CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.
Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên dienbatn đăng tiếp loạt bài CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
Trong Hindu giáo , Parvati được gọi bằng nhiều cái tên khác Một số trong số đó là: * Ambika, có nghĩa là người mẹ * Gauri, có nghĩa là một trong những hội chợ * Shyama, có nghĩa là một tối * Kali, có nghĩa là một màu đen * Bhairavi, có nghĩa là tuyệt vời * Durga, có nghĩa là không thể tiếp cận * Bhavatarni, có nghĩa là ( cứu tinh ) của thế giới Parvati (Sanskrit: पार्वती, Kannada: ಪಾರ್ವತಿ IAST: Pārvatī) là một nữ thần Hindu Giáo. Parvati mang năng lượng nữ (Shakti), là vợ của Shiva và là hóa thân khuyến thiện của Đại Thiên Nữ Mahadevi. Parvati được xem là một hiện thân hoàn chỉnh của Adi Parashakti- nữ thần sáng thế tối cao, người mà tất cả các nữ thần khác đều là hiện thân của bà.
Trên danh nghĩa, Parvati là người phối ngẫu thứ hai của thần Shiva, vị thần phá hủy và tái sinh trong Hindu Giáo. Tuy nhiên, thần Parvati khác với thần Satī (thần hạnh phúc gia đình và tuổi thọ)- hóa thân của người vợ thứ nhất của Shiva. Parvati là mẹ của các nam thần và nữ thần như thần voi Ganesha và thần chiến tranh Skanda (Kartikeya). Ở vài nơi người ta còn tin rằng bà là chị em với thần sáng tạo Vishnu. Bà cũng được xem là con gái của thần tuyết Himavat. Bà còn có tên là Durga ( là một hóa thân khác của Parvati trong hình tướng nữ chiến binh cuồng nộ ).
Thần nữ Durga cưỡi sư tử giao chiến với quỷ Mahishasur .
Thần nữ Durga 10 tay.
Parvati được thể hiện là Durga một hình tượng hung dữ.
Parvati, khi được miêu tả cùng với Shiva, thường xuất hiện với hai cánh tay; nhưng khi được miêu tả một mình, thần có 4 hoặc 8 cánh tay có mang theo một con hổ hoặc sư tử. Thường được xem là nữ thần từ bi, Parvati cũng có các hóa thân: nữ thần 8 tay Durga biểu tượng của chiến thắng của cái Thiện trước cái Ác, nữ thần Kali hiện thân của sự hủy diệt vũ trụ, thần băng giá Shitala Devi, nữ thần sao Tara- người cứu giúp các linh hồn trong biển cả ảo giác, thần Chandi, thần Kathyayini, thần Mahagauri, thần hoa sen Kamalatmika, nữ thần Bhuvaneshwari- nữ thần của vũ trụ và của các thế giới, thần của ba thế giới Lalita và các vị nữ thần (Mahavidya) khác.
Nữ thần Kali .
Parvata là một từ tiếng Phạn (Sanskrit) mang nghĩa là "núi"; "Parvati" được dịch là "cô gái của núi"; Parvati được sinh ra là con của thần Himavat, vị chúa tể cai quản núi non và là hiện thân của thần núi Himalayas. Các tên khác của Parvati có liên quan đến núi là Shailaja (nghĩa là "con gái của núi"), Nagza hoặc Shailputri (nghĩa là "con gái của núi"), và 'Girirajaputri' (nghĩa là "con gái của vua núi").Tên Parvati thỉnh thoảng cũng được xem là biến thể của từ 'pavitra', có nghĩa là "thanh khiết" hay "thần thánh" theo tiếng Phạn.
Bà được biết đến với 108 tên trong tập Durga Saptashati. Những cái tên này bao gồm Ambika ('người mẹ trìu mến'), Gauri ('Mỹ Dung'), Shyama ('Hắc Dung'), Bhairavi ('tuyệt trần'), Kumari ('trinh trắng'), Kali ('da đen'), Umā, Lalita, Mataji ('người mẹ đáng kính'), Sahana ('tinh khiết'), Durga, Bhavani, Shivaradni hoặc Shivaragyei ('nữ hoàng của Shiva'), và hàng trăm tên khác. Cuốn Lalita sahasranama có danh sách đáng tin cậy 1000 tên gọi của Parvati.
Pho tượng Uma tại BTLSVN – TP. HCM.
Hai trong số các tên gọi ý nghĩa và nổi tiếng của Parvati là Uma và Aparna. Tên Uma được dùng cho Sati trong các truyện cổ xưa hơn, nhưng trong truyện Ramayana, tên này đồng nghĩa với Parvati . Trong Harivamsa, Parvati được xem là thần Aparna ('Người không cần ăn uống') và thần Aparna cũng được công nhận là một Uma, người mà vẫn được mẹ nuôi dưỡng trong sự khổ hạnh và thường khuyên ngăn bà bằng câu u mā ('ôi, đừng làm thế').
Parvati .
Có một sự mâu thuẫn đó là Parvati vừa là vị thần da sáng Gauri, vừa là vị thần da đen Kali hay là Shyama; điều này có thể được giải thích bằng thần thoại Hindu sau: Một lần, Shiva chế nhạo Parvati về làn da đen của bà. Parvati giận dữ bỏ đi và thực hành một chế độ tu tập khổ hạnh để hưởng ân huệ từ thần sáng thế Brahma là một làn da trắng.
Parvati cũng là nữ thần của tình thương và sự dâng hiến Kamakshi.
Là một hóa thân hiện thực của Adi parashakti, Parvati là nữ thần mang năng lượng nữ. Bà là một trong những vị thần mang đến năng lượng sống ('Shakti') cho tất cả các sinh vật; không có bà, mọi sinh vật sẽ bất động. Thân thể bà chính là năng lượng nữ; chính xác là, bà hiện diện trong mọi cơ thể sống dưới dạng năng lượng. Không có năng lượng, con người không thể làm gì, ngay cả không thể tập yoga.
Shakti cần thiết cho mọi cá thể sống, dù cho đó là ba vị thần tối cao Trimurti, là các thần (Deva), con người, loài vật hay ngay cả cây cối. Parvati là nguồn cung cấp năng lượng. Không có bà, sự sống hoàn toàn ngừng chảy. Năng lượng này cần thiết để nhìn, để nghe, cảm thấy, suy nghĩ, hít ra thở vào, đi đứng, ăn uống và nhiều thứ khác. Bà được tất cả các thần khác thờ phụng, gồm cả ba vị thần Trimurti, thần rishis, và tất cả các sinh linh khác cũng đều thờ phượng bà.
Một mật chú (mantra) tiếng Phạn nhắc đến bà là:
SARVARUPE SARVESHE SARVASHAKTI SAMANVITE BHAI BYASTRA HE NO DEVI DURGE DEVI NAMAUSTUTE
Có nghĩa là: Chúng ta cúi đầu trước thần Maa Durga, một hiện thân ác của Parvati, Người là nguồn gốc của mọi dạng sống (sarvarupe); người là chúa tể của muôn loài (sarveshe); mọi năng lượng tồn tại trong hình hài của Người(Sarvashakti samanvite); là Người đã phá tan mọi sợ hãi trên đời (bhai bhyastra).
Parvati không được miêu tả rõ rệt trong kinh Vệ Đà, dù rằng trong kinh Kena Upanishad (3.12) có nói đến một vị thần tên là Uma-Haimavati. Bà xuất hiện như là một shakti, hay năng lượng tối cần thiết, của Đấng Tạo Hóa tối cao Brahman. Vai trò chính của bà là người hòa giải, người mang trí tuệ của thần Brahma đến cho tam thần của Vệ Đà là Agni, Vayu và Indra, những vị thần huyên hoang khoác lác về các chiến công gần đây của họ chống lại quỷ dữ.Nhưng Kinsley lưu ý rằng: "Parvati được miêu tả về sau này với hình ảnh của nữ thần Satī-Pārvatī, dù rằng [..] các văn bản sau này tán dương Śiva and Pārvatī và kể lại câu chuyện đến nỗi không nghi ngờ gì nữa, Parvati chính là vợ thần Śiva." Cả các bằng chứng bằng văn bản và khảo cổ học đều chứng minh hình tượng Sati-Parvati xuất hiện trong thời kỳ sử thi (năm 400 trước Công nguyên–400 sau Công nguyên), khi mà cả truyện Ramayana và truyện Mahabharata đều miêu tả Parvati là vợ Shiva.( http://vi.wikipedia.org/),
Parvati .
“Xưa kia, thần Daksha có một cô con gái xinh đẹp tên là Sati. Daksha mong có một chàng rể quý đẹp trai, danh giá hơn là anh chàng lông bông Shiva hay lê la cùng với bọn nghèo khổ. Tuy nhiên, trái với ước nguyện của cha mình, Sati đã trao cho Shiva trái tim mình ngay từ lần gặp đầu tiên bất kể vẻ ngoài kinh khiếp của chàng. Anh ta có làn da sạm nắng, tóc dài chấm vai, quấn một tấm khố bằng da hổ, tay cầm một cái chĩa ba và một cái trống damru. Một con rắn hổ mang quần trên cổ anh ta như một vòng đeo sống động. Khi Sati đến tuổi cập kê, theo phong tục, Daksha tổ chức một buổi lễ gọi là Swayamvara cho con gái yêu (Swayamvara= buổi lễ chọn chồng cho các cô gái). Daksha mời tất cả các vị thần trai trẻ xinh đẹp đến dự để Sati chọn, nhưng cố tình không mời Shiva. Sati lướt mắt tìm khắp nơi mà không thấy Shiva, cô liền khấn nguyện và tung vòng hoa lên trời. Vòng hoa bay lượn trên không trung và đáp xuống choàng vào cổ anh chàng Shiva đang ngủ vùi bên một đống tro sau một đêm say sưa hát hò cùng bè bạn. Daksha cay cú lắm nhưng đành phải gả Sati cho Shiva. Chàng đưa nàng về ngọn núi thiêng Kailash, lãnh địa của chàng.
Vẫn còn oán ghét chàng rể điên điển nên vào một dịp lễ hội khác Daksha cố tình không mời Shiva đến dự. Sati phải về dự lễ một mình. Trong lúc hội hè tưng bừng Daksha lại buông lời sỉ nhục Shiva trước mặt tất cả các vị thần. Để bảo vệ danh dự của chồng, Sati nhảy vào đống lửa thiêng tự sát. (Đấy là nguồn cội của phong tục “Sati” của đạo Hindu. Theo phong tục này người vợ tự thiêu sau cái chết của chồng để bày tỏ sự chung thủy-Chúng ta không phán xét ở đây chỉ ghi nhận lại lịch sử và phong tục- NP).
Đau buồn vô hạn trước cái chết của người vợ yêu, Shiva mất trí. Ông bồng xác vợ tuôn chạy cuồng dại khắp nơi làm cho mặt đất chấn động, đe dọa tới sinh mạng của muôn loài. Để cứu thế giới, thần Vishnu liền hóa phép cắt thi hài của Sati thành nhiều mảnh rơi xuống nhiều nơi trên đất Ấn, Tuyệt vọng, Shiva lầm lũi quay về ẩn cư trên núi Kailash. Sati sau đó tái sinh làm con gái của thần núi Himavan (Himalaya) với tên Uma họ là Himavati, nhưng thường được biết đến với mỹ danh Parvati (nghĩa là vô tội, thánh thiện). Kiếp này Parvati cũng lại yêu Shiva vì số phận của họ đã đan bện vào nhau. Tuy thế, Shiva đã chọn một đời sống ẩn dật, tịnh khẩu, không tiếp xúc với người ngoài. Chàng suốt ngày ở trong hang đá đắm chìm với tình yêu vô vọng dành cho Sati. Trong khi đó, cô gái xinh đẹp con gái của thần núi Himalaya lại từ chối tất cả các lời cầu hôn của các chàng trai, giữ vẹn lòng chung thủy với người duy nhất mà cô yêu từ kiếp trước. Cô chờ đợi Shiva hết năm này sang năm khác và cầu nguyện sẽ được cùng chung sống với người yêu một lần nữa. Parvati sau đó bỏ vào rừng sống đời một đạo sĩ Yogi trong khu rừng bên cạnh hang đá của Shiva. Hàng ngày nàng vào hang quét dọn sạch sẽ, trang hoàng hoa rừng khắp hang đá nhưng thủy chung Shiva vẫn không để mắt tới bất cứ ai. Thần tình yêu Kamadeva (người tương truyền đã ban Kama Sutra cho dân Ấn) muốn giúp Parvati nên lẻn vào hang dùng cánh cung bằng cây mía bắn một mũi tên tẩm mật vào người Shiva. Shiva mở bừng con mắt thần giữa trán thiêu Kamadeva ra tro. Họ sẽ mãi ở cạnh nhau mà không bao giờ gặp nếu các vị thần không kéo đi khuấy Biển Sữa (Tích khuấy Biển Sữa xin xem ở đây) làm chất độc Halahala trồi lên đe dọa đến toàn bộ vũ trụ. Chỉ có một mình Shiva mới có thể cứu chuộc thế giới . Khi ấy Vishnu đã mang Parvati đặt trước mặt Shiva để đánh thức ông khỏi cơn trầm uất. Mặt đối mặt, họ nhận ra rằng mỗi người là một nửa của nhau và từ khoảnh khắc ấy, không gì có thể chia cắt họ được nữa. Với sức mạnh của tình yêu (chỉ sự hợp nhất toàn bộ các yếu tố và năng lượng của vũ trụ- NP), Shiva đã đánh bại thế lực hắc ám và cứu được thế giới. Khi cả hai tái hợp cùng nhau, sức mạnh tình yêu của họ đã phục sinh Kamadeva từ đống tro tàn…” ” Cặp đôi thần thánh này đã cứu thế giới không chỉ lần ấy mà còn nhiều lần sau này nữa. Lần nọ có một con quỷ hung bạo tên là Rakta Veeja (nghĩa là Hạt-Giống-Máu) đe dọa thế giới. Mỗi một giọt máu của nó rơi xuống chạm mặt đất sẽ biến thành hàng ngàn con quỷ con hung bạo giống hệt như nó. Không ai và không một vị thần nào có thể tiêu diệt được lũ quỷ sinh sản không ngừng ấy. Durga (Durga là một hóa thân khác của Parvati trong hình tướng nữ chiến binh cuồng nộ) nổi cơn thịnh nộ. Và từ con mắt thứ ba giữa trán của nữ thần xẹt ra một nữ thần da đen thui, tóc dài bay tung tõa và có bốn tay. Nữ thần này cầm một thanh kiếm sắc, tay khác cầm một nắm đầu quỷ mới bị chặt, cổ đeo xâu chuỗi cũng bằng các đầu lâu quỷ và mặc một cái váy làm bằng các cánh tay bị chặt của quỷ. Mắt bà long sòng sọc, đỏ rực như than hồng. Đó chính là Kali (Sanskrit là Kaalaratri – Nữ thần đen như bóng đêm. Thường gọi là Kali nghĩa là ĐEN). Trông thấy bọn quỷ con, Kali gầm lên xông vào bọn chúng và chém như cắt rạ. Cái lưỡi của Kali thè dài ra hứng lấy tất cả những giọt máu mà Rakta Veeja tung xuống đất, chính vì vậy mà dừng lại được sự sinh sản ra bọn quỷ con. Cuối cùng chỉ còn lại mỗi mình Rakta Veeja, Kali chặt đầu con quỷ này và ăn sống nuốt tươi nó tránh để máu của nó có cơ hồi sinh trở lại. Sự khủng khiếp của cuộc chiến, cùng với lượng máu đầy chất độc của Sakta Veeja làm Kali mất tự chủ, hóa điên và nhảy múa cuồng loạn. Mặt đất rung chuyển dưới từng bước chân của vị nữ thần hung tợn và toàn bộ vũ trụ có nguy cơ bị tàn phá. Lần này đến lượt Shiva. Ông liền nằm xuống dưới chân Kali chịu đựng các cú giẫm đạp của bà cho đến khi bà kềm chế được cơn thịnh nộ. Chính vì thế, bạn sẽ thấy các nghệ sĩ mô tả Kali trong hình thức một nữ thần đen nhẻm cầm một hoặc một nắm đầu lâu, lưỡi thè lè ra khỏi miệng và dẫm lên thân thể một người đàn ông.” ( http://nguyenphunepal.blogspot.com/).
Shiva và Parvati .
Shiva làm tình với Parvati suốt một ngàn năm Không chịu xuất tinh. Với tính cách một tổ sư Yoga, Shiva cho thấy khả năng siêu quần của mình trong một kỹ thuật cơ bản của các nhà Yogi là phép bế tinh. Lão Giáo cũng coi bế tinh là nền tảng của thuật trường sinh. Tinh thay vì xuất ra, thì được hành giả tập trung ý chí, hình dung là nó được vận chuyển lên đỉnh đầu … Nhà sư Tuệ Tĩnh ở nước ta cũng đặt bế tinh đứng hàng thứ nhất trong bảy nguyên tắc dưỡng sinh của ông, bao gồm : bế tinh, dưỡng khí, tồn thần, thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình. Màn ái tình không chấm dứt của Shiva cũng gây trở ngại cho vạn vật vì trong lúc Shiva dính liền với Parvati thế kỷ này qua thế kỷ khác thì Ma Quỷ nổi lên tàn phá thế giới. Shiva có sứ mạng làm cho Parvati sanh ra một vị Anh Hùng có khả năng hàng Ma diệt Quỷ. Nhưng Shiva lại không chịu cho tinh dịch của mình tràn ra trong người Parvati. Vishnu và chư Thần mới nghĩ ra một cách là nổi lửa quấy nhiễu Shiva. Shiva đành buông thả, nhưng lại xuất tinh ở ngoài thân thể Parvati. Thế là không có đấng Anh Hùng hạ sanh (chi tiết này mâu thuẫn với chuyện Skanda và Ganesh ). Người ta gắn liền chuyện này với lý tưởng Vô Sanh. Khi có người sắp chết, ở vùng Benares, thành phố của Shiva, người ta thường thì thầm một thần chú của Shiva vào tai kẻ ấy để mong làm đoạn tuyệt sự tái sanh. Kể cả tái sanh làm Anh Hùng … Shiva làm tình với Parvati suốt 1000 năm không chịu xuất tinh ? Chư Thần phải khiến Agni, Thần Lửa và Kama, Thần Ái Tình, đến quấy nhiễu Ngài. Tâm Shiva rung động. Ngài xuất tinh trên Thần Lửa. Vị này vội vã đem tinh dịch ấy bỏ vào sông Hằng. Xin nhắc lại là Lửa cũng là một tính chất của Shiva, cũng như Thần sông Hằng, Ganga, thuộc về búi tóc của Ngài. Lửa đem tinh dịch của Shiva vào cái triệt tiêu chính nó, là Nước, để chỉ còn lại tinh dịch ở dạng tinh túy ! Cũng có thể nói tinh dịch của Shiva được thanh lọc hai lần : bởi lửa và bởi nước. Đương nhiên là Nước và Lửa đều thuộc về … Shiva ! Tinh dịch của Shiva sau khi được rửa bởi nước và lửa thì được các Nữ Thần của chòm sao Pleiades đem để trong một cái bình vàng. Ít lâu sau, nảy sinh ra Skanda. Ngài là biểu tượng của “đấng anh hùng đâu đấy tỏ”, có sức mạnh vô địch, sự dũng cảm không chùn bước trước bất cứ hiểm nguy nào, và lòng quả quyết không gì lay chuyển được. Skanda được giao cho chỉ huy Đạo Binh Thiên Quốc. Trên nguyên tắc Ngài có 6 cái đầu và cưỡi một con công, nhưng thường chỉ có một đầu trong các hình tượng.. Trong truyền thống Phật Giáo, thì Skanda là Bồ Tát Vi Đà (?) (Wei Tuo) chuyên đứng gác bên phải các cửa chùa. Bên phía các Nữ Thần thì sự kiện một nguyên lý duy nhất thị hiện qua hai mặt đối nghịch nhau được thấy trong cặp Durga và Kali. ( Đều là những hóa thân của Parvati ). Vào một thời xa xưa, Quỷ Vương Mahisha và bộ hạ nổi lên chinh phục các tầng Trời và tàn sát chư vị Thiên Thần. Họ đến cầu cứu « Chúa Ba Ngôi » Trimurti. Ba Ngôi phóng linh quang như những lằn chớp sáng rực bầu Trời. Ở nơi hội tụ của ba luồng hào quang chói lửa đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa nảy sanh ra một Nữ Thần, đó là Durga. Mỗi vị Thần trên Thiên Quốc đều tặng Durga một vũ khí hay một bảo vật để hàng phục quỷ vương. Shiva tặng cây đinh ba, Vishnu tặng đĩa Kim Luân và dây Quyên Sách, Surya, thần Mặt Trời, tặng cung tên, Chandra, thần mặt trăng, tặng cây búa rìu, Sơn Thần Himalaya tặng con sư tử, Thần Chết Yama tặng chày Kim Cương, Thần gió Vayu tặng ống loa, Hỏa Thần Agni tặng hỏa tiễn, v.v… Durga tượng trưng cho sự đón nhận của nữ tính, nên hội tụ mọi quyền năng của chư Thần. Các quyền năng ấy cũng biểu tượng cho các đức tính rất đa dạng nhưng cần thiết để hàng phục những khuynh hướng xấu trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Để có được những đức tính ấy, chúng ta phải có thái độ sẵn sàng đón nhận, một thái độ gắn liền với nữ tính của Durga. Điểm đặc biệt là mặc dù Durga là một chiến tướng rất dũng mãnh quyết liệt, nhưng trong dân gian, Ngài lại được tôn thờ như một người mẹ tươi cười, từ ái, hiền hòa. Trong trận chiến chống lại ác quỷ, Durga chỉ huy một đội ngũ bảy nữ thần (sanh ra từ Durga, mỗi Vị mang đặc tính của một Nam Thần đã « đầu tư » vào Durga), gọi là bảy bà mẹ (Sapta Matrika). Các Bà anh dũng thắng thế tiêu diệt đối phương. Tuy nhiên, khi quỷ bị giết hay bị thương, thì mỗi giọt máu của nó rơi xuống đất lại liền nảy sanh ra một con quỷ khác, cứ như thế, liên tu bất tận . Cuối cùng Durga ra lênh cho một Nữ Thần há to miệng nuốt hết những giọt máu từ ác quỷ tuôn ra, khiến quỷ không thể tái tạo được nữa, đem lại chiến thắng toàn diện. Vị Nữ Thần uống máu ấy là Kali, bà mẹ dữ tợn. Thêm vào đó, người mẹ cũng mang hai sắc thái : hiền từ, nhưng cũng có khi dữ tợn. Kali biểu tượng cho khía cạnh dữ tợn, đáng sợ, của người mẹ. Một mặt, có thể lý luận là nếu Kali giết được ma quỷ, thì Ngài cũng phải dữ dằn đáng sợ như ma quỷ. Mặt khác, người mẹ với trách nhiệm giáo huấn con cái, có thể trở thành nghiêm khắc, gắt gao, đáng sợ. Ngay cả khi đã trưởng thành người ta vẫn sợ sự phán xét của người mẹ, và mỗi khi làm chuyện gì người ta cũng thường lo lắng xem mẹ mình sẽ « nghĩ gì » về việc ấy. Điều này cũng đúng với người cha, nhưng liên hệ với người cha thường có tính cách gián tiếp, qua trung gian người mẹ, như ở đây Chư Thần hành động qua trung gian các vị Thần Mẫu. Một chi tiết ngộ nghĩnh là ở Calcutta, có một lễ hội dành cho cặp Durga và Kali, kéo dài trong nhiều ngày, kết thúc bằng một màn lột quần áo của tượng các Thần Mẫu, trước khi liệng các Ngài xuống sông. Chưa hết người ta dùng gậy đập các bức tượng bằng đất ấy cho đến khi chúng tan biến trong giòng nước. Kali là một nữ thần đặc biệt ghê rợn. Nước da Ngài màu đen, tượng trưng cho sự tan biến của mọi màu sắc. Khuôn mặt Ngài, với mái tóc dựng đứng, con mắt thứ ba nằm giữa trán (như Shiva), miệng mở to, lưỡi đẫm máu thò dài ra ngoài, gợi cho chúng ta hình ảnh Nữ Ác Thần Meduse trong huyền thoại Hy Lạp. Vả lại Kali cũng có khả năng hủy diệt đối thủ của mình bằng tia nhìn nảy lửa từ con mắt thứ ba của Bà, y hệt như Meduse. Vươn lưỡi ra thật xa cũng là một kỹ thuật Yoga. Thông thường trong thiền định người ta uốn lưỡi đặt lên hàm trên sau hàng răng cửa, nhưng cũng có Yogi cuộn hẳn lưỡi về phía sau, chặn đường hô hấp để đưa đến những cảm giác đặc biệt, hay đến … chết.
Nữ thần Kali .
Kali thường trần truồng, một khía cạnh của phá chấp, hay của « sống thật » không che đậy giả dối. Ngài mang một sâu chuỗi gồm năm mươi sọ người, mỗi sọ ứng với một chữ trong vần Sanskrit, chứng tỏ sự thông thái, hay sự phù phiếm của « danh sắc » (nama ruppa – trong thập nhị nhân duyên). Kali cũng nhảy múa điên cuồng như Shiva, tương truyền do chất độc chứa trong máu của ác quỷ mà Ngài đã phải uống trọn như đã kể ở trên. Nhắc lại là Shiva cũng đã từng phải uống chất độc khi chư Thần và Ma Quỷ cùng hè nhau quậy « Biển Sữa ». Vũ điệu của Kali cũng tàn phá mọi sự vật (như Shiva), và cũng cần được ngăn chặn. Vị Thần ngăn được điệu vũ hoại diệt của Kali không phải là Vishnu như thường khi có hiểm nguy cho vạn hữu, mà đặc biệt lần này lại là Shiva. Shiva nằm xuống dưới chân Kali, và vị Nữ Thần ngừng dẫm tan thế giới. Hình tượng Shiva nằm trong tư thế này tựa hồ như người chết. Người ta cũng nói Kali là chữ « i » trong tên Shiva. Mất chữ « i » ấy thì Shiva trở thành « shv » (đọc là shuw), nghĩa là thân xác không còn sinh khí. Có thể hiểu rằng : Shiva trút bỏ sự sống cá biệt của mình, chết đi, để Kali, sự sống thật, sự sống của Toàn Hữu, nổi lên đạp trên sự chết. Chiến thắng sự chết là một đề tài thường thấy trong Phật và Ky Tô Giao, cũng như trong triết học Hy Lạp (phái Stoïcien và Epicurien).
Shiva được coi như cha của Kali. Thật ra, như đã nói ở trên, mọi Nữ Thần đều đến từ nữ tính của Shiva. Một hình ảnh của Kali hình dung Bà quỳ trên người Shiva, dương vật của Shiva trong âm hộ của Bà. Một tay Kali cầm lưỡi liềm đẫm máu, tay kia cầm một cái mâm trên đó có đặt thủ cấp của chính Bà. Một tia máu phun từ thủ cấp trên mâm vào miệng của Kali. Trong một hình ảnh khác, Kali cũng với hai cái đầu, đầu nọ uống máu phun ra từ đầu kia, ngồi trên một cặp trai gái đang làm tình. Người đàn bà, Ratti, nghĩa là lạc thú, ở trên người đàn ông, Kama, là « dục », hay Thần Ái Tình. Một hình ảnh khác nữa hình dung Kali nhảy múa đạp trên Ratti và Kama (vẫn đang làm tình), có thể được hiểu là Kali chà đạp lạc thú và ái tình, tức mang đức tánh tu hành khổ hạnh. Nhiều nhà khổ hạnh hay Đạo Sĩ tự cho mình là « tình nhân » của Kali, điển hình là Rama Krishna (1836-1886). Kali, người mẹ uống máu, biểu tượng cho một khía cạnh ghê rợn của người nữ trong trí tưởng tượng của … đàn ông. Thật ra, trong quan niệm của Ấn Giáo, thì Kali cũng chính là Durga, người mẹ hiền hòa, là Parvati, biểu tượng của tình yêu không ranh giới, là Lakshmi đẹp tuyệt vời, và rốt ráo thì Kali là mọi Nữ Thần. Mặt khác, Kali đến từ Shiva, nhưng Shiva cũng là Vishnu và Brahma. Xuất phát từ « tổng thể » ấy, vai trò của Kali là đem lại sự hiểu biết chân thật sau khi đã phá tan mọi thành kiến, tức sự hiểu biết của « bờ bên kia », nơi không còn xấu tốt, dơ sạch, sống chết, đạo đức hay tội lỗi … Kali dạy cho mọi người nguồn gốc của khổ đau khi chà đạp lên Ratti và Kama, lạc thú và tham dục. Và khi Ngài sẵn sàng uống máu độc của ác quỷ để Sự Ác (vô minh) khỏi tiếp tục tự nảy sinh ra một cách vô tận, Kali cho thấy lòng quả cảm trong việc diệt trừ những mầm mống của mê mờ, kể cả bằng cách tự tiêu diệt chính mình. Việc tự cắt đầu mình đặt trên mâm cũng mang ý nghĩa tương tự. Kali là vị thần chủ yếu trong Mật Tông (Tantra) Ấn Độ, vị Thần của diệt Ngã, của Giải Thoát.
( http://nguyen.hoai.van.pagesperso-orange.fr/ ).
Trong một truyền thuyết khá phổ biến, Kali sau khi tiêu diệt lũ quỷ dữ, kẻ thù của các vị thần, đã nhảy múa trên chiến trường và uống máu kẻ địch. Điệu nhảy của cô cuồng loạn tới mức các vị thần cảm thấy sợ hãi. Duy chỉ có thần Shiva - thần Hủy diệt mới chế ngự được cô và cưới cô làm vợ. Nàng được miêu tả là vị thần đeo một chuỗi vòng cổ xâu toàn đầu lâu, thắt lưng là những cánh tay, hoa tai là thi hài trẻ em và vòng tay là rắn hổ mang.
Parvati với Shiva và con trai Ganesha (ngoài cùng bên trái) và Kartikeya (ngoài cùng bên phải). Parvati được miêu tả là có nước da màu xanh lá cây, biểu thị da đen.
Con trai lớn của cặp vợ chồng Shiva- Pârvatĩ là Kârttikeya đã có công diệt được quỷ Târaka, đem lại yên vui cho thế giới thần linh và được thờ làm thần chiến tranh.Kartikeya, đứa con thứ hai của chúa tể Shiva và Parvati hoặc Shakti, ngài được biết đến với một số cái tên như là Subramaniam, Sanmukha, Shadanana, Skanda and Guha. Ở phía Nam của Ấn Độ, ngài là một vị thần được sùng bái và được biết với tên Murugan. Ngài là hiện thân của sự hoàn hảo, một vị lãnh đạo dũng cảm của lực lượng quân đội thần thánh, và là một vị thần chiến tranh, người đã tạo ra ác quỉ, đại diện cho cái xấu và khuynh hướng tiêu cực của con người. Kartikeya còn có một cái tên khác là Shadanana ( Lục diện nhân – ý nói đến 5 giác quan cộng với 1 tâm linh).
Hình ảnh 6 cái đầu còn tượng trưng cho đức hạnh toàn diện, giúp thần có thể nhìn được về mọi hướng và cản lại được tất cả các đợt công kích của kẻ thù. Những hình ảnh về 6 cái đầu của Kartikeya hướng dẫn và chỉ ra cho con người vượt qua được các cám dỗ của cuộc sống. Họ luôn luôn được cảnh giác trước những cám dỗ của những kẻ xảo quyệt và xấu xa, gồm có sáu tật xấu như: kaama (Tình dục), krodha (Giận dữ), lobha (Tham lam), moha (Sự mê muội), mada (Cái tôi) và matsarya (Sự ghen tuông). Một tay của Kartikeya cầm thương, tay còn lại thì ban phước lành cho mọi người. Thú cưỡi của ông là một con công – một con chim thánh cùng với đôi chân rắn, nó tượng trưng cho cái tôi và sự mong muốn thèm khát của con người.
Thần chiến tranh Kartikeya là con trai lớn của vợ chồng Shiva- Pârvatĩ .
Hai anh em : Thần chiến tranh Kartikeya và Thần hạnh phúc( hay Thần tài ) Ganesha con trai của vợ chồng Shiva- Pârvatĩ .
Con thứ hai của Shiva và Pârvatĩ là Ganesha, mình người đầu voi, được tín đồ Ấn Độ giáo tin thờ như một phúc thần, ban phát hạnh phúc thịnh vượng cho nhân loại.
Ganesha con trai út của vợ chồng Shiva- Pârvatĩ .
Shiva - Parvati - Ganesha .
Gia đình Shiva - Parvati - Ganesha - Kartikeya.
Gia đình Shiva - Parvati - Ganesha - Kartikeya và bò Thần Nadin.
Gia đình Shiva - Parvati - Ganesha - Kartikeya.
Trong Devi Bhagwata Purana, Parvati là tổ tiên trực hệ của tất cả các nữ thần khác. Bà là nguồn gốc của tất cả các hình tượng của nữ thần. Bà được tôn thờ với nhiều hình thức và tên khác nhau. Tùy theo tâm trạng khác nhau của Bà mà mang hình thức hoặc hóa thân khác nhau. Ví dụ như : Durga là hình thức chiến đấu của Parvati, và một số giai thoại Parvati là Durga giết con quỷ Durgam. Kali là một hình thức dữ dội của Parvati, như nữ thần của thời gian và sự thay đổi, có nguồn gốc thần thoại trong thần Nirriti. * Chandi là biệt danh của Durga, được coi là sức mạnh của Parvati; cô có màu đen và cưỡi trên con sư tử, slayer hay quỷ Mahishasura. Mười Mahavidyas là mười khía cạnh của Shakti, trong tất cả các hình tượng đều có tầm quan trọng, tất cả các khía cạnh khác nhau của Parvati. 52 hóa thân cho thấy tất cả các nữ thần là sự mở rộng của các nữ thần Parvati. * Navadurga chín hình thức của nữ thần Parvati * Meenakshi , nữ thần với đôi mắt hình dạng giống như một con cá * Kamakshi , nữ thần của tình yêu và sự tận tâm * Lalita , Nữ thần vui tươi của Universe, cô là hình thức Devi Parvati. * Akhilandeshwari, được tìm thấy ở các vùng ven biển của Ấn Độ, là nữ thần liên quan đến nước. * Annapurna các đại diện của tất cả đó là sự no ấm , đầy đủ. Huyền thoại của Parvati liên quan trực tiếp đến Shiva. Trong các nữ thần tầm quan trọng của cô được cho là vượt qua thậm chí Shiva, và được xác định là Đấng Tối Cao. Cũng như Shiva là vị thần chủ của sự hủy diệt và tái sinh, hai vợ chồng cùng nhau tượng trưng cho cùng một lúc cả hai sức mạnh của sự từ bỏ và khổ hạnh và các phước lành của hạnh phúc hôn nhân. Parvati do đó tượng trưng cho nhiều đức tính quý khác nhau bởi truyền thống Hindu: khả năng sinh sản, hạnh phúc hôn nhân, sự tận tâm với người phối ngẫu, khổ hạnh, và quyền lực. Parvati đại diện cho lý tưởng trong truyền thống lâu năm trong Ấn Độ giáo ở trong dân chúng , sau này được đại diện bởi Shiva. Shiva được mô tả trong truyền thuyết Hindu như các nhà tu khổ hạnh lý tưởng trong việc theo đuổi cá nhân của mình trên những ngọn núi mà không quan tâm đến đời sống xã hội, trong khi Parvati được miêu tả là hình tượng về sự quan tâm về việc nuôi dưỡng đời sống thế tục và xã hội. Nhiều chương sách , những câu chuyện và truyền thuyết xoay quanh sự tận tâm lẫn nhau của họ cũng như những bất đồng, tranh luận của họ về triết học Hindu cũng như trong cuộc sống của họ . Parvati được miêu tả như là người vợ lý tưởng, mẹ và gia chủ trong truyền thuyết Ấn Độ. Trong nghệ thuật Ấn Độ, hình tượng của cặp đôi lý tưởng có nguồn gốc từ Shiva và Parvati như là hai nửa khác nhau của một cơ thể , đại diện là Ardhanarisvara.Khái niệm này là một hình ảnh nữ tính đó là một nửa người đàn ông và một nửa phụ nữ,Siva và Parvati là một biểu tượng .
Teej là một lễ hội quan trọng cho phụ nữ Hindu, đặc biệt là ở các bang phía bắc và phía tây của Ấn Độ. Parvati là vị thần chính của lễ hội, và nó nghi lễ kỷ niệm cuộc sống gia đình và quan hệ vợ chồng. Nó cũng là lễ mừng gió mùa. Lễ hội gió mùa là một trong những lễ hội quan trọng nhất của người Ấn Độ (đặc biệt ở vùng Rajasthan), bao gồm hai lễ hội chính là lễ hội Teej và lễ hội đánh đu. Vào thứ 3 của tuần trăng sang trong tháng lễ hội (tháng 7-8) sẽ tổ chức lễ hội Teej. Lễ hội Teej chủ yếu dành cho những người con gái trong gia đình. Phụ nữ trẻ, cô dâu, phụ nữ lớn tuổi mặc trang phục truyền thống, trang điểm lộng lẫy đi dự hội. Tiếp đó là lễ hội đánh đu diễn ra vào ngày thứ 10 của tuần trăng sáng trong tháng lễ hội Shravan có ý nghĩa mang đến sự thư giãn cho thần thánh vì người địa phương tin rằng thần thánh cũng có thời gian thư giãn. Lễ hội được tổ chức rất lớn tại đền thờ thần Jagannath ở Puri trong tháng 8 và thu hút rất nhiều người tham dự. Teej là lễ hội được phụ nữ Hindu chờ đợi nhất bởi họ có thể thoả sức tham gia hội hè, cầu nguyện. Là lễ hội dành cho phụ nữ nhưng thực chất Teej là dịp để họ cầu nguyện cho người chồng của mình. Thủ đô Kathmandu của Nepal thường tổ chức lễ hội Teej rất hoành tráng. Những người phụ nữ Nepal, Ấn Độ theo đạo Hindu thường đổ về thánh đường nổi tiếng của Hindu là Pashupatinath, nơi thờ thần Shiva linh thiêng để dự lễ hội Teej. Theo ước đoán của chính quyền, có khoảng hơn 200.000 phụ nữ đến đây để cầu khấn. Những phụ nữ có chồng thường mặc áo dài đỏ, cầu khấn thần Shiva phù hộ cho chồng mình sức khoẻ và tuổi thọ, trong khi các cô gái chưa chồng cũng cầu cho mình có được một người chồng tốt và cuộc hôn nhân tốt đẹp. Teej là lễ hội dành cho phụ nữ nhưng là để họ cầu nguyện cho người chồng của mình. Teej cũng là dịp để những người phụ nữ Hindu tụ hội để nhảy múa các điệu múa dân gian và hát những bài ca có tính cầu nguyện. Trong dịp này, những người phụ nữ lớn tuổi sẽ tặng vòng, chấm son trước trán, quần áo truyền thống và đồ trang sức khác cho người thân như chi em gái, con gái, con dâu…để thắt chặt thêm tình thân ái. Theo lễ nghi, để tham dự lễ hội Teej, những thiếu nữ trẻ, những cô dâu mới cưới và những phụ nữ lớn tuổi trang điểm rất cầu kỳ bằng nhiều loại trang sức sặc sỡ, mặc những trang phục truyền thống nhiều màu sắc lộng lẫy. Những phụ nữ đã có gia đình tự nguyện trải qua một ngày ăn chay để cầu tuổi thọ cho các ông chồng.
Lễ cầu kinh Pooja (tiếng địa phương mang ý nghĩa biểu hiện tôn giáo) được cử hành vào buổi sáng với mâm vật bao gồm 4 kachoris (loại bánh làm từ một thứ củ như khoai lang), 4 puris (kiểu bánh mì của người Ấn), hai thứ trái cây cùng một số kẹo mứt được đặt phía trước nữ thần. Mâm vật này sau đó được dâng tặng cho mẹ chồng của người phụ nữ thực hiện nghi lễ puja. Tiếp đó, cô sẽ mang chiếc rổ có đựng quần áo mới, đồ trang sức và kẹo mứt do mẹ ruột tặng đến đặt bên cạnh nơi biểu diễn nghi thức pooja. Cô cũng đến xin được ban phúc lành từ những người già cả trong nhà. Rồi nghi thức dâng trái cây và thức ăn ngọt cho nữ thần được tiến hành. Vài ngày trước khi lễ hội bắt đầu, người ta sơn lại tượng nữ thần Parvati. Ngày chính thức diễn ra lễ Teej, tượng thần được trang hoàng bằng đồ trang sức truyền thống và quần áo mới. Ngày nay, tượng nữ thần Parvati do những người phụ nữ trong các gia đình hoàng tộc ở Rajasthan thờ phượng được rước bởi một đoàn diễu hành với đầy đủ nghi thức của một buổi lễ long trọng. Tiến trình nghi lễ được bắt đầu ngay thời điểm thuận lợi do một thầy tế quyết định, lễ rước bao gồm nhiều con voi được trang trí bằng những tấm thảm đầy màu sắc đắp trên lưng cùng với xe bò và xe ngựa được một con voi lớn có gắn cờ dẫn đầu ra khỏi cổng chính. Thời điểm được nhiều người nóng lòng chờ đợi nhất là khi Teej Mata (nữ thần) xuất hiện ngồi trên một chiếc kiệu truyền thống. Đám đông hàng ngàn người bắt đầu cố nhô lên cao hơn để có thể nhìn thấy nữ thần với hy vọng được người ban phước. Nghi lễ rước thần hoàn tất bắt đầu nhiều hoạt động vui chơi. Lễ hội đánh đu (Jhulan Yatra) diễn ra vào ngày thứ 10 của tuần trăng sáng trong tháng lễ hội Shravan có ý nghĩa mang đến sự thư giãn cho thần thánh. Lễ hội được tổ chức rất lớn tại đền thờ thần Jagannath ở Puri trong tháng 8, thu hút rất nhiều người tham dự.
Ở đền Jagannath, tượng thần Jagannath, thần Balabhadra và thần Subhadra được rước ra ngoài với một đám rước rất lớn, được đặt trên những chiếc đu trang trí lộng lẫy giữa tiếng nhạc và các điệu múa. Nhiều người tình nguyện thức suốt đêm ca hát và nhảy múa trước các vị thần. Lễ hội này lần đầu tiên được tổ chức tại đền Jagannath ở Puri do vua Dibyasingha Dev khởi xướng hồi cuối thế kỷ 18.
Ngôi đền Meenakshi Amman ở Madurai, Tamil Nadu là một ngôi đền lớn dành riêng cho Meenakshi, một hóa thân của nữ thần Hindu Parvati.
Một số ngôi đền nơi Parvati có thể được tìm thấy bao gồm đền thờ Annapurneshwari, đền Attukal Bhagavathy, đền Chengannur Mahadeva, Oorpazhachi Kavu , đền Valiya Kavu Sree Parvathi Devi, Sri Kiratha Parvathi Đền Paramelpadi, đền Korechal Kirathaparvathi, Sree Bhavaneeswara Đền Palluruthy , Chùa Durga Irumkulangara Devi , Chakkulathukavu Đền , chùa Nedukavu Parvathy Devi, đền Karthyayani Devi, Đền Varanad Devi, đền Veluthattu Vadakkan Chowa, đền Thiruvairanikulam Mahadeva, đền Ardhanariswara và Đền Kadampuzha Devi ở Kerala , Đền Meenakshi Amman ở Tamil Nadu , Đền Kamakshi Amman ở Tamil Nadu , Sri Siva Durga Đền , Chùa Mandaikadu Bhagawati, Haliyal và Devi Kanya Kumari ở Tamil Nadu , Đền Mookambika Devi và Đền Banashankari ở Karnataka , đền Maanikyambika Bhimeswara ở Andhra Pradesh , Đền Vishalakshi , đền Vishalakshi Gauri và đền Devi Annapurna ở Uttar Pradesh , Đền Parvati ở Madhya Pradesh , Tulja Đền Bhavani ở Maharashtra , Đền Nartiang Durga ở Meghalaya , Đền Tripura Sundari trong Tripura .
CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.
Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên dienbatn đăng tiếp loạt bài CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
3. Các vị thần khác .
2/Thần Sarasvati, nữ thần của học vấn và là thần đỡ đầu của nghệ thuật, khoa học và ngôn từ - Vợ của Brahma .
Saraswati (Sanskrit: सरस्वती, Sarasvatī ?) là một vị thần trong đạo Hindu (Nữ thần Devi), thần của tri thức, âm nhạc, nghệ thuật và thiên nhiên. Bà là một trong ba vị thần bao gồm Saraswati, Lakshmi and Parvati. Ba nữ thần cùng nhau hỗ trợ các nam thần là Brahma, Vishnu và Shiva trong sự sáng tạo, duy trì sự sống và sự hủy diệt của vũ trụ.
Tên vị thần trong Tiếng Miến Điện là Thurathadi (သူရဿတီ, phát âm [θùja̰ðədì] hay [θùɹa̰ðədì]) hay Tipitaka Medaw (တိပိဋကမယ်တော်, phát âm [tḭpḭtəka̰ mɛ̀dɔ̀]), trong Tiếng Hoa là Biàncáitiān (辯才天), trong Tiếng Nhật là Benzaiten (弁才天/弁財天) và trong Tiếng Thái là Surasawadee (สุรัสวดี).
Sarasvati là người phối ngẫu của Thần Sáng Tạo Brahman – một trong ba vị thần chúa tể của Hindu giáo. Nữ thần được mô tả trong nghệ thuật Ấn với một cung cách uy nghi sang trọng, mặc sari trắng, ngự trên tòa sen trắng, có bốn tay cầm các thứ như: kinh sách-xâu chuỗi hoặc hoa sen trắng–đàn sita. Bốn tay này còn tượng trưng cho bốn khía cạnh của con người trong chuyện học tập: trí nhớ-thông minh-sự nhanh trí và bản sắc cá nhân. Vật cưỡi của Nữ Thần là con ngỗng trắng.
Lễ cúng Nữ Thần được gọi là Sarasvati Puja
Có một phong tục Hindu là: nếu ai nuốt được bảy hạt gạo (tượng trưng cho các bộ môn văn học nghệ thuật) dâng cúng cho Nữ Thần Kiến thức, người đó sẽ trở nên thông thái học một biết mười. Thế là học trò chen lấn nhau giành giật từng hạt gạo rơi ra từ các bàn thờ trong đền thờ Sarasvati.
Các đồ cúng trong ngày Vasant Panchami: quan trọng nhất là đèn bơ, gạo , bột vàng và phấn (để viết tên lên các bề mặt quanh đền).
Saraswati được xem là một nữ thần cực kì xinh đẹp, mặc bộ sari trắng, có 4 cánh tay. Thần thường cầm đàn Mala tượng trưng cho âm nhạc và cành cọ, tượng trưng cho trí tuệ, thần cưỡi trên lưng con Thiên Nga tay cầm một cuốn sách. Thần còn là nữ thần của Lời nói (Trí tuệ được diễn đạt qua lời nói).Theo Veda, trước kia Sarawasti là một con sông thiêng, đã bị lời nguyền của nhà hiền triết Utathya làm cạn khô.Trong lễ thờ nữ thần Saraswati, người ta thường đặt một cây bút, giá để bút và một quyển sách trước tượng thần."Trong thần thoại Ấn Độ,Nàng là nữ thần của các con sông và vị thần bảo hộ của ngôn luận,sự lắng nghe và ghi nhận,nghệ thuật và khoa học.Chồng của nàng là Brahma." Trong Ấn Độ giáo Saraswati (tiếng Phạn: सरस्वती sarasvatī) là nữ thần của kiến thức, âm nhạc và nghệ thuật. Cô là vợ của Brahma.Saraswati được coi là "mẹ của các Vedas". Saraswati được biết đến như một vị thần hộ mệnh của Phật giáo,Nàng đã duy trì những lời dạy của Phật bằng cách bảo vệ và trợ giúp cho các tín đồ. Cô được biết đến ở Miến Điện là Thurathadi hay Tam Tạng Kinh Medaw. Trung Quốc như là Biàncáitiān (辩才 天),ở Thái Lan như Surasawadee (สุรัสวดี) và tại Nhật Bản như Benzaiten (弁 才 天 / 弁 财 天).
Trong các tiểu bang Bihar, Ấn Độ Đông, Tây Bengal, Orissa Saraswati được coi là một con gái của Durga cùng với chị gái là Lakshmi và anh trai là: Ganesha và Karthikeya. Trong Rigveda, Saraswati là một con sông cũng là một nữ thần. Trong thời đại Vệ Đà sau, cô bắt đầu để mất tước vị như một nữ thần sông và ngày càng trở nên gắn liền với văn học, nghệ thuật, âm nhạc,v.v... Trong Ấn Độ giáo, Saraswati hiện thân của sự thông minh, ý thức, kiến thức về vũ trụ, sáng tạo, giáo dục, giác ngộ, âm nhạc, nghệ thuật, tài hùng biện và quyền lực.
Sarasvati vẫn còn tồn tại trong thế giới Ấn giáo ngày nay, và có tầm quan trọng còn hơn chính cả Brahma. Trong sự sùng bái thông thường, Sarasvati là biểu tượng của Thần Nữ Tri Thức và Học Vấn. Có thể nguồn gốc của Sarasvati liên hệ đến truyền tích làm khô cạn dòng sông Sarasvati ở Rajasthan, nhưng không như Brahma, thần nữ Sarasvati vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong sự sùng bái của người Ấn giáo mãi cho đến ngày nay. Hình ảnh Sarasvati thường thấy là màu trắng, cỡi trên lưng con thiên nga, tay cầm một cuốn sách. Sarasvati có thể được thấy với nhiều đầu và nhiều tay, biểu tượng cho sự gia hộ tất cả các môn học về khoa học và nghệ thuật. Sarasvati được tôn sùng nhiều nhất ở các trường và đại học.
Nghĩa đen của tên Sarasvati là một trong những người cung cấp cho các kiến thức cần thiết (Sara) . Nữ thần Sarasvati cũng được coi là giáo dục, trí thông minh, hàng thủ công, nghệ thuật, và kỹ năng. Cô là vợ của Brahma, người được coi là nguồn gốc của tất cả các kiến thức, Sarasvati là kiến thức bản thân. Vì vậy, nhiều sinh viên hoặc thậm chí các học giả có thể tôn thờ nàng cho phước lành của cô. Cô được miêu tả là trắng da, và khá xinh đẹp và duyên dáng. Cô thường được miêu tả ngồi trên tòa sen, tượng trưng cho những kinh nghiệm của các chân lý tuyệt đối. Vì vậy, cô không chỉ có kiến thức mà còn là kinh nghiệm của thực tế cao nhất. Cô giữ trong bốn tay cô một một akshamala ( chuỗi hạt cầu nguyện) ở trong tay phải, và một Pustaka (cuốn sách) ở bên trái, đại diện cho kiến thức của tất cả các ngành khoa học. Cầm cuốn sách hay kinh điển trong một tay cũng chỉ ra rằng kiến thức này có thể đưa chúng ta đến sự thật. Các hình tượng cho thấy vẻ đẹp của mỹ thuật, và trí tuệ với kiến thức của mình, và do đó người tôn thờ cô có thể hòa hợp với vũ trụ. Các hạt cầu nguyện đại diện cho tất cả các ngành khoa học tâm linh, như thiền định và japa (chanting tên của Thần linh), và được nắm trong tay phải, nó là quan trọng hơn kiến thức thế tục chứa đựng trong cuốn sách trong tay trái của cô.Bốn tay này còn tượng trưng cho bốn khía cạnh của con người trong chuyện học tập: trí nhớ-thông minh-sự nhanh trí và bản sắc cá nhân. Bốn cánh tay cô đại diện cho quyền lực không giới hạn của mình trong bốn hướng. Cô cũng thể hiện sự sáng tạo, hoặc sự kết hợp của sức mạnh và trí thông minh, sự sáng tạo.
Tên của cô có nghĩa là một dòng chảy, có thể được áp dụng cho những suy nghĩ, lời nói, hoặc dòng chảy của một con sông. Cô là vị thần của một con sông trong Rig-Veda. Cô có các tên khác bao gồm Sarada , Brahmi (vợ của Brahma), Mahavidya (chủ kiến thức tối cao), Bharati (hùng biện), Maha-Vidya (kiến thức siêu việt), Arya (một quý tộc), Maha-vani (siêu việt ), Kamadhenu , Dhaneshvari (thiên tính của sự giàu có), và Vagishvari (lời nói yêu thương). Nó là kiến thức biểu hiện bằng hành động. Nó là thông qua ngôn ngữ mà cô và viết được tiết lộ. Cô cũng là đôi khi hiển thị với năm khuôn mặt và tám tay, đại diện cho quyền hạn của mình. Đôi khi cô cũng thấy cưỡi trên một con thiên nga, là phương tiện vận chuyển của người phối ngẫu , Brahma. Vào những lúc khác, cô được nhìn thấy lần cưỡi trên một con công . Con công đại diện cho vẻ đẹp của thế gian, mà có thể làm sao lãng sự mong mỏi tinh thần. Con thiên nga nghĩa việc mua lại của trí tuệ và kiến thức, vì nó có khả năng tách sữa từ nước khi ăn, và do đó nó thu được sữa. Sarasvati cũng là shakti hay quyền lực và vị phối ngẫu của Brahma, đấng sáng tạo của vũ trụ. Vì vậy, cô cũng được coi là một người mẹ của vũ trụ. Bằng cách này, cô cũng được tượng trưng cho khả năng sinh sản.
Phù điêu nữ thần Sarasvati, phát hiện tại tháp Chánh Lộ.
Người ta đi đến các đền miếu Sarasvati để lễ bái trong ngày Vasant Panchami. Ở Kathmandu, Ngôi đền linh thiêng nhất cho ngày này lại chính là đền Manjusri trên đồi Swayambu.
Thật ra không lạ vì Manjusri-Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trong truyền thống Phật giáo chính là Bồ Tát chủ về Kiến Thức-Học Vấn. Người Hindu ở Kathmandu thì cho rằng ngôi đền này là đền Sarasvati còn Phật tử thì cả quyết đó là đền Manjusri, người sáng lập ra Kathmandu. Mọi chuyện tranh cãi bắt nguồn từ lịch sử thành lập Kathmandu trong huyền sử .
Đền Majusri-Sarasvati trên đồi Swayambhu.
Thần Sarasvati - niên đại TK XII.
Brahma là vị Thần sáng tạo, đem sự vật từ trạng thái hỗn nguyên vô định sang trạng thái cá thể phân biệt. Brahma sanh ra từ một quả trứng vàng kết tinh trong lòng biển « Vô Xứ », hay, theo một truyền thống khác, nảy sanh trong một đóa sen nở ra từ cái rốn của Vishnu, trong khi Vị này nằm ngủ trên mặt biển. Phải chăng cuộc sống cũng như vũ trụ phân biệt trong bản chất chỉ là một giấc mơ (Vishnu ngủ mơ thấy vũ trụ), nảy sanh từ tính chấp ngã, từ sự chiêm ngưỡng cái rốn của mình (hoa sen nở từ rốn của Vishnu cho ra Brahma ). Mơ ngủ cũng là VÔ MINH, nên sự vật trong căn bản không có thực tánh, mà chỉ là hệ quả của vô minh, một quan niệm sau này được lập lại trong Phật Giáo.
Từ trán của Brahma, sanh ra một nữ thần, Sarasvati, con gái của ngài. Huyền thoại Hy Lạp cũng có chuyện tương tự với Athena sanh ra từ đỉnh đầu của Zeus. Địa vị của Zeus và Brahma có thể được coi như tương đương.
Sarasvati nhảy múa quanh Brahma. Và Brahma động lòng thèm muốn con gái mình. Sarasvati uốn éo trước mặt Brahma, rồi sang bên trái, sang phía sau, sang bên phải của Ngài. Mỗi lần như vậy Brahma lại mọc thêm một cái đầu. Tổng cộng bốn cái, mỗi cái nhìn về một hướng. Phải chăng vị Thần sáng thế cũng đã sáng tạo ra cái quy luật luân lý lên án sự loạn luân, khiến Ngài không thể tự cho phép mình quay đầu nhìn theo người đẹp như mỗi người chúng ta ? Chưa hết, Brahma ý thức sự ham muốn loạn luân của mình, nên mọc thêm một cái đầu thứ năm, lần này không nhìn Sarasvati nữa mà nhìn lên trời, như tìm một sự thăng hoa, giải thoát. Cái đầu thứ năm này mang búi tóc, biểu tượng của sự tu hành, của người Đạo Sĩ. Vấn đề loạn luân đặt ra ở đây phù hợp với quan điểm của Claude Lévi Strauss, cho rằng ranh giới giữa thuần phác tự nhiên (nature) và văn hóa văn minh (culture), tức cái ranh giới gữa con người và súc vật, nằm ở những quy luật về loạn luân. Cũng cần nói Sarasvati là Nữ Thần của nghệ thuật, của hiểu biết, văn hóa, văn minh. Chữ Sanskrit, một biểu tượng văn hóa, được coi như một phát minh của Bà. Tựu trung, trong tiến trình sáng tạo thế giới, và đồng thời tự tạo, Brahma thoát khỏi trạng thái « thiên nhiên » và bước vào « văn hóa », « văn minh » với ý thức … loạn luân ! Có thể nói là chính vào lúc ấy, Brahma đã trở thành « người » …( http://nguyen.hoai.van.pagesperso-orange.fr/).
Dòng sông Sarasvati là một trong các sông nữ thần ở Rigveda. Tên Sanskrit nghĩa là "có nhiều hồ bơi".
Một dòng sông huyền thoại Saraswati . Được mô tả trong Saraswati có Annwati và Udkwati. Con sông được luôn đầy nước và phong phú các hạt phù sa . Nói nó đến từ các sông ở Punjab, Ambala và Kurukshetra Sirmur vùng núi của Ấn Độ đã được nhập vào sông Sirsa Karnal ở bang Patiala Drisdwati (Kangar) . Trong thời cổ đại, nước sông tưới cho nhiều địa điểm trong Rajputana. Theo thời gian, nó đã biến mất khỏi tất cả những nơi này, nhưng người ta vẫn luôn tâm tưởng trong ý niệm rằng Prayag: salila đi. Mnusnhita rõ ràng là đất giữa Brahmavarta gọi là Muse và Drisdwati.
Những người Hindu hành hương đến các thành phố thánh của Varanasi, nơi các nghi lễ tôn giáo thường được cử hành; Haridwar được tôn sùng vì nó là nơi sông Hằng rời dãy Himalaya; còn Allahabad, nơi dòng sông Saraswati huyền thoại được người ta tin là chảy vào sông Hằng. Cứ 12 năm, một lễ hội Purna Kumbha (Vạc Đầy) được tổ chức ở Haridwar và Allahabad mà trong các lễ hội này hàng triệu người đến để tắm trong sông Hằng. Những người hành hương cũng đến các địa điểm linh thiêng khác gần các thượng nguồn sông Hằng, bao gồm đền thờ dưới núi băng Gangotri. Chính vì những điều đó, nên tâm nguyện lớn nhất của người Ấn là trong đời người ít nhất được một lần đến tắm tại sông Hằng và khi chết được mang xác về Varanasi, thành phố bên bờ sông Hằng để làm lễ hỏa thiêu rồi thả tro xuống dòng sông ngay tại nơi này. Varanasi mà ngày xưa người Trung Quốc và người Việt Nam gọi là Tha La Nại nằm cách xa New Delhi về phía đông khoảng 500 km và là thành phố cổ có tuổi đời chừng 3.000 năm. Varanasi ngày nay vẫn còn nguyên khu thành cổ do một vị tiểu vương xây dựng cách đây hàng ngàn năm. Khu thành cổ này nằm dọc bờ tây sông Hằng cùng với một số đền thờ Hindu tạo nên một quần thể kiến trúc độc đáo mang tính cách linh thiêng đối với người theo đạo Hindu. Phải chăng vì lẽ đó mà dù sông Hằng là con sông dài nhất Ấn Độ, chảy qua nhiều vùng lãnh thổ của đất nước này nhưng người Hindu vẫn chỉ muốn về đây tắm hoặc làm lễ hỏa táng rồi thả tro xuống dòng sông mẹ huyền bí ?. Vào ngày lễ, hai bên bờ sông Hằng ở Varanasi không còn chỗ chen chân.
Dự kiến hơn 100 triệu người Hindu giáo sẽ tham dự Maha Kumbh Mela. Người hành hương Hindu đổ xô đến hợp lưu của 3 dòng sông Hằng, Yamuna và Saraswati để tắm rửa và gột sạch tội lỗi của mình để được ơn cứu độ. Mười triệu người hành hương được cho là đã tắm trong dòng sông vào ngày đầu tiên, với toàn bộ sự kiện kéo dài 55 ngày. Cứ 12 năm, lễ hội Kumbh Mela diễn ra ở một nơi, nhưng lễ hội năm nay là Maha Kumbh Mela chỉ xảy ra mỗi 144 năm và được xác định dựa trên lịch chiêm tinh.
Người Hindu tắm trong hợp lưu của 3 dòng sông để rửa sạch tội lỗi.
CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.
Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên dienbatn đăng tiếp loạt bài CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
3. Các vị thần khác .
1/ Nữ thần Laksmi - nữ thần của sự giàu có và may mắn - Là vợ của Vishnu .Tên gọi khác: Mahalakshmi, Padma, Kamala …
Lakshmi (Sanskrit: लक्ष्मी lakṣmī, phát âm tiếng Hindi: [ˈləkʃmi]) là một nữ thần Ấn Độ giáo, tượng trung cho sự giàu có, thịnh vượng (cả về vật chất lẫn tinh thần), vận may và sắc đẹp. Nàng chính là vợ thần Vishnu. Còn được gọi là Mahalakshmi, nữ thần được mọi người tin rằng sẽ mang đến may mắn và đưa những người sùng đạo thoát khỏi cảnh cơ cực và những nỗi phiền muộn về tiền bạc. Những hình tượng tương đồng của Lakshmi cũng được tìm thấy trong các di tích đạo Jaina. Nữ thần Lakshmi là vợ của Vishnu, vị thần của sự bảo vệ và gìn giữ. Cùng với nhau, đây được xem là cặp đôi phúc thần trong thần thoại Hindu, luôn mang đến những điều tốt lành cho mọi người. Trong thần thoại Hindu, câu chuyện về nữ thần Lakshmi luôn mang nhiều màu sắc tươi đẹp nhất. Khi nàng sinh ra từ một đóa sen hồng trên đại dương vũ trụ, nàng lập tức được mọi người nâng đỡ, đeo trang sức vào người, và thờ phụng cho đến ngày nay. Lakshmi xinh đẹp được miêu tả trên các tranh vẽ luôn nở nụ cười mỉm chi tươi tắn, có nước da bánh mật, ngồi trên một tòa sen nở bung, hai tay cầm sen thể hiện sắc đẹp, sự tinh sạch và sự sung túc.
“Đồng nghiệp” của Lakshmi là thần trở ngại Ganesha. Khi nàng gieo tiền bạc, sự giàu có cho ai đó thì thần Ganesha luôn chắn lối, ám chỉ sự khó khăn trong chuyện kiếm tiền. Nhưng khi Lakshmi bảo Ganesha dọn dẹp lối đi, tức nghĩa nàng muốn người đó nhận được sự may mắn về tiền bạc. Lakshimi luôn mặc những bộ váy sari đỏ thêu chỉ vàng tượng trưng cho sự thịnh vượng. Nàng đem lại sự may mắn tốt lành cho những người thờ phụng, cũng như bảo vệ họ khỏi những nỗi đau khổ vật chất, tiền bạc.
Lakshmi cũng giống như “ông táo” ở nước ta, được mọi gia đình người Hindu thờ phụng hằng ngày. Tuy nhiên, tháng lễ chính Lakshmi Puja của nàng diễn ra vào tháng mười hằng năm.
Thần Lakshmi, còn được gọi là Mahalashmi (Thần này là vợ của thần Vishnu).
Hằng năm cứ vào tháng 10, tháng 11 trong năm là người dân Ấn Độ lại tổ chức ngày lễ kỷ niệm để nhớ tới nữ thần Lakshmi – nữ thần sắc đẹp của Ấn Độ.
Lakshmi là nữ thần tượng trưng cho sắc đẹp, người là hiện thân cho sự phong phú, thịnh vượng, giàu có và hạnh phúc. Hầu hết người dân Ấn độ đều thờ nữ thần, ai ai trên đất Ấn độ cũng đều biết tới nữ thần.
Theo truyền thuyết để lại, nữ thần Lakshmi được sinh ra và lớn lên trên một một đóa hoa sen từ biển sữa. Hình ảnh xuất hiện của nữ thần thường là ngồi hoặc đứng trên chiếc ngai đài sen vàng của mình, hai tay mang theo hai bông sen với những lời chúc phúc, ban phước lành, tình yêu cho những người cầu nguyện, kèm theo đó còn có đồng tiền vàng tượng trưng cho sự giàu sang phú quý ban tới cho người dân.
Lakshmi hướng cho con người bước ra từ trong bóng tối, mang lại cho họ niềm tin và hy vọng, chỉ cần bạn cầu nguyện, Lakshmi có thể nghe thấy lời cầu nguyện của bạn ở bất cứ nơi đâu. Bạn có thể cảm nhận được rằng bạn có thể sẵn sàng làm được bất cứ việc gì nhờ có sự phù hộ của nữ thần Lakshmi.
Lakshmi là một nữ thần có sức mạnh đặc biệt, cô mang tới cảm giác may mắn trong cả những khoảnh khắc đen tối nhất, cô được coi như vũ trụ kết nối sức mạnh, truyền cho con người lòng dũng cảm, hy vọng và sức mạnh. Bạn đời của Lakshmi cũng là một vị Thiên chúa, là người bạn thân nhất của mình – một vị thần đầy sức mạnh, lòng dũng cảm, và trí thông minh.
Buổi lễ tưởng nhớ tới nữ thần Lakshmi có tên là Deepvali của người dân Ấn, đây là buổi lễ đặc biệt vì nó là ngày đại diện cho sự ngọt ngào, hạnh phúc, phồn vinh và thịnh vượng của những con người thờ nữ thần Lakshmi.
Vào đêm trước của buổi lễ, người dân ở đây thường đốt pháo hoa, pháo sáng để xua đuổi vị thần tối Alakshmi – là chị gái của Lakshmi. Sau đó những người phụ nữ xếp những chiếc đèn nhỏ vào gần cửa sổ nhà mình để cho nữ thần lakshmi đi vào và mang may mắn đến cho nhà mình.
Vào chính buổi lễ, mọi người thường mang bánh kẹo, đồ ngọt tới chùa hay cúng tại nhà của họ để Lakshmi ban cho họ nhiều may mắn, tài lộc hơn. Sau đó bánh kẹo được phát cho những trẻ em cơ nhỡ, mồ côi, và đặc biệt là những tín đồ nghèo. Mọi người thường cầu nguyện những điều tốt lành nhất cho mình và người thân trước khi ăn bánh kẹo cùng với người bạn đời của mình.
Và ngày nay để tưởng nhớ tới vị thần sắc đẹp Lakshmi, người dân Ấn độ đã tự tay tạo ra những bông hồng mạ vàng 24k, là tượng trưng cho tình yêu, sắc đẹp và sự trường tồn mãi mãi của Lakshmi.
Bông hồng vàng là sản phẩm thủ công của các nghệ nhân người Ấn, được lựa chọn từ những bông hồng thật đẹp nhất, phủ một lớp hóa chất bên ngoài, sau đó là tới lớp vàng 24k khiến cho bông hoa có tồn tãi mãi theo thời gian.
Hoa hồng là tượng trưng cho sức mạnh của tình yêu.
Màu vàng của hoa tượng trưng cho sự giàu có, sung túc mà nữ thần mang lại cho người sở hữu bông hoa hồng Lakshmi.
Sở hữu một bông hồng vàng Lakshmi giống như mang lại cho bạn tất cả: tình yêu và tiền bạc, sự may mắn, lòng dũng cảm,... trong cuộc đời của mình. ( http://doca.com.vn/ ).
Đại lễ hội/Tết Dipawali-Tihar dành riêng để cúng lễ Nữ thần Thịnh Vượng-May Mắn-Sắc Đẹp Lakshmi. Diwali đánh dấu cuối mùa thu hoạch của một năm ở hầu hết các nơi trên lãnh thổ Ấn Độ. Người nông dân bày tỏ lòng biết ơn đến các thần linh về những gì người ta thu hoạch được trong năm và cầu mong cho mùa màng bội thu vào năm tới. Nữ thần Lakshmi tượng trưng cho sự may mắn, giàu có thịnh vượng được tôn trí nghiêm trang trong lễ hội này. Ai cũng mong sự hộ trì của nữ thần này sẽ đem lại nhiều vận may cho năm tới.Ngày nay, trong lễ hội Diwali, bên cạnh thờ cúng thần Lakshmi, người ta cũng thờ cúng thần Ganesha (thần đầu voi) tượng trưng cho trí tuệ và giàu sang để thể hiện mong ước có được một cuộc sống viên mãn hơn. Lễ hội Diwali, với người theo đạo Hindu, là lễ hội lớn nhất trong năm. Người theo đạo Jain và đạo Sikh cũng tổ chức lễ hội này với ý nghĩa riêng của tôn giáo họ. Các lễ hội ở Ấn Độ đều gắn liền với các truyển thuyết và lễ hội Diwali cũng không là ngoại lệ. Ngày nay, tín đồ các tôn giáo Hindu, Jain và Sikh trên khắp toàn cầu coi đây là “lễ hội ánh sáng” với ý nghĩa đốt ánh sáng trí tuệ và thiện lành để xua tan bóng tối ngu muội và xấu ác nơi mỗi con người chúng ta.
Lễ hội Diwali có nguồn gốc từ việc kết thúc vụ mùa thu hoạch trong năm. Lễ hội này đánh dấu thời điểm khép lại một năm trước khi bước vào mùa đông. Nông dân không ra đồng, người buôn bán không mở cửa tiệm trong suốt thời gian lễ hội diễn ra và sau lễ là bắt đầu một năm với mùa vụ mới và khởi điểm một năm cho công việc kinh doanh. Thần may mắn và hộ trì về tài lộc theo đạo Hindu là nữ thần Lakshmi được thờ kính trong ngày này như là biểu hiện của sự biết ơn chư vị thần linh. Vào ngày lễ chính, tượng nữ thần Lakshmi được tôn trí nơi thờ phượng và mọi người cầu nguyện vị thần này hộ trì cho họ được mọi điều hanh thông trong năm tới.
Có lẽ có nhiều bạn đã từng đến phi trường Suvarnabhumi tại Bangkok, Thái Lan. Ở sảnh lớn của phi trường ấy, các bạn thấy một cụm tượng rất đẹp miêu tả 2 nhóm người dùng thân mình một con rắn khổng lồ xoay một cái trục có con rùa lớn làm trụ để khuấy đảo biển cả. Cụm tượng này tên là Samudra manthan theo Sanskrit, nghĩa là The Churning of the Milk Ocean (Sự tích Khuấy Động Biển Sữa), diễn lại một chuyện trong thần thoại Ấn Độ (tích này thường được mô tả tại các đền thờ Hindu mà hoành tráng nhất là ở Angkor Wat, Cambodia). Và đấy cũng chính là sự tích xuất hiện của Nữ thần Lakshmi.
Samudra manthan ở phi trường Suvarnabhumi tại Bangkok.
Ngày xửa ngày xưa, Indra (Hán Việt là Đế Thích, Vua của các thần linh theo thần thoại Ấn Độ), một hôm cưỡi voi đi dạo. Khi đi ngang qua một khu rừng, một vị ẩn sĩ đứng bên đường dâng tặng Indra một mala (vòng hoa). Theo phong tục Ấn, đấy là một hành động tôn kính vì vòng hoa tượng trưng cho Shri (Sanskrit nghĩa là May mắn, Fortune). Indra hoan hỷ nhận lễ vật ấy và đặt lên vòi con voi mà mình đang cưỡi. Nhưng xui xẻo thay, vòng hoa làm từ hoa rừng ấy lại có mùi rất hắc. Con voi liền vứt vòng hoa xuống đất và lấy chân giẫm nát. Một hành động cực kỳ xúc phạm và báng bổ.
Vị ẩn sĩ liền hiện nguyên hình là một vị thần tên là Durvasa Muni. Ông ta nguyền rủa Indra và toàn bộ các vị thần (Devas) sẽ bị mất hết sự bất tử, quyền phép, báu vật và sự may mắn giống như các yêu tinh (Asuras).
Hay tin ấy, các Asura liến kéo đến thách thức các vị thần đã mất hết quyền phép và của cải nhằm chiếm lấy thiên giới.
Lo lắng vì có thể mất hết tất cả, các Deva liền tìm đến sự tư vấn của Vishnu, Thần Bảo Hộ-một trong ba vị thần tối cao của Hindu. Vishnu tiết lộ thông tin rằng trong lòng Biển Sữa ( Samudra theo Sanskrit, dịch tiếng Anh là Milk Ocean, có lẽ là Vịnh Bengal ngày nay) có chứa rất nhiều báu vật kể cả một bình chứa Amrita (Nectar of Immortality-Nước/Mật Trường Sinh Bất Tử). Vishnu cố vấn cho các thần thách thức các Asura ra Biển Sữa thi thố tài năng. Các Devas và Asuras dùng Vua Rắn Vasuki (trong hình dạng một con rắn khổng lồ có 7 hoặc 9 đầu) quấn quanh cái trục và kéo về hai phía (như cách người xưa khuấy bơ từ sữa). Do được sự cố vấn của Vishnu, các Deva giành phần đuôi rắn, còn phần đầu với chín chiếc đầu phun nọc độc của vua rắn Vasuki thì “nhường” cho các Asura. Cả hai nhóm kéo-đẩy thân mình khổng lồ của Vasuki khuấy động Biển Sữa như người ta đánh bơ.
Ngọn núi Mandara dùng làm trục từ từ chìm xuống dưới mực nước. Để giúp cho các Deva khôi phục quyền lực, Vishnu liền hóa thân thành Kurma (thần rùa) cõng ngọn núi Mandara trên lưng dội lên khỏi mặt nước để các Deva tiếp tục công việc.
Sau cả ngàn năm bị khuấy đảo đến tận đáy, Biển Sữa ngầu bọt và các vật chứa trong lòng nó từ từ nổi lên.
Đầu tiên là Halahala, chất kịch độc thiêu rụi bất kỳ thứ gì nó chạm đến (có lẽ là nọc độc của Vasuki phun ra suốt quá trình khuấy Biển Sữa). Cái cục khổng lồ Halahal đó cứ nhằm các Deva mà đuổi theo làm họ bỏ chạy tán loạn. May nhờ Shiva, Thần Bảo hộ-Tái sinh và Hủy diệt xuất hiện và nuốt trộng cục Halahala nên cứu thế giới khỏi họa hủy diệt. (sự tích này dẫn đến lễ hội Shivaratri xin trình bày vào dịp khác).
Kế đến, từ trong đám bọt trắng, một hoa sen tuyệt đẹp nổi lên, nở ra, hiển lộ một nữ thần mặc toàn đỏ bên trong. Đó chính là Lakshmi, nữ thần Thịnh Vượng và May Mắn. Vishnu liền trút bỏ hóa thân “rùa Kurma”, xuất hiện trở lại là một vị thần tối cao và “handsome”, hoan hỷ nâng bàn tay Lakshmi đưa về cung của mình làm vợ.
Các vị Deva, sau khi Shiva nuốt Halahala, vội vàng quay trở lại để đón lấy các Ratna (Sanskrit: báu vật) đang từ nổi lên từ đáy Biển Sữa.
· Apsara: tiên nữ. Ô… các Deva chia nhau mỗi người một tiên.
· Sura: nữ thần Rượu được các Asura chiếm lấy.
· Kamadhuk: Bò cái Thần của các ước nguyện. Lakshmi ngự trên lưng bò cái thần này mà về với Vishnu (tục thờ bò của Hindu phát xuất từ đây).
· Airavata: Voi trắng thần. Indra bắt lấy thay cho con voi ngu xuẩn lúc trước.
· Ngựa 7 đầu Uchhaishravas bị Demon bắt.
· Vishnu còn chớp được viên ngọc quý báu nhất thế gian là Kaustubha, cái ốc tù và Shankha.
· Cây hoa thần Parijat với những bông hoa không bao giờ héo được các Deva mang về cung trời của Indra.
· Shiva được dâng tặng mặt trăng Chandra đặt lên trán Ngài để sức lạnh mặt trăng làm dịu đi cơn nóng cháy của chất độc Halahala.
Cuối cùng, cái bình Amrita chứa nước trường sinh huyền thoại nổi lên. Deva và Asura đánh nhau dữ dội để giành cái bình Amrita quý giá. Chim Thần Garuda, vật cưỡi của Vishnu quắp lấy cái bình Amrita bay lên cao bể bảo vệ nó khỏi bị vỡ do vũ khí của hai bên.
Rahu, một quỷ vương có cánh đã bay theo Garuda và giành được Amrita. Rahu đáp xuống một đỉnh núi hí hửng nhìn ngắm bình Amrita trước khi mở nắp để thưởng thức. Bỗng nhiên xuất hiện trước mặt Rahu một tiên nữ vô cùng khiêu gợi tên là Mohini (chính là Vishnu biến hình). Mohini nhảy múa mừng cho Rahu đã giành được giải nhất của cuộc thi giữa Deva và Asura. Khi Rahu mê mẩn với những vũ điệu của mình, thừa cơ Mohini-Vishnu chớp lấy cái bình Amrita tung cho các Deva đang chờ ở chân núi.
Không chút chậm trễ, các Deva chia nhau đến giọt cuối cùng của Amrita và bất tử trở lại. ( http://phunepal.blogspot.com/ ).
Lakshmi năm trong tay 8 hình thái của sự giàu sang, thịnh vượng, tất cả đều rất cần thiết cho sự cân bằng của cuộc sống.
•Adi Lakshmi (Sự thịnh vượng nói chung)
•Dhanya Lakshmi (Thức ăn, lúa gạo)
•Dhairya Lakshmi (Sự can đảm và sức mạnh)
•Gaja Lakshmi (Bảo hộ con người khỏi quỷ dữ)
•Santhana Lakshmi (Bảo hộ cho gia đình và trẻ con)
•Vijaya Lakshmi (Chiến thắng và thành công)
•Vidhya Lakshmi (Trí tuệ và sự hiểu biết)
•Dhana Lakshmi (Tiền bạc)
Trong hình tượng Lakshmi, là một trong hai tư thế ngồi hoặc đứng trên hoa sen, và thường cũng mang hoa sen trong một hoặc hai tay. Hoa sen mang ý nghĩa tượng trưng trong Ấn Độ giáo và truyền thống khác của Ấn Độ. Nó tượng trưng cho thực tế, ý thức và công việc . Hoa sen là một bông hoa nở trong nước sạch hay bẩn, cũng tượng trưng cho sự tinh khiết và vẻ đẹp bất kể hoàn cảnh tốt hay xấu mà nó phát triển. Đó là một lời nhắc nhở rằng điều tốt và sự thịnh vượng có thể nở và không bị ảnh hưởng bởi ác của một người xung quanh. Phía sau hoặc hai bên, Lakshmi đôi khi được hiển thị với một hoặc hai con voi, và đôi khi với một con cú. Voi tượng trưng cho công việc, hoạt động và sức mạnh, cũng như nước, mưa và khả năng sinh sản cho sự thịnh vượng dồi dào. Những con cú, gọi là Pechaka ở các vùng phía đông của Ấn Độ, có nghĩa bệnh nhân phấn đấu để quan sát, xem và khám phá kiến thức đặc biệt là khi bao quanh bởi bóng tối . Owl, một con chim mà trở nên mù trong ánh sáng ban ngày, cũng là một lời nhắc nhở biểu tượng để tránh thiển cận và tham lam sau đã giàu có .
Tượng Lakshmi tại đền Shravanabelagola , Karnataka.
Một số hình ảnh của Thần Lakshmi.
MAHALAKHSMI MANTRAS
•Đây là những thần chú Ấn Độ giáo mạnh mẽ cho sự thịnh vượng và giàu có. Những thần chú khi được tụng lên sẽ phát ra mộttần số duy nhất và thu hút các tần số mang theo các phước lành của Mahalakhsmi.
1/ Đây là câu chú tổng quát có thể dùng cho mọi trường hợp, có tính cách phổ thông:
Om Shrim Mahalakshmiyei Swaha
Om mahalakshmeya namaha
Đây là thần chú đọc để giành thắng lợi của Mahalakhsmi, và sống một cuộc sống hòa bình, thịnh vượng và giàu có.
ॐ ऐं महालक्ष्म्यै नम:ll
Om aim mahalaxmyee nam: ll
2/ Đây là thần chú ashtakshari của Mahalakhsmi. Ashtakshari có nghĩa là bao gồm 8 chữ cái. Mantra này được đọc 108 lần mỗi ngày. Việc làm này mang lại sự an tâm, và loại bỏ tất cả những trở ngại và nỗi buồn trên đường đời của bạn. Đây là một thần chú để thực hiện những mong muốn, có thể đọc thuộc lòng các thần chú nhiều lần như một lời chúc.
Đây là một bí pháp của Mật tông Hindu được coi là mạnh mẽ nhất trong việc tạo ra sự giàu có và các lợi ích vật chất trongcuộc sống. Bí pháp này được thực hành vào đêm Diwali (lễ Đèn-tết India).
Vào nửa đêm Diwali người cầu nguyện ngồi lên một Kambli đen (chăn/thảm đen dùng cho cầu nguyện ở India).
Giữ một tượng hay một bức ảnh của Laxmi trên tấm chăn đen.
Thắp sáng 10 Diyas [đèn bằng đất nung dùng Ghee - bơ hoặc dầu ăn, bấc bằng bông] xung quanh. Trì tụng thần chú này liên tục càng nhiều càng tốt. Sau đó tụng liên tục trong 10 ngày kế tiếp.
Thần chú này cực kỳ hiệu quả cho tất cả mọi người, nhất là các doanh nhân vì nó ảnh hưởng đến sự rung động các tần số tích cực, hữu ích trong việc tạo ra sự giàu có.
Om namo bhagwati padma padmaavati
Om hreem shreem aim purvaya dakshinaya
Paschimaya uttaraya aaj purav
Sarvajan swayam kuru kuru swaha ll
ॐ नमो भगवती पद्म पद्मावती
ॐ ह्रीं श्रीं ऐं पूर्वाय दक्षिणाय
पश्चिमाय उत्तराय आज पूरव
सर्वजन स्वयं कुरु कुरु स्वाहा ll
7/Thần chú cho các vấn đề về tài chính:
Đây là một câu thần chú để đạt được các tiến bộ vòng trong mọi lĩnh vực, nó loại bỏ những trở ngại bạn đang phải đối mặt vàlàm trơn nhẵn con đường phía trước, và thần chú này phải được đọc 108 lần bất cứ khi nào bạn đang phải đối mặt với khó khăn.
Om hreem shreem shreem shreem shreem shreem shreem shreem Laxmi man gruhe dhan pure chinta dure dure swaha ll
Đây là một câu thần chú mạnh mẽ để có được rất nhiều tiền. Trước tiên bạn nhón một nhúm bụi trên đường. Giữ nhúm bụitrong tay của bạn và trì tụng thần chú này. Sau đó, bạn ném nhúm này bụi trên một con số ghi chú tiền tệ hoặc một đống tiềnxu. Người ta nói rằng việc này sẽ làm cho rất nhiều tiền đến với bạn.
Om namo Hanmant kir hua hulasa chalre paisa rukha birkha tera bas sabki drushti baandhi de mohi mera mukh jove sabko yavad karta vaadi rovaibhari sabha me mohimbi govai ll
Đây là câu thần chú mạnh mẽ cho sự thành công trong bất kỳ loại hình kinh doanh. Thần chú này phải được đọc chỉ một lần sau khi bạn mở cánh cửa của văn phòng hoặc cửa hàng của bạn vào buổi sáng, trước khi cho bất kỳ khách hàng nào bước vào.Điều này sẽ làm tăng trưởng doanh nghiệp của bạn.
Shri shukle mahashukle kamal dal Mahalaxmyae namo nam laxmibai satya ki savai avo mai karo bhalai na karo to saat samudra ki duhai kruddhi siddhi khavogi to naunath chowraci ki duhai ll
व्यापार के लिए मंत्र
श्री शुक्ले महाशुक्ले कमल दल महालक्ष्म्यै नमो नम: लक्ष्मीबाई सत्य की सवाई आवो माई करो भलाई ना करो तो सात समुद्रकी दुहाई ऋद्धी सिद्धि खावोगी तो नौनाथ चौरासी की दुहाई ll
10/Thần chú cho sức khỏe và kiến thức:
Với người India, sự giàu có bao gồm cả sức khỏe và kiến thức. Nếu không có sức khỏe không ai có thể tận hưởng sự giàu có vàkhông có kiến thức người ta không thể biết làm thế nào để sử dụng sự giàu có.
Thần chú này phải được đọc vài lần một ngày. Số lần trì tụng là không quan trọng, nhưng phải trì tụng thần chú này với đức tin và lòng sùng kính.