KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 4.

9/17/2015 |
KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 4.

LỜI TỰA : Đường Lâm - Sơn Tây - HÀ NỘI là một vùng quê có địa hình còn khá hoang sơ , chưa bị nhiều những công trình xây dựng tàn phá. Đây là quê hương nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, Giang Văn Minh, bà Man Thiện (mẹ của hai Bà Trưng), bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Ngô Quyền và Phùng Hưng. Là một vùng quê có nhiều người thành đạt như vậy nhưng trong khoảng 50 năm gần đây , nhân tài của Đường Lâm hầu như vắng bóng . Lý do nào đưa đến sự việc như vậy ? Chúng ta thử cùng nhau khảo sát về mặt Phong thủy để tìm nguyên nhân. Trong loạt bài này , dienbatn có sử dụng một số tư liệu trên Internet và những tư liệu của dienbatn sau nhiều năm điền dã. Những kết luận riêng của dienbatn còn thô thiển, rất mong được các cao nhân giúp đ. Thân ái. dienbatn.

3. KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐỊA DANH QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI KHU VỰC ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI.
3.3 ĐỀN THỜ BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG (  PHÙNG HƯNG ).



Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc lâu đời ở đất Đường Lâm nay là xã Đường Lâm, Sơn Tây, TP Hà Nội. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đất gò đồi và rừng cây rậm rạp bởi vậy mới có tên gọi là "Đường Lâm".
Cho tới nay ngày sinh của ông vẫn chưa rõ. Các sách chính sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục ghi ông mất năm 802, chỉ một thời gian ngắn sau khi đuổi được giặc Bắc phương. Một nguồn dã sử cho biết ông sinh ngày 25 tháng 11 năm 760 (tức 5-1-761) và mất ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi .
Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung vua Đường Cao Tổ, thời niên hiệu Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh - một người hiền tài đức độ.
Khoảng năm Nhâm Tuất (722) đời Đường Huyền Tông niên hiệu Khai Nguyên, Phùng Hạp Khanh đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (tức Mai Hắc Đế). Sau đó, ông trở về quê chăm chú công việc điền viên, trở nên giàu có, trong nhà nuôi nô tỳ có đến hàng nghìn người.
Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ hai là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt.
Phùng Hưng nối nghiệp cha trở thành hào trưởng đất Đường Lâm. Cho tới nay dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện ông dùng mưu kế giết hổ dữ mang lại bình yên cho làng xóm.
Việt Nam thời thuộc Đường gọi là An Nam đô hộ phủ, khi đó đang nằm dưới ách cai trị hà khắc của bọn quan đô hộ. Các quan đô hộ nhà Đường ra sức vơ vét của cải của người dân Việt Nam, bắt người dân Việt phải đóng sưu cao thuế nặng khiến lòng người ngày càng căm phẫn.
Năm 767, Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định (miền Việt Bắc) giúp kinh lược sứ An Nam là Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và (Java) ở Chu Diên, sau đó được cử làm đô hộ An Nam. Chính Bình ra sức vơ vét của cải của nhân dân, đánh thuế rất nặng.
Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của người dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình (Hà Nội) nổi loạn, Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ.
Cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng phát động nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của người dân từ khắp các miền đất Giao châu. Thoạt đầu, anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng là Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.
Được sự trợ giúp của người cùng làng có nhiều mưu lược là Đỗ Anh Hàn, tháng 4 năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng từ chỗ cầm cự đã cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành.
Phần lớn các truyền thuyết đều kể rằng: Phùng Hưng nhận thấy lực lượng chưa thật đủ mạnh để đè bẹp quân địch, ông đã cùng các tướng tỏa đi xung quanh chiêu mộ thêm binh lính và sắm thêm vũ khí, còn việc vây thành được giao cho 3 người cháu gái họ Phùng, gọi Phùng Hưng bằng bác.
Cuộc chiến đấu sau đó diễn ra quyết liệt, quân Đường chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết.
Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước.
Chính sử chép rằng ông cầm quyền cai trị không lâu sau đó đã qua đời ngay trong năm 791. Các sử gia hiện nay xác định ông mất khoảng tháng 5 năm 791.
Nguồn dã sử Việt điện U linh của Lý Tế Xuyên và giai thoại dân gian cho rằng: ông cầm quyền được 7 năm, nhưng lại mất năm 802. Thông tin này không phù hợp về logic: Năm 791 giành được Tống Bình mà mất năm 802 tức là Phùng Hưng cầm quyền trong 11 năm chứ không phải 7 năm. GS Nguyễn Khắc Thuần cho rằng: Lý Tế Xuyên và truyền thuyết dân gian đã có sự lầm lẫn: hơn 7 năm là thời gian tính từ khi Phùng Hưng làm chủ khu vực quanh Đường Lâm tới khi ông mất, chứ không phải tính từ khi ông làm chủ Tống Bình.
Ông được nhân dân suy tôn là Bố Cái Đại Vương (布蓋大王).
Sau khi mất, con trai ông là Phùng An lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. An nối nghiệp được hai năm thì đất nước lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm. Sau khi đặt nền cai trị, bọn quan quân nhà Đường liên tục truy sát những người trong gia tộc họ Phùng. Theo các dòng sông lớn dòng họ Phùng toả về các vùng núi, trung du, các vùng hạ lưu các con sông lớn nhỏ để lập nghiệp. Nhưng phần lớn vẫn là ở các vùng như Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ...tập trung lớn nhất phải kể đến như dòng họ Phùng Quang,Phùng Gia ở Vĩnh Phúc, dòng họ Phùng Xuân thuộc hữu ngạn sông Bùi Chương Mỹ - Hà Tây, dòng họ Phùng Văn ở Thanh Hóa, Phùng Huy ở Ba Vì...
Lăng mộ Phùng Hưng ngày nay nằm ở đầu phố Giảng Võ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đền thờ ông được dựng lên ở nhiều nơi như quê hương Đường Lâm, đình Quảng Bá (Tây Hồ), đình Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội), thờ ở lăng Đại Áng, Phương Trung, Hoạch An, phủ Thanh Oai (Hà Nội); tại xã Gia Thanh, Gia Viễn tỉnh Ninh Bình có 3 ngôi đền thờ Bố Cái Đại Vương, tương truyền ông mất tại đây.
Sau này đất Đường Lâm quê ông còn xuất hiện một vị vua nữa - Ngô Quyền, người đánh bại cuộc xâm lược của Nam Hán, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc (938). Do vậy Đường Lâm còn được biết đến với tên gọi "Đất hai Vua". ( https://vi.wikipedia.org/wiki ).
Đền thờ Phùng Hưng nằm tren một đỉnh gò, xếp chữ Nhị. Không có tượng, chỉ có hoàng bào ngụ ở chính đền. Đền được xây dựng lâu đời, còn giữ lại ở đây một mõ gỗ mít cổ hình con cá trắm lớn. Truyền rằng, những dịp quan trọng mới được dùng mõ để tập hợp cả làng. Hễ ai đang làm gì, ở đâu nghe tiếng mõ cũng phải về tụ họp đông đủ.



dienbatn và bác Kiều văn Lương - Thủ Đền thờ Bố cái Đại Vương - làng Đường Lâm - Sơn Tây.


Hàng chục cây nhãn tiến Vua trồng trước Đền thờ Bố cái Đại Vương có tuổi đời vài trăm năm. các vị Vua về sau đời nào cũng về đây trồng nhãn để thờ Bố cái Đại Vương .


Theo cụ Kiều văn Lương - Thủ Đền thờ Bố cái Đại Vương : Cây phượng này tương truyền Vua Ngô Quyền mang từ Hải Phòng về trồng năm 938 , ngày xưa cây rất to. Tới thời chống Pháp, khi Phùng Thế Tài tấn công Sơn Tây , du kích làm chòi trên cây phượng này để quan sát giặc, họ hút thuốc lào không chú ý dập lửa đã làm cháy cây phương đó. Sau này một chồi cây phượng mọc lại và có dáng như ngày hôm nay.
Phân kim hướng Đền thờ Bố cái Đại Vương - làng Đường Lâm - Sơn Tây.




Hướng Đền 88 độ 7 - Tọa Dậu - Hướng mão - Phân kim : Kỷ Dậu - Quý Mão. Mão phải kiêm Giáp 3 phân để tá lộc và thuận Âm - Dương.
Trước mặt Đền thờ Bố cái Đại Vương là một cái ao lớn có tên gọi là Vũng Lộc.  Cạnh đó có Cống Hổ và Đồi Hổ đẻ . Đi qua Cống Hổ là Rừng Cấm Sơn và Vũng Hùm. Trên những qủa đồi thuộc làng Cam Lâm có những cái tên: Cống Hổ và Đồi Hổ đẻ , Đồi Cấm, Nghẽn Sơn, Vũng Hùm ,Vũng Lộc , Gò Bố về... in đậm dấu tích thời trai trẻ của ba anh em họ Phùng.  Sở dĩ có rất nhiều địa danh kèm theo tên Hổ như vậy là vì thờ đó đây là khu vực rừng rậm . Truyền thuyết kể lại : Thủa ấy trên đồi là rừng đại ngàn rậm rạp, dưới đồng lau lách um tùm. Năm ấy có một con cọp hung dữ về bắt bao mạng người. Dân trong vùng sợ hãi không dám vào đồi kiếm củi, hái chè. Đêm đêm, cọp dữ còn mò cả vào làng rình bắt trâu bò, lợn gà. Cả làng chưa nhọ mặt người đã vội vã về nhà, luồng lạch rấp kín, cổng ngõ buộc chặt, xóm làng eo óc nỗi sợ hãi rình rập bất cứ lúc nào. 
Một trai làng cực kỳ khoẻ mạnh quyết tâm diệt hổ dữ trừ họa cho dân làng. Lựa đêm một ngày tháng cuối đông gió Bấc se sắt thổi, khí lạnh trên đồi tràn về làm rờn rợn da người, chàng trai bện người nộm đem vào đồi đến bên mép nước cắm xuống, ba bốn đêm liền như thế...
Đêm ấy như bao đêm khác, hổ dữ ra vũng nước duy nhất còn sót lại trong vùng, trước khi vục đầu uống, hổ ta lấy tay tát đổ người nộm như mọi hôm thường vẫn thế. Nhưng nó đâu có ngờ hôm nay có một cánh tay rắn chắc đã túm chặt lấy đầu nó, liên hồi giáng xuống những quả đấm nặng như búa tạ. Chàng trai thông minh dũng cảm, có sức khoẻ phi phàm đó chính là Phùng Hưng.
Theo lệ từ xưa, từ cầu Cam Lâm trở vào là khu vực cấm . Tất cả những việc họp hành , vui chơi , ăn uống , hội hè , đình đám đều phải làm tại làng Mông Phụ. Từ khu vực cầu Cam Lâm trở vào chỉ để thực hiện những việc tâm linh , cúng tế . Những người làm trái điều cấm trên đều có những hậu quả thật đáng sợ.


Có một sự thật là trên đất Cam Lâm không có bất cứ ngôi mộ nào của dòng họ Bố cái Đại Vương Phùng Hưng. mặc dù theo truyền thuyết trước đời của Phùng Hưng đều là độc đinh , nhưng khi bắt đầu có những cuộc kháng chiến thì dòng họ này lại trở thành đa đinh. Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung vua Đường Cao Tổ, thời niên hiệu Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Các đời trước là Phùng Khiêm, Phùng Thông, Phùng Đạt. Đến Cha Phùng Hưng là cụ Phùng Hạp Khanh ( Phùng Viễn ???- húy kỵ ông 11 tháng 3) , quan lang đạo vùng này có cháu ngoại là Phạm Thị Uyển (là con bà Phùng Thị Thảo, cháu gọi Phùng Hưng là cậu ruột) từng lấy vua Mai Hắc Đế và cầm đầu một đạo thủy binh chống Đường, thất thế phải gieo mình xuống sông Tô Lịch tự tiết. Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ hai là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt.
Sau khi mất, con trai ông là Phùng An lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. Phùng An chỉ ở ngôi được khoảng 3 tháng  thì đất nước lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm. Sau khi đặt nền cai trị, bọn quan quân nhà Đường liên tục truy sát những người trong gia tộc họ Phùng. Theo các dòng sông lớn dòng họ Phùng toả về các vùng núi, trung du, các vùng hạ lưu các con sông lớn nhỏ để lập nghiệp. Nhưng phần lớn vẫn là ở các vùng như Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ...tập trung lớn nhất phải kể đến như dòng họ Phùng Quang,Phùng Gia ở Vĩnh Phúc, dòng họ Phùng Xuân thuộc hữu ngạn sông Bùi Chương Mỹ - Hà Tây, dòng họ Phùng Văn ở Thanh Hóa, Phùng Huy ở Ba Vì...Dân cư trong làng Cam Lâm hiện nay không có ai mang họ Phùng và họ Ngô, trong khi đó dân cư các vùng lân cận mang hai họ này rất nhiều. Các cụ cao tuổi ở trong làng Cam Lâm hiện nay cũng không rõ vì sao như vậy, chỉ phỏng đoán rằng con cháu hai họ này phải thay tên, đổi họ khi triều chính có sự thay đổi để tránh hậu họa. 
Người đời đồn lại rằng : tất cả các ngôi mộ của gia đình Phùng Hưng đều đặt tại Cấm Sơn và không để nấm. Chính vì vậy khu đồi này mới có tên là Cấm Sơn. dienbatn chỉ biết nghe vậy chưa có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn.

Tìm hiểu thêm một chút về xuất xứ họ Phùng:

" Phùng là một họ của người châu Á. Họ này xuất hiện ở Việt Nam; khá phổ biến ở Trung Quốc (Hán tự: 馮, bính âm: Feng) và cũng có mặt ở Triều Tiên với số lượng rất ít (Hangul: 풍, Romaja quốc ngữ: Pung).
Sử học gia nổi tiếng thời Tây Hán là Tư Mã Thiên (司马迁) (145 TCN – 86 TCN) vì bị liên luỵ trong vụ án Lí Lăng (李陵) nên phải chịu cung hình. Để bảo toàn gia tộc, phải báo quan là không có con trai nối dõi, vì thế 2 người con trai của ông buộc phải đổi họ.
Người con trưởng là Tư Mã Lâm (司马临) từ họ phức là Tư Mã (司马) đã lấy chữ Mã (马) đồng thời thêm 2 chấm bên trái đổi thành họ Phùng (冯). Người con thứ là Tư Mã Quan (司马观) từ họ phức Tư Mã (司马) lấy chữ Tư (司) đồng thời thêm một nét sổ bên trái chữ Tư đổi thành họ Đồng (同), nhưng 2 dòng họ này vẫn nhớ đến dòng họ gốc Tư Mã (chữ Hán: 司马) của mình. " ( https://vi.wikipedia.org )
" Trải qua các triều đại, từ Ngô - Đinh - Lý - Trần - Lê - Nguyễn đến ngày nay, họ Phùng lúc nào cũng có các danh thần, danh tướng phò tá để giữ nước. Ví như Phùng Tá Chu quan đại thần nhà Trần; Phùng Sỹ Chu, công thần Nhà Trần; Phùng Tá Thang, công thần nhà Trần; Phùng Phúc Kiều, Đô đốc thượng tướng quân thời Hậu Lê, người có công khai phá vùng biển Cửa Lò, Nghệ An; Phùng Lộc Hộ, đô thống đại vương, có công giúp vua Trần Nhân Tông đánh tan giặc Nguyên - Mông; Phùng Quang Lộc, danh tướng của Lê Lợi..."
" Phùng Tá Chu, quan đại thần Nhà Trần ; Phùng Sỹ Chu, công thần Nhà Trần; Phùng Tá Thang, công thần Nhà Trần; Phùng Khắc Khoan, đại thần thời Hậu Lê, được mệnh danh là Trạng Bùng; Phùng Phúc Kiều, đô đốc thượng tướng quân thời Hậu Lê, người có công khai phá vùng biển Cửa Lò, Nghệ An; Phùng Quang Lộc, danh tướng của Lê Lợi 
Phùng Tá Chu (?- 1241), đại thần triều Trần. Làm quan đến chức thái phó vào cuối thời Lý; quê ở Phụng Thiên (nay là làng Quảng Bá, quận Tây Hồ, Hà Nội). Phùng Tá Chu là quan Thái phó vào cuối đời Lý. Sau khi nhà Lý sụp đổ, ông theo nhà Trần, lập nhiều công trạng và được nhà Trần trọng dụng. Năm 1226, vua Trần Thái Tông cử ông đi trấn thủ Nghệ An, được quyền tự ý ban chức vị cho người dưới quyền, ban trước rồi tâu sau. Năm 1233, ông lại được cử đi duyệt định các sắc mục ở Nghệ An, rồi được phong tước Hưng Nhân Vương. Năm 1239, ông làm nhập nội thái phó, trông coi việc xây dựng cung điện, rồi làm quản đốc công trình xây dựng 5 sở hành cung ở Thanh Hóa. Năm 1241, Phùng Tá Chu mất và được phong Phúc Thần, dân chúng thờ ông làm Thành Hòang ở đình làng Quảng Bá, cùng thờ chung với Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Từ Tống quân Từ mục @ Phùng Phúc Kiều (1724 - 1790) là một công thần dưới triều Hậu Lê. Ông là người có công khai phá và xây dựng vùng biển Cửa Lò - Nghệ An ngày nay. Sinh thời ông là người được vua tin, dân mến vì có lòng yêu nước, thương dân. Sau khi ông mất, nhân dân ở đây đã nhớ ơn ông nên đã xây dựng nhà thờ để tưởng nhớ ông. Phùng Phúc Kiều, sinh năm 1724, trong một gia đình nhiều đời là công thần, khanh tướng. Năm 1741, ông thi đậu loại nhất trong kỳ thi Bác Cử (quan võ). Năm 1742, ông được tuyển dụng vào đội thuỷ quân ưu binh thuộc đạo Đông Nam với chức Đốc quan. Năm 1753, ông được giao chỉ huy đạo quân thuỷ chiến trấn giữ vùng biển Nghệ An, giữ chức Khả vi trung tướng quân. Năm 1764, ông được triều đình phong làm Đô trung hầu, giao toàn quyền thống lãnh thuỷ quân ưu binh, trấn giữ cả một vùng biển miền Trung, từ Thanh Hoá, đến Hà Tĩnh. Ngày 17-2-1790, Phùng Phúc Kiều qua đời ngay trên mảnh đất ông đã đổ bao mồ hôi công sức gây dựng. Thương tiếc, và cũng tỏ lòng ghi nhận công lao của ông, triều đình đã truy tặng ông chức Đô đốc Thượng tướng quân và sắc cho dân làng, con cháu lập đền thờ phụng. Trải qua hơn một trăm năm, cứ vào dịp giỗ tướng công họ Phùng, dân làng Nghi Thu và con cháu tướng công đều kính cẩn tổ chức tế lễ với nghi thức truyền thống xưa. Điều đáng mừng việc tế lễ tướng công đã được duy trì hàng năm, nhất là những năm gần đây, thu hút khá đông các tầng lớp nhân dân đến tham dự. Nếu có dịp đến với Cửa Lò, xin mời bạn hãy tìm đến khu lăng mộ và đền thờ tướng công Phùng Phúc Kiều tại xóm Hoà Đình, xã Nghi Thu để hướng lòng thành tâm trước bài vị của người đã có công gây dựng, khai phá một vùng cửa biển đẹp của đất nước. Mặc dù mới được xây dựng lại trên nền đất rộng trên 200 m2, song Đền thờ tướng công họ Phùng vẫn được thiết kế theo lối truyền thống, gồm 3 toà: Thượng, Trung và Hạ điện, cấu trúc theo hình chữ Tam. Trong đền vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật, tư liệu quý như gia phả, sắc phong, câu đối, đại tự, lư hương, long ngai bài vị của các vị thần tổ và nhiều đồ tế khí khác. Chắc chắn, những hiện vật này sẽ giúp những ai yêu đất nước, yêu Cửa Lò có dịp tìm hiểu hơn nét đẹp văn hoá xứ Nghệ. " (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/ )

"   Danh sách các nhà khoa bảng tại bia Văn Miếu Quốc tử giám Thăng Long

  * Phùng Đốc (1466-?) Người thôn Chàng Sơn, xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất - tỉnh Hà Tây (tỉnh Sơn Tây cũ) . Đỗ Tiến sĩ năm 1499 đời Lê Hiến Tông. Làm quan đến chức Giám sát Ngự sử. 
* Phùng Hữu Hựu Người thôn Viên Đình, xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây. Đỗ Tiến sĩ năm 1523 đời Lê Cung Hoàng. Làm quan đến chức Thừa Chính Sử. 
* Phùng Ông (1524-?) Người thôn Tuấn Xuyên, xã Vạn Thắng, Huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (tỉnh Sơn Tây cũ) . Đỗ Tiến sĩ năm 1547. Làm quan đến chức Thừa Chính Sử. 
* Phùng Trạm (1543-?) Người thôn Dĩnh Uyên, xã Tân Tiến, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Đỗ tiến sĩ năm 1574 đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến chức Thừa Chính sứ. 
* Phùng Khắc Khoan (1528-1613) Người thôn Phùng Xá (thôn Bùng), xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (tỉnh Sơn Tây cũ). Đỗ Tiến sĩ năm 1580 đời Lế Thế Tông. Hai lần đi sứ sang Nhà Minh; Làm quan đến chức Thượng thư Bộ Hộ. Khi mất được tặng Thái Tể, phong Phúc Thần.
 * Phùng Thế Triết (1585-?) Người thôn Kim Bí, xã Tiền Phong, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (tỉnh Sơn Tây cũ). Đỗ tiến sĩ năm 1623 đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Hiến Sát sứ. 
* Phùng Viết Tu (1607-1662) Người xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Đỗ tiến sĩ năm 1652 đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Thiên đô Ngự sử, sau bị án vì phạm tội. 
* Phùng Bá Kỳ (1694-?) Người thôn Hợp Thịnh, xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Đỗ Tiến Sỹ năm 1715 đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Hàn Lâm viện Đãi Chế."
 (http://hophungvietnam.com.vn/ ).

Người Việt Nam họ Phùng nổi tiếng.

Phùng Hưng, lãnh tụ khởi nghĩa thời nhà Đường, được tôn là Bố cái đại vương
Phùng An, con trai của Phùng Hưng
Nhu Huy hoàng hậu, tức Sùng viên Phùng Thị Quý, hoàng hậu nhà Hậu Lê, vợ vua Lê Thánh Tông, mẹ của Lê Tân, bà nội vua Lê Tương Dực.
Phùng Khắc Khoan, đại thần thời Hậu Lê, được mệnh danh là Trạng Bùng
Phùng Tá Chu, quan đại thần Nhà Trần
Phùng Phúc Kiều, đô đốc thượng tướng quân thời Hậu Lê, người có công khai phá vùng biển Cửa Lò, Nghệ An
Phùng Thế Tài, Thượng tướng, Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam
Phùng Quang Thanh, đại tướng, bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Anh hùng LLVT
Phùng Văn Cung, bác sĩ, phó chủ tịch kiêm bộ trưởng bộ nội vụ của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Phùng Quang Bích (Nguyễn Quang Bích), Thiếu tướng, Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Phó tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn
Phùng Hữu Phú, giáo sư tiến sĩ sử học, phó trưởng ban tuyên giáo trung ương ĐCSVN
Phùng Quán, nhà thơ, nhà văn Việt Nam, tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm.
Phùng Cung, nhà thơ, nhà văn của phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm; tác giả Con ngựa già của Chúa Trịnh
Phùng Thị Cúc (Điềm Phùng Thị), nhà điêu khắc, viện sĩ viện hàn lâm khoa học văn học và nghệ thuật Pháp
Phùng Tất Đắc (Lãng Nhân), nhà thơ, nhà văn nổi tiếng với tác phẩm: Giai thoại làng Nho...
Phùng Văn Tửu (nhà văn), Nhà giáo Nhân dân, Giáo sư Văn học, Nhà Nghiên cứu, Phê bình, Lý luận Văn học
Phùng Gia Lộc, Nhà giáo, nhà văn,...
Phùng Ngọc Hùng, nhà thơ, nhà văn thiếu nhi, thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam
Phùng Văn Khầu, đại tá pháo binh, anh hùng quân đội, người hùng chống tham nhũng
Phùng Khắc Đăng, trung tướng, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, phó chủ tịch Hội CCB Việt Nam, Trưởng Ban liên lạc dòng họ Phùng Việt Nam
Phùng Thị Lệ Lý, Nhà văn hải ngoại, tác giả cuốn sách nổi tiếng: Khi Đất Trời đảo lộn (When Heaven and Earth changed place)...
Phùng Tuấn Vũ, nhạc sĩ độc tấu guitar thùng nổi tiếng .
Phùng Xuân Nhạ, Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội ( https://vi.wikipedia.org/wiki ).
" Phùng Hưng là hào trưởng lớn, đứng chủ một vùng, ông chưa hề xưng hoàng đế dù có lúc xưng là “Đô quân” nên sử sách không thấy nói đến miếu hiệu. Nhưng cái tên hiệu mà Phùng An, con Phùng Hưng tôn xưng ông là Bố cái Đại vương lại trở nên cái tên quen thuộc, tôn kính, đầy tự hào, được tất cả mọi người Việt Nam thừa nhận. Nó không còn chỉ là cái tên riêng của một gia đình hay một dòng họ. Cái tên này phù hợp với truyền thống tốt đẹp có từ xa xưa của người Việt Nam. 
Bố cái cũng để chỉ người bố có khí thế bao trùm cả đời, vị anh hùng cái thế. Chứng tỏ vị đại vương có hùng tài quân sự như trên đã bàn, rất cao quý nhưng lại là người bố gần gũi, dân dã…
Những tôn xưng tốt đẹp ấy, không hẹn mà nên, phù hợp với hàng loạt câu đối ở những nơi thờ tự Phùng Hưng. Như ở lăng ông, tại nơi xuất thân ghi:

 “Sự nghiệp anh hùng truyền vạn thưở. 
Tôn xưng cha mẹ hợp muôn dân”.

 Đình Hoàng Cầu thuộc phường Ô Chợ Dừa có câu đối: 

Đất Bắc thạch bi truyền, vạn thuở nghinh vua Bố cái
 Trời Nam đồng trụ tạc, ngàn thu sự nghiệp đức Đường Lâm”.
Ở Đình Kim Mã có câu đối:

Thiên dư niên đức trạch nông hàm ngưỡng như phụ mẫu
Thập tam trại nhân yên phồn hội trường thử giang sơn”.
(Nghìn lẻ năm đức trạch dồi dào, kính như cha mẹ
Mười ba trại dân cư đông đúc, mãi còn đó núi sông).

Nghiên cứu các sắc phong thần được vua ban ta thường thấy các chữ: “Nẫm trừ linh ứng” tức: nhiều lần tỏ rõ sự linh ứng. Thường thì “sinh vi tướng” tất “tử vi thần”. Nhưng nếu sinh vi tướng mà chết không vi thần, không linh thiêng, nhiều lần không tỏ rõ sự linh ứng thì vua (người làm chủ bách thần) cũng không phong. Phùng Hưng là cha mẹ, sống mãi trong lòng con dân, hiển linh trong lòng dân nên được dân yêu kính tưởng tượng ra nhiều hiện tượng linh dị gắn với ông. Các quan lại nghiên cứu bách thần để ghi tự điển làm tài liệu dâng lên để vua phong. Việc vua chúa phong sắc cho Phùng Hưng chính là sự thừa nhận của các chính quyền, các triều đại với công lao, tài đức của ông. Điều này, thể hiện trong những câu chuyện lạ lùng hấp dẫn ở sách “Viện điện u linh” với sự ban phong của các vương triều như sau:
“Khi Phùng Hưng mới chết đã hiển linh, thường hiện hình trong đám dân quê. Nghìn xe vạn ngựa bay trên khoảng ngọn cây nóc nhà. Mọi người nhìn lên thấy rực rỡ như mây kết năm mầu, văng vẳng tiếng đàn tiếng sáo ở trên trời, lại có tiếng hò hét, kiêu căng sáng rực, tất cả đều thấy được rành rành. Phàm trong thôn ấp có việc sợ hãi, việc vui mừng thì trước đã có bậc dị nhân ban đêm đến bảo cho người hào trưởng biết. Mọi người cho là thần, lập miếu (đền thờ ở làng Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, Sơn Tây) ở phía Tây phủ Đô hộ mà thờ cúng, cầu tạnh cầu mưa, không có điều gì là không báo ứng. Phàm có sự hồ nghi về việc trộm cướp, về việc tranh chấp thì sắm lễ vật đến bái yết trước đền, rồi làm lễ minh thệ bèn lập tức thấy họa hoặc phúc bầy rõ ngay. Người đi buôn bán sắm lễ vật cầu được nhiều lãi đều có ứng nghiệm. Mỗi khi vào ngày tạ lễ, người nhiều như núi như biển, bánh xe chật đường. Miếu mạo nguy nga, lửa hương bất tuyệt.
Khi Ngô Tiên chúa lập quốc, quân phương bắc vào ăn cướp. Tiên chúa lo lắng, đêm nằm mộng thấy một ông già đầu bạc, mũ áo nghiêm trang, đẹp đẽ, quạt lông, gậy trúc tự xưng họ tên và nói: “Tôi đã đem vạn đội thần binh mai phục trước ở chỗ hiểm yếu. Chúa công mau tiến quân chống giặc đi, tức khắc có âm trợ, không nên lo ngại. Đến khi đánh ở sông Bạch Đằng đúng là thấy trên không trung có tiếng ngựa xe. Trận ấy quả nhiên thắng lớn. Tiên chúa thấy lạ, xuống chiếu lập đền miếu to hơn quy mô cũ, lại cho cờ quạt, chiêng trống, điệu múa vạn vũ, cỗ cúng thái lao để cảm tạ. Qua nhiều thời thành lễ cổ. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) hoàng triều sắc phong là “Phục Hựu Đại vương”. Năm Trùng Hưng thứ 4 (1288)” ban thêm hai chữ “Chương Tín”. Năm Hưng Long thứ 20 (1312) lại ban thêm hai chữ “Sùng Nghĩa”… Các đời sau từ Lê đến Nguyễn (kể cả Quang Trung) còn có các đạo sắc phong khác phong cho Phùng Hưng với nhiều thần phả…
Sự tôn kính, uy tín của Phùng Hưng với dân cũng thể hiện trong việc nhân dân (nhất là nhân dân Hà Nội, nơi gắn bó nhiều nhất với ông) lập nên nhiều đền thờ, lăng miếu tôn thờ ông và bảo vệ cho những di tích ấy tồn tại đến ngày nay. Gắn với các lễ hội như các di tích sau:
1. Đình Nghi Tàm: Ở doi đất sát ven Hồ Tây thuộc thôn Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ Liêm (nay thuộc quận Tây Hồ) thờ 5 vị thành hoàng là những tướng tài cùng Phùng Hưng đánh giặc Đường.
2. Đình Quảng Bá: Ở thôn Quảng Bá (thuộc quận Tây Hồ) thờ 7 vị thần mà trong đó vị được thờ chính là Phùng Hưng. Tương truyền đây là nơi Phùng Hưng đóng đại bản doanh, đây còn giữ được các di tích như: gò cắm cờ, gò con mộc (nơi tập trận), bến trùm (nơi quân lính tắm)…
3. Chùa Triều Khúc ở xã Tân Triều, huyện Thanh Trì là nơi tập trung quân của Phùng Hưng chuẩn bị đánh Tống Bình. Có ngựa, kiếm, tượng Phùng Hưng áo bào long cổn. Hội làng vào ngày 10 tháng Giêng. Ngày 12 tháng Giêng có tục rước tượng thánh và sắc phong thần hay tục chạy cờ diễn lại chiến công của Phùng Hưng.
4. Lăng Phùng Hưng ở đất thuộc thôn Vạn Phúc, trại Kim Mã trước đây, nay nằm bên đường Giảng Võ trong khu vực Nhà máy thiết bị lạnh. Lăng không rõ năm xây, có đề bốn chữ: “Phùng Hưng cổ lăng”. Nghe nói lăng ở đây, nhưng thi hài ông đã đưa về Đường Lâm. Trong trại Kim Mã còn có đình Kim Mã (nơi nuôi ngựa thời Lý Trần) thờ Phùng Hưng có văn bia ghi sự tích Phùng Hưng.
5. Đền và đình làng Phương Trung (làng Chuông) thờ Phùng Hưng. Phương Trung xưa là trang Thời Trung. Cuối thế kỷ thứ 8 là nơi luyện quân của Phùng Hưng, dân ở đây kể: Sau khi giải phóng thành Tống Bình, Phùng Hưng theo dòng sông Đáy tới địa phận làng Hoạch An (phía Tây bắc Kim Bài) rẽ theo dòng Khoang chảy qua giữa hai làng Kim Châu và Kim Thành, đến Chằm Sen thì lên bờ khao quân ở căn cứ địa Phương Trung. Bên Chằm Sen nay còn di tích quán vua. Một đoạn đường tiếp đó có tên là đường rước vua.
6. Đình Giáp Nhất (còn gọi là đình Lý thôn) dựng ngay đầu thôn Giáp Nhất, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân thờ thành hoàng là Phùng Lương, tướng của Phùng Hưng.
7. Đình Thổ Khối (thuộc thôn Thổ Khối, xã Cự Khối, huyện Gia Lâm) thờ 6 vị thành hoàng trong đó có Phùng Hưng.
Đấy là chưa kể những địa danh khác tại Hà Nội như Thịnh Hào, như huyện Phú Xuyên… đã có những bài bia ký, sự tích, thần phả về Phùng Hưng hẳn phải có nơi thờ ông. Ở các tỉnh khác như Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Nghệ An… cũng không kém những tư liệu ấy, hẳn từ lâu rồi các di tích thờ Phùng Hưng đã dựng nên rải rác ở nhiều nơi dù cho dâu bể thời gian, sức tàn phá của con người, chiến tranh đã làm biến dạng. Dẫu sao thì ngần ấy tư liệu còn lại vẫn đủ chứng minh rằng: Uy đức, ơn nghĩa của Bố cái Đại vương đã thấm sâu vào lòng dân, nhất là dân Hà Nội, nơi chứa đựng nhiều và tập trung nhất những di tích, những tư liệu về Phùng Hưng. Với những nét đặc sắc ấy, làm sao Hà Nội lại chỉ có một phố Phùng Hưng là đủ? Hà Nội phải dựng một thần tượng nữa, một đài kỷ niệm về Bố cái cho xứng đáng." ( Theo ĐINH CÔNG VỸ).

Lăng mộ Phùng Hưng - ngõ số 2  Giảng Võ.


Nằm ngay đầu phố Giảng Võ, cạnh bến xe Kim Mã là Lăng mộ Phùng Hưng. Lăng có dòng chữ Hán “Phùng Hưng cố lăng”. Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi quý tộc lâu đời ở đất Đường Lâm nay là xã Đường Lâm, Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Ông là thủ lĩnh cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự thống trị của nhà Đường ở Việt Nam thời Bắc thuộc lần thứ ba (602-905), đuổi được người phương Bắc và cầm quyền cai trị một thời gian. Trải qua bao biến đổi, lăng mộ của Phùng Hưng hiện nay chỉ còn là một bệ thờ. Lăng mộ Phùng Hưng tại trung tâm TP Hà Nội với diện tích hiện nay chỉ còn khoảng 100 m2, nằm giữa một Khu dân cư mới được xây dựng, đường vào khu Lăng mộ cũng là đường vào của Khu dân cư này, tại ngõ số 2 đường Giảng Võ, phía sau bến xe Kim Mã. Lăng mộ Phùng Hưng đã được Nhà nước xếp hạng là di tích văn hóa. Hiện nay, Lăng mộ Phùng Hưng đã được được tôn tạo đáng kể. Những người thực hiện việc trông coi, hương khói thường xuyên tại Lăng mộ Phùng Hưng là các Cụ ở một số làng trong nội thành TP Hà Nội như làng Triều Khúc, làng Giảng Võ, làng Quảng Bá. Đây là việc làm truyền thống từ hàng nghìn năm nay của các Cụ tại các làng này (nay đều đã được gọi là Phường cả). Hiện nay, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc có xuất bản cuốn sách Văn khấn nôm truyền thống của Cố thượng tọa Thích Viên Thành, nhưng ít người biết Cố Thượng tọa Thích Viên Thành tên thật là Phùng Nguyệt Chí, nguyên là sư thầy trụ trì Chùa Hương (Mỹ Đức - Hà Tây) thời gian trước năm 1998. Trong lời nói đầu của cuốn sách này, Cố Thượng tọa có viết: “Về phần tôi, vốn sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo ở nông thôn, coi trọng thờ cúng lễ bái, bản thân lại theo Đạo Phật nên cũng được nghiên cứu và tập trung ngay từ lúc thiếu thời. Bấy lây nay đọc một số tác phẩm về cúng lễ khấn cầu gia tiên của các tác giả đã được xuất bản, tôi thấy chưa thỏa mãn. Có cuốn thì văn chương phiền phức, có cuốn thì trích dịch hoàn toàn từ những tác phẩm cổ điển của Trung Quốc, có cuốn thì rất dầy lại quá ư chi tiết, có cuốn lại rất sơ sài, có cuốn viết hoàn toàn bằng văn lục bát như đọc vè, kể hạnh, mất cả tính trang nghiêm trong nghi lễ. Với quan niệm trên, lại bức xúc vì những yêu cầu của các đệ tử, nên tôi biên soạn cuốn sách này để phục vụ cho việc cúng khấn đơn giản của các gia đình có tín ngưỡng (thờ Phật, thờ Thánh) hoặc không theo tôn giáo, nhằm giải quyết những nhu cầu về nghi lễ thông thường, đơn giản trong đời sống tín ngưỡng nhân dân ”.( http://thanglong.gocom.vn/ ).
Xin theo dõi tiếp bài 5. dienbatn.
Xem chi tiết…

KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 3.

9/16/2015 |
KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 3.

LỜI TỰA : Đường Lâm - Sơn Tây - HÀ NỘI là một vùng quê có địa hình còn khá hoang sơ , chưa bị nhiều những công trình xây dựng tàn phá. Đây là quê hương nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, Giang Văn Minh, bà Man Thiện (mẹ của hai Bà Trưng), bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Ngô Quyền và Phùng Hưng. Là một vùng quê có nhiều người thành đạt như vậy nhưng trong khoảng 50 năm gần đây , nhân tài của Đường Lâm hầu như vắng bóng . Lý do nào đưa đến sự việc như vậy ? Chúng ta thử cùng nhau khảo sát về mặt Phong thủy để tìm nguyên nhân. Trong loạt bài này , dienbatn có sử dụng một số tư liệu trên Internet và những tư liệu của dienbatn sau nhiều năm điền dã. Những kết luận riêng của dienbatn còn thô thiển, rất mong được các cao nhân giúp đ. Thân ái. dienbatn.
3. KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐỊA DANH QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI KHU VỰC ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI.
3.1 ĐỀN VÀ.


Đền Và ở thôn Vân Gia (nguyên đọc theo âm chữ Hán là Vân Già, 雲遮), phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Nội, còn gọi là Đông Cung trong hệ thống tứ cung của xứ Đoài (Bắc Cung thuộc xã Tam Hồng, huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc; Nam Cung thuộc xã Tản Lĩnh, Tây Cung thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, Hà Nội) thờ thần núi Tản Viên, vị thần đứng đầu trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Đền được Nhà nước Việt Nam xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1964.
Theo bia "Vân Già đông trấn cung ký" (雲 遮 東 鎮 宮 記) dựng ở đầu hồi hai bên nhà tiền tế ở đền năm Tự Đức thứ 36 (1883) thì đền Và đã có từ thời Việt Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường, lúc ấy đền là khu thờ nhỏ nhưng rất linh ứng.Ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, trong đó có lần trùng tu lớn vào năm 1884. Sự mở rộng quy mô của đền gắn với sự thành lập và phát triển của tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc. Sau khi tỉnh này được lập ra năm 1831 (Minh Mạng thứ 12), tỉnh lỵ là nơi tập trung nhiều quan chức, thương gia chỉ cách đền Và khoảng 2 km nên để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, những người này cùng với dân quanh vùng đã hưng công để xây dựng thêm nhà tiền tế 5 gian. Trước đó, nhà tiền tế đã có nhưng quy mô nhỏ. Cho đến nay, nhà tiền tế đã trải qua 3 lần tu sửa lớn: tu tạo năm 1829 (Minh Mạng thứ 10), đại tạo năm 1902 (Thành Thái thứ 14) và lại tu tạo năm 1932 (Bảo Đại thứ 7). Dựa theo văn tự chữ Hán khắc ở cột thì hậu cung như hiện nay được làm vào các năm 1915-1919. Gần đây, dự án tôn tạo đền Và đã được Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tây phê duyệt với tổng kinh phí 18 tỷ đồng, dự kiến sẽ bắt đầu bằng việc tu bổ đền chính trong năm 2008.
Đền Và nằm giữa đồi Và, một đồi cây có diện tích khoảng 17.500 m² trồng nhiều cây lim cổ thụ, ngoài ra còn có mít, thông, đại, muỗm... Trong đền trồng cây vóc vàng và hai bên nhà tiền tế có hai cây lan cao to, đây đều là những loài nở hoa về mùa hè. Theo thuyết phong thuỷ, khu đồi có hình dáng con rùa (Kim Quy) đang bơi về phía mặt trời mọc. Khu vực kiến trúc rộng khoảng 2.000 m² được bao ở hai bên và phía sau bởi tường thành bằng đá ong cao 2m15. Tường được xây hai lớp, theo cách thức thượng thu hạ thách, chính giữ lèn đất. Trong dân gian lưu truyền rằng, đá ong xây tường được lấy ở đồi Vông, thôn Vân Gia, còn gọi là "xóm Rắn" nên có câu thành ngữ "cấu cổ con xà, đè cổ con quy".
Đền có bố cục dàn trải tương đối cân xứng theo trục. Trên trục trung tâm phía trước sân đền có một bình phong tạo những hang hốc mang vẻ tự nhiên. Mặt ngoài của bình phong thờ ngũ hổ trong hang với trung tâm là hổ vàng, mặt sau của động này đắp hình "long cuốn thuỷ" dưới dạng tứ linh với ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hoà, được mùa và có người tài ra giúp dân giúp nước. Qua một sân rộng khoảng 300 m2 có tường thấp bao quanh, đến "nghi môn" - cổng chính của đền. Tiếp đến là một khoảng sân rộng, được khuôn vuông bằng hệ thống công trình kiến trúc khép kín. Liền sát nghi môn, đăng đối hai bên theo chiều dọc là gác chuông và gác trống, rồi đến hai dãy tả mạc, hữu mạc, nhà kho, phía sau tả hữu mạc mỗi bên đều có nhà tạo soạn và là nơi nghỉ tạm cho khách hành hương. Nhà tiền tế (hay tiền bái) năm gian nằm song song với nghi môn ở phía cuối sân, hai đầu nhà tiền bái có tháp thiêu hương để hoá vàng mã sau khi cúng tế xong. Hậu cung hình chữ "công", cách tiền tế 1,2m, đầu nhà có bể nước và một gian nhà nhỏ để kiệu.
Mặt thoải sườn đồi đã được lợi dụng để giải quyết chiều cao kiến trúc. Lối bố trí kiến trúc theo hướng đi lên khiến cho các công trình như được nâng cao dần, đặc biệt là nghi môn, tiền tế, hậu cung. Mặc dù kết cấu các công trình đều thấp nhưng người xem vẫn có cảm giác đền có xu hướng vươn lên.
Nghi môn: gồm ba gian dựng trên nền cao, gian giữa cao 4m80, hai gian bên cao 2m15. Nghi môn có đặc điểm dễ nhận biết là ba hàng chân cột gỗ kê trên những chân tảng đá ong (cột cái cao 4m95, cột quân 3m80). Đây là một nghi môn khá hiếm gặp trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, ngoài Nghi môn này, có thể thấy kiến trúc tương tự tại đền Vua Đinh (thế kỷ 17), Đại Thành môn ở Văn Miếu, Tam quan chùa Bút Tháp.
Gác trống, gác chuông: dựng hai bên và ngay sát nghi môn và kiến trúc tương tự nhau với kiểu chồng diêm 8 mái phỏng theo gác trống, gác chuông chùa Thầy và có dáng dấp của Khuê Văn Các trong Quốc Tử Giám. Mặt hướng vào sân đền được trang trí theo chủ đề ngũ phúc bằng hình năm con dơi xoè cánh ôm lấy cửa sổ tròn.
Tả mạc, hữu mạc (hay tả vu, hữu vu): tiếp nối với gác chuông và gác trống xây dựng theo kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái, tường hồi bít đốc, nóc kết cấu "vì kèo quá giang", mặt trước có cột vuông trên nền tam cấp, mặt trong để trống.
Nhà tiền tế và hậu cung: nhà tiền tế hình chữ "nhất" (一), kiến trúc theo lối 5 gian 2 chái chồng rường, giá chiêng; hệ thống cột cái, cột quân bào nhẵn kiểu "thượng thu hạ thách" đặt lên tảng kê chân cột bằng đá. Trên cột là một hệ thống hoành phi, câu đối cổ được chạm khắc tinh xảo. Hậu cung hình chữ "công" (工), toà ngoài kết cấu 3 gian 2 chái lớn (dài 14m10, rộng 8m90). Đường vào hậu cung có một bộ vì lớn, làm theo kiểu thượng ván mê, hạ chồng rường trên xà nách. Bên dưới bộ vì mở ba cửa, hai cửa bên là lối đi vào hậu cung, cửa giữa là cửa thờ. Toà nhà bên trong cũng có kết cấu 3 gian 2 chái nhưng thấp hơn toà ngoài. Hậu cung đặt một khám thờ cao hơn 3m sơn son thếp vàng được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17. Trong cùng là bài vị của Đức Quốc Mẫu (bà Đinh Thị Điên, thân mẫu Thánh Tản Viên mà dân gian gọi chệch đi là Bà Đen). Tiếp đến là 3 bài vị của Tam vị Đức Thánh Tản (gồm Thánh Tản Viên và hai người em con chú là Cao Sơn, Quý Minh). Trước khám thờ có hương án bày long ngai bài vị của ba vị, phía trên khám treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh thần" (上 等 最 靈 神) niên đại Tự Đức Quý Mùi (1883). Toà ngoài của hậu cung có 4 bức tượng kích thước như người thật đứng nhìn vào nhau, tay cầm vũ khí và khoác áo bào đỏ gọi là "Tứ Thánh" trấn ở bốn cung quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên nhà có hai pho tượng quan văn, quan võ ngồi hướng vào nhau. Cách bài trí hậu cung mô phỏng thiết chế triều đình xưa trong con mắt người dân.


Đền Và đang lưu giữ 5 bản thần tích "Tản Viên Sơn Thánh"; 18 đạo sắc phong của các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn; 47 đôi câu đối được chạm khắc, viết trên vách cột, trên gỗ và 18 bức hoành phi viết trên gỗ hoặc đá. Nơi đây còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ. Trên những hiện vật đó khắc ghi thời gian xây dựng, tu sửa, ca ngợi cảnh quan, uy linh của Thánh Tản Viên với nhiều nét trang trí có giá trị mỹ thuật cao vừa thể hiện nét văn hóa tâm linh. Các bản thần tích, sắc phong, văn bia đền Và rất giàu giá trị Hán-Nôm, trong đó có văn thơ của Nguyễn Khản, Nguyễn Thiện Kế, Trần Lê Nhân...
Vị thần được thờ phụng ở đền Và là Thánh Tản Viên, đứng đầu trong tứ bất tử và là "Thượng đẳng tối linh thần", "Đệ nhất phúc thần" (弟 一 福 神), "Nam thiên thần tổ" (南 天 神 祖),... "là người anh hùng văn hoá sáng tạo trong tư duy nông nghiệp, người anh hùng trị thuỷ, chống giặc, biểu tượng của khối đoàn kết bộ tộc, khi chết Tản Viên là phúc thần trừ tai hoạ cho dân". Từ thời Hậu Lê, nơi có đền Và là lỵ sở của huyện Tùng Thiện cũ, đền Và trở thành trung tâm tín ngưỡng hàng huyện nên người dân quan niệm ở đó thiêng hơn những nơi khác cũng thờ Thánh Tản Viên.
Lễ hội đền Và diễn ra "xuân thu nhị kỳ". Hội mùa xuân vào dịp rằm tháng Giêng kéo dài từ khoảng 13 đến 15 (âm lịch) với nghi lễ trung tâm là rước long ngai bài vị "Tam vị Đức Thánh Tản" từ đền Và qua sông Hồng sang tả ngạn ở đền Dội (xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) là nơi theo truyền thuyết Thánh Tản Viên đã tắm để tế lễ diễn lại sự tích này rồi quay trở lại đền Và. Cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính. Hội mùa thu tổ chức vào rằm tháng Chín, từ 14 đến 15 (âm lịch) với nghi thức chính là đánh bắt cá ở sông Tích để chọn ra 99 con cá trắng to chế biến thành các món tế Thánh. Việc tế cá xuất phát từ truyền thuyết Thánh Tản Viên dạy dân kéo vó và bắt được 100 con cá, sau đó ngài phóng sinh một con cá trê đang có mang, về sau con cá này sinh được 9 con, đều hoá đá, đầu chầu về hướng đền Và.
https://vi.wikipedia.org/wiki.
Phân kim Đền và.



Hướng Đền và là 210 độ, thuộc phân kim Tân Sửu - Đinh Mùi.Mùi: nằm trong giới hạn từ 202.5 đến 217.4 độ. Chính Mùi 210 độ .Mùi kiêm Đinh 3 phân tá lộc.



3.2 AO CÁ TRÊ TRƯỚC ĐỀN VÀ.


Cách đền không xa là xóm Cá Trê, nơi có bầy cá trê bằng đá nằm trấn giữ đầu nguồn nước. Tích truyện kể rằng: Một lần, vào buổi chiều tà, Thánh Tản Viên đi chơi, thấy ở ghềnh đá có ông lão ngồi kéo vó. Ngài bèn mượn vó kéo chơi một lần. Ông lão nói rằng: Tôi ngồi từ sáng còn chưa được con cá nào đây. Ông làm sao mà kéo được cá trong chốc lát thế này! Thánh Tản nói khéo và được ông lão cho mượn. Ai ngờ kéo ngay một lần đã được 100 con cá lớn nhỏ. Ông lão thật vô cùng kinh ngạc. Thánh Tản thấy có con cá trê chửa đang quẫy trong vó, bèn thả ra sông. Ngài chỉ lấy 99 cái đuôi cá để làm bữa chiều, còn thì biếu cho ông lão cả. Con cá trê được thả ra sông, sinh nở xong, đem cả chín con cá con về chầu bên đền đức thánh. Nay vẫn còn di tích cá trê đá bên ngòi nước. Thơ đề biển gỗ đền Và có câu:
Cá nghe quyển ước ngăn dòng suối
Hạc ngóng chày tiên rợp bóng trời

Về sau, tưởng nhớ chuyện kéo cá trên đoạn sông năm xưa của Đức Thánh Tản Viên, vào ngày rằm tháng 9 người dân mở hội đánh cá. Trên khúc sông năm xưa Ngài kéo cá, hàng trăm thanh niên trai tráng đánh cá làm náo động cả một khúc sông quê. Cuối buổi chiều, người ta chọn lấy 100 con cá chép to nhất, chặt lấy khúc đuôi để làm món gỏi cá tế Thánh. Đó là lễ hội mùa thu của vùng Sơn Tây tưởng nhớ Thánh. Lễ hội mùa xuân còn đông vui hơn, vì có sự tham gia của 8 thôn thuộc 3 huyện của 2 tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phúc. Hội xuân là vào rằm tháng giêng, kéo dài trong 4, 5 ngày. Cứ ba năm là chính hội vào các năm Tý - Ngọ - Mão - Dậu. Hội kéo dài đến ba bốn ngày, lễ rước Ngai Thánh đi trong đêm vào lúc 2 h sáng. Từ đền Và, đám rước đi qua cầu Cộng, vào thị xã Sơn Tây (tới trước cửa UBND thị xã thường quay kiệu đến vài chục phút), ra bến sông rồi xuống thuyền qua sông Hồng sang địa hạt Vĩnh Phúc, là nơi thờ vọng ngài. Dân hai bên đường bày hương án dâng hương hoa lễ vật cầu phúc. Nhà ai có trẻ con hay ốm vặt hoặc không “hay ăn chóng lớn” thì bế đứa trẻ cho chui qua dưới kiệu để lấy khước. Khi đám rước qua sông, thuyền bè như lá tre tụ về. Từ thượng lưu, thuyền nan từ Cổ Đô, Ngã Ba Hạc xuôi về; từ hạ lưu thì thuyền từ Bồng Lai, Bá Giang, Vân Cốc, Hát Môn ngược lên. Những người chở đò ăn mặc quần áo lễ hội và chở khách thập phương qua sông đều không lấy tiền. Hàng vài chục chiếc thuyền lớn được cột với nhau và trải tre vầu phẳng phiu để ngự hàng chục chiếc kiệu văn và những người hành lễ. Hàng trăm người chèo thuyền chở ngai Thánh Tản sang sông, có hàng trăm chiếc thuyền nan hộ tống hai bên, còn đoàn rước thì đốt pháo, reo hò, khua chiêng, gõ trống và ca hát làm náo động cả một khúc sông rộng. Tiếng cười nói hân hoan lan toả làm nức lòng hàng vạn người theo hầu Thánh Tản sang sông. Sang đến bờ sông, Thánh Tản vào ngự tại đình Ngự Dội để tắm, cho đến khi hoàng hôn dần buông, đám rước mới lên đường về lại đền Và... Mênh mông đèn đuốc rực sáng trên hàng dặm dài của sông Hồng soi đường cho đám rước. Ra đến giữa sông, hiu hiu gió mát trăng rằm, có khi kiệu Thánh dùng dằng mãi ở giữa sông chưa về. Mọi người lại đợi cho đến khi lá cờ ở đầu kiệu phất về phía bờ nam sông Hồng thì mới cho thuyền vào bờ... Trong mấy ngày hội, nhiều trò chơi dân gian đã được tổ chức làm mê mẩn khách hành hương. Lễ hội đền Và là một trong các lễ hội to và đông vui nhất xứ Đoài. Đó là một thời điểm hội tụ sức mạnh cộng đồng và gửi gắm khát vọng về hòa bình và no ấm của người dân xứ Đoài trong suốt dọc dài lịch sử.
(Theo: Nguyễn Xuân Diện )


Có một truyền thuyết  còn truyền trong dân gian là khi bày cá trê đá lặn hết thì thiên hạ sẽ được thái bình.
Xin theo dõi tiếp bài 4. dienbatn.
Xem chi tiết…

KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 2.

9/12/2015 |
KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 2.

LỜI TỰA : Đường Lâm - Sơn Tây - HÀ NỘI là một vùng quê có địa hình còn khá hoang sơ , chưa bị nhiều những công trình xây dựng tàn phá. Đây là quê hương nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, Giang Văn Minh, bà Man Thiện (mẹ của hai Bà Trưng), bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Ngô Quyền và Phùng Hưng. Là một vùng quê có nhiều người thành đạt như vậy nhưng trong khoảng 50 năm gần đây , nhân tài của Đường Lâm hầu như vắng bóng . Lý do nào đưa đến sự việc như vậy ? Chúng ta thử cùng nhau khảo sát về mặt Phong thủy để tìm nguyên nhân. Trong loạt bài này , dienbatn có sử dụng một số tư liệu trên Internet và những tư liệu của dienbatn sau nhiều năm điền dã. Những kết luận riêng của dienbatn còn thô thiển, rất mong được các cao nhân giúp đ. Thân ái. dienbatn.

2. MỘT CÁI NHÌN TỔNG THỂ VỀ  ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI.




Khi khảo sát Phong thủy một vùng đất , ta phải khảo sát vùng đất đó nằm trong tổng thể Long mạch của một vùng rộng lớn , từ đó ta mới có cái nhìn toàn diện và sâu lắng hơn . Đặc biệt vùng đất Đường Lâm xứ Đoài vốn có nhiều truyền thuyết lạ kỳ, có nhiều phong tục còn được ghìn giữ hàng nghìn năm qua , còn có nhiều nhân chứng , vật chứng cụ thể nên việc khảo sát Phong thủy và đưa ra những kết luận cần phải được điền dã, khảo sát và nghiên cứu một cách thật nghiêm túc . dienbatn không dám mộng tưởng là loạt bài viết này sẽ là cơ sở chắc chắn để có thể đánh giá về Phong thủy của vùng này , chỉ mong những sưu tập , những kết quả điền dã về vùng đất này nhiều năm qua sẽ là những viên đá lót đường cho người sau hoàn thiện mà thôi.

2.1. TOÀN CẢNH LONG MẠCH VIỆT NAM.


Đây là tấm bản đồ trong tập Atlat của Thiên Sứ , dienbatn đã dùng bút chì đỏ tô hình Long mạch của Việt Nam và đăng năm 2003 trong bài PHONG THỦY - Hiện tượng trấn yểm trên sông Tô lịch - Cửa Tây của thành Thăng Long trên trang Tuvilyso.com. )

" Những tìm hiểu của KTS Trần Thanh Vân về đại địa mạch quốc gia. 
Cách đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú vị: Hình một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m). 
Đó là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta. 
Thế mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và dòm ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lý Thái Tổ đã quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt phá được thiên la địa võng mà Cao Biền đã trấn yểm trên thành Đại La cũ 200 năm trước. 
Cho đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lý thuyết về địa mạch thì đã hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới nắm giữ được, thì nay đã bị phơi bày ra tất cả. 
Cái chính là "thiên hạ" thì biết cả, nhưng những người trong cuộc có ý thức được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay không? 
Nhìn vào sơ đồ "vi địa mạch" - Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nước ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương (3143m). Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu... 
Thế nhưng các dãy núi chỉ "chầu" nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con sông thì đã "tụ" lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã "mọc" lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km. Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn "Đắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi" mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ. 
Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc. Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288. Kỳ lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ? Những người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3' 28'' từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia. Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Nhiều người vẫn còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng. Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lý nghe mô tả lại hiện tượng đó thì đoán rằng chắc có kẻ nào đó đã chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu champagne? "
" Xem long mạch thuộc vể nước Việt Nam thì có mấy Đại Long Sơn như sau:
A. Đại Kiện Long là dãy Trường Sơn hay Hoành Sơn vẫn là một phát nguyên từ vùng núi nước Trung Hoa qua tỉnh Vân Nam chạy dài về phía phải ngạn Đông qua miền Bắc Việt vùng Thượng Lào vào miền Trung Việt Nam Ai Cập. Lào giáp nhau suốt đến miền Nam Việt
Nam mới đình chỉ. Phía Đông và Nam là Biển Đông Nam Hải, phía Tây Nam thì sông Cửu Long là giới hạn Long Mạch.
B. Dãy núi Ba Vì (Tản Viên Sơn) cũng nổi liền từ miền núi tỉnh Vân Nam nước Tào, qua vùng phong thổ, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hưng Hóa, Sơn Tây dãy núi này một bèn là bờ sông nhị hà là giới mạch bên trái ngạn bên phải là sông Đà và sông Mã ở miền Bắc Việt Nam, qua vùng Hạ Đông, Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định v.v…
c. Dãy núi Tam Bảo cũng phát nguyên từ tỉnh Vân Nam nước Trung Quốc qua vùng Bảo Lạc, Nguyên Bình, Tuyên Quang, Vĩnh Yên v.v… Là Đại Kiền long qua tỉnh Phước Yên, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định là vùng Bình Dương Bắc Việt.
D. Dãy núi Huyên Đinh cũng phát nguyên từ dãy núi Thập Vạn đại sơn về nưóc Trung Quốc qua vùng Đông Hưng, Mống Cái, Yên Châu, Tiên Yên, Quảng Yên, Hải Phòng. Một chi đi qua vùng lục nam, Đông triều, sùng nghiệm đến phả lại Giáp Lục đầu giang băng qua vào miền Bình Dương (đồng bằng) tỉnh Hải Dương v.v…
Những dãy núi kể trên đều là những đại kiện long tức là thái tổ sơn của các thiếu tổ sơn ở trong những vùng ấy đã nảy ra bao nhiêu chi phái tức là tông sơn, khắp nước Việt Nam. Đã có nhiều chỗ đã chạy lìa thoát sa cả ra ngoài biển vả các côn đảo ở ven biển Việt Nam, những chỗ đó là băng hồng long mạch, thưòng có những đất quý.
Vũ Trung Tùy Bút, Phạm Đình Hổ, từ thế kỷ XVIII luận giải như sau :
” …Mạch núi Côn Lôn chạy vào ( Trung Hoa ) chia làm ba cán Long : một đằng theo sông Hoàng Hà chạy về phía Bắc, … một đằng theo núi Mân Sơn chạy về phía Đông,…một đằng theo sông Hắc Thủy chạy về phía Nam…phía Đông sông Hắc Thủy là những  tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và Lão Qua kéo dài tới tận núi Tiểu Côn Lôn lại biệt làm một chi thiếu tô. Chi này chạy sang nước ta  lại chia làm ba :
                – Chi bên hữu chạy qua sông Đà Giang là những tỉnh Hưng Hóa, Sơn tây, Sơn Nam, rồi chạy vào Nghệ An, Thanh Hóa, cho đến Thuận, Quảng thì tản ra các cù lao gần biển…
             – Chi bên tả qua Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên rồi qua đến biển là Hồng Đàm, đảo Đại Nhân…
            – Chi giữa tự núi Tam Đảo trở xuống, mênh mông liên tiếp thành ra những tỉnh Thái Nguyên, Kinh Bắc, Trung Đô, Hải Dương, Sơn Nam … ”   ( tr. 46-47 ).
            Tác giả kết luận ”  địa thế nước ta, toàn thể cũng giống Trung Hoa, chỉ có nhỏ hơn mà thôi “.
" Nhìn tổng quát như vậy ba ngọn Tam Đảo là chi giữa, làm tổ sơn cho toàn châu thổ Hồng Hà, là mạch xuất phát đổ khí lực vào Thăng Long, trong khi núi Ba Vì thuộc chi hữu mà Nguyễn Trãi, tác giả Dư Địa Chí và mọi nhà lý số, đều gọi là tổ sơn của cả nước. Tại sao lại có hai quan điểm không đồng nhất về tổ sơn ? Theo suy luận , núi Ba Vì tròn như cái lọng, sườn núi thoai thoải rồi vọt cao đứng, đó là hình núi thuộc Kim, núi Tam Đảo đỉnh phẳng lẫn đất đá, cây cối um tùm.. xây được chùa Đồng, như vậy có thể là hình dạng  Mộc. Cao Biền biết Sơn thần núi Tản rất thiêng nên không dám xâm phạm, còn ở Tam Đảo không thấy nói tới sơn thần ( mặc dù có vườn Tiên rất linh thiêng cầu đảo rất ứng ), hoặc có thể Cao Biền đã dùng pháp thuật chế khắc được nên mới dám dựng bia xây thành ? Vả lại, thế kỷ IX, khi chống quân Nam Chiếu ở Vân Nam đổ xuống, thì Tam Đảo là một cao điểm chiến lược ở tuyến đầu che cả miền châu thổ sông Hồng. khi Hoàng Phúc sang đất Việt, ông ghi nhận ” La Thành Bất Loạn ” để tán dương cái thế đất quân bình Âm Dương, Long Hổ của Đại La. Thời Minh các núi Tam Đảo, Tiên Du… tổng cộng 21 quả núi danh tiếng của An Nam, được tế tại giao đàn cùng với sông núi Trung Hoa ( đời Hồng Vũ nhà Minh, theo Đại Nam Nhất Thống Chí ). Nhưng khi nhìn tới bối cảnh của Tản Viên thì thấy tổ sơn này tụ long mạch của cả một rặng núi dài và cao là rặng Hoàng Liên Sơn song hành với sông Đà khí lực mạnh mẽ, lại nằm ở vị thế kín đáo , nên có phần trường viễn hùng hậu hơn Tam Đảo." - ( Hạ Long Bụt Sĩ LƯU VĂN VỊNH  ).

2.2. TOÀN CẢNH LONG MẠCH SƠN TÂY VIỆT NAM.







" Trên sơ đồ NÚI CHẦU SÔNG TỤ mà nhà nghiên cứu phong thuỷ Ngô Nguyên Phi đã mô tả, thì 8 dãy núi vòng cung xoáy theo hình rẻ quạt đi lần lượt từ dãy Đông Triều, Bắc Sơn, Ngân Sơn, Sông Gâm theo hướng Đông Bắc Tây Nam, đến dãy Sông Đà và Ninh Bình từ phía Tây Nam hất ngược lên, cuối cùng là dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Tam Đảo đi từ chính Bắc xuống… Tám dãy núi vòng cung quy tụ ở tâm điểm Thăng Long. Kèm theo hướng núi là hướng các con sông cũng đồng quy về trung tâm Thăng Long, đúng như 2 câu thơ vịnh của thầy Tả Ao:
“Thiên sơn vạn Thuỷ triều lai
Can Chi bát quái trong ngoài tôn nghinh” 
Đó chính là thế quý hiểm độc nhất vô nhị của nước ta."
Sơn Tây nằm lọt trong vòng tay của sông Đà ,và từ ngã ba Hạc sông Thao và sông Đà nhập vào nhau tạo thành sông Hồng ôm lấy cả một vùng đất đồng bằng sông Hồng . Theo trục Càn - Tốn ( Tây Bắc - Đông Nam ) thì Sơn Tây có Thanh Long là sông Hồng chảy ôm vào và Sơn Tây nằm ở Hữu ngạn của sông Hồng .Các bạn cứ để ý một điều rằng , tất cả các thành phố lớn hầu như nằm ở bên hữu ngạn các con sống ( Nhìn theo chiều dòng chảy hữu ngạn nằm bên tay phải ). Bạch Hổ của Sơn Tây là dãy ba Vì cao chót vót. Nội Minh đường là những cánh đồng thẳng cánh cò bay của các huyện Phúc Thọ, Đan Phượng... Trung Minh Đường có sông Hồng chảy cuộn vào và Ngoại Minh Đường là biển xanh rào rạt.
"Núi Ba Vì còn chiếm một vị trí quan trọng, không những về mặt địa lý mà còn có địa vị độc tôn trong tâm linh người xưa như đỉnh Olympus (cao 2.917m) nơi ngự trị của chúa thần Deus (Dớt) của người Hi Lạp cổ. Trong sách “ Dư địa chí”, Nguyễn Trãi viết: “Núi ấy là núi tổ của nước ta đó”.
Trong nhiều thế kỉ qua, nhiều sách vở, công trình nghiên cứu đã có một số kết luận về nền văn hóa dân gian xứ Đoài gắn với truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh liên quan đến núi Ba Vì.
Nhất cao là núi Ba Vì
Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn. 
Sự thực núi Ba Vì chỉ cao 1.296m, núi Tam Đảo lại cao đến 1.581m, nhưng vì núi này là nơi ngự của Thần núi (thần Tản Viên), nên được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất. Núi cao ở đây là cao trong tâm thức, không phải độ cao thấp đơn thuần về mặt địa lý. Truyền thuyết còn kể lại rằng núi Ba Vì là do Sơn Tinh dùng sách ước nâng núi lên cao, để ngăn nước lũ chống Thủy Tinh.
Nếu lấy núi Nghĩa Lĩnh (cố đô của nước Văn Lang thời tiền sử) làm tâm điểm thì núi Ba Vì và núi Tam Đảo là hai điểm đối xứng tạo thành “Thế tay ngai” trong luật phong thủy do triều đại Vua Hùng tạo lập.
Xứ Đoài đã ôm cả ba dòng sông lớn: Sông Đà, sông Thao, sông Lô. Ngã ba Bạch Hạc là nơi hợp thành của ba dòng sông ấy để rồi tụ thủy ở đầu sông Cái (sông Hồng) tạo dựng thành vùng châu thổ trù phú của đồng bằng Bắc Bộ ngày nay.
Núi Ba Vì không chỉ là ngọn núi huyền thoại về Sơn Tinh – Thủy Tinh mà còn là ngọn núi linh của xứ Đoài. Vua nhà Đường (Trung Quốc) đã coi núi Ba Vì như một đầu rồng hùng mạnh, còn thân rồng chạy suốt tời phương Nam (dãy Trường Sơn ngày nay). Để nước Nam không thể phát Vương, vua Đường đã cử Cao Biền (vị tướng kiêm phù thủy) dùng pháp thuật cho đào một trăm cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì để trấn yểm tà triệt long mạch nước ta. Nhưng cứ đào gần xong giếng nào thì giếng đó lại bị sập, nên chúng đành phải bỏ cuộc bởi dãy núi thiêng – núi Tổ của nước Đại Việt.
Những truyền thuyết dân gian về cuộc giao chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh chứng tỏ tổ tiên ta đã bắt đầu cuộc trị thủy mở mang bờ cõi từ hạ lưu sông Đà, sông Tích để tạo ra một vùng núi Ba Vì trù phú như ngày nay.
Núi Ba Vì là ngọn núi thần kỳ, là một trong những ngọn núi cổ nhất của nước Đại Việt. Những phát hiện về khảo cổ học vùng văn hóa cổ Ba Vì đã chứng tỏ đây là một vùng truyền thuyết lớn phát triển sớm trong lịch sử hình thành dân tộc."
" Trên bản đồ địa hình, trong thế đồng quy của 8 dãy núi xoáy lại, không rõ từ mạch ngầm nào mà ngọn núi Ba Vì sừng sững “mọc lên”, như thể tạo hoá đã cố công dụng nạp linh khí của “bốn phương tám hướng” về đây.
Đỉnh núi chỉ cao 1.296 m, nhưng là đỉnh cao nhất của khu vực Thăng Long, là nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh với bao nhiêu câu chuyện truyền thuyết, như chuyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh thời Hùng Vương; chuyện từng đoàn quạ đen sà xuống bên Hồ Tây uy hiếp giấc ngủ của Mã Viện, sau khi ông tướng già đó truy đuổi hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, khiến hai bà phải nhảy xuống sông tự vẫn ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên; đến câu chuyện thầy phong thuỷ Cao Biền bị Tản Viên Sơn Thánh phạt khi ông phù thuỷ này định dùng tà thuật để đùa giỡn với Thánh Nhân Đất Việt."
" Đỉnh núi Ba Vì, và cụ thể tại đỉnh cao 1296m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh chính là một cột ăng teng thu Thiên Khí giáng xuống, kết hợp với Địa Khí của Long mạch trầm hùng ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), Long mạch này sẽ kết Huyệt tại vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia. Đây chính là Đế Vương Huyệt của Việt Nam và tạo nên Thăng Long - Hà Nội. Như vậy Thăng Long chính là Đại Minh đường của Tản Viên." (Hoàng Lạc  ).
Theo quyển “Tấu thư địa lý kiểu tự” Cao Biền ghi tất cả là  632 huyệt chính, và 1517 huyệt bàng trên khắp các tỉnh . Tại Sơn Tây có :   36 Huyệt chính  và  85 Huyệt bàng.
2.3. DƯ ĐỊA CHÍ SƠN TÂY.

Nằm ở phía Tây kinh thành Thăng Long, từ xa xưa, Sơn Tây đã chiếm vị thế rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Vùng đất này được coi là phên dậu che chắn, bảo vệ mặt phía Tây của kinh sư. Không những thế, với lợi thế của một vùng đất cổ “địa linh nhân kiệt” và là vùng lõi của xứ Đoài nức tiếng muôn phương, trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, Sơn Tây đã trở thành vùng văn hóa đặc trưng với hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể vô cùng phong phú.
Theo một số thư tịch cổ, Sơn Tây vốn "là đất Phong Châu xưa, Hùng vương đóng đô ở đấy; đời Tần thuộc Tượng quận; đời Hán thuộc quận Giao Chỉ; đời Ngô tách đặt quận Tân Hưng... đời Đường đặt Phong Châu Đô đốc phủ thuộc đạo Lĩnh Nam...
Đến năm 1469, dưới thời vua Lê Thánh Tông, Trấn sở Sơn Tây đóng tại xã La Phẩm, huyện Tiên Phong, Phủ Quảng Oai (nay thuộc xã Tản Hồng, Ba Vì, Hà Nội). Thời kỳ đó gọi là Sơn Tây Thừa tuyên.
Thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786), Trấn sở được dời về xã Mông Phụ, huyện Phú Lộc, phủ Quảng Oai (nay thuộc xã Đường Lâm, Sơn Tây). Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Trấn sở dời về thôn Thuần Nghệ, huyện Minh Nghĩa (nay là nội thành Sơn Tây).
Năm 1831, trấn Sơn Tây đổi thành tỉnh Sơn Tây và trấn lỵ trở thành tỉnh lỵ. Năm 1942, Thực dân Pháp đổi tỉnh lỵ thành Thị xã Sơn Tây.
Tháng 4/ 1965, thực hiện Nghị quyết số 103 NQ/TVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thị xã Sơn Tây cùng với các huyện của tỉnh Sơn Tây sát nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây.
Tháng 12/ 1975, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc hợp nhất một số tỉnh, tỉnh Hòa Bình và tỉnh Hà Tây hợp nhất thành một tỉnh mới, lấy tên là Hà Sơn Bình.
Tháng 12/ 1978, Quốc hội phê chuẩn sáp nhập thị xã Sơn Tây, thị xã Hà Đông cùng một số huyện của tỉnh Hà Sơn Bình vào thành phố Hà Nội.
Tháng 10/ 1991, thị xã Sơn Tây được tách khỏi thành phố Hà Nội và chuyển về trực thuộc tỉnh Hà Tây.
Ngày 02/8/2007, Chính phủ có Nghị định số 130/NĐ-CP về việc thành lập Thành phố Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây.
Ngày 01/8/2008, thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thành phố Sơn Tây trở về với Thủ đô Hà Nội và trở thành đơn vị hành chính cấp thị xã. Thị xã Sơn Tây gồm 9 phường (Lê Lợi, Quang Trung, Phú Thịnh, Ngô Quyền, Sơn Lộc, Xuân Khanh, Trung Hưng, Viên Sơn, Trung Sơn Trầm) và 6 xã (Đường Lâm, Thanh Mỹ, Xuân Sơn, Kim Sơn, Sơn Đông, Cổ Đông).
( Tài liệu của Thư viện Hà Nội biên soạn ).
 Quần thể di tích làng cổ Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội có hơn 50 di tích lịch sử, kiến trúc, văn hoá nghệ thuật các loại, hàng chục lễ hội, 117 ngôi nhà cổ nằm trong diện cần được bảo tồn, trong đó có 37 nhà còn giữ được không gian truyền thống có niên đại từ 100 đến 300 năm. Không gian, môi trường của làng hội tụ đầy đủ những đặc điểm tiêu biểu của nông thôn vùng châu thổ sông Hồng. Nhiều công trình trong làng đã được xếp hạng di tích như: chùa Mía, đình Phùng Hưng, nhà thờ sứ thần Giang Văn Minh.... Làng cổ Đường Lâm mang giá trị đặc trưng của một làng Việt cổ ở vùng Châu thổ sông Hồng và được xem là "Bảo tàng lối sống nông thôn, lối sống nông nghiệp"... Không gian văn hoá làng cổ Đường Lâm hợp thành những công trình sở hữu chung của cộng đồng như: Đình, chùa, đền miếu, nhà thờ họ, ... Ngày 28/11/2005, làng cổ Đường Lâm chính thức trở thành di tích làng cổ đầu tiên ở nước ta được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng.

Xin theo dõi tiếp bài 3 - dienbatn .

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *