老遠,可天南地北這麼大地方,我也跑不過來。乾脆,泰山石頭多,我找個石匠打上我的家鄉和名字:“泰山石敢當”,誰家鬧妖氣就把它放在誰家的牆上,那妖怪就跑了。從此傳開,大家知道妖怪怕泰山石敢當,就找了塊石頭或磚頭刻上“泰山石敢當”來嚇退妖怪。

中國古代很多地方已有這個習俗。
漢元帝時史游所作兒童識字課《急就篇》第二章已有「石敢當」字句。
唐代出現石碑式的石敢當,唐大曆五年的一塊石銘,上刻「石敢當」,鎮百鬼,壓災殃,官利福,百姓康,風教盛,禮樂張。
宋代施青臣的《繼古叢編》稱:「吳民廬舍,遇街衢直衝,必設石人或植石片,刻(石敢當)以鎮之。」後來,泰山是五嶽之首,被看為神山,泰山之神有巨大鎮壓鬼魅之力,故合成為「泰山石敢當」。
凡鑿「石敢當」,須擇冬至日後之甲辰、丙辰、戊辰、庚辰、壬辰、甲寅、丙寅、戊寅、庚寅、壬寅此十日,乃龍虎日用之吉,鑿成至除夜用生肉三片祭之,於新正寅時立於門首以當巷道衝射者,立時莫與外人見也。
“石敢當”形態質樸粗獷,並不事精雕細琢。最簡單的,是直接在一石碑上刻“石敢當”三個字;有的則在碑身加上其他的神祗或符號圖案以增強辟邪功效,如在上半部分畫著一個虎頭,有的則將石頭雕刻成獅頭等造型,有的刻上八卦等。
古制「石敢當」高四尺八寸,闊一尺二寸,厚四寸,埋土中八寸,實高四尺。後則簡以橢長石頭代之。
凡道路衝宅用大石一塊,上刻「泰山石敢當」化解。
凡家宅遇神廟,寺廟相衝射,大凶,可用大石一塊,以硃砂書寫「玉清」二字化解。
凡宅舍有木箭衝射者,主凶,用鉛斧鑿鋸柏木板一尺二寸,硃書「魯班作用」四字,掛於中堂,吉。
凡宅向探頭山,主犯賊盜,可用大石一塊,以硃砂書寫「玉帝」二字,安四吉方鎮之。
凡定宅在寺前廟後,主人淫亂,可用大石一塊,以硃砂書寫「天蓬聖后」四字置於庭中。
凡鬼箭衝宅者,主凶,用石一塊,以硃砂書寫「雷殺」二字鎮之。
凡遇廟宇房脊衝宅者,主凶,用石一塊,以硃砂書寫「攝氣」二字鎮之。
凡旁鄰屋脊射宅者,用大石一塊,以硃砂書寫「乾元」二字鎮之。
凡門戶碓磨相衝,用大石一塊,以硃砂書寫「乾罡戊己」四字鎮之。
凡房兩頭接屋者,用大石一塊,以硃砂書寫「天通」二字鎮之。
凡修造犯太歲穿宅,用赤石一百斤埋犯處化解,用天德土一升與太歲土一升作「泥人」一個送入廟中吉。
凡人誤用神廟木料者,主邪,以硃砂書寫「金剛」二字於上。
將麒麟牌,安在門上,主生「貴子」。
用「八卦牌」、「鍾馗圖」、「七星劍」置於廳桌上,可辟邪,可斬鬼魅。
用「黃飛虎偶」、「蚩尤偶」、「鴟尾脊」置於屋脊上,可驅邪、鎮災、辟火。
用「麒麟牌」、「獅牌」、「虎牌」、「八仙綵」、「八卦牌」、「北帝符」、「玄天皂旗」安在門上,代表瑞泰的意思,可辟邪、鎮宅。
 THẠCH CẢM ĐƯƠNG

*Quan niệm về 「Thái Sơn Thạch Cảm Đương 」(đá núi Thái Sơn ngăn chận mạnh mẽ) đã có từ thời đại nhà Nguyên, được lưu hành khá phổ biến.
Người xưa cho rằng, Thái Sơn là đứng đầu ngũ nhạc, Thần Đông Nhạc của Thái Sơn là vị quản lý tất cả yêu ma quỉ quái trên trần gian. Đồng thời, Thái Sơn cũng ở ngôi vị trên cao nhất, thống trị tất cả các núi lớn nhỏ khác. Những vị đế vương thời cổ đại làm lễ “tế trời” trong thể tại đó, nên phong cho danh hiệu “Thái Sơn” (núi lớn nhất) đã thần thánh hóa ngọn núi nầy.
-Từ đó, mọi người đều tin tưởng rằng, “đá” của Thái Sơn có năng lực vô cùng to lớn, có thể hóa giải, trừ khử mọi tà ma ám khí, mang lại sự hanh thông cho con người ở khu vực đó. Nhưng việc tạo hình và di chuyển khối đá lớn của Thái Sơn đến vị trí ấy, có thể làm cho “đá Thái Sơn” bị tổn thương, vừa tốn công sức vừa bị mất năng lực thần thánh của nó, cho nên, đơn giản hóa bằng cách , khắc ba chữ “THẠCH  CẢM  ĐƯƠNG” trên tấm đá, rồi an trí ở chỗ cần là được rồi.
*Theo truyền thuyết, Thạch Cảm Đương là vị thần “đại lực”, có năng lực bắt quỉ trừ tà, đuổi ma phá ác. Cho nên, trước nhà có tấm bia đá “Thạch Cảm Đương” là tránh khỏi mọi thứ tác hại của tà ma quỉ quái. Dân gian còn tôn xưng Thạch Cảm Đương là “Thạch Tướng Quân” bởi muốn nói lên tính hùng mạnh và can đảm của Thần. Từ đó, Thạch Cảm Đương chứa đựng nhiều màu sắc thần bí , vừa là thần vật trấn yểm, thần vật giải trừ tai nạn, ban cho sức mạnh v.v…
*Trong sách “Chuyết Canh Thái” có viết :- “Người nay cho rằng, trước cửa nhà là địa điểm tập trung trăm ngàn cầu đường tụ hội về, manh nhiều ác khí đến. Do dó, để hóa giải ác khí nầy, thì hoặc là tạo hình một tượng nhỏ Tướng Quân bằng đá, hoặc chôn một tấm đá nhỏ, trên khắc ba chữ Thạch Cảm Đương để trấn yểm hung khí ấy”.
*Sử Du đời Tây Hán , trong sách “Cấp Tựu Chương” đã dựa vào cổ chú của Nhan Sư để giải thích ba chữ Thạch Cảm Đương như sau :-“Đời Vệ có Thạch Hài, Thạch Mãi, Thạch Ác, đời Trịnh có Thạch Chế, đời Chu có Thạch Tốc, đời Tề có những nhánh họ Thạch … đều là những người họ Thạch có sức mạnh vô địch, dám đương đầu với mọi lực lượng khác. Như vậy, ý tứ trong ba chữ Thạch Cảm Đương là muốn nói đến sức mạnh vô địch, xua đuổi hết mọi tật bệnh, tai nạn, tà khí v.v…, đem lại sự bình an may mắn cho gia đình. Thần của xã tắc tức là thần của bốn phương, cho nên tất cả làng mạc nông thôn Trung Quốc đều có bia đá nầy, không cần biết là có hay không trong “sách cúng tế”.
Các đường sá hoặc con hẻm ở nông thôn và nhất là thành thị, nhà cửa được xây dựng nhiều kiểu vẻ, nhiều thời điểm khác nhau, tạo thành những thế trực xung hoặc góc cạnh nhọn đâm vào nhà ở. Theo các nhà phong thủy cho rằng, hình thế như vậy là không tốt cho người trong nhà, tập tục thì cho rằng có nhiều âm khí tụ tập, là nơi phát sinh ra quỉ mị… tạo kết quả không tốt cho nhà cửa hoặc khu vực đó. Vì thế, nhiều nơi tạo lập bia đá Thạch Cảm Đương để trấ yểm hóa giải nhược điểm nầy.
*Mặt khác, tín ngưỡng Thạch Cảm Đương không phải hoàn toàn là sự mê tín, mà nó nói lên tinh thần “khắc phục khó khăn gian khổ, chống chỏi lại sự đàn áp của thiên nhiên”  mà thành hình “mô- túyp” độc đáo này.
*Thạch Cảm Đương thường thấy xuất hiện ở:-
-trước cửa nhà
-đường giao thông quan trọng
-trên đỉnh núi
-các đầu hẽm ở thành phố
-các hồ ao
-các ngã ba ngã tư
-dầu cầu
-bờ biển …

Như vậy, năng lực của Thạch Cảm Đương đã mở ra rất rộng rãi, thêm nhiều chức năng như :- trấn yêu,  đuổi tà, khắc chế hung sát, trừ uế trược, ngừng gió, ngăn chết chóc…Cho nên , bia đá có thể đặt thêm  ở ngoài vách, các góc nhà, góc đường, bốn phía của khu vực dân cư, cánh đồng vắng vẻ, cửa cảng tàu thuyền …
*Quan trọng nhất là khi một căn nhà bị “trực tiễn sát” (mũi tên bắn thẳng) thì cách hóa giải hữu hiệu nhất là , đặt bia đá Thạch Cảm Đương ngay trước cửa, hoặc trên bức tường ngay chỗ bị xung, để hóa giải sát khí.
Bên cạnh Thạch Cảm Đương, người ta còn có lối xây cất rất đặc biệt nữa là, ở ngay đầu tường đi vào con hẽm, xây một “Miếu Thổ Địa” hoặc “Tượng Tứ Châu Phật” cũng có khả năng trấn yểm, hóa giải hung sát cho toàn bộ cư dân trong hẽm.
*Về chữ ghi trong bia đá thì có :- Thạch Cảm Đương, Thái Sơn Thạch Cảm Đương (hai loại , chữ Thái  (太) nghĩa là lớn và chữ Thái (泰)nghĩa là bình yên), Trấn tà Thạch Cảm Đương, Phục Ma Thạch Cảm Đương, An Toàn Thạch Cảm Đương, Lỗ Ban Tác Dụng Thái Sơn Thạch Cảm Đương, Thái Sơn Thạch Cảm Đương Chỉ Phong Chế Sát( ngừng gió),  Thái Cực Phước Lộc Thọ Toàn Phách Uế Thạch Cảm Đương Chế Sát .
*Việc cúng tế Thạch Cảm Đương có nguồn gốc từ thời Huỳnh Đế. Theo truyền thuyết , khi vua Huỳnh Đế đánh nhau với Xuy Vưu, thì hắn có đầu sừng dữ tợn, sức mạnh vô địch, cuồng vọng lớn lao, dưới mắt không người. Một hôm, hắn leo lên đỉnh núi Thái Sơn, hô to “Có ai trong thiên hạ dám đương đầu với ta chăng ?”. Nữ Oa Nương Nương thấy hắn quá ngạo mạn vô lễ, trong tâm muốn trừng trị hắn một phen, nên luyện thành một tấm bia đá, trên có khắc năm  chữ “Thái Sơn Thạch Cảm Đương” (đá Thái Sơn dám đương đầu), giúp Huỳnh Đế dùng tấm bia  ấy phá vỡ thần lực của Xuy Vưu, khiến hắn hoảng sợ bỏ chạy mất. Sau đó, Huỳnh Đế ban truyền trong dân gian thiết lập bia đá khắc “Thái Sơn Thạch Cảm Đương” chôn ở khắp nơi, Xuy Vưu đến đâu cũng trông thấy mà  lánh xa, sau hắn bị bất ở Trác Lộc.
Dân gian nương theo điển tích nầy mà thành lập bia đá Thạch Cảm Đương đặt trước cửa nhà hoặc ngã ba bị xung để hóa giải âm tà trực xung vào nhà mình. 
*Có một truyền thuyết khác, nói rằng dưới chân núi Thái Sơn có một dũng sĩ họ Thạch tên là Cảm Đương, hay trừ yêu quái tà ma, giúp đỡ dân chúng quanh vùng, danh tiếng nổi lên rất xa. Ngày nọ, có nhà họ Trương ở Trấn Đại Vấn Khẩu, phía nam Thái An. Ông ta có người con gái tuổi vừa đôi tám (16 tuổi), bị yêu khí bám vào người lên cơn điên khùng, đã nhờ nhiều danh y chữa trị mà không khỏi. Sau cùng cậy nhờ  Thạch Cảm Đương đến giúp, yêu quái mới chạy trốn về Phước Kiến. Nơi đây, có một nông dân trông thấy, lại thỉnh Thạch Cảm Đương đến đuổi đi, yêu quái lại chạy về hướng Đông Bắc. Lúc ấy, ở đó có một cô gái cũng bệnh tương tự, gia đình đến thỉnh Thạch Cảm Đương trị  giúp. Thạch Cảm Đương suy nghĩ, “ con yêu quái nầy bị ta đuổi chạy khắp nơi từ Nam chí Bắc, chẳng  lẽ mình cứ đuổi theo nó mãi sao, chuyện ấy mất công sức nhiều quá.Thôi thì, đá núi Thái Sơn có rất nhiều, chi bằng ta lấy những tấm đá nầy, khắc vào đó tên địa phương cùng với hàng chữ “Thái Sơn Thạch Cảm Đương”, rồi đưa cho họ đem về đặt ở cửa  nhà, thì yêu quái chắc không dám mò tới”. Nghĩ rồi, thực hiện theo ý đó, kết quả rất tốt. Câu chuyện nầy được truyền tụng khắp nơi, từ đó hình thành tập quán nơi nào cũng có đặt bia Thạch Cảm Đương để phòng trừ tà ma yêu quái.
*Đời Hán Nguyên Đế, Sử Du làm sách học cho nhi đồng tên là “Cấp Tựu Thiên”, trong chương thứ hai  có câu “Thạch Cảm Đương…” rồi.
-Đời Đường xuất hiện hình thức bia đá ghi chữ Thạch Cảm Đương. Năm Đại Lịch thứ năm đời Đường có tấm bia đá, trên ghi :- “Thạch Cảm Đương, trấn bá quỉ, áp tai ương. Quan lợi phước, bá tánh khang, phong giáo thịnh, lễ nhạc trương” (Thạch Cảm Đương, trấn trăm quỉ, giải tai ương, quan được phước, dân được an, đạo đức thịnh, lễ nhạc  hưng).
-Đời Tống, Thanh Thần trong tập sách  “Kế Cổ tùng biên” có viết :- “ Nhà dân trong xóm ấp, nếu bị đường sá đâm thẳng vào, phải tạo một thạch tượng  hoặc dùng  một tấm đá, trên khắc chữ Thạch Cảm Đương để trấn yếm”.
*Như vậy, ta thấy rõ quá trình hình thành từ việc thần hoá núi Thái Sơn lên làm đầu ngũ nhạc, trở thành ngọn núi thần. Rồi Thần núi Thái Sơn có năng lực to lớn, hàng phục yêu quái ma quỉ. Kế đó tiến dần đến tập tục bia đá ghi Thái Sơn Thạch Cảm Đương …
*Muốn tạo bia Thạch Cảm Đương thì phải chọn  sau tiết Đông Chí (khoảng cuối tháng 11 âm lịch) vào các ngày sau :- Giáp Thìn, Bính Thìn, Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Thìn hay Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm Dần để khởi công, ý nói là chọn ngày “Long Hổ Nhật” mới tốt. Phải làm cho xong trước đêm giao thừa, dùng giờ Dần sắm bày lễ vật “bộ tam sênh” (tam sanh) để cúng vái Đất Đai rồi  chôn tấm bia nơi cần đặt. Lúc làm không để người ngoài thấy, mới có hiệu quả tốt.
-Vì chất đá quá thô cứng sù sì, không thể chạm khắc nhiều và tỉ mĩ được, nên đơn giản hóa khắc ba chữ “Thạch Cảm Đương” là đủ. Nếu có khả năng, có thể trang trí khắc thêm những hình thức trừ tà khác như :- đầu cọp, hình bát quái đồ, hoặc tạc đầu tượng đá thành hình đầu sư tử v.v…càng tốt.
*Ngày xưa chế tạo Thạch Cảm Đương theo kích cỡ cao bốn thước tám tấc (thước Tàu = 0, 42 cm) , ngang một thước hai tấc, dày bốn tấc. Chôn sâu tám tấc, còn lại chiều cao thực là bốn thước. Về sau nầy cho đến nay, tùy theo khả năng mà làm lớn nhỏ cũng được.
*Tóm lại, những trường hợp sau cần phải đặt bia đá để hóa giải ác khí  :-
-cần hóa giải hung sát bị đường sá đâm thẳng vào nhà ở, khắc chữ “Thái Sơn Thạch Cảm Đương”. Hoặc dùng tấm ván bằng cây bách cao hai tấc, dùng chu sa viết bốn chữ “Lỗ Ban Tác Dụng” rồi treo ở trung đường ngôi nhà, cũng hóa giải tốt.
-nhà có đình, chùa, miếu, phủ xung chiếu, đại hung, dựng bia đá trên viết hai chữ “Ngọc Thanh” bằng chu (châu) sa để hóa giải. (hoặc hai chữ Nhiếp Khí cũng được)
- Ngay trước cửa nhà có đỉnh núi, là phạm vào  bị đạo tặc, dùng bốn khối đá trên có viết hai chữ “Ngọc Đế” bằng chu sa , trấn yểm bốn phương nhà để hóa giải.
-Nhà ở trước chùa sau Miếu, chủ về người trong nhà dâm loạn, hóa giải bằng cách viết trên khối đá bốn chữ “Thiên Bồng Thánh Hậu” đặt ở trong sân nhà.
-Phàm nhà ở phạm “quỉ tiễn” (mũi tên quỉ) xung thẳng, dùng khối đá viết hai chữ “Lôi Sát” để hóa giải.
-Nhà bị cây đòn dông nhà đối diện đâm vào, dùng khối đá viết hai chữ “Càn Nguyên” để hóa giải.
-“Lưỡng môn đối diện, chủ gia bất hòa” , dùng khối đá viết bốn chữ “Càn Cương Mậu Kỷ” để hóa giải.
-Phòng ngủ bị xung chiếu, dùng khối đá viết hai chữ “Thiên Thông” để hóa giải.
-Phàm cất nhà phạm phương Thái Tuế, dùng một trăm cân (Tàu) đá đỏ để chôn vào phương bị phạm để hóa giải. Rồi dùng một thăng (lít Tàu) “Thiên Đức Thổ” (đất Thiên Đức) và một thăng “Thái Tuế Thổ” (đất Thái Tuế) năn thành “tượng người bằng đất” đem cúng vào miếu thờ thì hóa giải rất tốt.
-Lỡ không biết dùng nhầm vật liệu cây gỗ của Đình Miếu để làm vật dụng nhà mình, không tốt, dùng chu sa viết hai chữ “Kim Cương” trên món đồ đó để hóa giải.
-Trên cổng nhà, đặt tượng “kỳ lân” chủ sanh quí tử.
-Dùng tượng “Bát Quái Đồ”, “Ảnh Tượng Chung Quỳ”, “Kiếm Thất Tinh”  treo ở trước cửa để trừ tà phá ác, trấn yểm quỉ mị.
-Dùng  các ảnh tượng “Vợ chồng Hoàng Phi Hổ” hay “Vợ chồng Xuy Vưu”, tượng “Chi Vĩ Tích” đặt ở nóc mái nhà dể trừ tà, tiêu tai, tránh hỏa hoạn.
-Dùng các ảnh  tượng như :- Kỳ Lân, Sư Tử, Hổ Thần, Bát Tiên, Bát Quái Đồ, Bắc Đế Phù, Huyền Thiên Tạo Kỳ (cờ Huyền Thiên) treo phía trên cửa, tượng trưng cho sự an lành , trừ tà ma, trấn trạch bình an.
*Nhược   Thủy  dịch
(từ http://www.fushantang.com) 

*PHỤ  LỤC 
THÁI SƠN THẠCH CẢM ĐƯƠNG
(Bán ở Hà Nội)
... Giữa trăm nghìn chuyện xảy ra thường ngày trong cơn lốc của cơ chế thị trường thời "thả cửa" - thả nổi mọi quan niệm đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa cũng như phong tục là bên cạnh cơn sốt đất, nhà sốt, một xây dựng nhà cửa đô thị, sáng sáng của người Hà Nội là cơn sốt ... dựng các tấm bia đá trong nhà, ngoài sân, vỉa hè, lòng đường vách tường, góc bếp dòng Trên tấm. đá có khắc chữ "Thái Sơn Thạch Cảm Đương" (hiểu nôm na dân dã có nghĩa là Thần Núi Thái Sơn đang trấn giữ ở đây) Thôi thì. đủ hình, đủ dạng, đủ vẻ, tấm lớn, tấm nhỏ, tấm vuông, tấm vật , tấm cao, tấm thấp, dài, ngắn, dày, mỏng, trang trí hoa văn khác nhau, rất chi là ... phản phong mỹ tục Vì tò. mò, trong tôi bữa tiệc tân gia khánh thành ngôi nhà mới ba tầng có hỏi một gia chủ ở gần khu vực chợ Bưởi (quận Tây Hồ):
- Cụ chôn tấm đá này để làm gì, thưa cụ?
Ông ta huỵch luôn toét: 
- Dấu chấm, thế mà cũng hỏi, để trừ hậu họa, biến hung thành cát chứ sao Ngày xưa khi xây chùa Một Cột,? Dựng ngọn Tháp Bút, vua tôi nhà Trần chả phải chôn tấm đá Thái Sơn dưới chân ngọn Tháp Bút đó sao Chính nhờ thần. núi Thái Sơn trấn giũ mà hàng nghìn năm, qua bao chấn động biến thiên của lịch sử, hết kháng Nhật, địch Thanh, đánh Mỹ, đuổi Pháp vv ... chùa có hề hàn gì đâu? khi Trọng bao nhiêu chiến chùa trong cả nước bị tàn phá tan hoang.
Tìm hiểu hóa ra ông ta là người Việt gốc Hoa, gia đình ông xưa kia từng có 9 cửa hàng trên đất Trung Hòa Vì người cha sa đà nghiện hút,. Gái gú, cờ bạc mà mất trắng, ông ta phải theo mẹ lưu lạc sang Việt Nam từ năm 8,9 tuổi, làm đủ nghề, cuối cùng dừng lại ở nghề bán phở. Bốn con trai, gái một con, chỉ còn cậu út ngoài 30 chưa lấy vợ chịu, còn tái dâu nhà ông đều ăn nên làm ra, nhà nào cũng xây biệt thự - cũng có một tấm Thái Sơn Thạch Cảm Đương như vậy. Ông bảo, trước khi sang Việt Nam mẹ ông lởm đã học được thuật này rồi truyền lại và ông luôn áp dụng triệt để.
- Theo bác, tại sao cứ phải là đá ở ngọn núi Thái Sơn, đá ở nơi khác thì sao? Không trấn giữ cho gia chủ được à? 
- Vì Thái Sơn là anh cả của ngũ nhạc chứ sao. Ngũ nhạc gồm năm ngọn núi lớn Ngoài Thái Sơn còn Tung Sơn, Hòa Sơn, Hoành sơn, Hằng Sơn, cả năm ngọn cao vời với sung sung, ngút ngát này được. tạo ra là để trấn giữ đất trời. 
- Ra vậy - tôi tỏ vẻ đồng tình.
Để chứng tỏ việc mình làm là có sở cứ khoa học, không mang yếu tố mê tín, dị đoan ông ta xềnh Xếch "lôi" tôi lên tận tầng ba, cách xa đám quan khách đang ngồi chén chú chén anh, chúc mừng gia chủ là cậu út chưa vợ ở tầng dưới, rồi đưa cho tôi xem một quyển sách nhau nhĩ, cáu bẩn, bạc phếch ghi la liệt các chú thích, trích đoạn, kim cổ, điển cố, sự tích mà người "hiện đại" như tôi chỉ ù Cạc Cạc như vịt nghe sấm Một đoạn. trong đó ghi: Sách Thái Bình quảng ký (quyển 99) viết: Thái Sơn ma quỷ trừ, ngoài ra bia đá còn chống đường đi xung nhà với. Trong trường hợp nhà ở đối diện ngã ba đường hình chữ đinh, hoặc xúc phạm đến những thế đất cắm như hổ khẩu (mồm hổ) hổ vĩ (đuôi hổ), thái tuệ thì dùng đá Thái Sơn trừ tà. Với những trường hợp âm Trạch có triệu trứng hung họa nghiêm trọng xảy ra như thế này phải yếm đất bằng cách chôn bia đá Thái Sơn Thạch Cảm Đương nặng 50 đến 100 cân, cao 4 thước 8 tác, rộng một thước 2 dày tác 4 tác. Đá chôn sâu 8 tác vào giờ Dần. 
Lật dở trang khác, tôi để ý một đoạn đánh dấu sao bên ngoài: Sách phong thủy kinh Lỗ Ban cho rằng đường cái đâm thẳng vào nhà là Điềm rất xấu, như thể mũi tên vô hình đâm thẳng vào ngực vậy, hết sức bất lợi cho gia chủ. Do vậy phải hóa giải bằng cách dùng bia đá Thái Sơn Thạch Cảm Đương cao 5 xích (khoảng 1,65 met) chôn sâu trước cửa, bí quá thì nhờ người viết hoặc vẽ hình Sơn Hải Trấn (gồm ba hòn đá) treo trước cửa.
Rời mắt khỏi trang sách tôi trầm ngâm:
- Nghĩa là chính tay bác đã từng chôn các tấm bia Thái Sơn Thạch Cảm Đương này cho một số gia đình ở Hà Nội?
- Tất nhiên, không phải chỉ ở Hà Nội, mà còn ở một vài tỉnh lẻ nữa, ở đâu tín nhiệm là tôi đi.
Liệu bác có nhớ chính xác là bao nhiêu không? 
- Hàng trăm cái, nhớ làm sao được, chỉ thằng cả nhà tôi - xin lỗi chị không được viết tên bố con tôi đâu đấy nhớ - Vâng thằng Lê Tấn Hùng mới theo bố khoảng 3 được chôn năm chừng 100 cái, riêng ở Hà Nội là 60 cái.
- Nghĩa là dưới con mắt mọi người, hai cha con bác là thầy địa lý?
-Thầy bà gì đâu? Chẳng qua là người am hiểu về thuật phong thủy thôi, như kiểu lớp học bình dân học vụ xóa mù ngày xưa, người biết thì bảo người chưa biết ấy mà Có đổi hỏi. Tiền nong, cơm gà cá gỏi gì đâu, mình giúp vô tư Gia chủ. bồi dưỡng chi trả công lao, ân xá thế nào cũng được, keo kì kèo là mất thiêng.
Thưa bác - tôi cật vấn. Nguồn gốc đá có đúng là từ núi Thái Sơn không Hay là qua? Tất cả các cửa hàng làm đồ đá ở Hà Nội đều lấy đá từ Ngũ hành Sơn (Đà Nẵng), khu vực Chùa Thầy, Tam Đảo, Ba Vì (Hà Nội 2) tức Hà Tây cũ hay Hòa Bình, Quảng Ninh ... ở Việt Nam rồi khắc chữ bán cho khách? 
Ông ta trầm ngâm: 
- Sở dĩ tôi bỏ Quang Liên mấy năm là vì điều ấy đấy, trước đã nhận lời giúp ai giúp tôi phải đến đầu đến đũa, nghĩa là nói có sách, mach có chứng theo đúng lời cổ nhân dạy Vì vậy mỗi lần ". khăn áo gió đưa "cả tuần hoặc nửa tháng ăn đậu nằm chờ ở tận cửa khẩu Lạng Sơn để tìm được nguồn đá của Trung Quốc mang sang, đúng kích, cỡ quy định, tiêu chuẩn về tuổi đá, chất đá, núi đá, mới về khuẩn lặng lẽ Sau mấy đứa con nhà tôi la quá trời, quá đất, tôi đành tặc lưỡi xuôi Bường Thôi thì. tùy gia chủ muốn kiếm ở đâu, đá gì cũng được, miễn là họ có lòng thành, chứ chôn. đá Thái Sơn đâu phải tùy tiện, chôn ở đâu, chôn thế nào cũng được Muốn trấn., muốn thiêng, phải đúng kích cỡ đá, có thầy địa lý "hô thần nhập tượng" ấy chứ. 
- Bác có thể kể về vài cái cụ thể đã làm ở Hà Nội mình được không?
- Thì tòa nhà 6 tầng của công ty trách nhiệm hữu hạn ở ngã 5 Bà Triệu - Nguyễn Du, chôn cùng với biển quảng cáo to tướng đấy, ai đi qua chả thấy, rồi nhà ở phố Vạn Phúc ngay sau đại sứ quán Thụy Điển chôn liền hai tấm, nhưng không chôn trước cửa mà gắn trực tiếp vào tường, chỉ cho nổi mặt ngoài của nhà bia Hay có thể ở phố Hàng Bông cũng chôn bia này., tấm để gắn trước cổng, tấm nhỏ gắn ở góc tường sát ngã ba đường, và cửa hàng ở phố Kim Mã cạnh nhà sách Tiền Phong cùng bao nhiêu ngôi nhà hiện đại lớn nhỏ khác ... Không biết thì thôi, biết là nhờ người tìm thầy, mua đá để chôn, nhằm mục đích trừ tà, giữ yên ổn cho mảnh đất của mình ... 
Nghe ông ta nói tôi cứ có linh cảm rằng sở dĩ Hà Nội tìm thấy mình "Thăng Long thành hoài cổ" là do người xưa không biết tận dụng việc chôn đá Thái Sơn này nên đình chùa, Miếu mạo, rồi cả một góc thành mới đổ lên như vậy Cả hàng nghìn ngôi chùa lớn nhỏ của Việt Nam. trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và pháp, bị tàn phá vô tội vạ (tất nhiên địch phá thì ít, mà ta đập thì nhiều) đặc biệt là cả một vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay - vốn là đất vua ở, Tiên chơi, Phật đến - với các địa danh cổ một thời còn tồn tại đến bây giờ như "Nhà nghỉ suối hoa", "đường Nguyên Phi Ý Lan, huyện Tiên du, chùa Phật tích, đền Bát đô vv ", một vùng huyền sử đẹp như mơ với với tổng số 251 xã mà có tới 219 xã có bóng dáng đền đài, chùa chiến ... chỉ vì trong khi xây dựng, không chôn đá Thái Sơn Thạch Cảm Đương trở nên thành xơ xác hoang phế, số còn lại đếm trên đầu ngón tay.
Được sự ủy thác giới thiệu của ông, tôi tìm đến cửa hàng đá ở nhà chị Thủy phố hàng Bạc - một trong những phố cổ của Hà Nội, được xem là "dịch vụ rẻ, mẫu mã chất lượng cao, phục vụ chu đáo "đồng thời là nguồn cung cấp bia đá chủ yếu cho Hà Nội, trong cả có mặt hàng" Thái Sơn "này. 
Chị Thủy niềm nở tiếp: 
- Ôi dao, trước họa hoàn lắm mới có người đặt hàng hỏi mua, nghe có vẻ thâm u, huyền bí lắm ... Từ năm 2000 trở lại đây, người ta kéo đến, sáng sáng đặt, tháng nào cũng dăm bảy chiếc , nhiều khi bận làm bia đá theo hợp đồng gấp cho những gia đình có người thân bị mất, làm không xong còn phải giới thiệu sang các bên cạnh cửa hàng. Nói chung đất nào chả có ruồi bầu, chả cứ dãy phố này mà khắp các cửa hàng khắc đá trong Hà Nội đều có người tìm đến theo sự chỉ dẫn của các thầy Bon chị. cũng chỉ vì "một vốn bốn lời" làm thôi mà, phục vụ nhân dân là chính, còn lấy lãi là .. căn bản. mà em. Nào có biết mô tê gì về nguồn gốc, sự tích, ý nghĩa của việc khắc đá, chôn bia này đâu?
Lượn hết cả chức cửa hàng làm đồ đá ở cái phố ngắn ngui, bé xíu này, tôi đập mắt vào hàng trăm tấm bia đá Thái Sơn. Tưởng tôi là người mua hàng họ vã von cho xem mẫu mã các loại, rẻ nhất 150 nghìn - ngoài phiến đá mỏng, nhỉnh hơn lòng bàn tay, 5 chữ khắc trui trơ, không một chút trợ trạm hoa văn gì, còn đủ các loại từ ba trăm đến vài triệu khác. Đắt nhất là 3.600.000 đồng, cao 1 , 5 mét. Tất nhiên còn phụ thuộc vào kiểu dáng, mức độ trạm chổ, kỹ xảo, vi tinh ... Nguồn đá, cứ 8 đến 1 triệu đồng một khối, họ xẻ dọc xẻ ngang ra khoảng tấm chức, tùy đơn đặt hàng và túi tiền của khách, thời gian đặt lâu hay gấp? Thông thường mỗi cửa hàng ngầm "ăn dơ" với một vài thầy địa lý, ông thầy được gia chủ mời đến, là phán từ A đến Z, mua đá ở đâu, kích cỡ thế nào, giờ chôn, ngày nhập, cách hô vv cửa hàng nào càng thầy quen biết nhiều, càng mở rộng khả năng tiếp thị và lượng đặt hàng và được nhiều càng chỉ sơ. sơ một phố cổ Hà Nội mà đầu óc tôi đã rối tinh lên vì địa chỉ và tên các ông thầy, sự linh thiêng hay dở ... Ngoài ra còn mắc bệnh "cho vay thị" vì hàng chức, hàng trăm "vị thần Thái Sơn trấn giữ tại nơi đây, trong các gian hàng chơi chật, dài ngoan tối om sâu hun hút tận bên trong. Không biết đi đủ ba mươi sáu phố cổ, các quận, huyện còn lại của Hà Nội rồi 60 tỉnh thành trong cả nước còn loạn thị đến đâu nữa Thần ở đâu mà "mọc" nhanh đến thế, hơn cả nhưng.
Trên đường về thấy đám đông xum xịt ở đoạn đường Lạc Long Quân, phố Võng Thị, gần chợ Bưởi, tôi dừng xe lại xem, hóa ra người ta đang đặt tượng Thái Sơn để trấn giữ cho ngôi nhà ba tầng vừa xây kịp Hỏi bà. chủ nhà, người phốp pháp to béo:
- "Bác ơi, sao lại phải chôn đá trước cổng nhà như thế đây là biệt thự, nhà ở cơ mà, có phải đền thờ, Miếu mạo gì đâu?
Mặt đỏ bừng, bà ta té tát  một chập đại để.: "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, nhà chị từ trên giời rơi xuống hay sao mà còn phải hỏi bây giờ ai xây nhà mà chẳng phải tìm thầy, tìm thợ, nhờ xem giờ, ngo đất ... Tiền tỉ, bạc vạn, đổ mồ hôi, sôi nước mắt, cả một đời cha, ba đời con, thắt lưng, buộc bụng, ăn chat hạt tiện, rau cháo măng mai mới có được chứ dễ đâu không nhờ thần trấn giữ hộ thì nước là trôi sông hết à? Thầy bảo thì mình làm, hoặc thấy những nhà bên cạnh mới làm chôn bia đá thì mình cũng nhờ họ giới thiệu mối lái mua đá về chôn ... mất thêm vài trăm nghìn mà trí yên, tâm tĩnh chả hơn à  . Tiếc gì thì tiếc chứ tiền thần, tiền phật sao dám khinh suất.
- Nhưng thế đất nhà mình khác mà, đâu phải Khum Khum hình vó, chẳng nó thì ai, Thè lè lưỡi trai, chẳng ai ngoài nó như những nhà có thế đất thoai thoải ngoài bờ sông chuyên đặt mộ ông bà, tổ tiên khác - tôi trêu?
Bà ta dẩu môi bảo:
- Cứ "sáng lỏng" như chị chắc thần Thái Sơn suốt đời chẳng được đi đâu, chỉ ru ru ở ngũ nhạc mất .Thời buổi mở cửa bão động đầy trời này, cả thế giới còn lên mạng Internet tìm nhau,. Cũng phải cho các thầy đi đây, đi đó giúp người trần mắt thịt chứ?
Thì ra là vậy, bà ta thông tỏ, thương thần như thể thương thân thế thì đành chịu vậy, dù biết mười mươi là tấm đá cao cả mét rưỡi, dày bich bịch và nặng không dưới nửa tấn này đích thị là con cháu họ hàng đời thứ bao nhiêu của đá Thái Sơn ở Việt Nam nhất định chứ không phải ở núi Ngũ Nhạc. Nhưng thôi, bà ta làm theo phong trào mà voi đủ., chuột chủ cũng đú, khỉ hú, vượn trêu, kêu bác sĩ thú y, chim hót ... muôn hoa đua nở, muôn nhà đua nhau, biết làm sao được? Chỉ thấy buồn một điều là mỹ quan đô thị của Hà Nội mình quá kém Xây dựng ồ ạt chẳng gì có quy hoạch kiến trúc.. Mạnh ai nấy làm, tiền ai người đó xây  . Hết cấu. trúc gô-tic của Pháp lại ban công chửa, mái chóp mái nhọn củ tỏi củ hành của Nhật, Mỹ, cả dấu tích của xứ Ăng co xo căm phu chưa tuyệt chủng cũng được dịp đại náo thiên cung Giờ lại. đến việc "đào mồ" chôn đá này. Nhà chật, ngõ hẹp lại chôn trước thì ngay cổng vào, chôn chìm nghỉm dưới nền đường chỉ hở năm chữ Thái Sơn Thạch Cảm Đương. Nhà chôn sau bí quá thì bậy đâu cũng dui, kể cả vỉa hè, lề đường, góc sân, chậu cảnh, chẳng kích cỡ quy định gì, miễn là kịp thời sửa chữa sai lầm cho một việc đã rồi trọt. 
Qua khu vực Chùa Một Cột, tôi dựng xe dưới chân ngọn Bút Tháp - nơi Cao Bá Quát từng viết ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết giữa trời xanh) cũng là nơi bạn bè tôi chạy chơi, đuổi bắt khi còn bé tí , mỗi lần được bố mẹ cho vào chùa tham quan vãn cảnh, hoặc xem rùa vàng nổi lên giữa lòng hồ để tìm phiến đá Thái Sơn như lời thầy bảo, và khó khăn lắm mới tìm được, vì tấm bia đá tồn tại từ gần một nghìn năm nay  nằm khiêm tốn, yên bình dưới chân ngọn tháp, chỉ cao, rộng hơn tấm bia đặt trước mộ của người bình thường một chút. Ngoài hàng chữ khắc trên đá mờ mit, lem nhem vì thời gian và năm tháng chẳng có chút khác biệt gì ... Vì thế nếu không nghe thầy nhắc tới tôi không hề biết đến nó, dù hàng ngày, hàng giờ vẫn đi đi, về về ở chỗ này Về đến. khu Đầm Trấu - đoạn đường Trần Khánh Dư , dẫn lên cầu Chương Dương, thấy những ngôi nhà cao tầng mới xây, các phiến đá mới dựng, mà buồn cho cái gọi là thuần phong mỹ tục của người Việt ta, Đành rằng "phú quý sinh lễ nghĩa", nhưng cái áo choàng đâu có nên làm thầy tu mà sao lắm áo, lắm kiểu, bạt mạng, biến báo, quái dị đến vậy. Cái áo vốn. là thứ vải bình thường vô tri vô nghia mà, Thầy tạo ra áo chứ áo đâu có tạo ra thầy? Việc chôn bia đá trước cửa, nhà quanh, được tường, ngoài đường cũng vậy quả là Thần ". vạn trạng biến thiên" thích nghi, trú ngụ đủ nơi, đủ chốn, phù hợp với mọi kích cỡ, dáng vẻ, không phân biệt cao, thấp, ngắn, dài, dày, mỏng, to, nhỏ gì. Ông người đặt đâu là thần nhập đấy, cấm có dám kêu ca gì. 
Thật là việc lạ lùng, một lát đá mỏng vô tri vô giác cũng trở thành thần núi, mà lại là thần tit ở xứ sở Trung Hoa xa xôi kia ... Sao bây giờ lại tìm được Việt Nam này, thật loạn?
(Thăng Long Thành hoài cổ 12-8-2008)
(* Nguồn: - amthucdulich.wordpress.com).
Xin theo dõi tiếp BÀI 15, dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THẦN THÁNH TRUNG HOA .NHƯỢC THỦY DỊCH . BÀI 13.

4/07/2015 |
THẦN THÁNH TRUNG HOA
Bản dịch của Nhược Thủy - dienbatn giới thiệu.

LỜI NÓI ĐẦU : Đây là bản dịch rất công phu của Nhược Thủy trong trang Hoangthantai . Nay không còn thấy trang này hoạt động nữa. dienbatn chép lại vào đây để làm tư liệu . Mong bác Nhược Thủy cảm thông.
 THẦN THÁNH TRUNG HOA TẬP  I
Lời giới thiệu:- Nhận thấy từ trước đến nay, người Việt Nam chúng ta theo phong tục tập quán của người Trung Hoa, nên đã tin tưởng và thờ phụng rất nhiều vị Thánh, Thần giống như người Trung Hoa. Tài liệu giải thích về các Ngài thì quá ít và không có cơ sở khảo cứu , chỉ theo truyền khẩu nhiều hơn. Nay tôi xin cố gắng dịch những tài liệu nầy từ một Website có uy  tín và khảo cứu cẩn thận, xin kính tặng tất cả huynh đệ trong 4R-HTT. Nếu có chỗ nào sai sót, xin quí cao nhân hoan hỉ chỉ bảo cho (kèm theo nguyên tác  để quí vị dễ đối chiếu).
Xin thành thật cảm ơn quí huynh đệ.
Nhược Thủy
( Mùa Hạ năm Mậu Tí-2008).
Phần bổ sung cho bài “Huyền Thiên Thượng Đế”.
61.THẦN SÔNG BIỂN NÚI NON VÀ LÔI BỘ
BÍCH  HÀ  NGUYÊN  QUÂN.
山川河海及雷部諸神 
碧霞元君
碧 霞 元 君 的 由 來 : 碧 霞 元 君 , 即 東 嶽 泰 山 天 仙 玉 女 碧 霞 元 君 , 俗 稱 「 泰 山 奶 奶 」 。 碧 霞 元 君 之 由 來 , 眾 說 不 一 。 一 說 是 泰 山 神 之 女 。 一 說 原 是 天 仙 神 女 。 據 明 王 之 綱 《 玉 女 傳 》 引 《 玉 女 考 》 , 黃 帝 遣 玉 女 七 人 在 泰 山 建 岱 嶽 觀 。 七 名 仙 女 雲 冠 羽 衣 , 焚 修 以 迎 西 昆 真 人 。 七 女 之 中 , 只 有 一 女 修 而 得 道 , 即 碧 霞 元 君 。 另 一 說 則 稱 碧 霞 元 君 原 是 凡 人 之 女 , 稱 : 漢 明 帝 時 , 西 牛 國 孫 寧 府 奉 符 縣 善 士 石 守 道 與 妻 金 氏 所 生 之 女 , 名 玉 葉 。 其 女 相 貌 端 莊 , 為 人 聰 穎 。 三 歲 懂 得 人 倫 , 七 歲 即 學 道 法 , 曾 參 拜 西 王 母 。 十 四 歲 時 入 天 空 山 黃 花 洞 修 煉 。 天 空 山 , 即 泰 山 。 黃 花 洞 , 即 山 頂 石 室 。 三 年 修 煉 丹 成 , 元 精 發 而 光 顯 。 于 是 , 憑 靈 泰 山 , 成 為 泰 山 女 神 碧 霞 元 君 。 泰 山 之 有 女 神 , 晉 代 的 《 博 物 志 》 、 《 搜 神 記 》 都 有 記 載 。 但 泰 山 女 神 之 受 封 是 北 宋 真 宗 時 的 事 。 據 《 蒿 庵 閑 話 》 稱 , 漢 代 仁 聖 帝 以 前 , 山 上 有 琢 金 童 玉 女 , 至 五 代 時 , 殿 圮 象 仆 , 童 象 泐 盡 , 女 淪 於 池 。 宋 真 宗 東 封 還 次 御 帳 , 滌 手 池 內 , 一 石 人 浮 出 水 面 , 出 而 滌 之 , 玉 女 也 。 真 宗 命 有 司 建 祠 奉 之 , 號 為 聖 帝 之 女 , 封 天 仙 玉 女 碧 霞 元 君 , 祠 名 昭 真 祠 , 當 是 今 泰 山 山 頂 碧 霞 祠 的 發 端 。 明 成 化 年 間 , 拓 建 為 宮 。 弘 治 年 間 更 名 為 靈 應 宮 , 嘉 靖 年 間 再 更 名 為 碧 霞 。 
護 佑 眾 生 : 碧 霞 元 君 受 玉 帝 之 命 , 證 位 仙 真 , 統 率 泰 山 嶽 府 之 天 將 神 兵 , 照 察 人 間 一 切 善 惡 生 死 之 事 。 神 通 廣 大 , 治 病 救 人 , 護 佑 一 切 農 耕 、 商 賈 、 旅 行 和 婚 姻 等 事 。 民 間 傳 說 , 碧 霞 元 君 之 女 侍 塑 像 中 有 一 女 抱 有 嬰 兒 者 , 此 乃 碧 霞 元 君 陰 佑 婦 女 兒 童 健 康 平 安 , 能 讓 無 孕 得 孕 , 有 孕 順 產 。 
奉 祀 : 明 清 以 來 , 直 至 今 日 , 民 間 崇 拜 泰 山 奶 奶 的 , 一 直 十 分 興 盛 。 碧 霞 元 君 神 誕 之 日 是 四 月 十 八 日 。 神 誕 日 前 後 , 正 是 泰 山 地 區 春 暖 花 開 的 時 候 , 登 頂 上 山 為 碧 霞 元 君 燒 香 奉 祀 、 許 願 還 願 者 , 常 常 是 山 上 山 下 , 連 成 一 片 。 北 方 地 區 多 有 供 奉 碧 霞 元 君 之 廟 觀 。 據 《 宛 平 縣 志 》 等 稱 , 舊 時 , 北 京 宛 平 高 橋 和 妙 峰 山 一 帶 , 自 四 月 初 十 至 十 八 日 都 有 碧 霞 元 君 神 誕 廟 會 , 遊 人 相 接 , 「 傾 城 婦 女 往 乞 靈 , 祈 生 子 」 。 
BÍCH  HÀ  NGUYÊN  QUÂN
I.- XUẤT  XỨ:- 
Bích Hà Nguyên Quân  gọi đầy đủ  là “Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tiên Ngọc Nữ Bích Hà Nguyên Quân”. Dân gian thường xưng thân thiết “Thái Sơn Nãi Nãi” (Mẹ Thái Sơn).
Truyền thuyết về Ngài có nhiều và khác nhau, như :-
1.-Thuyết nầy cho rằng Ngài là con gái của Thần Thái Sơn Đông Nhạc.
2.- Ngài nguyên là Thiên Tiên Thần Nữ. Theo sách “Ngọc Nữ Truyện” của Vương Chi Cương đời Minh, phần khảo cứu về Ngọc Nữ nói :- “Vua Hiên Viên Huỳnh Đế sai bảy người Ngọc Nữ đến núi Thái Sơn để xây cất “Đại Nhạc Quán” (miếu Đại Nhạc). Bảy vị ngọc nữ “đội nón mây trời mặc  áo lông chim” ra công xây dựng xong, mời Tây Côn Chân Nhân về trụ. Trong số bảy người chỉ có một người theo tu đắc đạo, tức là Bích Hà Nguyên Quân.
3.-Một thuyết nói rằng, Ngài vốn là người phàm tu thành. Thời Hán Minh Đế, ở huyện Phụng Phù phủ Tôn Ninh nước Tây Ngưu, có ông Thiện Sĩ là Thạch Thủ Đạo và vợ là Kim Thị hạ sanh một người con gái, đặt tên là Ngọc Điệp. Cô gái nầy tướng mạo đoan trang, thông minh hơn người. Ba tuổi đã biết đạo lý nhân luân, bảy tuổi đã học Đạo Pháp, từng được tham bái Tây Vương Mẫu. Năm mười bốn tuổi vào Động Huỳnh Hoa núi Thiên Không tu luyện. Núi Thiên Không tức sau nầy gọi là Thái Sơn, còn động Huỳnh Hoa là thạch thất ở trên đỉnh núi. Sau ba năm tu luyện, nguyên tinh phát sáng, kết hợp với linh khí của Thái Sơn, thành ra Thái Sơn Thần Nữ Bích Hà Nguyên Quân.
4.- Thái Sơn vốn có thần nữ. Sách “Bác vật chí” và “Sưu Thần Ký” đời Tấn  đều có nói đến. Nhưng đến đời Bắc Tống vua Chân Tông mới có sắc phong chính thức. Trong “Cao Am Nhàn Thoại” nói :- “Trước vua Nhân Thánh đời Hán, trên núi Thái Sơn đã có điện thờ hai tượng Kim Đồng Ngọc Nữ. Nhưng đến đời Ngũ Đại thì điện thờ bị phá hủy, tượng nữ bị rớt xuống ao . Đời Tống Chân Tông, có người đến rửa tay ở ao, thấy có tượng đá nổi lên. Vớt lên bờ chùi  rửa sạch, đúng là tượng Ngọc Nữ. Vua cho xây điện thờ, ban hiệu là “Thánh Đế chi nữ”, phong làm “Thiên Tiên Ngọc Nữ Bích Hà Nguyên Quân”, từ danh là “Thiệu Chân Từ”. Miếu thờ gọi là “Bích Hà Từ”, đến năm Thành Hóa nhà Minh nâng cấp thành cung. Năm Hoằng Trị phong làm Linh Ứng Cung, đến năm Gia Tĩnh đổi tên là Bích Hà Cung.
II.- PHÙ HỘ  CHÚNG SANH :- 
Bích Hà Nguyên Quân vâng mệnh Ngọc Đế, ở ngôi vị Chân Nhân, thống suất thiên tướng thần binh ở núi Thái Sơn, quán sát việc thiện ác trong dân gian. Ngài có phép thần thông quảng đại, trị bệnh cứu người, phù hộ cho tất cả nông dân, giới mua bán, khách du lịch và hôn nhân hòa thuận.
Truyền thuyết dân gian nói Ngài còn có chức năng độ trì cho phụ nữ và trẻ em, nên tạo tượng là người nữ bồng đứa trẻ. Ngoài việc bảo hộ bình an cho người, Ngài còn có thể ban ơn giúp đỡ người cầu con sẽ có thai, người có thai sẽ được sanh nở an toàn.
III.- VIỆC  THỜ PHỤNG :-
Từ thời Minh, Thanh đến nay, dân gian rất sùng bái Thái Sơn Nãi Nãi (mẹ) , nên Miếu Thờ Ngài  thật hưng thịnh.
-Ngày đản sanh của Bích Hà Nguyên Quân là ngày mười tám tháng tư âm lịch.
-Thời điểm tổ chức cúng tế mừng ngày đản sanh nầy, cả vùng xung quanh núi Thái Sơn có hoa nở rộ, thời tiết ấm áp, nên có rất nhiều người hành hương leo lên tận đỉnh núi , vào Bích Hà Cung để dâng hương, hoặc cúng trả lễ. Người đến đông nghịt đến nổi trên núi dưới núi như một tấm thảm người.
-Dân chúng khu vực phía Bắc thờ phụng Bích Hà Nguyên Quân rất nhiều. Theo sách “Uyển Bình huyện chí” có nói, hồi xưa từ Bắc Kinh đến Uyển Bình, Cao Kiều… đã tổ chức lễ cúng đản sanh Ngài Bích Hà Nguyên Quân từ ngày mùng mười đến ngày mười tám tháng tư, gọi là “Hội Nguyên Quân Thần Đản”. Nhiều nhất là giới nữ đến cúng bái cầu xin sanh được con trai thông minh hiếu thảo.

*Nhược  Thủy  dịch 
(từ http://www.taoism.org.hk)
62.TAM  TINH
PHƯỚC  LỘC  THỌ  
福祿壽星
福 祿 壽 星 的 由 來 : 道 教 的 福 祿 壽 三 星 之 說 , 約 起 於 明 代 。 成 儀 於 明 代 的 《 金 籙 齋 玄 靈 轉 經 早 朝 行 道 儀 》 , 其 中 在 為 皇 家 轉 誦 《 太 上 玄 靈 北 斗 本 命 延 生 真 經 》 時 , 祈 請 神 靈 中 , 除 有 三 清 、 玉 帝 、 北 斗 九 星 君 以 外 , 還 要 祈 請 「 南 極 老 人 壽 德 星 君 」 、 「 上 清 福 德 星 君 」 、 「 上 清 祿 德 星 君 」 。 同 是 明 代 成 儀 的 《 金 籙 齋 延 壽 設 醮 儀 》 中 , 也 有 祈 請 「 上 清 福 祿 壽 三 星 真 君 」 。 《 中 天 紫 微 星 真 寶 懺 》 朝 禮 各 星 君 時 , 也 有 禮 拜 「 福 星 天 德 星 君 、 祿 星 天 祐 星 君 、 壽 星 老 人 星 君 」 的 內 容 。 但 是 , 福 祿 壽 三 星 之 所 指 , 道 書 和 民 間 歷 來 眾 說 紛 紜 。 大 約 成 書 於 明 代 初 年 的 《 金 籙 祈 壽 早 朝 儀 》 稱 「 南 極 老 人 福 祿 壽 三 星 真 君 」 , 據 文 意 , 似 乎 將 福 祿 壽 三 星 統 歸 於 「 南 極 老 人 」 名 下 。 現 在 , 道 教 和 一 般 民 眾 大 致 認 為 , 福 星 指 的 是 天 官 ; 祿 星 指 的 是 文 昌 ; 壽 星 指 的 是 南 極 老 人 。 奉 祀 壽 星 , 起 於 先 秦 。 《 史 記 》 的 《 封 禪 書 》 稱 , 秦 時 「 於 杜 、 亳 有 三 社 主 之 祠 、 壽 星 祠 」 。 《 史 記 索 隱 》 注 稱 , 「 壽 星 , 蓋 南 極 老 人 星 也 , 見 則 天 下 理 安 , 故 祠 之 以 祈 福 壽 」 。 可 見 , 秦 漢 之 時 , 奉 祀 壽 星 可 以 祈 福 祈 壽 。 齊 梁 高 道 陶 弘 景 《 真 靈 位 業 圖 》 列 南 極 老 人 丹 陵 上 真 為 「 太 極 左 位 」 。 漢 代 以 降 , 一 直 列 為 國 家 祀 典 。 但 是 , 明 代 洪 武 三 年 起 , 以 其 為 妄 而 罷 祀 。 然 而 , 道 教 中 的 奉 祀 依 舊 , 並 且 , 將 其 與 天 官 、 文 昌 同 列 為 福 祿 壽 三 星 。

 三 星 職 司 : 福 星 天 官 , 當 以 賜 福 為 職 。 《 三 官 燈 儀 》 稱 , 「 真 都 元 陽 , 紫 微 宮 主 , 自 然 大 聖 , 賜 福 天 官 , 統 攝 天 界 , 役 使 鬼 神 , 保 天 長 存 」 。 祿 星 文 昌 , 文 昌 有 六 星 , 其 中 司 祿 星 , 緯 書 《 春 秋 元 命 苞 》 稱 「 司 祿 賞 功 進 士 」 , 主 文 人 之 功 名 利 祿 。 壽 星 南 極 老 人 星 , 《 史 記 正 義 》 稱 「 為 人 主 占 壽 命 延 長 之 應 」 。 
奉 祀 :有 福 、 得 祿 和 長 壽 等 三 個 目 標 , 一 直 是 中 國 道 教 信 徒 和 普 通 民 眾 追 求 的 共 同 理 想 。 因 此 , 明 代 以 降 , 民 間 對 福 祿 壽 三 星 的 奉 祀 經 久 不 衰 。 道 教 宮 觀 , 盡 管 少 有 專 門 設 立 的 福 祿 壽 三 星 君 殿 , 但 是 單 獨 供 奉 壽 星 的 仍 較 普 遍 。 中 國 福 祿 壽 三 星 瓷 雕 至 今 仍 然 有 人 請 回 家 供 奉 , 並 預 先 在 道 觀 中 開 光 分 靈 , 以 求 靈 驗 , 護 佑 合 家 有 福 、 得 祿 和 長 壽 。

BA VỊ TINH QUÂN
PHƯỚC  LỘC  THỌ  
I.- XUẤT   XỨ:-
Truyền thuyết về  ba vị Tinh Quân Phước-Lộc-Thọ đã có từ thời Minh. 
*Trong sách “ Kim  Lục  Trai  Huyền  Linh  Chuyển   Kinh  Tảo  Triều  Hành  Đạo  Nghi” của Thành Nghi đời Minh có đề cập đến việc hoàng gia lúc tụng kinh “Thái  Thượng   Huyền  Linh  Bắc  Đẩu  Bổn  Mệnh  Diên   Sinh  Chân  Kinh” ,trong  nghi thức thỉnh thần, ngoài việc thỉnh Tam Thanh, Ngọc Đế, Bắc Đẩu Cửu Tinh Quân, còn phải thỉnh “Nam  Cực  Lão  Nhân  Thọ  Đức  Tinh  Quân  ”, “Thượng   Thanh  Phước  Đức  Tinh  Quân  ”  và “Thượng  Thanh  Lộc  Đức  Tinh  Quân  ”.
Đồng thời, trong sách “Kim  Lục  Trai  Diên   Thọ  Thiết  Tiêu   Nghi  ” cũng của Thành Nghi có nói đến nghi thức thỉnh “Thượng   Thanh  Phước  Lộc  Thọ  Tam  Tinh  Chân  Quân  ”.
*Trong sách “Trung   Thiên  Tử  Vi  Tinh  Chân  Bảo  Sám” lúc triều lễ các vị Tinh Quân, đã có phần lễ bái ba vị “Phước  Tinh  Thiên  Đức  Tinh  Quân  、 Lộc  Tinh  Thiên  Hựu  Tinh  Quân  、 Thọ  Tinh  Lão  Nhân  Tinh  Quân  ”.
*Nhưng tín ngưỡng về Tam Tinh Phước Lộc Thọ trong Đạo Giáo và dân gian có nhiều truyền thuyết khác nhau. Trong Đạo Giáo, có sách “Kim  Lục  Kỳ  Thọ  Tảo  Triều  Nghi  ” ở đầu thời Minh nói đến “Nam  Cực  Lão  Nhân  Phước  Lộc  Thọ  Tam  Tinh  Chân  Quân”. Theo văn  ý trong sách nầy, đem ba vị Phước-Lộc-Thọ gom hết vào một vị là “Nam Cực Lão Nhân”, trong khi dân gian thì cho rằng có ba vị khác nhau.
*Để dung hòa sự khác biệt ấy, sau nầy người ta đã nhất trí theo quan điểm sau :-
Phước Tinh là để chỉ Thiên Quan, Lộc Tinh là để chỉ Văn Xương, Thọ Tinh là để chỉ cho Nam Cực Lão Nhân. 
*Trong số ba vị, việc thờ phụng Thọ Tinh có thời điểm xuất hiện sớm nhất vào đầu đời nhà Tần. Sách “Phong Thiện Thư” chương Sử Ký có nói :- “Hai xứ Đỗ và Hào có ba điện thờ gọi là  Miếu Thờ Thọ Tinh”. Lại trong sách “Sử Ký Sách Ẩn” chú giải “Thọ Tinh tức là Nam Cực Lão Nhân, xây dựng Miếu Thờ để cầu cho được bình an, hưởng phước và sống lâu”. Như vậy, về mặt lịch sử, việc thờ phụng Thọ Tinh để cầu phước cầu thọ đã xuất hiện từ thời Tần , Hán (trước và đầu Công Nguyên).
*Bậc cao đạo Đào Hoằng Cảnh thời Tề Lương , trong sách “Chân Linh Vị Nghiệp Đồ” đã xếp Nam Cực Lão Nhân vào “Thái Cực Tả Vị” (bên trái của Thái Cực).
*Thời Hán, đưa việc thờ cúng Thọ Tinh vào  “ Sách Thờ Phụng” của triều đình.
*Đời Minh, năm Hồng Vũ thứ ba, vua xuống lệnh là chỉ vọng bái Thọ Tinh chứ không cần lập Miếu Thờ. Tuy nhiên, các nơi vẫn thờ Thọ Tinh như cũ, lại còn đưa thêm Thiên Quan và Văn Xương vào thờ cho đủ Phước-Lộc-Thọ Tam Tinh.
II.- CHỨC NĂNG CỦA TAM TINH :-
*Phước Tinh là Thiên Quan có chức trách là ban bố phước đức cho dân gian. Trong sách “Tam Quan Đăng Nghi” nói :- “Thiên Quan là chân linh của khí dương, là bậc Thánh của Tự Nhiên, làm chủ cung Tử Vi,  ban bố phước cho con người, cai quản thiên giới, sai khiến quỉ thần, gìn giữ sự trường tồn của cõi trời”.
*Lộc Tinh là Văn Xương có sáu sao, trong đó có sao Tư Lộc. Sách “Xuân Thu Nguyên Mệnh Bào” nói rằng Tư Lộc thưởng công Tiến Sĩ, chủ về công danh lợi lộc của giới văn nhân và người đi học. (Xem bài Văn Xương Đế Quân)
*Thọ Tinh là Nam Cực Lão Nhân. Theo sách “Sử Ký Chính Nghĩa” nói rằng , Ngài chủ về tuổi thọ của con người, có chức năng trợ giúp kéo dài tuổi thọ.
III.- VIỆC  THỜ  PHỤNG:-
Ba nhu cầu lớn lao của con người là :- “có phước, được lộc, hưởng thọ lâu dài”, bất cứ ai ai trong Đạo Giáo và thế gian đều mong ước đạt được càng nhiều càng tốt, xem đó là mục tiêu lý tưởng của nhân loại.
*Nhất là từ thời Minh, việc thờ phụng Tam Tinh Phước-Lộc-Thọ đi vào nề nếp, qui củ hẵn hoi. Trong các Cung Quán của Đạo Giáo, chẳng những có Điện Thờ Tam Tinh mà đôi khi, lại xây dựng hẵn một Miếu Thờ Tam Tinh riêng biệt.
*Trong dân gian thì người ta hay thỉnh ba tượng Phước-Lộc-Thọ được tạo bằng nhiều chất liệu, kích cở … khác nhau , mang đến các Đạo Quán nhờ giúp cho việc “Khai Quang” rồi đem về  thờ tại nhà, cầu xin ba Ngài ban bố cho cả gia đình  đều “có phước, được lộc và trường thọ”.
*Nhược   Thủy  dịch
(từ http://www.taoism.org.hk) 
PHỤ  LỤC :-
TRUYỀN THUYẾT  DÂN GIAN VỀ 
 TAM  TINH  Phước - Lộc - Thọ
(福 - 祿 - 壽)
***
Phước - Lộc - Thọ là ba vị Tinh  Quân tượng trưng:
•   Phước tượng trưng sự hạnh phúc, con cháu đông đảo. 
•   Lộc tượng trưng sự giàu có và có quan tước. 
•   Thọ tượng trưng sự sống lâu và an nhàn. 
Dân gian quan niệm rằng, thờ Phước Lộc Thọ là thờ Cửu Huyền Thất Tổ chung của mọi người, tức là thờ Ông Bà chung.
Sự tích của Tam vị Tinh Quân Phước Lộc Thọ như sau:
*Theo truyền thuyết, Phước Lộc Thọ là tên của ba ông: ông Phước, ông Lộc, ông Thọ, vào đời nhà Đường bên Trung Quốc.
- Ông PHƯỚC có đức Trời ban, có con đông, nhưng nhà nghèo, lòng dạ chơn thật, tự lực cánh sinh, không chịu nhờ vả ai, tin tưởng vận mạng của mỗi người do Trời định, nên giữ lòng thanh bạch, không tham vọng.
- Ông LỘC có đức Đất cho, làm quan lớn tại triều đình, nhà giàu có lớn, tiền của dẫy đầy, có kẻ hầu người hạ, tánh tình hòa nhã, thanh liêm, một lòng vì nước vì dân, giàu lòng nghĩa hiệp, hay trợ khó giúp nghèo, mến hiền trọng đạo.
- Ông THỌ có đức do Người tạo, độc thân, sống lâu hơn mọi người, có lòng nghĩa hiệp, hay giúp đỡ người nghèo khổ, chỉ sống bằng nghề ăn trộm, một năm chỉ ăn trộm một lần để nuôi thân suốt năm, không ham lấy thêm, gặp người quá nghèo khổ thì đi ăn trộm của nhà giàu, đem tiền đến cứu giúp.
"Ba ông Phước, Lộc, Thọ cùng ở một thôn.
Hoàn cảnh của ba ông khá đặc biệt:
- Ông Phước thì nghèo khổ mà đông con.
- Ông Lộc thì làm quan, giàu có mà không con.
- Ông Thọ thì có nghề sở trường là ăn trộm, đi làm việc một đêm đủ tiền chi dụng một năm, ngoài ra chẳng làm gì khác. (Ca dao :- Con ơi, học lấy nghề cha –Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm-NT)
Một hôm, ông Thọ khởi sự hành nghề ăn trộm, đang đêm đi ngang qua nhà ông Phước, thấy đèn còn thắp leo lét, ghé vào đứng bên ngoài xem, nghe vợ của Phước than thở nghèo khổ, con cái quần áo tả tơi. Ông Thọ thấy vậy cảm động đem lòng thương xót thầm, nghĩ rằng: đêm nay, mình đi ăn trộm chuyến nầy để giúp Anh Phước đỡ nghèo, có tiền mua gạo ăn và sắm quần áo cho đàn con đông đảo.
Nghĩ vậy rồi liền thực hành, đi đến nhà ông Lộc, rình cho đến khuya, đợi tôi tớ trong nhà ngủ say, mới đánh ngạch vào nhà, mở tủ lấy trộm được một số vàng bạc khá nhiều, bọc vào một cái khăn, rút lui êm tịnh, không ai trong nhà hay biết.
Ông Thọ liền đi ngay đến nhà Anh Phước, trời vẫn còn khuya, kêu Anh Phước dậy mở cửa, đốt đèn lên. Phước hỏi ông Thọ, nửa đêm kêu cửa có việc chi cần gấp?
Ông Thọ nói:
- Tôi đem giúp Anh một gói vàng bạc đây để Anh chi dụng trong nhà, mua gạo và sắm quần áo cho sắp nhỏ.
Ông Phước hỏi:
- Vàng bạc ở đâu mà Anh có nhiều như vậy?
Ông Thọ đáp:
- Của tôi đem đến giúp Anh thì Anh cứ nhận mà dùng, hơi nào hỏi lòng vòng lôi thôi.
Ông Phước nói:
- Xin Anh cho biết rõ của nầy do đâu mà có thì tôi mới dám nhận sự giúp đỡ của Anh, chớ tôi thấy Anh đâu có giàu gì!
Ông Thọ túng thế phải nói thiệt:
- Số vàng bạc nầy do tôi lấy trộm của nhà giàu để đem lại giúp Anh cho đỡ nghèo.
Ông Phước nói:
- Tưởng đâu Anh làm ăn khá giả, dư tiền dư bạc mà giúp tôi, nào dè Anh đi ăn trộm, thì vàng bạc nầy là của phi nghĩa, là của gian, tôi không dám nhận đâu, Anh hãy đem về đi.
Hai đàng nói qua nói lại một hồi, ông Phước nhứt định không nhận và có vẻ giận, rồi mời Anh Thọ ra khỏi nhà, đóng cửa đi ngủ trở lại.
Ông Thọ lấy làm lạ cho Anh Phước nầy, nhà nghèo rớt mồng tơi, đói nheo nhóc mà lại không chịu nhận vàng bạc bất nghĩa. Mình chẳng lẽ lấy số vàng bạc nầy về xài thì tỏ ra kém hơn Anh ta nhiều quá, nên quyết liều đem lại trả cho ông Lộc.
Ông Thọ suy nghĩ như thế, liền trở lại nhà ông Lộc, kêu mở cửa, rồi vào nhà nói rõ cho ông Lộc biết:
- Hồi đêm hôm, tôi có lén đào ngạch vào nhà ông ăn trộm một số vàng bạc để đem lại giúp cho Anh Phước, vì thấy Anh Phước nhà quá nghèo mà lại đông con, nhưng Anh Phước nhứt định không chịu nhận vì cho rằng của nầy là của ăn trộm, của phi nghĩa, nên tôi chẳng biết làm sao, đành liều đem lại trả cho ông, xin ông đừng bắt tội.
Ông Lộc nói:
- Tiền bạc ở trong tủ nhà của tôi thì nó mới là của tôi, nay nó đã ở trong tay ông thì nó là của ông, không phải của tôi nữa. Ông hãy mang về đi, tôi không biết tới nó nữa. Ông Thọ nài nỉ: - Tôi nói thiệt với ông là số vàng bạc nầy là của ông, ông không tin thì vào mở tủ ra xem lại đi, tôi mới lấy trộm ra đó. Xin ông tha tội cho tôi và cất nó trở lại vào tủ.
Ông Lộc nhứt định không chịu nhận và mời ông Thọ ra khỏi nhà. Ông Thọ đành phải ôm gói vàng bạc đi ra, trở về nhà, lòng nặng trĩu ưu tư, thầm nghĩ hai thằng cha Phước và Lộc là hai tay thật kỳ cục, phi thường khác tục. Ông suy nghĩ mãi và cảm thấy lương tâm ray rứt, kế trời hừng sáng. Ông quyết định là mình cũng không xài số vàng bạc nầy làm gì, mất giá trị lắm, chẳng lẽ mình thua Anh Phước sao, thôi mình nên đem đổ xuống sông cho rảnh.
Ông Thọ liền đem tất cả số vàng bạc ấy đến đứng giữa cầu, đổ trút xuống dòng sông nước đang chảy mạnh. Đúng lúc đó, có một đám người cờ bạc vừa tan sòng đi ra đến đầu cầu nhìn thấy, họ la hoãng lên vì động lòng tham, liền nhảy xuống sông để lặn mò lấy vàng bạc. Chẳng may nước chảy xiết quá, có một người ham lặn, hụt hơi chết đuối.
Linh hồn chàng cờ bạc bị Quỉ sứ dẫn xuống Địa ngục phạt tội, liền tố cáo với Diêm Vương là tại ông Thọ nên anh ta mới bị chết chìm một cách oan uổng và đòi Diêm Vương bắt ông Thọ đền mạng.
Diêm Vương liền kêu Quỉ sứ lên bắt hồn của ông Thọ dẫn xuống. Diêm Vương hỏi ông Thọ:
- Tại sao nhà ngươi làm cho tên nầy chết đuối oan mạng như thế?
Hồn ông Thọ đáp:
- Tâu Diêm Vương, tại tên nầy quá tham lam thấy tôi đổ vàng bạc xuống sông nên lặn mò quyết lấy, chẳng may bị hụt hơi chết đuối thì đáng kiếp lắm, chớ tôi đâu có xô nó xuống sông mà bắt tội tôi.
- Vàng bạc ở đâu? Mà tại sao ngươi đổ xuống sông?
- Vàng bạc nầy là của tôi, tôi không dùng thì tôi đổ xuống sông, ấy là quyền của tôi, tên nầy quá tham lam nên chết ráng chịu.
Diêm Vương lại phán:
- Mặc dầu là tiền bạc của ngươi, nhưng lúc sắp đổ xuống sông, ngươi phải lựa lúc vắng người, không ai nhìn thấy mà khêu gợi lòng tham của kẻ xấu. Vậy ngươi chẳng chối tội đặng.
- Nếu Diêm Vương xét như vậy thì tội nầy là của Anh Phước mới đáng, chớ không phải tội của tôi, bởi vì số vàng bạc nầy, tôi đem cho Anh Phước giúp ảnh đỡ nghèo, mà Anh Phước không chịu lấy, nên tôi tức mình đem đổ xuống sông như thế.
Diêm Vương lại sai Quỉ sứ lên bắt hồn của ông Phước xuống đây đối chất. Diêm Vương hỏi ông Phước:
- Số vàng bạc của Thọ đem đến giúp cho nghà ngươi, sao nhà ngươi không chịu lấy, để nó tức giận đem đổ xuống sông, làm cho tên cờ bạc nầy nổi lòng tham, lặn mò đến chết đuối? Vậy nhà ngươi phải đền mạng cho tên cờ bạc nầy.
Ông Phước biện bạch thưa rằng:
- Bẩm Diêm Vương, nhà tôi nghèo thật, nhưng vàng bạc của Anh Thọ giúp tôi là của gian, của ăn trộm, nên tôi nhứt định không nhận. Vậy tôi có tội gì?
Diêm Vương quay qua quở ông Thọ, Thọ liền thưa:
- Nếu như Anh Phước vô tội thì tội nầy phải là của ông Lộc, bởi vì số vàng bạc nầy là của ông Lộc do tôi lén lấy trộm đem về giúp Anh Phước, nhưng Anh Phước cho là của gian nên không nhận, tôi đành đem trả lại ông Lộc và xin tha tội ăn trộm của tôi. Ông Lộc rất kỳ cục, không chịu chấp thủ, đuổi tôi ra khỏi nhà, nên tôi tức giận đem đổ xuống sông. Vậy tội nầy là của ông Lộc.
Diêm Vương lại cho Quỉ sứ đi bắt hồn của ông Lộc xuống tra hỏi.
Ông Lộc biện bạch rằng:
- Số vàng bạc nầy của tôi bị mất đã đành, nhưng ông Thọ đã lấy đem ra khỏi nhà tôi mà tôi không hay biết, thế là của đó không còn là của tôi nữa, nên dầu cho ông Thọ có năn nỉ trả lại, tôi nhứt định không chịu nhận. Kể ra của đó cũng bất nghĩa, tôi đành chịu ngu dại chớ không nhận lại của đó. Nhận lại hay không là quyền chọn lựa của tôi, tôi đâu có phạm tội gì.
Diêm Vương thẩm án, xét thấy ba ông Phước, Lộc. Thọ ,đều là người có nghĩa khí. Phước và Lộc đều trong sạch. Thọ có tội ăn trộm nhưng biết giác ngộ và làm việc phải, giúp người nghèo khó. Vậy cả ba người nầy đều vô tội, chỉ có tên cờ bạc gian tham lặn mò cho đến đổi chết đuối là đáng kiếp, không thể khiếu nại gì được nữa.
Diêm Vương phán rồi, liền sai Quỉ sứ dẫn hồn tên cờ bạc chết oan đem giam vào Địa ngục hành hình và truyền đưa ba hồn Phước, Lộc, Thọ trở về dương gian nhập xác.
Khi ba hồn về tới dương gian thì ba xác của ba ông đã được thân nhân mai táng, sình thúi hư hỏng hết rồi, vì vụ thưa kiện nầy lòng vòng mất nhiều ngày giờ. Do đó, ba chơn hồn được đưa trở lại Địa phủ.
Diêm Vương làm tờ sớ trình bày tỉ mỉ sự việc, dâng lên Thiên Tào phán định. Thượng Đế xem xong, phán rằng:
- Phước nghèo, đông con, giữ được lòng thanh bạch. Thọ thì độc thân, không tham, có nghĩa, nhân từ.
Lộc thì có lòng độ lượng.
Cho nên, Phước Lộc Thọ là ba tánh đức của Trời, Đất, Người. Người mà có được ba đức ấy để hưởng là một phúc hạnh lớn. Nay phong cho ba vị làm Tam Thiên Quân, và truyền cho thế gian tôn thờ ba Đấng Thiên Quân nầy để làm gương.
Đạo Nho lấy sự tích Phước Lộc Thọ nầy làm biểu tượng thờ Cửu Huyền Thất Tổ, để nêu  ý  Tổ Phụ Ông Bà thuở xưa cũng đã từng hưởng được ba đức ấy."
*Trong truyện Tây Du Ký có chép chuyện Tôn Hành Giả đi ra đảo Bồng Lai gặp ba ông Phước, Lộc, Thọ, gọi là Thọ Tinh, Phước Tinh, Lộc Tinh. Chuyện ấy tóm tắt như sau:
"Sau khi Tôn Hành Giả nổi giận quật ngã cây Nhơn Sâm của Trấn Nguyên Đại Tiên ở Ngũ Trang Quán núi Vạn Thọ, bị Trấn Nguyên dùng phép bắt hết bốn thầy trò Tam Tạng để bắt đền cây Nhơn Sâm. Tôn Hành Giả hứa đi tìm thuốc cứu cây Nhơn Sâm ấy cho sống lại, hẹn trong ba ngày trở lại, để Tam Tạng, Trư Bát Giới cùng với Sa Tăng ở lại làm tin.
Tôn Hành Giả thót lên mây, cân đẩu vân thẳng đến Đông Dương Đại Hải, tới nơi, Hành Giả đi thẳng đến đảo Bồng Lai, thấy ngoài cửa động Bạch Vân, dưới bóng tùng, có ba ông già đang ngồi đánh cờ. Người ngồi xem là Thọ Tinh, còn hai người đang đánh cờ là Lộc Tinh và Phước Tinh. Hành Giả bước tới chào hỏi:
- Kính chào ba “Ông Em”.
Ba người bỏ ván cờ, đồng hỏi:
- Đại Thánh có việc chi tới đây?
- Chẳng giấu gì các Ngài, Lão Tôn nhận bảo hộ Đường tăng đi Tây phương thỉnh kinh, giữa đường gặp một chút trở ngại, có tí việc muốn nhờ đến các Ngài giúp đây.
Phước Tinh hỏi:
- Trở ngại gì, Đại Thánh nói ra để chúng tôi còn liệu.
- Trở ngại ở Ngũ Trang Quán, núi Vạn Thọ.
Ba vị Phước, Lộc, Thọ kinh ngạc hỏi:
- Quán Ngũ Trang là Cung Tiên của Trấn Nguyên Đại Tiên. Đại Thánh vào đấy ăn trộm nhơn sâm của ông ấy chớ gì?
- Ăn trộm thì đáng là bao, Lão Tôn đã quật nó ngã chổng gọng chết rồi. Lão ấy bắt đền. Ta hứa đi tìm thuốc chữa cho cây Nhơn sâm ấy sống lại. Nó bắt thầy ta ở lại làm tin, hẹn trong ba ngày phải có thuốc. Ba Ngài có phương thuốc nào chữa cho cây Nhơn sâm ấy sống lại không?
Ba ông Phước, Lộc, Thọ buồn rầu đáp:
- Con khỉ nầy chẳng biết gì hết. Trấn Nguyên Đại Tiên là Ông Tổ của dòng Địa Tiên. Chúng tôi đây thuộc dòng Thần Tiên, nhưng vẫn thuộc Thái Ất tán số, chưa phải là dòng chân truyền, nên thoát khỏi tay người ta làm sao được. Tưởng như Đại Thánh giết chết loài thú chạy chim bay thì dùng viên linh đơn lúa mạch của chúng tôi đây là có thể cứu sống được. Đằng nầy cây Nhơn sâm là giống cây Tiên, thì cứu làm sao được. Không có thuốc đâu!
Tôn Hành Giả nghe nói không có thuốc thì châu mày trợn mắt. Phước Tinh nói:
- Đại Thánh ạ! Ở đây chúng tôi không có thuốc thật mà. Biết đâu nơi khác có thì sao, hơi đâu mà buồn phiền.
- Dù đi khắp chơn trời góc biển, việc đó có khó gì đối với Lão Tôn, ngặt sư phụ của Lão Tôn phép nghiêm lượng hẹp, hạn cho có ba ngày. Quá hạn ba ngày không về thì ổng niệm chú Cẩn Cô khổ lắm.
- Đúng! Đúng! Không có phép ấy để trói buộc Đại Thánh thì Đại Thánh lại chọc trời mất!
Thọ Tinh nói:
- Đại Thánh yên tâm, chớ phiền não. Vị Đại Tiên ấy, tuy là bậc trên của chúng tôi, nhưng cũng là chỗ quen biết. Để ba chúng tôi đến đó thăm Ngài và nói giùm cho Đại Thánh, bảo Đường Tăng đừng đọc chú Cẩn Cô, đợi khi nào Đại Thánh mang thuốc về, chúng tôi mới từ biệt. Đại Thánh an lòng lo đi tìm thuốc.
- Cám ơn ba Ngài. Lão Tôn xin ba Ngài đi ngay cho."
(Sau đó Hành Giả đến cầu được Đức Quan Âm Bồ Tát, Bồ Tát đến dùng nước Cam lồ trong Tịnh bình, cứu sống được cây Nhơn sâm. Trấn Nguyên Đại Tiên mới vui lòng để cho bốn thầy trò Đường Tăng lên đường thỉnh kinh). 
(tổng hợp theo truyền thuyết và Tây Du Ký)
*Nhược  Thủy (st)
63. THẦN SÔNG BIỂN NÚI NON VÀ LÔI BỘ
VŨ    SƯ
(Thần  Mưa)
山川河海及雷部諸神 
 雨師

雨 師 的 由 來 : 雨 師 就 是 雨 神 , 亦 稱 萍 翳 、 玄 冥 等 。 中 國 古 代 的 雨 神 起 源 甚 早 。 《 周 禮 》 的 《 大 宗 伯 》 篇 稱 , 「 以 燎 祀 司 中 、 司 命 、 風 師 、 雨 師 」 。 鄭 玄 注 : 「 雨 師 , 畢 也 」 , 意 思 是 「 月 離 於 畢 , 俾 滂 沱 矣 。 是 雨 師 畢 也 」 。 東 漢 蔡 邕 《 獨 斷 》 則 稱 , 「 雨 師 神 , 畢 星 也 。 其 象 在 天 , 能 興 雨 」 。 畢 星 是 二 十 八 宿 中 西 方 七 宿 之 一 。 此 當 是 以 星 宿 為 雨 神 也 。 另 外 , 亦 有 以 人 物 為 雨 神 者 。 屈 原 《 天 問 》 云 「 蓱 號 起 雨 」 。 漢 代 王 逸 注 稱 : 「 蓱 , 萍 翳 , 雨 師 名 也 」 。 《 風 俗 通 義 》 稱 「 春 秋 左 氏 傳 說 , 共 工 之 子 , 為 玄 冥 師 」 , 「 鄭 大 夫 子 產 禳 於 玄 冥 」 。 玄 冥 , 雨 師 也 。 晉 《 搜 神 記 》 稱 , 「 赤 松 子 者 , 神 農 時 雨 師 也 」 。 《 三 教 源 流 搜 神 大 全 》 更 以 神 鳥 為 雨 師 , 稱 「 雨 師 者 , 商 羊 是 也 。 商 羊 , 神 鳥 , 一 足 , 能 大 能 小 , 吸 則 溟 渤 可 枯 , 雨 師 之 神 也 」 。 唐 宋 以 後 , 從 佛 教 中 脫 胎 出 來 的 龍 王 崇 拜 逐 漸 取 代 了 雨 師 的 位 置 。 
職 能 : 雨 師 之 名 , 以 「 師 」 名 神 。 據 《 風 俗 通 義 》 的 《 祀 典 》 稱 , 「 師 者 , 眾 也 。 土 中 之 眾 者 莫 若 水 。 雷 震 萬 里 , 風 亦 如 之 。 至 於 太 山 , 不 崇 朝 而 遍 雨 天 下 , 異 於 雷 風 , 其 德 散 大 , 故 雨 獨 稱 師 也 」 。 正 是 由 於 風 雨 滋 潤 , 「 養 成 萬 物 , 有 功 於 人 , 王 者 祀 以 報 功 也 」 。 
奉 祀 : 雨 師 的 奉 祀 , 秦 漢 時 已 列 入 國 家 的 祀 典 。 《 唐 會 要 》 稱 , 奉 祀 雨 師 , 升 入 中 祀 , 並 且 要 「 諸 郡 各 置 一 壇 」 , 與 王 同 祀 。 道 教 宮 觀 也 有 設 殿 供 奉 風 伯 雨 師 、 雷 公 電 母 者 。 其 雨 師 之 塑 像 常 作 一 烏 髯 壯 漢 , 左 手 執 盂 , 內 盛 一 龍 , 右 手 若 灑 水 狀 , 稱 雨 師 陳 天 君 。 雨 師 之 神 誕 日 為 十 一 月 二 十 日 。 由 于 近 代 雨 師 的 崇 拜 逐 漸 為 龍 王 崇 拜 所 取 代 , 因 此 現 在 專 門 奉 祀 雨 師 的 祭 典 已 不 多 見 。 只 是 在 道 教 大 型 齋 醮 儀 禮 上 , 設 置 雨 師 的 神 位 , 隨 眾 神 受 拜 。


VŨ    SƯ
(Thần  Mưa)
I.-  XUẤT   XỨ :-
Vũ Sư tức là Thần Mưa, còn xưng là Thần Bình Ế, Thần Huyền Minh.
*Khởi nguyên của Thần Mưa có từ rất sớm ở xã hội Trung Quốc cổ đại.
*Sách “Chu Lễ” thiên “Đại Tông Bá” có nói :- “Dân gian  đốt lửa để cúng tế các Thần chủ quản, như là Thần Tư Mệnh (hộ trì bổn mạng), Thần Gió, Thần Mưa”.
Trịnh Huyền chú giải là “Vũ Sư ý nói đến sao Tất, vì khi mặt trăng rời xa sao Tất thì có mưa tràn ngập đất. Vũ Sư là sao Tất vậy”. 
-Thời Đông Hán, Sái Ung trong sách “Độc Đoán” nói rằng :- “Thần Vũ Sư chính là sao Tất, hình tượng ở trên trời, có thể làm mưa”. Sao Tất là một trong bảy sao ở phương Tây của Nhị Thập Bát Tú. Ý nói là vị tinh tú nầy có chức năng làm mưa.
*Ngoài ra, cũng có những nhân vật được xem là Thần Mưa. Như Khuất Nguyên trong “Thiên Vấn” nói là “Người họ Bình  tạo ra mưa”. Vương Dật đời Hán chú thích “Họ Bình tức Bình Ế, tên của vị Thần Mưa”
-Trong “Phong Tục Thông Nghĩa” viết :- “Sách Tả Truyện Xuân Thu nói , con trai của Thần Cộng Công, là Huyền Minh Sư”. Lại nói “ Đại Phu họ Trịnh cúng tế cầu cho vợ sanh đẻ bình an nơi Ngài Huyền Minh. Ngài Huyền Minh là Vũ Sư (thần mưa)”.
-Sách “Sưu Thần Ký” đời Tấn nói :-“Xích Tùng Tử chính là Vũ Sư ở đời Thần Nông vậy”.
-Trong sách  “Tam  Giáo  Nguyên  Lưu  Sưu  Thần  Đại  Toàn  ” thì cho rằng Thần Điểu là Vũ Sư, “Vũ Sư là họ Thương Dương. Mà Thương Dương lại là Thần Điểu (chim thần) chỉ có một chân, có thể biến lớn hay hóa nhỏ lại. Nó hút một hơi là cạn cả biển Minh Bột (Bột Hải), là thần làm mưa xuống nhân gian vậy”.
-Chỉ đến đời Đường, Tống chịu ảnh hưởng của Phật Giáo, mới bắt đầu có quan điểm cho  Long Vương  là Thần Mưa. Nhận thức nầy, có giá trị cho đến tận ngày nay.
II.- CHỨC  NĂNG :-
Tên gọi Vũ Sư, có chữ “Sư” nêu lên tính chất của Thần. Theo từ điển “Phong tục thông nghĩa” thì “Sư nghĩa là chúng (rộng khắp). Tính rộng của thổ thì không bằng  của  thủy. Tuy sấm động đến muôn dặm, gió thổi khắp nơi cũng không thể bì với nước mưa được.. Chẳng cần to lớn như  núi Thái Sơn, nhưng chẳng đầy một buổi sáng mà mưa xuống khắp thiên hạ. Khác với sấm và gió, đức ban rãi của nó phát ra rất lớn, nên chỉ có mưa mới  độc xưng là “Sư” được”. Đức ấy chính là chỗ mưa gió đem lại sự tươi nhuận “nuôi lớn muôn vật, ban ơn cho người, vua chúa thờ Vũ Sư để đền ơn đó vậy”.
III.- THỜ PHỤNG :-
Việc thờ phụng Vũ Sư từ thời Tần Hán đã được đưa vào “Từ điển thờ cúng”.
Trong sách “Đường Hội Yếu” nói, thờ cúng Vũ Sư là đi vào trọng tâm của việc thờ cúng, nên khắp nơi đều có Miếu Thờ,  cũng như  thờ cúng vua chúa vậy.
*Cung Quán của Đạo Giáo đều có Điện thờ Phong Bá, Vũ Sư, Lôi Công, Điện Mẫu. Tượng thờ của Vũ Sư thường tạo hình là một thanh niên hùng mạnh, tay trái bưng một cái bồn, trong có đựng một con rồng. Tay phải đang làm động tác “rãi nước”. Tượng được tôn xưng là “ Vũ Sư Trần Thiên Quân”.
*Ngày đản sanh của Vũ Sư là ngày hai mươi tháng mười một.
*Do vì gần đây dân gian sùng bái Long Vương nhiều hơn Vũ Sư , nên việc cúng tế Vũ Sư ít thấy xuất hiện trong Từ điển thờ cúng. Chỉ còn trong các nghi thức cúng tế của Đạo Giáo ở các Đại Đàn, mới có thiết lập thần vị của Vũ Sư, lễ bái chung với các Thần khác.
*Nhược   Thủy  dịch
(từ http://www.taoism.org.hk) 
*PHỤ  LỤC :-
Lễ hội cầu mưa của người Chăm và người Thái
1.- Độc đáo lễ hội Cầu mưa  của người Chăm – Bình Thuận
Ở xã Phan Hòa huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, chỉ cần nói đến Lăng Pô là đồng bào Chăm hiểu ngay đó là ngôi đền thờ vị Thần PôklongK’Sách. Tương truyền rằng, đây là vị quan Thượng thư được Vua Chăm giao trông coi việc “Quốc nông”. Ngài còn được đồng bào Chăm tôn sùng và ngưỡng mộ bởi có công khai phá đất đai, dẫn thủy nhập điền, canh nông lúa nước. 
Vì vậy, lễ hội cầu mưa hay còn gọi là lễ cầu an nhà nông được tổ chức vào đầu tháng Giêng theo lịch của người Chăm (tức tháng 5 âm lịch), cứ 5 năm mới được tổ chức một lần, là để tôn kính vị Thần này. 
Vì cứ 5 năm mới được tổ chức một lần, nên cả làng Bình Minh ở xã Phan Hòa có sự chuẩn bị rất chu đáo. Việc đầu tiên là phải đi đến các vị thầy Cả, thầy Xế và thầy Cò Ke ở làng Chăm theo đạo Bàlamôn (thuộc xã Phan Hiệp ) để… xin ngày. Khi có ngày làm lễ rồi thì mới xúc tiến vệc chuẩn bị ở làng. Cả quy trình của lễ hội được tổ chức trong hai ngày và lại phải đích thân là các thầy Xế, thầy Cả và thầy Cò Ke hành lễ. Chiều hôm truớc, sân lễ của làng phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, sạch sẽ với cờ phướn nghiêm trang để rước Ngài từ trong Đền về. Theo chân các vị Thầy Xế rước sắc phong từ trong đền Ngài ra là đội múa quạt duyên dáng nhất của làng đi hộ tống. Đúng 4 giờ chiều, sân lễ đông đủ từ các vị chức sắc tôn giáo đến trai thanh gái tú trong làng đều có mặt. Trước kiệu Ngài là những tinh tuý nhất từ các món ẩm thực nổi tiếng của người Chăm như bánh gừng, bánh tét, canh cà… Ông thầy cúng bày biện thành một mâm lễ dưới chân kiệu của Ngài. Phía sau các Thầy là hàng chục phụ nữ Chăm, với trang phục hành lễ truyền thống luôn chắp tay trên đầu cúi lạy khi thầy Xế đọc những câu thần chú. Một bài cúng có khi diễn ra đến hàng giờ đồng hồ mới chấm dứt. Đêm hôm ấy cả hai ông thầy Cả (tiếng Chăm gọi là Păk), ba ông thầy Cò Ke và hai ông thầy Xế hoạt động không biết mệt mỏi. Nhưng quan trọng nhất vẫn là thầy Cò Ke (phụ trách trống, kèn) vì hai ông này lo suốt đêm cho lễ dâng huơng theo phong tục. Đêm hôm đó, cả làng Bình Minh của xã Phan Hòa hầu như đều đến với Ngài bằng tấm lòng tôn kính linh thiêng nhất. 
Sáng hôm sau, cả làng lại thức dậy sớm hơn mọi ngày. Nhưng sớm hơn cả vẫn là đội múa quạt với những cô gái xinh xắn nhất đứng xếp hàng đôi, chờ xuất phát đưa Ngài trở về Đền thiêng cách xa làng Bình Minh chừng 4 cây số về hướng mặt trời lặn. Tiếng trống Paranưng, tiếng kèn Sranai dặt dìu theo đoàn người đưa Ngài trở về lại ngôi đền. Đi trước là mười hai thanh niên trai tráng cầm cờ phướn xếp thành hai hàng. Theo sau là bốn người cầm ô đi bốn góc, che cho bốn thanh niên khiêng kiệu Ngài. Phía sau nữa là hai ông thầy Cò Ke dẫn theo cả một đội múa quạt bồng bềnh cùng đoàn người tiến về ngôi đền thiêng trong rừng. Cũng ngay tại thời điểm ấy đã có hàng trăm người trong làng tụ tập về ngôi đền từ trước để dựng lều trại che nắng cho suốt cả ngày lễ hội. Phía sau Đền có sẵn ba bốn con dê, hàng chục con gà được buộc sẵn sàng cho việc cúng tế. Các bà các chị múc nước lặt rau, xắt cây chuối chát và chụm lửa. Chỉ có các chức sắc mới được chuẩn bị các nghi lễ trong đền. Tất cả các hoạt động ấy đều do Sư cả Thánh đường Bình Minh Lâm Nam chỉ huy. Khi Ngài được đoàn người đưa đến gần trước đền, tất cả mọi người đứng xếp thành hai hàng dọc để đón. Đội múa quạt lại xếp thành hàng hai múa những điệu múa truyền thống của người Chăm theo nhịp điệu vang dồn của trống Paranưng và kèn Saranai. Mọi người chăm chú nhìn về đoàn người đang rước kiệu. Kiệu Ngài được dựng trước đền để cho một ông thầy Xế kiểm tra lại những vật cúng tế bên trong. Trong kiệu Ngài có một tô trứng lớn đựng 12 quả và 6 tô nhỏ, mỗi tô đựng từ 4 đến 5 quả và một bát nhang trầm khói nghi ngút. Phía trong cùng là một hộp vuông hình chữ nhật có bao giấy màu đỏ chứa đựng những lá sắc phong do Triều đình nhà Nguyễn ban cho là để ghi nhận công trạng to lớn của Ngài. Trước khi đưa Ngài vào Đền, tất cả các bà các chị phụ nữ đều quỳ lạy dưới chân Ngài như một lời cầu mong cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, đồng ruộng xanh tốt. Tôi quay sang hỏi Sư cả Lâm Nam là tại sao chỉ có phụ nữ quỳ lạy? Sư Cả Lâm Nam nói rằng : nam nữ gì đều lạy cả, nhưng các chị các bà được ưu tiên làm lễ trước! Đền thờ Ngài PôklongK’Sách được xây tại làng Binh Mỵ cũ từ năm 1971 theo tín ngưỡng chung của người Chăm chứ không riêng gì người Chăm Hồi giáo ở Phan Hòa. Phía trong Đền có một đôi Linga, linh vật linh thiêng nhất theo tục lệ của người Chăm. Ông Nguyễn Hữu Châu, một trí thức người Chăm ở Phan Hòa còn cho biết : Đền thờ Ngài PôklongK’Sách chỉ có ở ba nơi : Phan Rang (Ninh Thuận ), Phan Hoà (huyện Bắc Bình ,Bình Thuận) và thị trấn Ma Lâm (huyện Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận). Tên đầy đủ của lễ hội này theo tiếng Chăm là “Păk Poh PôklongK’Sách”. 
Sau buổi lễ, mọi người quây quần cùng khách bên chén rượu Ngài ban. Tất cả đều cầu chúc cho đầu năm mới an khang thịnh vượng, mưa thuận gió hoà, đồng ruộng tốt tươi. Có thể nói, lễ hội cầu mưa là một trong những lễ hội có giá trị lớn về mặt tinh thần trong tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào Chăm cần được bảo tồn và phát huy. 
(Theo Vietnamtourism/ Bình Thuận)
  2.- Lễ cầu mưa của người Thái 
(Lễ hội "Xến Xó Phốn" của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam)
Lễ hội cầu mưa (hay còn gọi là lễ hội Xến Xó Phốn) vùng Tây Bắc Việt Nam được ra đời và hình thành cùng kho tàng văn hóa phi vật thể của người Thái. Qua bao đời chắt lọc, gạn đục khơi trong để có được tinh hoa, những giá trị về phong tục tập quán, tín ngưỡng. Lễ hội cầu mưa ngày nay mang đủ bản sắc văn hóa của người Thái Tây Bắc. 
Lễ hội gồm 2 phần lễ và hội, phần lễ để cúng thần linh cai quản mưa nắng không mang yếu tố dị đoan mà chỉ mượn yếu tố tâm linh để dạy bảo con người, phần hội tạo nên những tiếng cười thoải mái nhằm giáo dục nhân cách, phẩm hạnh để con người vươn tới cái đẹp, của đạo đức truyền thống mà người Thái đã có. 
Người Thái ở vùng Tây Bắc quan niệm rằng thần linh cai quản mưa gió thương những đứa trẻ sinh ra không có cha để làm nhà cho nên đã không làm mưa khiến cho trời hạn hán, vì vậy trời không mưa là lỗi của những người phụ nữ chửa hoang. Vì vậy dân bản phải làm lễ cầu mưa, cúng lễ các vị chủ nước, chủ sông suối (thuồng luồng, tiếng Thái gọi là Tô Ngược) để mời các thần linh về nghe nguyện vọng của con người đồng thời trách phạt những người phụ nữ đó đã không biết giữ mình. Những lời cầu xin, trách móc được truyền tụng và đúc kết thành các bài cúng và các trò chơi trong lễ hội cầu mưa. 
Người đóng vai trò chính trong lễ hội là “bà Mè mải”. Mở đầu lễ cầu mưa, đoàn người đi đến các nhà xin lễ vật. 
-Đến nhà thứ nhất, mè mải nói :- 
Ở nhà đấy bà thím ơi 
Chúng tôi đến xin cơm đấy nhé 
Rau chua xiểm cũng xin 
Canh khoai nhạt cũng xin 
- Chủ nhà thứ nhất trả lời :-
Ngày cúng chủ nước sông tôi có chút lễ bằng rau, bằng cỏ để cùng xin cầu mưa 
Mè mải đáp lời :-
Cảm ơn chủ nhà nhé 
Lời cảm ơn vừa dứt chủ nhà té nước gạo lên người hoặc dùng hạt bông tung vào đoàn người giả làm mưa. 
Đoàn người luôn miệng hô to :-
Có mưa rào, mưa ra gạo ra lúa 
Sau đó đoàn người tiếp tục đến nhà thứ 2, thứ 3… và lặp lại bài cúng trên. Đến khi đã có đủ lễ vật, đoàn người rước Tô Ngược đến địa điểm cúng lễ và bà mè mải bắt đầu cúng bài cúng cầu mưa với nội dung mời chủ nước chủ sông về ăn lễ vật và lắng nghe nguyện vọng của dân bản cầu xin trời làm mưa cho đến khi sấm sét nổi lên và trời mưa xuống thì chuyển sang phần hội. 
Ở phần hội, cả bản làng cùng chơi ném còn, uống rượu cần và hát các bài hát về tình yêu đôi lứa… 
Cùng với Lễ hội cầu an bản Mường, Lễ hội cầu mưa của người dân tộc Thái miền Tây Bắc là một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng người dân tộc ở nơi đây. Lễ hội thường được tổ chức vào đầu mùa mưa (khoảng cuối tháng 10, đầu tháng 11 âm lịch hàng năm (gần tết Nguyên Đán) được biểu hiện qua tiếng sấm, tức là lời phán quyết của vua trời, qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng...Lễ hội có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đông đảo bà con dân tộc ở bản, Mường./.
  *Theo :- Diễn đàn Sài Gòn > ĐẤT NƯỚC- VIỆT NAM - CON NGƯỜI > Văn hóa - Phong tục  
*Nhược  Thủy  (st)
64.THẦN SÔNG BIỂN NÚI NON VÀ LÔI BỘ
PHONG   BÁ
(Thần   Gió).


山川河海及雷部諸神 
風伯
風 伯 的 由 來 : 風 伯 , 就 是 風 神 , 亦 稱 風 師 、 飛 廉 、 箕 伯 等 等 。 中 國 古 代 的 風 神 崇 拜 起 源 較 早 。 《 周 禮 》 的 《 大 宗 伯 》 篇 稱 , 「 以 燎 祀 司 中 、 司 命 、 風 師 、 雨 師 」 。 鄭 玄 注 : 「 風 師 , 箕 也 」 , 意 思 是 「 月 離 於 箕 , 風 揚 沙 , 故 知 風 師 其 也 」 。 東 漢 蔡 邕 《 獨 斷 》 則 稱 , 「 風 伯 神 , 箕 星 也 。 其 象 在 天 , 能 興 風 」 。 箕 星 是 二 十 八 宿 中 東 方 七 宿 之 一 , 此 當 以 星 宿 為 風 神 。 另 外 , 楚 地 亦 有 稱 風 伯 為 飛 廉 的 。 屈 原 《 離 騷 》 有 句 稱 「 前 望 舒 使 先 驅 兮 , 後 飛 廉 使 奔 屬,吾令鳳凰飛騰兮 又夜,
飄風屯其相離兮 帥雲霓而來御」 。 晉 灼 注 飛 廉 曰 「 鹿 身 , 頭 如 雀 , 有 角 而 蛇 尾 豹 文 」 。 高 誘 注 蜚 廉 曰 「 獸 名 , 長 毛 有 翼 」 。 此 當 以 動 物 為 風 神 。 唐 宋 以 後 , 風 伯 曾 作 「 風 姨 」 、 「 封 姨 」 和 「 風 后 」 , 即 曾 作 女 神 。 但 以 箕 星 作 風 伯 之 說 , 一 直 佔 據 主 導 地 位 。
職 能 : 風 伯 之 職 , 就 是 「 掌 八 風 消 息 , 通 五 運 之 氣 候 」 。 風 是 氣 候 的 主 要 因 素 , 事 關 濟 時 育 物 。 《 風 俗 通 義 》 的 《 祀 典 》 稱 , 風 伯 「 鼓 之 以 雷 霆 , 潤 之 以 風 雨 , 養 成 萬 物 , 有 功 於 人 。 王 者 祀 以 報 功 也 」 。


奉 祀 : 對 風 伯 的 奉 祀 , 秦 漢 時 就 已 經 列 入 國 家 祀 典 。 《 唐 會 要 》 稱 , 奉 祀 風 伯 , 升 入 中 祀 , 並 且 要 「 諸 郡 各 置 一 壇 」 , 與 王 同 祀 。 道 教 宮 觀 中 也 有 設 殿 供 奉 風 伯 雨 師 、 雷 公 電 母 的 , 其 風 伯 塑 像 常 作 一 白 髮 老 人 , 左 手 持 輪 , 右 手 執 扇 , 作 扇 輪 子 狀 , 稱 風 伯 方 天 君 。 風 伯 神 誕 之 日 為 十 月 初 五 日 。 普 通 道 教 徒 在 其 生 存 和 職 業 同 「 風 」 有 密 切 關 係 者 才 單 獨 奉 祀 風 伯 , 一 般 道 教 徒 只 是 在 大 型 齋 醮 法 會 時 才 供 奉 風 伯 。

PHONG   BÁ
(Thần   Gió)
I.- XUẤT  XỨ:-
Phong Bá là tên của Thần Gió, còn gọi là Phong Sư, Phi Liêm hay Cơ Bá .
*Việc sùng bái Thần Gió đã có từ rất sớm ở Trung Quốc cổ đại. Trong sách “Chu Lễ” thiên “Đại Tông Bá” có nói :- “Đốt lửa để cúng tế các Thần Tư Mệnh, Phong Sư, Vũ Sư”. Trịnh Huyền chú giải :-“ Phong Sư tức là sao Cơ” ý muốn nói “ khi mặt trăng lìa khỏi sao Cơ, thì gió thổi cát bay, đó là do Phong Sư làm vậy”.
*Thời Đông Hán, ông Sái Ung trong quyển “Độc Đoán” nói :- “Thần Phong Bá là sao Cơ. Hình tượng ở trên trời, có thể tạo ra gió”. Sao Cơ chính là chòm bảy sao ở phương Đông của Nhị Thập Bát Tú, người xưa đã dùng sao để tôn làm Thần. Ngoài ra, có nơi còn gọi  Thần Gió  là “Phi Liêm”. Như Khuất Nguyên trong tập thơ “Ly Tao” đã viết :-
“ Tiền Vọng Thư sử tiên khu hề, hậu Phi Liêm sử bôn chúc
Loan Hoàng vi dư tiên giới hề, Lôi Sư cáo dư dĩ vị cụ
Ngô linh Phượng Hoàng phi đằng hề, hựu kế chi dĩ nhật dạ
Phiêu Phong đồn kì tương li hề, suất vân nghê nhi lai ngự”
-Dịch nghĩa :-
“Phía trước thần Vọng Thư phải tiến trước hề, phía sau thần Phi Liêm phải chạy theo 
Loan Hoàng mở lối đi đầu, thần sấm sét bảo ta thu xếp chưa xong
Ta khiến Chim Phượng bay lượn hề, bay ngoài suốt ngày đêm
Thần Phiêu Phong tụ họp những đám chia lìa, đốc suất mây và ráng lại đón”
-Dịch thơ :-
 Chị Trăng phải nhanh chân tiến trước,
Dì Gió cho lần bước theo sau,
Chim loan mở lối đi đầu,
Nhưng thần sấm sét đốc hầu chưa xong!
Ta giục phượng ra công bay mãi,
Suốt ngày đêm dong ruổi cho mau!
Cơn dông bão táp theo hầu!
Cầu vồng mống cụt đem nhau đón chào!
*Đời Tấn chú giải Phi Liêm là “thân nai, đầu như chim sẻ, có sừng, đuôi rắn vằn beo”. Còn Cao Dụ thì chú Phi Liêm là  “tên thú, lông dài có cánh”. Như vậy là họ lấy động vật để tôn làm thần.
*Đời Đường , Tống về sau, người ta thay thế Phong Bá bằng “Phong Di” (Dì Gió) hay “Phong Hậu” (Hoàng Hậu Gió). Như vậy Thần Gió  trở  thành Nữ Thần.
*Thế nhưng, cho đến nay, mọi người vẫn chọn thuyết nói Phong Bá là sao Cơ, đây là quan điểm chủ đạo nhất được chấp nhận.
II.-  CHỨC  NĂNG :-
Chức năng của Phong Bá là “cai quản tám gió, khai thông ngũ vận của khí hậu” . Gió là nhân tố quan trọng của khí hậu, giúp cho việc phát triển của muôn vật.
-Trong  Từ  Điển  “Phong Tục Thông Nghĩa” nói :- “sấm sét thì thúc giục, gió mưa thì làm tươi mát, nuôi lớn vạn vật, có công lớn với người. Vua thờ cúng để đền công ơn vậy”
III.- VIỆC  THỜ  CÚNG :-
*Đối với việc thờ cúng Phong Bá, từ thời Tần Hán đã có ghi vào “Sách thờ cúng trong nước”.
-Sách “Đường Hội Yếu” nói , thờ phụng Phong Bá là đi vào trọng tâm của việc cúng tế, cho nên các nới phải lập Miếu Thờ , giống như thờ vua vậy.
*Trong các Cung Quán của Đạo Giáo, đều có xây Điện riêng để thờ Phong Bá và Vũ Sư. Tương thờ Phong Bá thường là tạo hình tượng một ông lão đầu tóc bạc phơ, tay trái cầm “bánh xe gió”, tay phải cầm “quạt gió”, hình dáng như đang quạt vậy, tôn xưng là “Phương Thiên Quân”.
-Ngày  vía của  Thần Phong Bá là ngày mùng năm tháng mười âm lịch.
*Những tín đồ phổ thông của Đạo Giáo mưu sinh bằng  những nghề có liên quan đến “gió”, hợp nhau lại xây Miếu Thờ riêng Phong Bá”.
-Trong Đạo Giáo , thì chỉ những dịp đại lễ mới có nghi thức cúng tế Phong Bá.
*Nhược  Thủy dịch
(từ http://www.taoism.org.hk)
65. THẦN SÔNG BIỂN NÚI NON VÀ LÔI BỘ
LONG   VƯƠNG
(Rồng  Làm  Mưa)
山川河海及雷部諸神
龍王
龍 王 的 由 來 : 龍 是 中 國 古 代 神 話 的 四 靈 之 一 。 《 太 上 洞 淵 神 咒 經 》 中 有 「 龍 王 品 」 , 列 有 以 方 位 為 區 分 的 「 五 帝 龍 王 」 , 以 海 洋 為 區 分 的 「 四 海 龍 王 」 , 以 天 地 萬 物 為 區 分 的 5 4 名 龍 王 名 字 和 6 2 名 神 龍 王 名 字 。 唐 玄 宗 時 , 詔 祠 龍 池 , 設 壇 官 致 祭 , 以 祭 雨 師 之 儀 祭 龍 王 。 宋 太 祖 沿 用 唐 代 祭 五 龍 之 制 。 宋 徽 宗 大 觀 二 年 ( 1 1 0 8 年 ) 詔 天 下 五 龍 皆 封 王 爵 。 封 青 龍 神 為 廣 仁 王 , 赤 龍 神 為 嘉 澤 王 , 黃 龍 神 為 孚 應 王 , 白 龍 神 為 義 濟 王 , 黑 龍 神 為 靈 澤 王 。 清 同 治 二 年 ( 1 8 6 3 年 ) 又 封 運 河 龍 神 為 「 延 庥 顯 應 分 水 龍 王 之 神 」 , 令 河 道 總 督 以 時 致 祭 。 
職 能 : 由 此 , 龍 王 之 職 就 是 興 雲 布 雨 , 為 人 消 滅 炎 熱 和 煩 惱 , 龍 王 治 水 成 了 民 間 普 遍 的 信 仰 。 道 教 《 太 上 洞 淵 神 咒 經 》 中 的 「 龍 王 品 」 就 稱 , 「 國 土 炎 旱 , 五 榖 不 收 , 三 三 兩 兩 莫 知 何 計 時 」 , 元 始 天 尊 乘 五 色 雲 來 臨 國 土 , 與 諸 天 龍 王 等 宣 揚 正 法 , 普 救 眾 生 , 大 雨 洪 流 , 應 時 甘 潤 。
奉 祀 : 龍 王 神 誕 之 日 , 各 種 文 獻 記 載 和 各 地 民 間 傳 說 均 有 差 異 。 舊 時 專 門 供 奉 龍 王 之 廟 宇 幾 乎 與 城 隍 、 土 地 之 廟 宇 同 樣 普 遍 。 每 逢 風 雨 失 調 , 久 旱 不 雨 , 或 久 雨 不 止 時 , 民 眾 都 要 到 龍 王 廟 燒 香 祈 願 , 以 求 龍 王 治 水 , 風 調 雨 順 。

LONG   VƯƠNG
(Rồng  Làm  Mưa)
I.- XUẤT  XỨ :-
*Trong truyện thần thoại cổ đại Trung Quốc, Rồng là một trong “Tứ Linh”.
Sách 《 Thái  Thượng  Động  Uyên  Thần  Chú  Kinh  》phẩm Long Vương có phân chia khu vực trách nhiệm của “Ngũ Đế Long Vương”, chia đại dương  thành bốn biển, dưới quyền cai quản của “Tứ Hải Long Vương” (Đông, Tây, Nam, Bắc Hải). Sách nầy nói trong  cõi trời đất và vạn vật có  54  “Cõi Rồng”  và nêu tên của 62 Thần Long Vương.
*Đời Đường Huyền Tông, ban chiếu xây dựng  Miếu Thờ Long Trì, lập đàn cho các quan đến cúng tế, trong nghi thức tế lễ Vũ Sư có nghi cúng Long Vương.
*Năm Đại Quán thứ hai đời Tống Huy Tông (năm 1108) ban chiếu phong tước “Vương” cho năm rồng trong thiên hạ. Sắc phong Thần Thanh Long làm  Quảng Nhân Vương, Thần Xích Long làm Gia Trạch Vương, Thần Huỳnh Long làm Phù Ứng Vương, Thần Bạch Long làm Nghĩa Tế Vương, Thần Hắc Long làm Linh Trạch Vương.
*Năm Đồng Trị thứ hai đời Thanh (năm 1863) lại phong Vận Hà Long Thần (Long Thần của các con sông hay kênh đào) làm “Diên   Hưu  Hiển  ứng  Phân   Thuỷ  Long  Vương  Chi  Thần”, lệnh cho Tổng Đốc Đường Sông hàng năm cúng tế.
II.- CHỨC  NĂNG :-
 Long Vương có chức năng gom mây làm mưa, làm mất đi sự nóng bức và khó chịu của con người. Tín ngưỡng phổ biến của dân gian là “Long Vương trị thủy” ( vua rồng cai quản về nước).
* Trong Đạo Giáo, theo sách 《 Thái  Thượng  Động  Uyên  Thần  Chú  Kinh  》phẩm Long Vương thì nói là “Trong nước bị khô hạn, ngũ cốc thất thu, vua quan dân chúng chưa biết tính kế nào, Nguyên Thủy Thiên Tôn cỡi mây năm sắc giáng lâm phàm trần, cùng với chư Thiên và Long Vương rộng nói chính pháp, phổ cứu chúng sanh, mưa lớn chan hòa, nơi nơi tươi mát”.
III.- VIỆC  THỜ  PHỤNG :-
-Ngày đản sanh của Long Vương thì theo các sách và truyền thuyết dân gian nêu lên quá nhiều , không quyết định được ngày nào chính xác và chưa có ngày thống nhất. Việc cúng tế thì theo tập quán từng nơi từng lúc mà tổ chức khác nhau.
-Ngày xưa, Miếu Thờ Long Vương cũng có nhiều như Miếu Thờ của Thành Hoàng, Thổ Địa vậy. Khi bị hạn hán lâu ngày, hoặc mưa dầm liên miên, dân chúng đều đến Miếu Thờ cúng tế cầu nguyện Long Vương phù hộ điều hòa lượng nước trở lại vừa phải, đúng theo thời tiết để dân chúng cày cấy thuận mùa .

*Nhược  Thủy  dịch
(từ http://www.taoism.org.hk) 
*PHỤ LỤC 1 :-
Tứ hải Long vương
Tứ hải Long vương là các vị thần có dạng rồng cai quản bốn đại dương theo thần thoại Trung Quốc.
Hình tượng các long vương vốn có xuất xứ từ Phật giáo, là hiện thân của rắn thần naga được Trung Quốc du nhập và Hán hóa
 Rồng
Rồng, chữ hán là Long, chữ Phạn là Nâga, là một loài sinh vật thuộc thế giới vô hình, và cũng là một loài trong Tứ Linh: Long, Lân, Qui, Phụng (Rồng, Lân, Rùa, Phượng)
Theo thần thoại, rồng có hình dạng rất lạ kỳ: đầu rồng giống như đầu đà, sừng giống như sừng nai, cổ giống như cổ rắn, bụng giống như bụng con giao, mắt giống mắt thỏ, tai giống tai bò, chân giống chân cọp, móng giống móng chim ưng, vảy rồng giống như vảy cá ly.
Rồng là vua của loài có vảy, có tài biến hóa, làm tối được, làm sáng được, làm lớn được, làm nhỏ được, nhằm tiết xuân phân thì lên trời, nhằm tiết thu phân thì xuống biển hay xuống đất. Kinh Phật nói: "Long thường tại định, vô hữu bất định thì." Nghĩa là: Rồng thường ở vào thiền định, không có lúc nào chẳng thiền định.
Có rất nhiều loại rồng, được phân ra tùy theo màu sắc, tùy theo hình dáng đầu rồng hoặc tùy theo phận sự của nó:
I. Phân loại theo màu sắc: Có 5 loại:
•   Rồng trắng: Bạch long, toàn thân màu trắng
•   Rồng vàng: Huỳnh long, toàn thân màu vàng, 
•   Rồng xanh: Thanh long, toàn thân màu xanh sậm, 
•   Rồng đỏ: Xích long, toàn thân màu đỏ, 
•   Rồng đen: Hắc long, toàn thân màu đen. 
II. Phân chia theo hình dáng: 3 loại:
•   Rồng trẻ, đầu không có sừng, gọi là Ly long. 
•   Rồng sống được 500 năm thì mọc sừng, gọi là Cù Long. 
•   Rồng sống được 1000 năm trở lên thì có sừng dài và mọc thêm cánh, gọi là Ứng long. 
III. Phân chia theo nhiệm vụ: có 4 loại:
•   Thủ Thiên cung long: Rồng ở cõi Trời, gìn giữ Thiên cung. 
•   Hành võ long: Rồng làm mưa (Hành là làm, võ hay vũ là mưa). Rồng nầy có hai hạng: 
o   Thiện long thì làm cho mưa thuận gió hòa. 
o   Ác long thì làm cho mưa to, gây lũ lụt, 
•   Địa long: Rồng ở dưới đất sâu, làm hầm khoét hang, làm thành sông, hồ, biển. 
•   Phục tạng long: Rồng giữ gìn kho tàng của vua Chuyển Luân Thánh vương và các nhà phước đức lớn. 
■ Tương truyền, rồng ở đáy biển, có lầu đài cung điện, có tổ chức vua, quan, quân lính. Rồng làm vua gọi là Long vương, cung điện của Long vương là Long cung, các quan của vua rồng là loài cá lớn, quân lính là các loài cá nhỏ.
(Tam Thái Tử Ngao Bính)
Theo Truyện Phong Thần và Tây Du Ký, có Tứ Hải Long vương là 4 vị Long vương ở bốn biển:
•   Đông Hải Long vương: ở biển Đông tên Ngao Quảng. 
•   Nam Hải Long vương: ở biển Nam tên Ngao Thuận. 
•   Tây Hải Long vương: ở biển Tây tên Ngao Khâm. 
•   Bắc Hải Long vương: ở biển Bắc tên Ngao Nhuận. 
■ Cũng trong truyện Tây Du, con Bạch mã (ngựa trắng) mà Tam Tạng cỡi đi Tây phương thỉnh kinh là do một con tiểu long (rồng nhỏ) biến thành. Con tiểu long nầy vốn là Thái tử con của Bắc Hải Long vương Ngao Nhuận, phạm tội nặng, bị bắt treo lên chờ xử trảm. May nhờ Đức Quan Âm Bồ Tát đi ngang, tiểu long van xin cứu mạng. Đức Quan Âm Bồ Tát thương tình, tâu xin Thượng Đế tha chết cho tiểu long để sau nầy bắt tiểu long biến thành bạch mã, đỡ gót cho Tam Tạng thỉnh kinh. Nhờ công lao chuộc tội nầy, sau khi thỉnh kinh xong, bạch mã được biến trở lại thành rồng, trở về Long cung.
■ Long Nữ là con gái của Đệ tam Thái Tử của Nam Hải Long vương Ngao Thuận, ngày kia hóa thành con cá dạo chơi nơi mé biển, bị một ông chài bắt được, đem ra chợ bán. Đức Quan Âm Bồ Tát biết được, sai Thiện Tài đồng tử hóa ra một người thường, đi đến chợ mua con cá ấy, rồi đem xuống biển Nam thả xuống.
Nam Hải Long vương nhớ ơn Bồ Tát cứu tử cháu nội gái của mình, nên dạy Long Nữ đem cục ngọc Dạ Minh Châu đến dâng tặng Bồ Tát để Bồ Tát đọc sách ban đêm không cần đèn.
Long Nữ đến dâng ngọc xong, lòng hết sức cảm phục Bồ Tát nên xin qui y và được Bồ Tát thâu làm đệ tử .
Từ ấy, Thiện Tài đồng tử và Long Nữ luôn luôn theo bên cạnh để phụng sự Bồ Tát.
■ Trong lịch sử Việt Nam, lúc Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Lý Thái Tổ, thấy đất Hoa Lư chật hẹp không phải là nơi đóng đô, muốn dời đến La Thành. Khi nhà vua đến La Thành xem xét, vua thấy một con rồng vàng xuất hiện, từ La Thành bay thẳng lên Trời. Lý Thái Tổ cho đó là điềm lành, nên chọn La Thành làm nơi đóng đô, đổi tên lại là Thăng Long (Rồng bay lên) để kỷ niệm ngày thấy rồng vàng bay lên trời. Nhà Lý đóng đô tại Thăng Long, truyền ngôi được 9 đời, kéo dài 215 năm.
*Nhược  Thủy  (st)
*PHỤ  LỤC  2  :- 
LONG VƯƠNG LÀM MƯA SAI GIỜ KHẮC BỊ CHÉM
(Trích truyện Tây Du Ký)
“………..Thiệt lời xưa nói không sai: Trên đường nói chuyện trong bụi có người. Nguyên có qủy Dạ Xoa ở tại Sông Kinh đi tuần dưới nước. Nghe ông chài nói rằng: Vãi trăm chài không sai một, thì lật đật về cung Thủy Tinh mà báo rằng: "Bệ Hạ ôi! Có họa, có họa!" Long vương sông Kinh liền hỏi: "Có họa gì?" Dạ Xoa nói: "Ngoài chợ Trường An có ông thầy bói hay lắm! Mỗi bữa ông chài đem cho thầy bói kia một con cá chài lớn, thì coi quẻ chỉ chỗ cho, vãi trăm chài không sai một. Nếu thường thường như vầy, thì hết binh tướng lấy ai mà giúp được vua?" Long Vương nghe nói giận lắm, rúy gươm vía ra đi, quyết đến Trường An đặng giết thầy bói giỏi. Có Rồng con, Rồng cháu, tướng Trạnh, quan Cua, quân Sư Cháy, thừa tướng Chài đồng hè ra tấu: "Xin chúa công bớt giận, lời huyển bỏ qua chớ khá nghe. Nếu chúa công đi xuống chợ, thì nổi giông tố mây mưa. Sợ dân ở Trường An khốn hại, có khi trời bắt tội chẳng không? Thà biến ra Tú Tài đến chợ Trường An coi thử. Quả như lời  thời giết, bằng không thiệt thì thôi". Long Vương nhận lời bỏ gươm và chẳng làm mưa gió, lên bờ giả Tú Tài áo trắng đi xuống chợ Trường An, thấy thiên hạ đứng vậy mà coi quẻ. Tú Tài hỏi thăm rõ, thầy bói ấy là Viên Thủ Thành, chú ông là quan thiên văn Viên Thiên Cang, hình dung xinh tốt, thể thống oai nghi, Tú Tài quyết vào Viên Thủ Thành chào hỏi. Ðãi trà xong xả, mới hỏi thăm ông bói chuyện chi? Tú Tài nói: "Tôi bói bữa nào mưa?" Viên Thủ Thành gieo quẻ đoán rằng :-
"Mây che đỉnh núi, mù tỏa non Ðoài,
Hỏi thăm mưa rưới, chắc tại ngày mai."
Tú Tài hỏi: "Mai giờ nào, nước dâng lên mấy thước mấy tấc?" Viên Thủ Thành nói:" Giờ Thìn thì kéo mây, giờ Tỵ nổi sấm, giờ Ngọ mưa, cuối giờ Mùi tạnh. Nước dâng ba thước ba tấc, có lẽ ra bốn mươi tám giọt bốn phân bốn ly". Tú Tài cười rằng: "Lời này không phải nói chơi, ngày mai quả có mưa, giờ khắc và nước dâng y như lời đoán, thì ta thưởng bạc năm chục lượng chẳng sai. Nếu không mưa, hay là mưa mà không y lời đoán, ta nói thiệt cho thầy hay, phá nát cửa thầy, và xé tấm vải treo tức thì đuổi khỏi chợ Trường An, không cho ở đây gạt chúng nữa". Viên Thủ Thành mừng mà đáp rằng: "Tôi dám cuộc, tôi dám cuộc". Tú Tài liền kiếu ra về.
Các Thủy thần thấy Long Vương về đồng ra nghinh tiếp mà hỏi thăm rằng: "Chú công đi kiếm thầy bói đặng không?" Long Vương nói: "Có, có, thầy bói ấy khua mỏ kiếm tiền, ta hỏi thử chừng nào trời mưa và nước dâng lên mấy thước, nó nói giờ Thìn kéo mây, giờ Mùi tạnh, nước lên cao ba thước ba tấc có lẽ bốn phân tám ly, ta cuộc với nó rằng: "Hễ quả như lời, ta thưởng năm mươi lượng bạc, nếu sai một chút thì ta phá nhà, xé bảng đuổi ra khỏi chợ Trường An" Các tướng cười mà rằng: "Chúa công là vị thần coi tá cái sông mà hay việc mưa gió, nếu có mưa không mưa thì Chúa công biết trước, thầy bói biết sao mà đặng mà nói bướng kìa, mười phần nó phải thua hết cả mười". Nói cười chưa dứt tiếng thì nghe tiếng kêu: "Long Vương mau ra tiếp chiếu trời". Long Vương thất kinh lật đật ra tiếp chiếu, ngó lên mây thấy thần Lực Sĩ mặc áo vàng, tay cầm phong chiếu chỉ bay xuống cung Thủy tinh. Long Vương đặt bàn mà lạy mà lãnh chiếu. Lực Sĩ đi về lập tức, Long Vương mở chiếu chỉ ra xem, thấy trong chiếu chỉ dạy như vầy:
Rồng tám sông vâng lệnh, y theo giờ khắc ban,
Ngày mai không đặng trễ, mưa tại xứ Trường An
"Hẹn giờ Thìn kéo mây, giờ Tỵ nổi sấm, giờ Ngọ mưa,
cuối giờ Mùi tạnh, nước dâng ba thước, ba tấc, bốn phân, tám ly".
Long Vương thất kinh hồn vía, nói với các tướng rằng: "Trên đời có người linh quá, thông trời thấu đất, chắc mình phải chịu thua". Quân sư Cháy tâu rằng: "Xin chúa công đừng lo, muốn ăn nó cũng không khó, tôi dùng một kế thì nó cứng họng đi". Long Vương hỏi: "Quân sư có kế chi?" Quân sư Cháy tâu rằng: "Mưa sái giờ và bớt nước, thầy không y lời đoán, sao nó cũng phải thua". Long vương y kế.
Bữa sau kêu Thiên lôi, Thần gió,Bà chớp, Anh mây, đồng kéo tới Trường An. Truyền giờ Tỵ mới kéo mây, giờ Ngọ mới nổi sấm, giờ Mùi mưa, giờ Thân tạnh, nước có ba thước lẻ bốn phân, rồi truyền các thần về hết.
Long Vương hóa Tú Tài như trước, tới chỗ Viên Thủ Thành. Tú tài không hỏi gì hết, đập nghiêng quăng viết, xé tấm vải treo. Viên Thủ Thành ngồi trên ghế làm thinh, như không hay không biết. Tú Tài giận phá cửa lấy ván xốc lại giá mà mắng rằng: "Mày là đồ mị, nói gạt chúng mà ăn tiền, coi quẻ không linh, đặt điều nói bậy. đoán sái giờ, dư nước, còn ngồi làm tỉnh kìa. Ði mau mau kẻo ta đập chết". Viên Thủ Thành cười hả hả rằng: "Không sợ, không sợ, tôi không phạm tội chết, e cho ai chết kìa, ông gạt ai chớ ông gạt tôi sao được, ông không phải Tú Tài áo trắng, ông là Rồng Bạch sông Kinh, ông dám cải lệnh trời, tráo giờ bớt nước, phạm tội gần chết chém, lại còn mắng tôi sao?". Tú Tài nghe nói rởn tóc gáy, vỡ mật hết hồn, buông tấm ván cửa, xốc áo quỳ lạy mà nói rằng: "Xin thầy chớ trách, hồi nãy tôi giả ngộ nói chơi, tôi tưởng làm chơi, chẳng ngờ sanh thiệt. Tôi đã phạm luật, lạy thầy xin cứu mạng tôi. Viên Thủ Thành nói: "Tôi cứu ông sao đặng, nhưng chỉ chỗ cho ông cầu khẩn họa may". Tú Tài nói: "Xin thầy chỉ chỗ làm ơn". Viên Thủ Thành nói: "Giờ Ngọ mai ông sẽ bị Ngụy Trưng xử trảm, mà Ngụy Trưng làm Thừa tướng phò Hoàng Ðế bây giờ, ông cầu Hoàng Ðế nói giùm, có khi cũng được". Tú Tài lau nước mắt từ tạ ra đây, mặt nhựt đã chen, vầng trăng lố mọc, Long Vương không về phủ, ở lững đửng nửa lừng, đợi tới canh ba hiện vào cung cấm thấy vía vua Thái Tôn đi dạo, Long Vương hiện hình người ra trước mặt mà nói rằng: "Xin Bệ Hạ cứu tôi làm phước". Hồn Thái Tôn hỏi: "Ngươi là ai đó? Nói cho ta rõ đặng ta cứu cho". Long vương nói: "Bệ Hạ thiệt Rồng, còn tôi là rồng có tội. Trời sai Ngụy Trưng là tôi hiền của Bệ hạ, giờ Ngọ mai chém tôi. Hồn Thái Tôn nói: "Như về phần Ngụy Trưng chém ngươi, thời trẫm cứu được. Thôi ngươi yên dạ mà về" Long vương mừng rỡ quá chừng, lạy tạ mà đi về thẳng.
Vua Thái Tôn thức dậy, nhớ điềm chiêm bao ấy rõ ràng, đến sáng lâm triều, các quan chầu chực. Vua Thái Tôn xem rõ từ người, bên văn thì: Phòng Huyền Linh, Ðỗ Như Hối, Từ Mậu Công, Hứa Kỉnh Tông và Vương Khuê, còn bên võ thì: Mã Tam Bửu, Ðoàn Chí Hiền, Ân Khai Sơn, Trình Giảo Kim, Lưu Hồng Cơ, Uất Trì Cung, Tần Thúc Bảo. Ai nấy đủ mặt, mà thiếu Thừa tướng Ngụy Trưng! Vua Thái Tôn vời Từ Mậu Công lên điện mà phán rằng: "Trẫm nằm chiêm bao lạ lắm! Thấy một người đón trẫm mà lạy xưng rằng Long vương phạm tội thiên tào, trời sai Ngụy Trưng xử trảm, lạy xin trẫm cứu, trẫm hứa lở lời, bữa nay vì cớ nào Ngụy Trưng không đi chầu vậy?" Từ Mậu Công tâu rằng: "Bậ hạ đã hứa lỡ, thì phải đòi Ngụy Trưng vào chầu, đừng cho Ngụy Trưng đi đâu, mãn ngày nay thì cứu Long vương ắt được". Vua Thái Tôn mừng lắm, mới sai hoạn quan đi mời Ngụy Trưng.
Còn Ngụy Trưng đi coi thiên văn (coi sao) hồi hôm, xảy nghe tiếng hạc kêu, ngó thấy Sứ trời hiện xuống, truyền chiếu chỉ rằng: "Giờ Ngọ mai Ngụy thừa tướng phải thiếp mà chém Rồng Bạch tại sông Kinh". Ngụy Trưng lạy tạ ơn về dinh tắm gội. Lo mài gươm phép nên chẳng đi chầu, xảy thấy sứ vào mời, trong lòng lo sợ, không dám cãi lệnh phải sửa sang mão áo vào chầu, bước tới sân son, lạy vua mà chịu tội. Thái Tôn phán rằng: "Trẫm tha khanh khỏi tội". Một lát bãi chầu rồi, bá quan đều về hết, vua Thái Tôn cầm một mình Ngụy Trưng ở lại mà thôi, mời vào đền trong luận bàn việc nước, qua đầu giờ Ngọ, vua truyền mỹ nữ lấy cờ sắp trên bàn xong xã, Ngụy Trưng lạy tạ, rồi ngồi lại đánh cờ, dục dặc gần nửa giờ mà chưa thắng bại. Ngụy Trưng gục đầu trên bàn mà ngáy pho pho. Vua Thái Tôn không kêu, để cho Ngụy Trưng ngủ, chừng một lát Ngụy Trưng thức dậy, quì dưới đất lạy vua mà tâu rằng: "Tôi đáng tội thác, khi bần thần ngủ quên không biết có điều chi thất lễ. Xin Bệ Hạ tha tội cho tôi". Vua Thái Tôn cười rằng: "Khanh có tội chi mà ngại, thôi, dậy mà đánh cờ". Ngụy Trưng lạy tạ ơn rồi sắp cờ đánh nữa. Xảy nghe tiếng la lớn ngoài cửa đền, thấy Tần Thúc Bảo xách đầu rồng Bạch chảy máu ròng ròng, quì tại sân mà tâu rằng: "Muôn tâu Bệ hạ! Có thấy sông khô cùng biển cạn, việc nầy lạ lắm thiệt chưa từng. Vua Thái Tôn hỏi: "Vật đó ở đâu?" Tần Thúc Bảo tâu rằng: "Ðầu rồng trên trời rớt xuống tại ngã tư, nên tôi phải đem dâng cho Bệ hạ". Vua Thái Tôn thất sắc, phán hỏi Ngụy Trưng rằng: "Thừa tướng bàn chuyện ấy đặng không?" Ngụy Trưng quỳ lạy tâu rằng: "Tôi mới thiếp đi chém đó". Vua Thái Tôn thất kinh mới hỏi: "Khi khanh ngủ, tay không chuyển động, cũng không có gươm đao, vậy làm sao mà chém đặng rồng ấy?" Ngụy Trưng tâu rằng: "Tôi vâng chiếu Thượng Đế hồi hôm truyền giờ Ngọ này thiếp xuống chém rồng có tội. Bệ Hạ đòi tôi hầu cờ nên đi không đặng, túng phải thiếp xuống lấy gươm phép chém kịp giờ". Vua Thái Tôn nghe nói: "Nửa mừng nửa buồn, mừng là đặng tôi hiền có phép, buồn là vì lời hứa không xong, phải gượng gạo mà truyền cho Tần Thúc Bảo rằng: "Ðem đầu rồng treo tại chợ Trường An mà răn lê thứ". Lại ban thưởng Ngụy Trưng. Hai tướng tạ từ về hết.”
*Source:- Xem đầy đủ ở :-  http://vietnameseface.com/novel/T/Tay-Du-Dien-Nghia
*Nhược  Thủy  (st).
Xin theo dõi tiếp BÀI 14. dienbatn giới thiệu.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *