CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ . VŨ ĐIỆU TỐI CỔ . TÁC GIẢ - DAI HONG CAT.

5/17/2019 |
CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ . VŨ ĐIỆU TỐI CỔ TÁC GIẢ - DAI HONG CAT.

LỜI NGỎ dienbatn sẽ đăng lại một số bài viết hay của các ACE thế hệ trước từng làm mưa làm gió trên các diễn đàn Huyền thuật. Việc này nhằm ôn lại những kỷ niệm xưa cũ , và cũng thầm nhớ lại và tri ân những đóng góp của họ vào tri thức Huyền thuật của nước nhà. dienbatn chỉ chỉnh sửa một số lỗi chính tả ,còn để nguyên chất giọng vùng miền của họ.Xin chân thành cảm ơn các tác giả.
GIỚI THIỆU : ĐẠI HỒNG CÁT là một người khá hiểu biết về Huyền môn, nhất là về các chuyện về mộ cổ . Trong trang Thegioibuangai.com ( Sau này là Thegioivo hinh.com ) do anh Hùng Sơn chủ xướng khoảng gần 20 năm trước , thì tác giả ĐẠI HỒNG CÁT có nhiều đóng góp quan trọng về những kiến thức Huyền môn . dienbatn ngày xưa cũng có quan hệ thân thiết với tác giả ĐẠI HỒNG CÁT từ đầu những năm 2000. Thấm thoắt đã gần 20 năm. Xin tri ân những đóng góp trong Huyền môn của tác giả ĐẠI HỒNG CÁT.

Đại huynh Bá Bá là đạo hữu của Bửu Sơn Kỳ Hương.

VŨ ĐIỆU TỐI CỔ
Chiều hôm đó bỗng nhiên Lý Thông ghé ngang qua nhà, y nói “anh Tư có việc cần chú đi gấp” – “không lẽ đi ngay?” – “đi ngay kẻo không kịp”.
Leo lên chiếc Toyota camry đời 96 của Lý Thông thì đã thấy Tư Hường ngồi sẵn ở băng ghế sau, xem ra chắc là có chuyện quan trọng thật.
Chiếc Toyota camry đời 96 của Lý Thông là chiếc xe mang về từ bên Miên, có một đường dây chuyên phù phép biến hóa những chiếc xe mang lậu từ Miên về thành xe hợp pháp. Khoảng hơn chục chiếc xe giống y như của Lý Thông cùng nhong nhong chạy trên đường, tất cả cùng chung một hồ sơ gốc, khi nào bị “xộ” thì sẽ có một người “phù phép biến hóa” “biến cái không thể thành có thể” là mọi việc đều tốt đẹp.
“Đi đâu mà gấp vậy anh Tư?” – “Tám Nghĩa nhắn xuống gặp y gấp lắm”.
Tám Nghĩa hiện ở Mỹ Tho, vậy là phải xuống Mỹ Tho rồi.
Trong đầu ĐHC tự nhiên hiện ra một bóng người cao gầy, gương mặt khó đăm đăm, luân quách đều trễ xuống.
Trời tự nhiên đổ mưa, xe đến cầu Bình Điền thì có một người đã chờ sẵn, người này mở cửa xe leo tót lên ngồi cạnh Tư Hường. Y mặc áo mưa, che mặt kín mít nên chẳng biết là ai, còn Tư Hường thì dường như đã ngủ.
Đến ngã ba Trung Lương thì đã hơn bảy giờ tối, trời vẫn mưa như trút, trong xe hoàn toàn yên lặng bỗng người mới lên cất tiếng ca nho nhỏ :
“Đời còn gì vui hơn trong phút giây được yêu.
Đời còn gì đau thương khi lắng nghe tình vỡ.
Người tôi yêu đâu rồi, người yêu tôi đâu rồi…
Tình tôi đã chết rồi… “
Lý Thông phá lên cười khùng khục “ Bộ bị vợ bỏ hay sao mà ca bài này vậy cha?” –“Vợ bỏ rồi…bỏ thật rồi…” – người mới lên cất tiếng rất thẫn thờ, thẫn thờ…
Tư Hường đang ngủ say thốt nhiên thở dài “đời là bể khổ, chú theo anh đi tu luôn đi”.
ĐHC đã nhận ra người này, chắc là chuyện quan trọng lắm nên Tư Hường mới huy động lực lượng hùng hậu thế.
Trời mưa to quá nên xe chạy như rùa bò, đến thành phố Mỹ Tho, chạy dọc theo con lộ 4000 thì đã hơn tám giờ tối. Đến được nhà Tám Nghĩa thì thấy người đông kìn kịt, một cái hòm to tổ bố đặt ngay ngoài sân.
Không lẽ Tám Nghĩa chết rồi ?
Như vậy là không kịp gặp rồi ?
Đúng là Tám Nghĩa chết thật, xác còn chưa liệm nên không thể vào được, đành phải chạy xe tuốt lên nhà của bà BN thuộc xã ĐHP nghỉ tạm.
Căn nhà này là một căn nhà cổ, to vào bậc nhất xã, bề ngang khoảng hơn bốn chục thước, sâu cả trăm thước, cả hàng chục phòng, rộng mênh mông. Những cánh cửa, hoành phi, kèo cột đều làm bằng gỗ quý cả trăm năm mà không hề bị mối mọt, được chạm khắc rất tinh xảo. Hình chim sẻ đậu nhành mai, hoa cúc, dơi hay mây bay tầng tầng lớp lớp, kỹ lưỡng đến từng chi tiết mà thợ bây giờ e rằng khó có thể làm nổi. Nền nhà lót gạch tàu cỡ đại mà những viên gạch tới giờ này còn đỏ au, thẳng tắp, chưa bị lún. Giữa nhà còn có một cái hồ bán nguyệt ghép sành sứ nhìn lên xung quanh là những bức tranh tường vẽ theo lối “công bút” rất tỉ mỉ, những con cá chép rõ đến từng cái vảy, lá sen thì thấy cả những giọt sương long lanh… Tòa nhà này quả thật là một di tích cổ quý giá.
Phía sau nhà là cái sân rộng, sát ngay bờ sông, một cái nhà máy xay xát gạo đang xay tấp nập. Bà chủ nhà tỏ ra khá thân với Tư Hường, bà ta đúng là thuộc típ “đỏ da thắm thịt”, cao to, mập mạp, tính tình sởi lởi. Tin truyền miệng ở vùng quê phải nói là nhanh hơn tên lửa, chẳng cần phải hỏi, bà ta cũng kể chuyện “Tám Nghĩa chắc biết mình chết nên trưa hôm nay ổng mặc bộ bà ba trắng mới tinh, kêu cô con gái út nấu nồi cơm gạo thơm ăn với cá rô đồng kho tộ, canh bí. Sau đó ổng trải tấm chiếu mới lên tấm ván ngựa rồi nằm ngủ, đến chiều đứa cháu vào gọi mãi không tỉnh, lúc đó mới hay là ổng chết rồi”.
Tám Nghĩa có cả thảy bốn người con, vợ chết đã lâu, hai người con đầu đã ra riêng, ông ta sống với người con trai bị tật cà nhắc và con gái út là cô giáo tiểu học. Có một thời Tám Nghĩa cũng rong ruổi khắp miền Tây với Tư Hường, sau này tự nhiên ông ta chán đời, về nhà sống ẩn dật.
Mưa kéo dài mãi đến tận nửa đêm, đến khi vơi bớt hạt thì mới có người qua, đây chính là người sáng sớm hôm nay đã lên báo cho Tư Hường về gặp Tám Nghĩa gấp, chính là người con trai có tật cà nhắc. Sau vài câu thăm hỏi, anh ta đưa cho Tư Hường một cái bọc giấy “ba cháu dặn không được mở ra mà phải đưa tận tay bác” – Chờ cậu con ra về rồi, xung quanh không có ai, Tư Hường mới từ từ mở cái bọc giấy…
Chắc phải là vật gì quý lắm Tám Nghĩa mới bọc kỹ như thế, dễ phải đến hàng chục lớp giấy, cuối cùng thì cũng đến cái vật ấy… dưới ánh đèn vàng trong căn phòng nhỏ chỉ có bốn người, hiện ra một pho tượng vũ nữ bằng đất nung màu đỏ quạch thật tinh xảo, tầm cỡ này thì chỉ có ở những pho tượng cổ cực quý… chỉ đáng tiếc là nó lại là một pho tượng vũ nữ không đầu… Một vũ nữ bị cụt đầu…
Vũ nữ đang múa một vũ điệu gì đó, hai chân cô ta dang rộng ra, gối khụy xuống nhưng hai gót chân lại bắt chéo. Một tay uốn cong như con rắn còn tay kia giơ lên trên, hai bầu ngực tròn vo, cái bụng cũng no tròn, rốn sâu thăm thẳm, eo lưng ưỡn ra phía trước còn mông thì lại vểnh ra phía sau… Tư Hường cứ cầm pho tượng ngắm nghía mãi làm Ba Cao sốt ruột quá nói “Anh nói đại đi, có cái gì bí mật mà Tám Nghĩa trước khi chết lại gửi cái của nợ này chứ?”
Ba Cao chính là người mới bị vợ bỏ, y ốm nhom, nhỏ thó nhưng lại có biệt danh là Ba Cao vì y có một cái tài rất đặc biệt, đó là cái tài leo trèo nhanh như khỉ. Những cái cây cao chót vót, những vách đá dựng đứng, nhà lầu cao tầng, núi, đồi… trên những độ cao mà người khác nhìn xuống thấy chới với, thấy chóng mặt thì Ba Cao lại tỉnh bơ như không có gì. Những chuyện nguy hiểm, phức tạp, sinh tử thì Ba Cao coi như đồ bỏ, nhưng những chuyện tưởng như bình thường nhất thì lắm khi y lại rất vụng về, lúc Tư Hường xem bức tượng thì y cứ nhấp nha nhấp nhổm như là bị kiến cắn vậy.
Tư Hường nhìn mãi rồi y cũng đặt pho tượng lên bàn, Ba Cao liền chụp lấy gí sát mặt vào ngắm nghía, có điều cái cách y xem pho tượng khác hẳn Tư Hường, y xoay tới xoay lui, lắc lên lắc xuống, nhìn chắm chú vào cái cổ gãy của pho tượng, sau đó y đặt lại lên bàn, thở phì phì…
Vũ nữ có thân hình đẹp tuyệt vời, đường nét thật là khêu gợi, thật tiếc là lại không có cái đầu… một thân hình như vậy thì chắc gương mặt cũng phải tuyệt đẹp. Đường nét, vũ điệu hao hao giống như tượng trong các đền thờ của Ấn Độ, đền thờ của người Chăm, nhưng cũng không thật giống hẳn, vẫn có một cái gì đó khác biệt mà chưa xác định được là cái gì.
Pho tượng này dường như có một ma lực gì đó, nó làm cho không khí trở nên nghèn nghẹt rất khó chịu, Tư Hường bỗng vuột miệng nói sảng “các chú có bao giờ nghe kể về chủ nhân của ngôi nhà này không?” – Không đợi ai trả lời, y lẩm bẩm nói tiếp “ông ta cũng bị VM xử chém đầu, ở nơi đây có rất nhiều câu chuyện về ma không đầu…”.
Bây giờ đã hơn nửa đêm, trời lại đổ mưa ào ào, pho tượng vũ nữ càng trở nên lung linh, bí ẩn. Ngôi nhà cổ toát lên một mùi ẩm mốc và lạnh lẽo, một cơn gió lạnh từ đâu thổi luồn vào như chập chờn bóng hình của ai đó…
Cuối cùng thì Lý Thông cũng phá vỡ sự im lặng : “ Pho tượng không có đầu biết đâu lại đẹp hơn là khi có cái đầu “ – “ Có thể đúng, ví như pho tượng Venus de Milo, nếu gắn tay vào sẽ là thừa”.
Ông LS bị xử chém đầu, đầu một nơi, thân một nẻo – Khi gia đình mang về mai táng thì phải dùng một cái đầu bằng gỗ thế vào. Sau lần ấy căn nhà này trở nên hoang tàn và cô quạnh. Ông ta có cả thảy mười tám người con, trong đó lại có tới ba người là theo VM, sau năm 75 họ cũng không quay về căn nhà cũ. Còn có mấy người con khác thì đi vượt biên qua Mỹ, chẳng còn ai quan tâm săn sóc đến cái nhà của tổ phụ, bà BN lại là người con dâu. Bi kịch của những gia đình người Việt có lẽ chỉ những người Việt mới có thể hiểu được, những ám ảnh của quá khứ sẽ còn tồn đọng mãi trong tâm trí, phải qua nhiều thế hệ may ra mới lãng quên được.
Sáng hôm sau phải đánh xe ra tận thị xã mua một cái vòng hoa tang để viếng ông Tám Nghĩa, trên đường về thấy còn sớm, e gia đình chưa liệm xác xong nên cả đoàn ghé vào thăm chùa Vĩnh Tràng. Đây là một ngôi chùa cổ nổi tiếng nhất Nam bộ “Vĩnh cửu đối sơn hà, Trường tồn tề thiên địa”, hôm đó các sư đang họp trong chánh điện để tụng kinh, nên được nghe tiếng kinh vang vọng, ngân nga cả không gian.
Mặt trời gần đứng bóng thì cả đoàn mới tới nhà Tám Nghĩa, ông ta đứng tới thứ tám trong nhà, hiển nhiên còn có nhiều người nữa : Hai Hiền, Ba Thiện, Tư Tốt, Năm Lành, Sáu Trung, Bảy Hiếu… rồi Chín Lễ, Mười Trí, cuối cùng là Út Tín.
Tuy gia đình thì đông như vậy, nhưng trong số anh chị em chỉ có mỗi bà Chín Lễ. Bà ta thật giống Tám Nghĩa, cũng gương mặt đăm đăm như vậy, cũng có bộ luân quách trễ xuống y như vậy, bà ta nom thật già nua và xấu xí.
Ngày xưa Năm Lành cũng theo VM, ông ta bị thực dân Pháp bắt tra tấn dã man, không chịu nổi đòn thù, cuối cùng ông đã khai ra những người đồng đội. Bốn người VM bị Pháp bắt ra xử chém, trong đó có Tư Tốt và Bảy Hiếu.
Đây là xứ sở của những linh hồn không có cái đầu.
Năm Lành sau vụ đó bị VM tuyên án tử hình, ông ta trốn biệt về SG, vĩnh viễn không bao giờ xuống Mỹ Tho nữa, đám tang Tám Nghĩa lần này ông ta cũng không về.
Con cháu cũng còn khá đông, bà con láng giềng qua viếng cũng nhiều, so với anh em trong nhà thì Tám Nghĩa chết như thế là êm đềm nhất.
Đến hôm sau thì động quan, một hàng Đạo tỳ áo đen quần đen viền vải trắng, đội kết trắng viền đen và mang giày bố đen đi theo hàng đôi từ từ tiến vào đến trước Bàn vong. Sau đó thì dàn kèn và trống nổi lên, Đạo tỳ bái quan, lạy 4 lạy sau đó đứng hai bên quan tài.
Chấp sự cầm cặp đèn cầy giơ trước trán, ông ta lạy bốn lạy trước quan tài, sau đó lạy bốn phương tám hướng, múa cặp đèn cầy tới lui nom thật điệu nghệ. Điệu nhạc Nam ai bắt đầu nổi lên, Đạo tỳ sắp hai bên bắt đầu khiêng bổng chiếc quan tài lên, ra đến bên ngoài họ quay quan tài lạy về nhà cũ bốn lạy, lạy tứ phương bốn lạy, sau đó tay chấp sự rót một chung rượu trắng đặt lên trên nóc quan tài, việc khiêng chiếc quan tài này dù qua những đoạn đường khó khăn cỡ nào tuyệt nhiên cũng không được để đổ ly rượu. Việc khiêng quan tài ra tuốt ngoài ruộng khá gian nan, phải nói Đạo tỳ dưới vùng quê làm việc này thật hay, ly rượu không sánh ra lấy một giọt, đến chỗ hạ huyệt thì tay chấp sự lại nhảy múa một bài xung quanh ngôi mộ rất chi cầu kỳ, phức tạp.
Phút cuối thì hai thầy chùa tụng Kinh Hạ Huyệt 3 lần, tụng Vãng Sanh Thần Chú 3 lần, chiếc quan tài trong đó có Tám Nghĩa từ từ đưa xuống đất. Đến lúc này thì đám thợ khóc mướn mới trổ tài khóc như mưa sa bão táp, họ vừa khóc vừa kể làm náo loạn cả lên. Đám này hẳn là do bà Chín Lễ mướn tới, bà ta cũng cố gắng lắm mà không rặn ra được giọt nước mắt nào. Khóc đâu phải chuyện dễ, đó là cả một nghệ thuật, ngày xưa Lưu Bị nhờ có tài khóc đúng lúc mà lấy được cả thiên hạ, hay Đắc Kỷ chỉ cần mắt long lanh ngấn lệ là biết bao anh hùng hào kiệt đành buông kiếm?
Chỉ sợ đám thợ khóc này khóc lóc quá mức làm Tám Nghĩa đội mồ chui lên thì khốn, nhưng điều đó không xảy ra, ông ta yên lặng ra đi mà chẳng nhắn gửi một lời gì cả?
Tối hôm đó không ở nhà bà BN nữa mà qua bên nhà ông Sáu Nhẫn, một ông già trên tám mươi với bộ râu bạc trắng, đôi mắt sáng ngời, hình dung quắc thước. Căn nhà của ông cũng cổ không kém gì căn nhà của bà BN, hoàn toàn bằng gỗ, và ông đang dần biến nó thành một ngôi chùa. Trong chính điện treo một tấm tranh giấy dó viết chữ “Nhẫn” thật to, ông nói chính là nhờ tuân theo chữ “nhẫn” này nên đã sống được qua bao thời kỳ, bao chế độ. Ông Sáu Nhẫn đúng là một trí thức xưa điển hình còn sót lại, hồi trẻ ông từng theo học “école de garcon”, rồi sau đó là “Collège de Mytho”, đi học mặc bộ bà ba trắng, chân đi đôi guốc mộc.
khi gia đình lên SG ông mới chuyển đến học “PetrusKý”, tốt nghiệp “L’enseignement supérieux”. Ông từng chơi bóng đá với ông hoàng Xihanuk lúc đó đang theo học “Chasseloup - Lauba”. Ông còn có cô em gái học “Collège des jeunes filles” còn gọi là trường “nữ sinh áo tím”, cô này sau lấy chồng Tây và đã theo chồng về Pháp trước năm 54. Ba ngôi trường PetrusKý, Collège des jeunes filles và Chasseloup - Lauba là ba ngôi trường danh tiếng vào bậc nhất Đông Nam Á thời đó.
Ấy là nói về cái nghiệp văn, còn nghiệp võ của ông Sáu Nhẫn cũng dầy dạn lắm, đang ngồi uống trà nói chuyện là ông hứng chí ra sân múa biểu diễn một bài “Phật gia quyền” dài dằng dặc. Ở cái tuổi tám mươi mà bộ pháp của ông Sáu Nhẫn lúc thì trầm, lúc thì khinh, lúc thì triển, lúc thì hoạt liên tu bất tận chảy như nước sông vậy. Để trả lễ, ĐHC cũng đành đứng dậy múa bài quyền NahaKata của hệ phái “Thần đạo”, múa xong thì chân run lập cập, hơi thở hồng hộc làm ông Sáu cười khà khà, ông rót một chung trà nóng đưa cho ĐHC rồi nói “tại chú tinh thần không tập trung, lại thức khuya, dậy sớm, uống bia uống rượu nên khí lực không đầy đủ…”.
Buổi sáng hôm sau ông Sáu nấu một nồi cơm gạo trắng đãi cả nhóm ăn với mắm sống và thịt heo quay, còn ông thì lại ăn chay. Trong cái thời buổi nhiễu nhương này thì những con người cổ xưa như ông thật là vô cùng hiếm. Ăn uống xong ông Sáu Nhẫn mới dẫn tất cả ra ngoài ruộng, nơi đây có một khu mộ của dòng họ. Ông than thở “con cháu bây giờ bận rộn quá, chẳng còn đứa nào quan tâm nhiều đến mồ mả ông bà” – Ông chỉ một ngôi mộ nhỏ, với tấm bia trống trơn rồi nói “hồi xưa người này lưu lạc đến đây, không tên tuổi , không nhân thân, VM nghi ông ta là Việt gian nên xử tử. Khi ông ta chết rồi thì một vài người trong đó có ông Sáu thương tình quá mới gom xác và đầu của ông ta lại quấn vào một manh chiếu chôn ở đây”. Con người vô danh này chết oan nên không siêu thoát, thỉnh thoảng ông ta lại nhập vào một vài người đàn bà trong xã, quậy tưng bừng.
VM nghi con người vô danh này là Việt gian nên mang ra chém quách, thời đó việc chém đầu một người là một chuyện dễ dàng không cần phải suy nghĩ nhiều. Bây giờ thì con người không cần phải chặt đầu nhau nữa vì có còn đầu đâu để chặt? cứ thử nhìn quanh xem, biết bao kẻ đâu cần dùng tới cái đầu mà vẫn sống nhăn đấy thôi. Không cần phải suy nghĩ vì có người khác nghĩ thay rồi, cũng không cần phải nói vì có người khác nói thay rồi, hoặc có nói có nghĩ đi nữa thì cũng là nói bằng ngôn ngữ của người khác, nghĩ bằng suy nghĩ của người khác, cái đầu đâm ra không còn là một bộ phận thiết yếu nữa thì biết đâu theo quy luật “chọn lọc tự nhiên” nó sẽ dần dần bị đào thải?
Có lần một người đàn bà trong xã bị nhập, gọi là bà chứ cô ta cũng chỉ khoảng hàng băm. Đang ngồi gói bánh tét, cô ta bỗng đứng lên vò đầu bứt tóc, nhảy cà tưng, nói lảm nhảm. Cũng đã quen với việc này, những người khác vội chạy đi gọi ông Sáu, khi ông tới thì Vong trở nên rất ngoan ngoãn. Cũng như mọi lần, vong tự nhận là người bị chết oan đã mấy chục năm nay, “sống vất vưởng không đầu thai được, nơi Thành Uổng Tử bây giờ đông đúc lắm…” - Ông Sáu không phải là thầy bùa hay thầy pháp, ông chỉ là một Phật tử tu tại gia, nên ông vỗ về “ Nếu không có nơi nương tựa thì hãy theo ta về chùa, nương náu một thời gian, bao giờ trả hết căn quả thì mới đi đầu thai được” – “Thế vong hồn ông ta có nói mình tên là gì không?” – “Vong nói lí nhí rất khó nghe, lúc thì xưng tên là Tám Ngời, lúc thì là Hai Liên…, nói chung những linh hồn chết oan rất hoảng loạn, họ không thể nói rõ ràng được gì”.
Có điều xác thực là từ khi rước oan hồn về chùa thì nó ít còn nhập xác và quậy nữa.
Nơi đây còn có một địa danh gọi là “Đồng Mả Ngựa”.
Thời kháng chiến chống Pháp, từng có một người võ quan của nghĩa quân đánh nhau bị chết, khi chạy về đến xã ĐHP này mới chịu ngã ngựa… điều kỳ lạ là lúc đó người nghĩa quân này đã bị chém mất đầu. Vĩnh viễn không ai có thể biết được cái đầu của ông ta đã lưu lạc ở đâu, dân trong xã kính cẩn gọi người chết không đầu là “Ông Quan”, gom xác ông ta và xác con ngựa chôn chung một chỗ, mộ được lấp bằng những tảng đá ong. Ngôi mộ này linh thiêng đến mức hằng đêm mọi người đều nghe tiếng vó ngựa chạy rầm rập, tiếng ngựa hí vang… có người còn kể là đã thấy vị quan không đầu cưỡi ngựa chạy ngờ ngờ.
Hằng đêm “Ông Quan” đều hiện về, không đầu cưỡi ngựa để chiến đấu tiếp… làm dân làng trở nên hoảng sợ, cuối cùng họ phải tìm mướn thầy pháp về trấn yểm.
Tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn có người còn nghe tiếng ngựa hý.
Nơi chôn Võ Quan và con ngựa được gọi là “Mả Ngựa”, cánh đồng có ngôi mả gọi là “Đồng Mả Ngựa”, hồi xưa nó là một cánh đồng mênh mông, bây giờ thì khá nhiều người du cư đã đến cất nhà ở san sát, gần “Mả Ngựa” mọc lên mấy bụi tre um tùm, con nít hay tụ tập chơi ở đó, sự tích ly kỳ về “Mả Ngựa” vẫn còn được truyền khẩu bao thế hệ.
Thời xưa, khi Mỹ Tho còn là trung tâm kinh tế sầm uất bậc nhất Nam bộ, hàng ngày ghe thuyền từ khắp nơi tụ về đậu kín, trên bờ thì ngựa xe , người đi san sát, khung cảnh phồn vinh không gì tả nổi. Nơi đây người Tiều làm ăn rất phát đạt, trở thành những người giàu bậc nhất thị xã. Họ cho xây một ngôi chùa để thờ “Đức Thánh Quan”, còn gọi là “Chùa Ông”. Trong những năm chiến tranh biên giới phía bắc, ngôi chùa cổ bị đập bỏ, kể từ đó những người Tiều ở khu vực này làm ăn trở nên lụn bại, một số phải bỏ xứ ra đi, những ngôi nhà cổ cũng xuống cấp, sập xệ và u ám.
Sáng hôm sau Tư Hường ngao ngán nói “đã đến lúc phải về rồi”, chắc y nghĩ mãi cũng chưa hiểu Tám Nghĩa gửi pho tượng vũ nữ không đầu để làm gì. Y mang pho tượng ra, đặt nó lên trên bàn, ngay cạnh cửa sổ, pho tượng bằng đất nung đỏ chóe, chớp lung linh khi ánh nắng hắt từ ngoài vào. Ba Cao ngồi nhìn pho tượng chằm chằm, đôi mắt của y thật đờ đẫn, dáng vẻ thật thẫn thờ, có lẽ y đang nghĩ về cô vợ trẻ và đẹp, cô ta cũng đã từng là một vũ nữ, một vũ nữ khá là kiêu bạc.
“Người vũ nữ, người xưa mến thương ơi
Nhớ tới hương đêm kinh đô chưa qua đời
Nhớ tới đôi môi nụ cười
Nhớ tới xa xôi, nay đã xa rồi.”

Trong lúc mọi người đã đi ra ngoài hết thì Ba Cao ngồi nhìn pho tượng thật lâu, y nhìn mãi, nhìn mãi… đột nhiên y trở nên rúm ró lại, một kẻ can đảm và liều lĩnh như Ba Cao mà lại có thái độ như thế thì thật là kỳ lạ, nhưng lúc đó chẳng có ai nhìn thấy điều ấy, mãi sau này thì Ba Cao mới kể là y đã thấy cái gì ?
Y đã thấy cái gì ?
Có những điều mà không phải ai nhìn cũng thấy, mà cần phải có một sự tương tác, một sự đồng cảm nào đó, thì lúc đó con người mới “thấy” được những điều mà bình thường dường như là vô hình. Vì thế mà khi Tư Hường, Lý Thông hay ĐHC cũng ngồi nhìn thật lâu vào pho tượng như Ba Cao mà chẳng thấy có sự khác lạ nào.
Chắc là Tám Nghĩa cũng nhìn thấy cái gì đó nên ông ta mới gửi pho tượng này lại, nhưng chắc gì cái điều mà ông ta nhìn thấy giống như cái mà Ba Cao đã nhìn thấy hay sau này nhiều người cũng đã nhìn thấy ?
Pho tượng vũ nữ không đầu lấp lánh trong ánh nắng, thon thả và cong dài, hai cánh tay thật uyển chuyển nhưng không che khuất bầu vú căng tròn, biểu tượng của nguồn sống đã từng xuyên qua hàng ngàn năm buổi sáng, hàng ngàn năm buổi chiều, hàng ngàn năm buổi tối, hàng ngàn ngàn vì sao lấp lánh hay hàng ngàn tia nắng chói.
Lý Thông thì thầm “tôi biết vì sao Tám Nghĩa gửi pho tượng này cho Tư Hường rồi” – không đợi trả lời, y nói tiếp “vì Tám Nghĩa cho rằng Tư Hường là kẻ… không có cái đầu” – nói đến đó Lý Thông cười lên khùng khục, xem ra cái thời buổi “Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều” này, cái cách nghĩ của y cũng đầy chất Lý Thông thật. Nhưng nếu Tám Nghĩa thật sự có ý nghĩ đó, thì đâu phải ông ta gửi riêng gì cho Tư Hường ? Mà có lẽ gửi chung cho tất cả chúng ta, chưa bao giờ ở thời đại nào, trên xứ sở này người đàn ông lại trở nên kém cỏi và ti tiện như thế… người đàn ông đã trở nên khiếp nhược như thế và những người đàn bà của họ đành phải đi tha phương cầu thực … Suy cho cùng một người đàn ông đã bị chặt đứt đầu thì có thể làm được gì ngoài cái việc đi lang thang để tìm cho mình một cái đầu khác? Ở bất cứ đâu, khi con người buộc phải nói những điều họ không tin để có thể tồn tại thì những lời nói đó dần dần sẽ trở thành một thứ đạo đức của họ, nhưng là một thứ đạo đức giả, một sự dối trá dẫn họ đi đến sự suy đồi và đánh mất chính mình.
Tư Hường đưa cặp mắt ti hí nhìn Ba Cao, y có gươngg mặt giống hệt Tăng Quốc Phiên, hai mép miệng trễ sâu xuống. Nếu có cái gì thoát khỏi cặp mắt của Tư Hường thì cái đó nhất định không phải thuộc về thế giới này. Chắc là y sẽ hỏi Ba Cao nhìn thấy cái gì ? – Nhưng y lại không hề hỏi điều đó, y móc điếu thuốc ra châm hút, liên tục châm vào điếu thuốc đang hút dở…
Ba Cao đã từng trải qua thời kỳ hoàng kim, đó là lúc y đi buôn đá quý. Thời VN mới mở cửa biên giới với TQ, vùng biên Lạng Sơn cũng còn hoang sơ chứ chưa sầm uất như bây giờ, lúc đó kẻ nào nhanh chân thì kẻ đó thắng lớn, mà về khoản nhanh nhẹn thì Ba Cao luôn là số một. Y đi buôn đá cẩm thạch, qua tận bên Côn Minh, nơi có những núi đá cẩm thạch nguy nga. Có vô số cách để vượt biên giới, đi lậu theo đường cửu vạn, đi đường bộ qua cửa khẩu với tấm hộ chiếu hẳn hòi, đi đường không qua HK rồi từ đó bay sang Côn Minh, đường nào cũng được nhưng chắc chắn về phải là đường bộ, mà là con đường vận chuyển lậu hàng tấn đá bằng sức người. Những tảng đá cẩm thạch nặng cả tấn được xả nhỏ ra thành từng phiến như những viên gạch thẻ, sau đó đám cửu vạn sẽ cõng qua biên giới. Tất nhiên cả đoàn người đi nườm nượp như vậy thì làm sao mà qua khỏi BP được, chẳng qua là đều có sự sắp đặt cả, mỗi người một ít, “đời thì phải biết nương nhau mà sống chứ !”. Những chuyện liều mạng như vậy rất hợp với Ba Cao, và y còn làm một chuyện liều mạng hơn nữa, đó là dám lấy một vũ nữ kiêu sa về làm vợ. Cô vũ nữ thật là đẹp, chắc là đẹp hơn pho tượng rồi vì pho tượng thì đỏ quạch, không đầu, còn cô vũ nữ thì trắng muốt với đôi môi tươi mọng. Từ những tấn đá cẩm thạch mang về, Ba Cao biến thành những viên kim cương nho nhỏ, xinh xinh trang điểm thêm cho cô vũ nữ vạn phần tươi đẹp. Khi ở TQ, Tiền ND tệ nhiều đến mức y phải gói lại thành một tấm nệm để nằm ngủ - “ngủ trên tấm nệm tiền là đã nhất, lúc đó ngay của trong giấc mơ cũng thấy toàn là tiền” - Tuy nhiên ở Côn Minh thường gặp phải đá giả nên lần cuối cùng Ba Cao muốn đánh một quả lớn, với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, y gom hơn trăm ngàn đô lận trong người, đi đường bộ qua tận đảo Hải Nam mua một tảng đá cẩm thạch nặng hai tấn chở từ Côn Minh về, có bảo chứng hẳn hòi. Nhưng đúng là số trời, ở đường cưa đầu tiên xả đôi tảng đá, những vết nứt của nó nhiều còn hơn rễ cây đước ở rừng U Minh vậy.
Lần đó khi về lại SG, trên người Ba Cao chỉ còn lại mỗi bộ đồ, nhưng lúc đó y vẫn còn có một cô vợ… còn bây giờ thì đến cả cô vợ cũng không còn.
Tư Hường vẫn chưa nói gì, y chỉ phì phà hút thuốc. Còn Lý Thông thì lại cầm lấy pho tượng mân mê và ngắm nghía, pho tượng vũ nữ cổ này dư sức biến chiếc Toyota Camry đời 96 của y thành chiếc Lexus ES sang trọng và cáu cạnh. Nhưng Lý Thông mà không có Thạch Sanh thì có thể làm được gì ?
Cuối cùng thì Tư Hường cũng nói, nhưng mà lại nói một câu chẳng ăn nhập gì “ngày mai mấy chú về lại SG, tìm đến nhà người này…”
Chưa “làm ăn” được gì thì lại phải quay về SG làm Ba Cao bực dọc văng tiếng chửi thề, y vẫn không bỏ được tính nóng nảy, có lẽ y sốt lên vì phải xa pho tượng vũ nữ ?
Cuối cùng thì Ba Cao cũng kể y đã nhìn thấy cái gì.
“Tôi nhìn một lúc thì giống như bị ảo giác, đột nhiên thấy pho tượng vũ nữ từ từ lay động, sau đó nó bắt đầu múa một vũ điệu thật kỳ ảo… phía xa xa là một đền thờ chìm trong sương mù. Nhưng kinh khủng nhất là khi từ cái cổ vũ nữ bắt đầu phụt ra những tia máu đỏ lòe, những tia máu đó bắn vào mặt cho cảm giác nóng hôi hổi, chưa bao giờ có cái cảm giác ghê sợ như thế” - “đó là một pho tượng ma - Ba Cao nói – Tám Nghĩa tự nhiên bị đột tử biết đâu cũng là do pho tượng, bây giờ anh Tư giữ nó thì phải coi chừng.”
Lý Thông lại cười khùng khục, họ Lý có vẻ không tin lắm vào chuyện Ba Cao kể. Đây là một pho tượng cổ có một giá trị kim tiền đích thực, vì thế những người trong cuộc bắt đầu nghi ngờ lẫn nhau... Một pho tượng có giá như thế mà Tám Nghĩa để lại cho người ngoài thì cũng lạ? – Hay nó là một pho tượng ma ? Tám Nghĩa muốn trút gánh nặng đó cho Tư Hường ?
Xứ Mỹ Tho có một vùng đất gọi là Gò Thành, là một giồng đất sét pha cát nhân tạo rộng hơn 1 mẫu, cao ba mét so với mặt nước. Khi người Pháp phát hiện và khai quật nơi này họ đã mang về xứ tất cả những gì tìm được. Sau này có vài đoàn khảo cổ của VN tiếp tục đào bới nữa, cũng thu hoạch được chút ít những gì còn sót lại mà người Pháp không kịp vét hết do chiến tranh. Suốt mấy chục năm, dân sống ở gần đây vào những dịp mưa lớn cũng tình cờ lượm được những mảnh vàng hay một vài cái bình cổ, đĩa cổ, vài mảnh tượng vỡ, nhiều viên đá cuội… nhưng có người lại mang đập cái bình ra để tìm vàng trong đó, thế là đi đứt. Di chỉ này là của một vương quốc cổ xưa, có một thời rất huy hoàng gọi là Vương Quốc Phù Nam. Vương quốc này trải dài từ đông sang tây Nam Bộ, đến tận Campuchia và Thái Lan. Thời đó, Phù Nam là vương quốc hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á, họ rất sùng bái thần linh, người Phù Nam cho mình là con của thần Mặt Trăng và Mặt Trời. Qua những gì còn lại của họ có thể thấy đời sống tâm linh của người Phù Nam rất phong phú, họ coi trọng sự thờ cúng, hiến tế, xây dựng các đền đài rất nguy nga, đồ sộ, hao phí sức người, tiền của… phải chăng dân tộc của họ bị tuyệt diệt là do điều này?
Chưa xác định được pho tượng vũ nữ cổ có phải là Phù Nam hay không, nhưng nếu đúng đi nữa thì cái khả năng Tám Nghĩa tìm được ở Gò Thành cũng không chắc lắm vì nơi này hầu như đã bị đào tung, không còn gì nữa.
Biết đâu Mỹ Tho ngoài Gò Thành ra có thể còn những nơi khác?
Bỗng nhiên Ba Cao tự sỉ vả “mình không thể quên được, mình đúng là thằng ngu, là thằng không ra gì, tình nghĩa ở đâu mà nặng, mà nhiều thế ?”.
Ai là người có đủ ý chí để có thể quên đi được những điều cần phải quên, nhớ được những điều cần phải nhớ ? – Tư Hường nói “có một người – chúng ta hãy đến tìm người đó”.
Đi từ sáng sớm mà tận xế chiều mới tìm được nhà của ông Năm Lành, không biết nên gọi là nhà hay là chùa nữa. Ở xứ sở này có cả hàng ngàn cái chùa tự tạo như vậy, và vì thế cũng có cả hàng ngàn thầy chùa, thầy pháp như thế. Đó là những điện thờ nhỏ bé để nhà tu hành sống một cuộc sống ẩn dật, trong số họ cũng có những bậc chân tu và cũng đầy những người trần tục.
Ông Năm tuy gầy gò nhưng thật là đẹp lão, mái tóc trắng bạc phơ, ánh mắt của ông thật hiền và nụ cười nhân ái, nhất là hai hàng lông mày thật là dài, biểu hiện của sự trường thọ, đúng là một tiên ông giữa đời thường. Cả ĐHC lẫn Lý Thông, Ba Cao đều ngưỡng mộ nhìn cái đầu của ông, chẳng phải là để có được cái đầu này ung dung trên cổ thì đã từng phải có tới bốn cái đầu khác rơi xuống hay sao?
Tự nhiên có ba người lạ hoắc tới tìm, ông Năm không hề tỏ ra ngạc nhiên, có lẽ vì những người xa lạ đến tìm ông cũng nhiều. Có người đến để thờ cúng, đến để đàm đạo, đến để học tập kinh sách… nhưng chủ yếu là đến để hốt thuốc vì ông Năm bây giờ vừa là thầy tu vừa là thầy thuốc nam. Trong nhà ông , trừ điện thờ ra chỗ nào cũng chất đầy các loại rễ cây, vỏ, lá… mùi đủ loại cây thuốc thơm sực nức. Có cả chục người đang ở trong nhà, họ đều bỏ ra ngoài khi thấy bọn ĐHC tiến vào, có lẽ họ nghĩ đám này là CA cũng nên. Sau những câu chào hỏi, trong lúc uống ly trà nhài thơm phức, Lý Thông mới thăm dò “bọn tôi tới để xin lại Món Đồ mà lúc trước ông Tám có gởi lên cho thầy…”
Tư Hường đã suy luận như vậy - Y thật là tài tình, linh cảm là một món quà mà Thượng Đế ban cho con người, nhưng không phải ai cũng được hưởng.
Nghe nói thế ông Năm gật đầu, ông cũng đang chờ con cháu ông Tám lên để đưa lại mà mãi không thấy ai đến. Tám Nghĩa đã gửi cái bọc giấy này lên khá lâu rồi, cái bọc vẫn còn y nguyên, ông Năm chưa hề mở ra xem.
Cái bọc giấy này y hệt cái bọc giấy mà Tám Nghĩa gửi cho Tư Hường.
Năm Lành đã tìm đến đạo Phật như một sự giải thoát khỏi cái quá khứ đau buồn, nhưng ông càng muốn quên đi cái quá khứ ấy thì Tám Nghĩa lại càng muốn khơi lên điều đó. Ông Năm đã tìm được một con đường mới cho chính cuộc đời của mình, một con đường đòi hỏi phải đặt vào đó tất cả niềm tin và ý chí, còn Tám Nghĩa thì vẫn lầy lội trong cái quá khứ bi kịch vừa có dáng vẻ đau thương vừa có dáng vẻ hào hùng mà chính ông ta cũng không thể tự lý giải được. Còn Ông Năm từ lâu lắm rồi đã giải thoát khỏi quá khứ, đã tìm cho mình một con đường mà với ông, đó chính là sự quên mình.
Chẳng biết giữa Tám Nghĩa và Năm Lành ai đúng ai sai, nhưng sớm muộn gì thì họ cũng mang cái quá khứ ấy trở về với cát bụi… đám con cháu với những nỗi lo “cơm, áo, gạo, tiền” đâu có rỗi hơi mà nghĩ đến.
Khi tất cả đi hết rồi, chỉ còn một mình Tư Hường trong căn nhà trống trải. Ông Sáu cũng đã đi đâu đó, thực ra tuốt phía sau nhà bếp cũng có vài người đàn bà và mấy đứa con nít, những người sống nương tựa vào ông Sáu, họ quét dọn và nấu nướng, thỉnh thoảng hái trái cây mang ra chợ bán.
Pho tượng vũ nữ không đầu vẫn đang múa trên bàn.
Tư Hường lại châm thuốc hút, dù là chỗ đông người hay một mình, lúc nào y cũng hút thuốc, một loại thuốc rẻ tiền…
Y đâm ra sợ pho tượng, bởi vì Ba Cao đã nhìn thấy những điều kinh khủng từ pho tượng, Ba Cao đã nhìn thấy thì tất nhiên Tư Hường cũng nhìn thấy. Nhưng y không hề nói ra – Đâu có gì bắt buộc con người phải nói ra tất cả những điều mà họ nhìn thấy ?
Cảm thấy sợ khi phải ở một mình với pho tượng, y đứng dậy thong thả đi ra ngoài, theo con đường nhỏ đi hơn nửa tiếng thì ra đến chợ.
Tư Hường thích ngắm nhìn những người đàn bà ngoài chợ, dân gian từng có câu “trai khôn tìm vợ chợ đông”, Tư Hường không đi tìm vợ, nhưng y tìm được rất nhiều điều từ những ngôi chợ làng quê này.
Đây là một ngôi chợ cổ xưa có tuổi cỡ trăm năm rồi.
Chỉ cần nhìn sơ qua khu chợ, nhất là những cái thúng cái mẹt của những người “buôn gánh bán bưng” là có thể hiểu cuộc sống của “người Việt”, chẳng phải là ở cái chợ nhỏ bé này, nơi kinh thành sầm uất cũng vậy thôi.
Đây là một đất nước thuộc sở hữu của các Vua Chúa, của các Vị Tướng đã từ hàng ngàn năm rồi, và các Vua Chúa, các Vị Tướng phi thường đó vẫn hàng ngày mỉm cười độ lượng nhìn các thần dân của mình, việc chăn dắt cả một bầy cừu hiển nhiên là không dễ dàng.
Tư Hường thong thả đi qua cầu, y đi bộ tà tà theo những con đường ruộng, nhiều năm trước y đã cùng với Tám Nghĩa đi như thế này, bây giờ thì chỉ còn một mình.
Lúa đã bắt đầu ngậm sữa, tỏa ra một mùi thơm phảng phất.
Nơi y đến là một ngôi chùa, thực ra đó là một ngôi nhà nhưng đã biến thành chùa từ hàng chục năm nay rồi, bên trong chính điện thờ tượng Phật Thích Ca, bên ngoài là tượng Quan Âm cầm tịnh bình, trên đầu có che lọng. Đây là nơi tu hành của các sư nữ.
Những nơi như thế này không thuộc quyền quản lý của giáo hội, vì họ không đề tên chùa… cuộc sống ở nơi này là cả một sự thanh bình. Họ sống hoàn toàn tự cung tự cấp, chùa có mấy mẫu ruộng, các sư cô tự cày, cấy, gieo trồng và gặt lúa, những công việc nào cực nhọc quá thì họ thuê thêm người ngoài làm. Lúa trồng để chùa dùng, họ còn bán bớt để mua thêm quần áo, dầu, nhang đèn..., xung quanh chùa trồng đủ loại cây ăn trái, đủ các loại rau cải, trồng đậu nành để làm đậu hủ, các sư nữ còn tự làm chao để ăn, món chao của họ có thể nói là ngon tuyệt vời, hơn chao đỏ HK nhiều.
Tư Hường ngồi đàm đạo với bà Chín, một ni sư già nhất ở đây… có lần y hỏi sao chùa không đặt tên, sư bà nói “nêu đặt tên thì phải vào giáo hội, lúc đó nhiều khi họ cử người khác đến để trụ trì ngôi chùa… mà ở nơi đây họ sống như vậy đã hàng chục năm nay rồi. Mỗi người một hoàn cảnh, có người tu từ tấm bé, có người gặp hoàn cảnh éo le xuống tóc đi tu… lâu ngày họ đều có gương mặt hao hao giống nhau, một gương mặt hiền hiền như mặt Phật.
Nơi đây không cần phải có phật tử cúng dường, của cải họ tự làm ra nhiều khi còn dư để giúp những người cơ nhỡ. Các ni sư sống một cuộc sống tự cung tự cấp, bình yên và trong lành, nơi này có khác gì Niết Bàn ?
Niết Bàn có gì khác nơi này ?
Từ giã ngôi chùa của các Ni sư, Tư Hường lại đi lang thang theo những bờ ruộng, đến một bờ kinh có cái chòi nhỏ, y leo lên đó ngồi. Nắng trưa như đổ lửa, cái nắng này sẽ báo hiệu một cơn mưa lớn sẽ kéo đến, ba bốn đứa trẻ đang bơi lội dưới dòng, chúng hò hét ầm ĩ…
Ngồi trên chòi nhìn ra cánh đồng mênh mông trước mặt, bất giác Tư Hường lại chìm vào dĩ vãng, đó là cái thời ở “Đồng Tháp Mười”, còn gọi là khu tám.
Làm sao có thể quên được những cánh rừng tràm bạt ngàn, những cánh đầm mênh mông với muôn vàn đoá sen rực rỡ của mùa nước nổi… Lúc đó Pháp càn dữ dội, Tám Nghĩa lại phải đi Gò Công, mà đi Gò Công lúc đó là “không có đường về”, trước khi đi y đã gửi gắm một việc…
Vợ Tám Nghĩa lúc đó còn trẻ lắm, đẹp lắm, mới ngoài hai mươi, đang mang cái bầu đứa con đầu lòng chang bang, ở một mình trong cái chòi bên kinh Dương Văn Dương. Cứ khoảng vài ngày Tư Hường lại chèo tam bản ra tiếp tế lương thực cho chị Tám.
Lần đó y chèo qua Vàm Cỏ Đông để đón Sáu Trung, lúc này muốn ghé thăm chị dâu trước khi về khu chín. Chiếc tam bản đi ra tới giữa dòng Vàm Cỏ thì nghe tiếng phạch phạch của trực thăng, lúc đó đâu còn tấp vào bờ kịp nên mạnh ai nấy nhảy, Tư Hường nổi tiếng bơi như rái, y còn ráng cắp theo cả cái nón lá, sợ trôi mất, Sáu Trung bám vào cái tam bản, nên bị dính một loạt đạn, chìm mất tích.
Tư Hường ráng bơi mãi, bỏ mất luôn cái nón lá, đến xế chiều y tìm được chiếc ghe khác, chèo đi tìm Sáu Trung thì không thấy, sau đó quay lại kinh Dương Văn Dương, đến chòi chị Tám thì đã thấy tan hoang cả, vợ Tám Nghĩa bị đạn bắn từ trên cao, rơi xuống kinh, xác trôi cầu cả mấy cây số… bà vợ sau này là bà thứ hai của y.
“Bác mua cá hông bác” – Tư Hường bất giác giật mình, y nhìn thấy một đứa trẻ đứng trước mặt, một đứa bé đen nhem nhẻm.
“Bác mua cá hông bác – bộ bác ngủ quên hả ?” đứa bé hỏi lần nữa.
Tư Hường dụi mắt, buổi trưa làm y cảm thấy mệt mỏi, y rít một hơi thuốc, chăm chú nhìn đứa bé. Đứa nhỏ khoảng mười ba mười bốn tuổi, trên tay cầm một con cá lóc to xù, chắc có lẽ nó mới câu được.
Tư Hường nói “phải nhóc con Hai Ngang?” – “phải” chú bé ngần ngừ đáp.
“Vậy chú mày tên gì” – “tui tên Mương” – ngừng một lát ,chú bé nói tiếp “hồi nhỏ ba tui lượm được tui dưới mương nên đặt tên là Mương.” Tư Hường cười khì khì, chắc có nhiều người thắc mắc về cái tên “Mương” nên chưa hỏi chú bé đã tự giải thích - “thế ba mày dạo này sao rồi, ổng còn nhậu dữ không?” – “ổng hết nhậu nổi rồi, nếu không thì tui mang con cá này về cho ổng, đâu bán làm gì”.
Tư Hường bỗng thèm món cá lóc nướng trui nên mua con cá, y cũng muốn giúp đứa bé.
Y bỗng nhớ đến lần đào ngôi cổ mộ ngay ruộng nhà Hai Ngang, ngôi mộ này bị bỏ hoang cả mấy chục năm rồi, sau này con cháu trong dòng họ truy lại gia phả mới tìm lại được. Ngôi mộ bị bỏ hoang lâu năm nên đã lún hầu như tất cả, chỉ còn ló bốn cái trụ bằng đá ong lên phía trên, lâu nay bọn trẻ chăn trâu hay dắt trâu về nghỉ ở chỗ này. Dòng họ này về sau đàn ông bị chết đột tử, bị tù đày rất nhiều nên con cháu coi thầy thì được phán rằng do mồ mả ông bà tổ tiên bị lún nên xảy ra cớ sự, khi họ tìm lại được mộ của cụ tổ thì thấy đúng như vậy nên muốn cải táng lại.
Lần đó Tư Hường đào được một ít xương mục còn sót lại và một chiếc vòng đen tuyền bằng ngọc huyền. Chiếc vòng này người ta gọi là “Vòng yểm tâm”, được đặt trên ngực một người chết trẻ hay chết bất đắc kỳ tử, người này chắc chết vào giờ rất xấu, mộ lại bị bỏ hoang phế, trâu bò leo lên dẫm đạp nên dòng họ sau này bị nhiều chia ly, con cháu lụn bại… Chiếc “Vòng yểm tâm” cổ này rất quý, Pháp sư dùng để mài cho người bị vong nhập, ma nhập hay người bị động kinh uống sẽ hoàn hồn lại.
Thế mà Tám Nghĩa vẫn cho Tư Hường là kẻ “không có cái đầu”, chính là từ cái hôm Mười Trí tìm đến…
Mười Trí đúng là dân làm ăn chuyên nghiệp, y chẳng rào đón gì, vào đề liền “Bọn ngoài Bắc đang chào bán một đôi hươu cổ nghe đồn bằng đồng đen, nên tôi muốn nhờ hai anh lên xem, xác định giúp là thật hay giả” – “Hươu hay là tỳ hươu ?” – “tôi cũng chẳng rõ là hươu gì nữa, bọn nó ra giá ba mươi cây vàng, nếu đúng là tượng cổ bằng đồng đen thì giá này khá mềm nên tôi đã cọc trước ba cây để cho tụi nó mang vào trong này”
Mười Trí là tay tổ trong chuyện “đánh quả”, nếu không ngửi thấy ngon ăn thì đâu chịu bỏ ra ba cây cọc trước. Y nói tiếp “Bọn nó sợ bị cướp nên không chịu giao ở SG mà đòi hẹn gặp ở… Plâyku, có cơ sở của tụi nó trên đó” – “hẹn gặp chỗ lạ, tụi nó cướp vàng thì sao ?” – “Chính vì thế tôi phải nhờ hai anh và thêm mấy thằng đàn em nữa, tổng cộng là sáu người” - “Thực ra vụ này tôi cũng không bỏ vốn hết, đã có một thằng đại gia chuyên đánh hàng từ đây đi Thái Lan, sau đó qua Âu chịu giá với tôi là bảy chục cây rồi, nếu chuyện này mà thành công sau khi trừ vốn, tôi sẵn sàng chia 1/3” – Y năn nỉ “ Đôi hươu này nghe nói được lấy ở một ngôi chùa cổ từ cái thời cải cách ruộng đất, bọn họ chôn giấu mãi đến bây giờ… chuyện này chắc ăn quá mà hai anh chỉ phải đi một lần duy nhất thôi”.
Trong mấy anh em nhà Tám Nghĩa thì Mười Trí tuy sinh sau đẻ muộn nhưng tỏ ra có tư chất đặc biệt hơn hết thảy, y không chịu đi theo nếp nhà, đó là trở thành những nông dân cần cù, chân chất, cam chịu cái kiếp nghèo. Ngay từ cái thời mông muội lẽo đẽo theo mấy thằng anh đi mò cua bắt cá ngoài ruộng, Mười Trí đã tỏ ra thích tách một mình riêng biệt… Lớn lên y chọn cho mình một con đường khác hẳn, đó là đi buôn gỗ. Thuở đầu y cũng chỉ là làm công, đi theo ghe buôn của ông LS… Do thông minh, nhanh nhẹn, lại chịu khó, Mười Trí dần dần trở thành cánh tay đắc lực, khi ông LS bị VM chặt đầu, y nhân cơ hội đó vươn lên làm “thầu khoán”. Trong lúc đám con cái LS run sợ hoang mang, bỏ của chạy lấy người, thì Mười Trí lúc đó mới hơn hai mươi tuổi, bỗng chốc có trong tay số gỗ quý mà LS vì rơi đầu đã bỏ lại, cộng với bản tính dám xông pha vào những nơi nguy hiểm mà kẻ khác không dám vào nên y giàu lên rất nhanh. Nghe đồn sau này y lại làm “ Chef section plantation de suzannah” trên Dầu Dây, có mấy đồn điền cao su rộng mênh mông.
Mười Trí giàu suốt mấy thời kỳ, lên tận khu Bàn Cờ ở SG xây biệt thự, y chỉ tạm lao đao vào cái thời cải tạo tư sản, tuy nhiên trong lúc mọi người sống dở chết dở thì Mười Trí nhanh chân phóng ngay vào chùa, biến hóa thành một thầy chùa tối ngày tụng kinh gõ mõ, mở miệng ra là niệm phật nên “trăm họa cũng đều qua khỏi”. Nhờ tài phép thần thông như vậy, nên bây giờ tuy đã đứng tuổi, thời thế vừa thay đổi y lại nhảy ngay vào những cuộc chơi vô tiền khoáng hậu.
Lần đi mua “hươu” ấy Tám Nghĩa viện cớ không hạp với Mười Trí nên không chịu tham gia, nhưng lại là chuyện của thằng em ruột nên không bỏ được, đành phải nhờ Tư Hường và ĐHC. Sáng hôm ấy cả bọn sáu người lên một chiếc Cá Mập thẳng tiến Plâyku, dọc đường Mười Trí còn rước thêm hai người lạ hoắc nữa. Một người bụng to, vai xệ, dáng khá sang trọng, người còn lại thì giống như vệ sĩ – Mười Trí giới thiệu cả hai là “đối tác”, bọn ĐHC cũng không tò mò dò hỏi làm gì. Xe đi đến Plâyku thì vừa chạng vạng tối, trời bắt đầu se lạnh, một bầy két xanh dễ cả ngàn con bay rợp trời, kêu vang inh ỏi, chẳng biết là điềm gì nữa…
Xứ Plâyku này cũng thật lạ kỳ, ở trên cao chót vót như vậy mà lại có một cái hồ nước mênh mông, về chiều nhuộm một màu xanh biếc. Mới xẩm tối mà thành phố đã có vẻ yên tĩnh, đám giang hồ đất Bắc quả là sáng suốt khi xây dựng căn cứ trên đây, một bên là núi rừng hùng vĩ, linh thiêng và bí ẩn, một bên là cái thị trấn cao nguyên nhỏ bé với vài con đường độc đạo, kẻ lạ mặt nào xuất hiện cũng dễ bề bị phát hiện.
Điểm hẹn là một biệt thự vùng ven, trên lưng chừng một con đường dốc, một quán bar hẳn hòi, từ đây có thể nhìn xuống thành phố với nhưng ngọn đèn lung linh trong màn đêm huyền bí. Quán bar được thiết kế đúng chất Tây nguyên với những pho tượng nhà mồ ngồi trơ trụi, những gương mặt dân tộc ngơ ngác… Mười Trí tỏ ra quen thuộc với nơi này, y dẫn bọn ĐHC và hai tay “đối tác” lên thẳng tầng trên cùng, nơi đây có một căn phòng gỗ nhỏ và một cái bàn bida cực đẹp, một em “dân tộc” nhưng trắng nõn đang đứng bên bàn nở nụ cười xinh như mộng.
Mười Trí nói “bọn nó hẹn mười giờ tối nay lận, hãy còn sớm chán, anh em có thể nhâm nhi chút rượu và làm vài món đặc sản Tây Nguyên”.
Đây chính là cái đỉnh của “Les Hauts Plateaux du Sud”, chủ nhân của biệt thự này hẳn cũng là một tay trùm cỡ bự. Đặc sản TN thì có đủ kiểu, nhưng Mười Trí cho kêu món “mắm bồ-hóc” đựng trong ống tre mới thật là kỳ lạ. ĐHC đã từng được nếm món này của người M-nông, nó thật kinh khủng, đó là thịt còn sống, trộn với tiết, gan, ruột non, ruột già và muối ớt, nguyên một con nhái được “tái chín”, lần ấy vẫn phải cố gắng trợn mắt để nuốt và khen ngon… nhưng món của Mười Trí kêu lại là món “mắm Bồ-hóc Hoàng gia” của giới quý tộc thật sự. Khi cái ống lồ-ồ được mở ra, một mùi thơm ngào ngạt, nồng đậm khắp căn phòng nhỏ, không thể tưởng được trên đời này có một món ăn thơm ngon như thế… Mười Trí lại không uống rượu cần, y kêu một chai “Claude Chatelier” to đùng mà chủ nhân của ngôi biệt thự đã dành sẵn, uống bằng những cái ché Tuk đen sì, bóng lưỡng.
Đến giờ này thì Mười Trí mới chịu giới thiệu hai “đối tác”, tay đầu sói bóng, lùn lùn bụng phệ, có hàng lông mày dài thượt, nhìn cứ như tài phiệt Nhật Bổn chính là đại gia chuyên đánh hàng xuyên Việt, xuyên biên giới. Còn tay nhìn cứ như lính hầu lại còn ghê gớm hơn nữa, một tay tổ trong ngành khai thác mỏ quặng, y đang có tham vọng thâu tóm mấy mỏ quặng thiếc ở cái xứ “rừng vàng núi cũng vàng” này. Riêng Tư Hường thì được trân trọng giới thiệu là một chuyên gia bậc thầy về các loại đồ “tối cổ”.
Thời gian trên cao nguyên trôi thật chậm, rượu được vài tuần tay “chủ mỏ” bỗng nhiên nổi hứng rủ ĐHC đánh một cơ bida trong lúc chờ đợi. Có lẽ y bắt đầu thấy thích em dân tộc da trắng, môi đỏ, chân dài, zíp ngắn đang đứng mòn mỏi bên bàn nãy giờ. Tay “chủ mỏ” xem ra cũng là một tay cơ lão luyện, đường cơ của y “mướt rượt”, muốn gom là gom, muốn tan là tan, y còn rủ ĐHC đánh độ “chuyến này ra quân thắng lợi, về lại SG, ai thua độ này sẽ phải đãi một chầu từ A đến Z” – ĐHC cũng mong đánh thắng để về SG được y đãi một chầu xem thử cái Z của giới Đại gia có khác cái Z của giới Dân đen thế nào ? Có điều phen này chắc là đại bại rồi, tay “chủ mỏ” xuất thân là “dân chơi Hải Phòng” thứ thiệt hay sao mà y càng uống càng tỉnh, càng đánh càng hay… đang lúc căng thẳng thì bỗng có một bàn tay vỗ lên vai ĐHC “để anh đánh giúp chú cơ này, trời đang lạnh mà sao chú đổ mồ hôi ghê thế ?” bất giác nhìn lên thì mới biết chính là tay chủ quán bar đã ra chơi, nói chuyện với Mười Trí và Tư Hường nãy giờ. Y nhìn ĐHC chằm chằm, trên cái bản mặt lỳ lỳ lại nở ra một nụ cười tươi tắn… ôi chao, chính là đàn anh Sáu Đá đây mà…
Sáu Đá vốn là một tay cơ “có tiếng”, nhưng có nhiều chuyện y còn có tiếng hơn nữa như “buôn ma túy, bảo kê, cờ bạc…”. Tuy nhiên tầm cỡ y không thể nắm một cơ ngơi cỡ này, hẳn sau lưng còn có một “ông kẹ” nữa. Sáu Đá thuộc loại “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”, chỉ thích tiền và mê gái nhưng y cư xử với đàn em cũng rất sòng phẳng nên đám “giang hồ mồ côi” theo về rất nhiều, có lẽ vì điều này mà một “ông kẹ” nào đó đã cho y trông coi chỗ này. Sáu Đá ở đây thì chắc Hanh Già cũng đang ở đâu đó, hai tên vốn dĩ là một cặp bài trùng trong nghề cờ bạc, hiển nhiên trong các căn phòng của ngôi biệt thự này phải có một sòng bạc cỡ lớn và Hanh Già đang trực chiến ở đó.
ĐHC biết Hanh Già đã lâu lắm rồi, đã là cái quá khứ cũ ca cũ kỹ, y nhìn già như người tiền sử, được cái mày râu nhẵn nhụi, quần áo lúc nào cũng bảnh bao. Lần gặp sau cùng cách đây khá lâu, lúc đó Hanh Già đang trụ ở đường HP, nơi có khá nhiều sòng bạc, y ăn ngủ hầu như suốt ngày trên chiếu bạc, vừa chơi vừa cho vay, cầm đồ, còn phần bảo kê và thu xâu là Sáu Đá.
Sòng bạc nằm trong một con hẻm sâu tít, trong đó có mấy tụ đang đánh sập xám, một tụ đánh tứ sắc của mấy em ca-ve. Hanh Già cũng mê gái không khác gì Sáu Đá, đâu phải ngẫu nhiên mà y ham thích cờ bạc, nơi đây hầu như là đầy gái đẹp, mà các em này khi máu cờ bạc nổi lên, đánh thua rồi thì…muốn gì cũng được.
Hanh Già nói “dạo này thua quá xá, hay ông kiếm việc gì cho tui làm, như đi giao hàng hay nhận hàng chẳng hạn” – Hanh Già có vẻ muốn thăm dò nhiều chuyện, có khi y cũng là ăng-ten không chừng - “tôi đâu có việc gì mà giao hàng nhận hàng? Đang tính nhờ ông truy dùm cái xế của một người bạn mới bị mất ở khu này” – “bây giờ vụ này khó tìm lắm, con girl của tui đang thua cháy túi, hay ông cho nó ít tiền chơi tiếp đã”.
Đó hẳn là một điều kiện của sự nhờ vả… một điều kiện của bạn bè trong chốn giang hồ.
Con girl của Hanh Già nhìn mặt mũi trắng trẻo, bàn tay thon thả, chắc xuất thân cũng con nhà đàng hoàng nhưng đua đòi ăn chơi mà vào chốn này cho thỏa sức quậy, đó là do mấy em tự nguyện chứ mấy khi có ai ép buộc ? Mỗi khi xong một “chến bạc” là mấy em thua chửi thề tá lả, một em văng miệng “đ..má, nãy giờ quên mất để bài ngay l… nên xui xẻo quá…”.
Giang hồ là nơi hiểm ác, không có tình người, chớ dại dột mà bước chân vào chốn này.
Sáu Đá đứng ngay cạnh cô bé dân tộc trắng nõn, lúc đó nom y thật giống con đười ươi hơn cả. Con đười ươi cầm cây cơ nom thật lão luyện, y mà đánh cơ này thì tay “chủ mỏ” thua là cái chắc rồi… có điều tay này sao không có ý kiến ý cò gì, y còn rót một ly “Claude Chatelier” đỏ quạch nốc cạn ?
Hiển nhiên bọn này biết nhau rồi.
Cái món “Billard France” này có nhiều chiêu rất khó, Sáu Đá nổi tiếng là tay “cơ kéo”, khi hai trái bi nằm ở sát hai góc bàn, trái bi còn lại nằm tuốt ở phía bên này, thay vì phải đánh cú “a-bank” thì mới có thể trúng thì y lại đánh cú “dètro” kéo giựt cả ba trái bi gom về một tụ, cái chiêu tuyệt kỹ này không phải ai cũng có thể làm được.
ĐHC bất giác nghĩ về tay “chủ mỏ”, tay mafia Hải Phòng thuộc vào loại cộm cán này đâu phải ngẫu nhiên lại có mặt ở đây ? hơn nữa vài chục cây vàng cũng còn bọt bèo lắm, chưa đủ mãnh lực để Mười Trí phải quy tụ một bọn đông đảo như thế lên tận nơi này, hẳn đằng sau phải có thêm chuyện gì nữa…
Quả nhiên khi con đười ươi nhẹ nhàng để tay đánh một đường tuyệt kỹ thì cửa phòng bỗng bật mở, phía dưới đi lên hai con người.
Là hai người đàn bà.
Thời buổi bây giờ những người đàn bà phải bươn chải làm ăn như đàn ông có vẻ hơi bị nhiều, họ là những “business woman” của thời đại mới. Công việc tạo cho họ cái phong cách tự tin và đĩnh đạc, nhưng không phải ai cũng giữ được cái nữ tính thiên phú. Thoáng nhìn cũng có thể nhận biết hai người mới vào không phải tầm thường, một người mặc cái đầm màu đỏ, cái áo khoác ngoài cũng màu đỏ, nom rực rỡ như đóa hoa Hải Đường, người kia lại mặc nguyên bộ đồ màu đen, cổ choàng một cái khăn trắng tạo nên một sự tương phản rất đặc biệt.
Sự xuất hiện của hai người này tạo cho căn phòng có vẻ trở nên trang trọng. Sáu Đá vội đánh nốt cơ cuối cùng, khi hai mệnh phụ này xuất hiện thì tay “chủ mỏ” đâu còn quan tâm đến ván đấu và ĐHC nữa, y tỏ vẻ khá săn đón hai người đàn bà này.
Bọn họ vội rủ nhau đi, kéo theo cả Mười Trí, ở cái xứ sở này làm ăn lớn thì tất phải mafia, chẳng có doanh nghiệp nào dám vỗ ngực xưng tên là mình trong sạch, tất cả bọn họ đều biết nhau quá rõ. Điều này cũng phải thôi, sống trong môi trường nước mặn thì cá bắt buộc phải là loài cá nước mặn. Hiển nhiên bọn Mười Trí đang cần huy động nhiều tỷ để củng cố thêm thực lực và để thâu gom các khu mỏ. Mối duyên giữa Quyền lực và Tiền bạc là một cần thiết hàng đầu của những thương vụ lớn.
ĐHC thong thả rửa tay ở cái bồn rửa cổ điển tuyệt đẹp, tấm gương được chiếu đèn sáng ngời ngời, dòng chữ “pour l’amour de moi” được trang trọng khắc theo kiểu chữ gothic, mạ vàng óng ánh – chủ nhân nơi này tỏ ra tinh tế trong từng chi tiết kiến trúc nhỏ, những nhà tư bản mặc áo khoác đỏ này bắt đầu tập tành thưởng thức nghệ thuật đỉnh cao, bắt đầu đặt bàn chân nông dân sần sùi, thô ráp vào tấm thảm của sự quý phái.
Khoảng hơn mười giờ thì Mười Trí quay lại, y nói “bọn ngoài Bắc bị “chèo” theo dữ quá nên đổi địa điểm gặp ở Tây Ninh, bây giờ ta phải xuống đó trước, đến nơi thì bọn nó sẽ hẹn cụ thể sau”. Việc hẹn đi tới đi lui này làm Tư Hường có vẻ bực dọc, nhưng đã lỡ hứa giúp rồi thì cũng không bỏ được. Y tuy tài thật đấy nhưng trong thương trường thì cũng chỉ là con gà con so với con diều hâu Mười Trí.
Xe khởi hành ngay trong đêm cao nguyên giá lạnh và sao trời lấp lánh. Đường xuống dốc thật quanh co, một bên là vách núi sừng sững, một bên là vực núi sâu hun hút, băng đèo giờ này thật nguy hiểm nhưng thời gian đòi hỏi phải như vậy. Đến Tây Ninh thì mới hơn tám giờ, xe tạm ghé vào một quán ven đường để ăn sáng, nơi đây có một món ăn khá nổi tiếng là “bánh canh trảng bàng”, là món bánh canh giò heo ăn với nước mắm nhỉ có thêm chanh, ớt…
Ngày xửa ngày xưa, cái vùng đất “Pare aux éléphants” này chỉ có rừng rậm và thú dữ, những trảng bàng lác mênh mông, thủ phủ của một vương quốc đã bị tiêu diệt là Thủy Chân Lạp, bây giờ thì nơi đây đã trở thành những đường phố sầm uất, Thánh địa của đạo Cao Đài. Đó là một tôn giáo dung nạp nhiều nguồn tư tưởng với ý định tối cao là “hòa đồng tôn giáo”. Đối với con người, chấp nhận một cái gì đó giống mình thì quả là một điều dễ dàng, chấp nhận một cái gì khác hẳn mình thì mới là điều vô cùng khó, đúng ra chính điều đó mới thực sự gọi là “Sự Chấp Nhận”. Vì thế cuối cùng thì “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” cũng bị chia rẽ không kém gì các tôn giáo khác. Ai là người đam mê cầu cơ thì cũng biết Đạo Cao Đài được khai sinh bởi Cơ Bút và giảng truyền chân đạo, những kinh điển, nghi thức cúng kiến, những áng thi văn dạy Đạo được lưu truyền qua nhiều thế hệ, từ đông sang tây cũng đều qua Cơ Bút. Tòa Thánh Tây Ninh là một nơi rộng mênh mông, tôn nghiêm và ít người lạ lảng vảng ,ngay cả đám hình sự cũng ít bén mảng nên bọn bán đồ cổ quyết định dùng nơi đây để làm chỗ gặp mặt.
Bọn giang hồ đất Bắc này rất nguy hiểm, nhất là đám nhỏ tuổi, sẵn sàng “nổ” vì bất cứ chuyện gì. Nhiều thằng miệng búng ra sữa nhưng tuyên bố xanh rờn “Đời dân chơi không cần sai hay đúng, chỉ cần biết dùng...súng là Ok”
Mỗi con người được sinh ra ở một miền nào đó, dù muốn hay không họ cũng mang dấu ấn đậm nét của xứ sở đó. Nếu nói về sự liều lĩnh và tàn bạo thì không đâu bằng đám giang hồ xứ Nghệ, có điều trong bọn này ai cũng muốn xưng hùng xưng bá nên ít kết với nhau mà thường hoạt động lẻ tẻ nên không thể mạnh được. Thế nên các băng đảng cộm cán nhất bao giờ cũng thuộc về hai vùng đất Cảng và đất Mỏ, họ hành sự có tổ chức và quy củ hơn nhiều, đặc biệt là trong đó còn có cả những thành phần được cho là “cao” trong xã hội. Mười Trí muốn vươn cái vòi bạch tuộc về đất Bắc thì không thể không quan hệ với bọn này, hơn nữa bây giờ giàu nhất, quyền lực nhất chính là các nhà tư bản áo đỏ, không làm ăn với họ thì làm ăn với “thằng đếch” nào nữa ?
Ba thằng đi theo Mười Trí tuy thuộc vào loại “gà đá không chạy” nhưng đều dốt đặc cán mai, nói năng, cư xử bát nháo chẳng ra làm sao cả… phen này mà lỡ có đụng độ thì thua là cái chắc. Tuy vậy chứ trong bọn cộm nhất vẫn là Tư Hổ, y từng đâm chết một tay cớm chìm nên bị truy nã, trốn qua TQ. Một thân bơ vơ, không hề biết tiếng bản địa mà vẫn sống sót được cả chục năm, thậm chí trở thành dân anh chị luôn, sau này trở về VN bị “tó” lại, vừa mới bóc xong hơn chục cuốn, bây giờ trở thành đàn em tin cẩn của Mười Trí.
Chờ đợi, căng thẳng và phòng thủ như vậy, có điều làm gì có cuộc đụng độ nào ? bởi vì tất cả đều cùng một phe cả, đó là phe Mười Trí.
Cái xảo thuật dàn cảnh công phu như vậy của y cũng chưa phải là lần đầu, nhưng vẫn thành công vì lòng tham của con người là vô bờ bến. Sau này Tư Hường mới thố lộ một điều, đó là khi nhìn thấy cặp “Tỳ hươu” y đã vô cùng kinh ngạc – Bởi vì trong một cuộc triển lãm ở Paris đã từng thấy một cặp tương tự - Y cũng không thể đoán được đâu là thật đâu là giả nữa. Ngay cả đối với “Truyền Quốc Ngọc Tỷ” cũng vậy, nghe đồn là của Thái Hậu Dương Vân Nga dâng cho Lê Hoàn, một viên ngọc Lưu Ly bảy màu sáng chói trong đêm, viên này cũng từng được trưng bày tại Paris, thế thì cái viên còn được lưu giữ ở làng “Ngọc Lạc” đó là viên gì ?
Thôi thì suy nghĩ nhiều mà làm gì, bởi vì cuối cùng thì ai cũng thắng cả - Mười Trí bán được cặp “Tỳ hươu”, một món đồ cướp được từ trong chùa của một thời mông muội – Tay “đối tác” nhìn cứ như tài phiệt Nhật Bổn rồi cũng sẽ thắng lớn, Tư Hường, ĐHC, đám giang hồ đất Cảng… tất cả cũng đều có phần cả, thế thì còn suy tư làm gì nữa ? thời buổi này phải biết bắt tay nhau mà sống chứ ?
Ấy thế mà vì việc này Tám Nghĩa lại đánh giá Tư Hường là “không có cái đầu” ? – Y đúng là kẻ bảo thủ thật.
Tây Ninh là nơi có rất nhiều cao nhân ẩn sĩ, họ tu luyện trong các hang động trên núi Bà Đen (Điện Bà) hoặc những ngọn núi khác như núi Cậu, núi Phụng… Họ thờ “Mẹ Linh Sơn Thánh Mẫu” – Bà Chúa Núi, Thần Hoàn Bổn… Họ sống một cuộc đời thanh hàn, những cao nhân này có khả năng đoán được quá khứ vị lai… Họ cũng có luyện bùa phép để cứu nhân độ thế.

Đây là hình thầy Hai Ngự, thọ 94 tuổi

Có một câu chuyện kể là khi Sư phụ của thầy Hai mất (Thầy Sáng), người có ngôi mộ ở phía sau chùa Ông trên núi Cậu, có để lại cho một đệ tử là Cô Tư Châu một chiếc khăn phép và một tấm hình dặn là ông còn một người đệ tử thứ 9 nữa, nhưng chưa từng gặp mặt.
Mấy chục năm sau, trong một lần tình cờ Bà Tư Châu gặp một bà bạn thân thường kể chuyện không hiểu sao hay nằm mơ thấy một ông già mặc áo đen đưa cho mình một tấm hình và một chiếc khăn phép, Bà Tư Châu mới nhớ lại chuyện cũ và lấy chiếc khăn và tấm hình đưa cho người này – Như vậy thầy Sáng đã tìm được người đệ tử cuối cùng, đó là Bà Chín , nay cũng đã già lắm.
Thầy Sáng có xây một ngôi chùa ở Giồng Ông Tố, cách đây hơn 60 năm vùng này còn rất nghèo và ít người. Lúc đó ông đã nói sau này, nơi đây sẽ rất sầm uất, bây giờ thì nơi này đã là quận 2 của SG và đang là khu đô thị mới phát triển mạnh mẽ


Đây là hình khăn phép. 


Hình Thầy Hai Ngự và Thầy Sáu Biên Hòa lúc còn trẻ(người mặc áo trắng).

Thầy Sáu Biên Hòa hiện đã trên bảy mươi, đang tu ở Tây Ninh.
Tám Nghĩa đã trải qua biết bao đau khổ, thành công và thất bại… nên y đâu có suy nghĩ đơn giản, một người như Tư Hường đến con ruồi bay ngang còn biết là đực cái nữa là, vì thế cái sự chân giả nếu bảo là y không biết thì cũng khó có thể tin được. Suy cho cùng thì trong cuộc chiến này tất cả đều là giả hết, chỉ có vàng là thật. Vàng lúc nào cũng thế, cũng dễ thương và đẹp đẽ, có nhiều món đồ chôn dưới đất cả ngàn năm mà khi mang lên vẫn vàng chói lọi, đúng là một thứ kim loại đặc biệt, mê hoặc con người.
Tư Hường nói “anh có người bạn cũ thời kháng chiến, tên Bảy Quyền, tiện thể ghé thăm nó luôn”.
Muốn gặp được bạn, Tư Hường phải nhắn tin để xe ra đón vì họ ở sâu tận trong rừng. Đường khá khó khăn, ngồi trên chiếc xe zeep mà cứ nhảy giựt cà tưng suốt, lắm khi đi qua những hố bom còn to như cái ao. Vào sâu bên trong, tán cây rừng rậm rạp che khuất hẳn phía trên đầu, không khí âm u và ẩm ướt, chỗ này chắc là đã sát với biên giới tỉnh Kampong Cham rồi. Rừng Tây Ninh trải rộng qua tận CPC, có rất nhiều cây gỗ quý như căm xe, trắc, sao, dầu, giáng hương…Xung quanh muỗi bay vù vù, muỗi ở đây to như con ruồi, ruồi ở đây to như con ong… còn rắn ba sọc thì nhiều vô kể, nghe đồn vùng này có cả rắn hổ mang chúa dài hàng năm sáu mét.
Xe dừng lại trong tiếng tiếng chó sủa hỗn loạn, cả chục con chó, con nào con nấy trụi lủi, to đùng, nhe nanh rất dữ tợn, cũng may là chúng đều bị xích.
Giữa rừng già bỗng có một căn nhà gỗ to rất hoành tráng, có cả mấy chiếc xe zeep lùn nữa chứng tỏ nơi đây cũng khá đông người. Luật pháp VN cấm súng mà ở đây súng để lủ khủ trong góc nhà mấy khẩu, băng đạn sáng ngời ngời.
Bảy Quyền tóc dài đến vai, bộ râu quai nón rậm rạp, thân thể lực lưỡng, ông ta đúng là con hổ xám của rừng già. Cái ông ta mặc trên người không biết là cái gì nữa, nửa thì giống cái khố, nửa thì giống cái váy. Bên cạnh ông ta lại có hai người dân tộc đen thủi đen thui, cũng mặc đồ y như vậy.
“Tối hôm nay đốt đuốc lên để uống rượu, bạn cũ lâu ngày gặp lại phải uống cho thật say” – Bảy Quyền nói, giọng ông ta ồ ồ như tiếng gầm của gấu rừng.
Ông ta là gì nhỉ ? Biên phòng, Kiểm lâm ? Vua rừng, Chúa núi… cũng chẳng biết là gì nữa, có điều đây mới chính là những chủ nhân thực sự của núi rừng, của đất nước này, tài sản của họ không thể tính bằng tiền được, nó là cả những cánh rừng bạt ngàn, cả hàng hàng con người sinh sống trên đó. Có thể xem họ như là những lãnh chúa, là những kẻ hùng mạnh nhất trên thế giới này.
Bảy Quyền ngày xưa cũng ở Đồng Tháp Mười, ông ta biết Mười Trí khá rõ, có thể họ cũng làm ăn với nhau không chừng.
Rùa, rắn, thằn lằn núi được mang ra ê hề, rượu của Bảy Quyền là thứ rượu “Tam xà – Bìm bịp” chỉ cần ngửi hơi là đã muốn say rồi, vì thế nên chỉ sau vài tuần rượu là ai nấy đều ngà ngà cả, ông ta còn kêu mấy em dân tộc nhìn rất mặn mòi ngồi uống trong ánh đuốc bập bùng.
Bỗng Bảy Quyền đứng dậy, đã đứng tuổi mà bắp thịt ông ta vẫn còn cuồn cuộn săn chắc, nhìn kỹ thì thấy ngang lưng ông ta có đeo một sợi cà tha nhỏ. Bảy Quyền múa máy những động tác rất kỳ lạ, chắc là một thứ võ Miên gì đó… một trong hai tay dân tộc cũng đứng lên uốn éo múa theo, cảnh tượng nom thật ma quái. Mặt của tay dân tộc đỏ lừ như đang lên đồng, hai vai không ngừng lắc lư như nhịp sóng, eo hông đung đưa, đây hẳn là một thứ võ thần bí truyền hiếm thấy trên đời. Bảy Quyền còn kêu tay dân tộc lấy cái mác ra chém vài nhát vào lưng, tay, vai nghe chan chát như chém vào kim loại vậy, đây hẳn là thuật “vô kim” nổi tiếng của người Thổ, cái xứ “Rồng ẩn Cọp nấp” này quả là nhiều chuyện lạ.
Có điều mấy màn đó chỉ là khởi động cho vui thôi, khi xung quanh đã trở nên tối mịt mùng, đóm đóm bắt đầu bay lập lòe, người cũng đông hơn và rượu cũng nồng hơn thì mấy tay người Thổ mới khiêng ra một bộ trống gồm một cái trống lớn và ba cái trống nhỏ có chạm hình những vũ nữ ở bên hông nom rất kỳ ảo. Một người đen trùi trũi, râu nhọn lưa thưa bắt đầu dùng tay đánh trống dồn dập, nhìn anh ta xuất thần giống như người đang lên đồng vậy. Những âm điệu cổ xưa vang vọng trong màn đêm đen thẫm. Lúc đó thì mấy em gái cũng đứng lên biểu diễn những vũ điệu tuyệt vời chỉ thấy ở trong cung đình, đôi bàn tay của người vũ nữ uốn cong vun vút, bước chân uyển chuyển theo từng nhịp vỗ.
Không hiểu sao Bảy Quyền lại có được dàn trống Tapon này, đây là dàn trống Vua, dàn trống ra trận của đế chế Ăngko cổ, hẳn ông ta dùng dàn trống này để chinh phục những người Thổ, khiến họ trung thành theo ông vì sợ hãi những lời nguyền của bộ tộc?
Cuộc chơi đến hơn nửa đêm mới chấm dứt, mọi người đắm chìm vào giấc ngủ với những mộng mị đầy hư ảo, để rồi sáng hôm sau bừng tỉnh trong tiếng chó sủa inh tai. Bảy Quyền chỉnh tề trong bộ đồ “Tây” từ lúc nào, ông ta chẳng có còn cái vẻ “đường Thổ” gì nữa mà trở thành một người đàn ông lịch lãm, đầy bản lĩnh với quyền uy thực sự, ngay cả đến Tư Hường cũng phải dụi mắt ba bốn lần để nhìn cho rõ.
Đó là cái chuyện đã qua lâu rồi, còn bây giờ Tám Nghĩa đã ra người thiên cổ, đã về sum họp với ông bà ở đâu đó. Y hẳn đã bị ám ảnh nhiều về cái chết, có lần y đã kể về người mẹ già, bà đã khóc mù một mắt khi nghe tin về cái chết của những đứa con, và con mắt còn lại cũng tiếp tục mù nốt khi nghe tin Tám Nghĩa ra đi. Tám Nghĩa ra đi vì lời kêu gọi xếp bút nghiên tìm đường cứu nước. “chàng trai trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp bút nghiên theo việc đao cung”
Y không bao giờ còn gặp lại người mẹ già nữa, sau này y chỉ nghe mọi người kể lại câu nói phều phào cuối cùng của người mẹ trước khi chết là câu hỏi “Thằng Tám nó về chưa ?”. Chắc hẳn trước khi chết y cũng có nhớ về người mẹ già, và còn có thể nhớ về người vợ trẻ đã bỏ mạng ở Đồng Tháp Mười…
“…Ai về ngang, ai về ngang mảnh đất mến thân
Cho gửi lời về nơi ấy tình thương nhớ, nhớ thương không nhòa,
Ai về ngang Thiên Hộ Dương những đêm trời sáng
Đến nơi ấy mái tranh ấy
Lấp lánh đôi mắt trong xanh của nàng…”
Tám Nghĩa hẳn hiểu rằng cho đến tận cuối đời y chỉ là một dân đen không hơn không kém, một thứ dân đen “trên răng dưới giái”. Đất nước này đâu phải là của y, mặc dù y đã từng hy sinh vì nó, y không phải là kẻ mơ mộng, cái luận điệu bịp bợm gì đó để đưa cái mác dân đen lên thành “nhân dân” đâu có thể lừa được Tám Nghĩa, một kẻ từng sống qua bao thời kỳ loạn lạc. Y đã từ bỏ tất cả, chẳng cần gì hết ngoài chén cơm, cái tộ cá rô kho mặn… ăn trước khi chết để khỏi trở thành con ma đói, một bộ bà ba trắng mặc trước khi chết để khỏi trở thành con ma trần truồng. Cái quan trọng là y vẫn giữ được cái đầu, cái xứ sở này có quá nhiều con ma không đầu đi lang thang rồi, Tám Nghĩa hẳn là tự hào rằng mình là một con ma có đầu hẳn hòi, một cái đầu do người mẹ rặn ra trong cơn đau vật vã…
Cuối cùng thì cũng trở về mảnh đất ngàn đời, có khác là lần này lại có thêm một cái bọc giấy nữa. Bốn con người lại cùng ngồi vào cái bàn gỗ đơn sơ, Tư Hường thong thả mở cái bọc, có lẽ y đã đoán biết bên trong đó là cái gì.
Đó là một cái đầu, chính là cái đầu của pho tượng, hẳn là Tám Nghĩa muốn nhắc Năm Lành rằng ông ta vẫn còn thiếu nợ một cái đầu trên cổ, có điều y đâu có ngờ là ông ta chưa bao giờ mở cái bọc, không bao giờ mở cái bọc giấy đó.
Trong mớ giấy nhàu nát hiện ra một gương mặt tròn bầu, một gương mặt đàn bà tuyệt đẹp với đôi môi dầy gợi cảm, không phải là gương mặt vuông vuông của vũ nữ Apsara mà là một gương mặt khác hẳn – Một gương mặt của Phù Nam cổ.
Khi cái đầu được gắn lên thì vũ nữ đã hiện hình trong ánh nắng vàng hắt hiu của buổi chiều tà, cái ánh nắng lung linh dường như đã làm cho Vũ nữ Phù Nam sống lại… Tất cả, tất cả giờ đây chỉ còn là những đền tháp rệu rã, những pho tượng mất đầu, những chân tường sụp đổ, những bụi cỏ gai ngập tràn, xơ xác, hoang vu. Vương quốc đã sụp đổ, dân tộc đã tuyệt diệt, chỉ còn để lại cái điệu múa cổ trên những pho tượng nhỏ bé. Trong cái buổi chiều hôm ấy dường như tất cả cùng bị ảo giác, một dân tộc đang hồi sinh trở lại… Những kinh thành tráng lệ, những đền đài nguy nga lộng lẫy, những con đường ngựa xe tấp nập, những buổi lễ hiến tế uy nghi và rùng rợn… như hiển hiện ra trước mắt.
Rồi bỗng nhiên tất cả như ngập chìm trong biển lửa, ngập chìm trong những xác người. Những cuộc chém giết tàn bạo đã có từ ngàn xưa rồi, đó là vì trong con người luôn tồn tại cái bản năng hoang dại của loài động vật, cái bản năng cắn xé của sự sinh tồn. Chính vì thế có thể nói các tên độc tài không hề đào tạo ra các đao phủ, họ chỉ làm một việc đơn giản là trao cho chúng một lá cờ và một thanh mã tấu, để cho chúng tự phất lên và tha hồ đập phá, chém giết. Chiến tranh dường như là nguyên lý của sự sinh tồn, và máu luôn không ngừng chảy, máu phun lên từ những pho tượng cụt đầu, máu chảy thành sông, thành suối, thật là một ảo ảnh khủng khiếp trong tiếng kêu gào đòi nợ của những linh hồn…
Vũ nữ đã bắt đầu nhảy múa, đã bắt đầu uốn éo, hai chân dang rộng ra và lắc lư theo một nhịp điệu dồn dập, hai bên hông lúc thì nâng lên lúc thì hạ xuống, bụng lúc thì ưỡn ra trước lúc thì thót lại, hai tay dập dờn như sóng lượn, hiển nhiên đây không phải là vũ điệu của đế chế Ăngko rồi, một vũ điệu hoàn toàn khác.
Cái Vũ điệu tối cổ có sự khêu gợi đặc biệt, đánh thức cái bản năng gốc hoang dại, đánh thức cái hoài niệm anh hùng trong tiềm thức sâu thẳm của người đàn ông… Và Ba Cao cũng đã đứng lên rồi, y luôn mang trong người một hoài niệm tình yêu cháy bỏng, có thể vì thế mà y bị ma nhập trước nhất. Chắc là y đang nhớ về cô vợ vũ nữ, cái cô vợ đã bỏ y vĩnh viễn để theo một kẻ nào đó. Mặt Ba Cao đỏ rực, hai con mắt của y còn rực đỏ hơn thế, cái thân hình gày gò của y bắt đầu giựt giựt, chắc y nhìn thấy máu chảy hay sao mà bắt đầu rống lên, không phải y khóc mà là hát, một thứ giọng hát nghèn nghẹn của một dân tộc đau khổ và mất mát:
“…Ôi, bao năm rồi cách biệt…
anh ra đi vì đất Việt !
Thì dù xa xôi em nhớ rằng đừng tủi sầu,
Làng quê êm ấm đón anh về mình cùng nhau…“…/.
dienbatn giới thiệu.

Xem chi tiết…

CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ . TRUY TÌM BÁU VẬT SA HÙYNH . TÁC GIẢ - DAI HONG CAT.

5/15/2019 |
CHUYỆN XƯA TÍCH CŨ . TRUY TÌM BÁU VẬT SA HÙYNH
 TÁC GIẢ - DAI HONG CAT.

LỜI NGỎ dienbatn sẽ đăng lại một số bài viết hay của các ACE thế hệ trước từng làm mưa làm gió trên các diễn đàn Huyền thuật. Việc này nhằm ôn lại những kỷ niệm xưa cũ , và cũng thầm nhớ lại và tri ân những đóng góp của họ vào tri thức Huyền thuật của nước nhà. dienbatn chỉ chỉnh sửa một số lỗi chính tả ,còn để nguyên chất giọng vùng miền của họ.Xin chân thành cảm ơn các tác giả.
GIỚI THIỆU : ĐẠI HỒNG CÁT là một người khá hiểu biết về Huyền môn, nhất là về các chuyện về mộ cổ . Trong trang Thegioibuangai.com ( Sau này là Thegioivo hinh.com ) do anh Hùng Sơn chủ xướng khoảng gần 20 năm trước , thì tác giả ĐẠI HỒNG CÁT có nhiều đóng góp quan trọng về những kiến thức Huyền môn . dienbatn ngày xưa cũng có quan hệ thân thiết với tác giả ĐẠI HỒNG CÁT từ đầu những năm 2000. Thấm thoắt đã gần 20 năm. Xin tri ân những đóng góp trong Huyền môn của tác giả ĐẠI HỒNG CÁT.

Người đội nón là Thầy Năm Sơn Đào
Mặc cái áo màu mè là tiên sinh Hồng Cát 
Ngồi bên cạnh là huynh Ba Hơn chuyên gia trị trật đả vùng 7 núi
Quay lưng có cái búi là đại huynh Bá Bá, hiện đã về ngụ cư tại Núi dài Hoàng Liên (Tri tôn) .


TRUY TÌM BÁU VẬT SA HÙYNH

Kính thưa Huynh Trưởng HÙNG SƠN và các Huynh đệ tỷ muội!
Để diễn đàn thêm phần sôi động, vui vẻ, trong quá trình nhiều năm đi khắp đó đây tìm kiếm các lọai cổ vật, báu vật, linh vật, bùa chú, bảo vật…. Đại Hồng Cát đã gặp rất nhiều chuyện ly kỳ, thú vị mà giờ đây ĐHC(Đại Hồng Cát) xin viết lại cho quý vị đạo hữu xem chơi với mục đích duy nhất là để góp vui và trao đổi kiến thức, học hỏi với các bậc thầy, các đạo hữu…trên diễn đàn. Tuy nhiên, để giữ bí mật và an toàn, ĐHC xin thay đổi tên một số địa chỉ, tên người, viết tắt tên một số địa danh quan trọng….mong quý vị đạo hữu thông cảm. 

TRUY TÌM BÁU VẬT SA HÙYNH
Câu chuyện đầu tiên mà ĐHC xin kể cho quý vị nghe là chuyến đi xuống Cần Giờ cách đây khoảng hơn 18 năm.
Nhìn chung Cần Giờ không phải là một vùng đất đơn giản, có thể nói :
Đất Cần Giờ tưởng hiền nhưng dữ
Người Cần Giờ tưởng dữ nhưng hiền
Tuy là đất mới bồi đắp nhưng quá trình hình thành của nó có lẽ đã được hàng mấy ngàn năm rồi., nơi đây có ẩn chứa rất nhiều bí mật mà hầu như chưa được mấy ai khám phá.
Nhóm người bao gồm ĐHC và NGƯỜI BẠN trong chuyến đi này chuẩn bị khá kỹ lưỡng. Đồ vật bao gồm các dụng cụ đo đạc, quan trắc, dụng cụ đào, thức ăn khô, quần áo và chiếc honda cup78, lên đường vào khỏang 5h sáng.Đường đi Cần Giờ thời điểm này còn rất xấu, lầy lội, những cây đước mới vừa trồng còn rất nhỏ, qua phà Bình Khánh, đến nơi cảm thấy là rất mệt mỏi.
Địa điểm mà ĐHC lựa chọn trong lần này là xã A, lúc đó cả xã chỉ khỏang hơn 200 nóc nhà lá nghèo xơ xác. Tay trưởng CA xã xem ra khá dễ chịu khi có khách xuống thăm, đặc biệt là sau chầu nhậu chào sân tại cái quán duy nhất trong xóm. Anh ta còn niềm nở mời ĐHC trọ tại nhà anh ta vì “ vừa an toàn, vừa rộng rãi”.
Sau những “thủ tục đầu tiên” chộn rộn, ĐHC được chủ quán dẫn đến nhà một người được xem là có máu mặt nhất xóm. Căn nhà lá nằm gần cuối làng, ven bờ biển. Sừng sững trước cửa nhà là một người đàn ông vô cùng lực lưỡng, cao trên mét tám. Ngực anh ta to như tấm phản, trên đó có xăm đủ 5 ông phật cực kỳ tinh xảo ẩn hiện trong các đám mây. Hai tay là hai con rồng uốn lượn mà nét đẹp của nó trong các quý vị có ai từng được thấy hình xăm rồng của các chiến binh Lôi Hổ ngày xưa cũng còn phải chào thua….Nhìn thấy là đã ớn lạnh, quả thực phen này ĐHC đã chạm phải cao thủ chơi bùa 5 ông đích thực…! Thế nhưng, người đàn ông lực lưỡng còn gọi là “anh Năm” xem ra chẳng là cái đinh gì khi đứng cạnh “anh Ba”. “anh Ba” chồm chỗm ngồi trên tấm ván ngựa, to như một quả núi, cái áo hoa hòe mặc trên người anh Ba đích thực là cái áo của người Miên. Nhìn xuống tấm ván ngựa, ĐHC mới hết hồn….tấm ván đen trùi trũi, óng ánh sắc đỏ, dày cỡ gần hai tấc, bề ngang phải tới một mét rưỡi, dài ước chừng hơn ba mét. Hai tấm ván xếp cạnh nhau chiếm muốn hết cả gian nhà, phía xa xa là cái tủ thờ đen sì (bằng gỗ mun là cái chắc) hoa văn khảm xà cừ 7 màu lấp lánh…chỉ với 2 món đồ gia bảo này thôi , ở cái xóm nghèo khổ này hiển nhiên vị trí Đại ca của “anh Ba” đã được khẳng định.
- Chú em có cần gì cứ nói với anh, công việc gì đó của chú cần bao nhiêu người làm? Cứ từ từ rồi tính…còn hôm nay chú và mấy người bạn uống với anh vài ly…..có thằng đệ của anh (chỉ anh Năm) mai cho nó theo giúp các chú.
Sau chầu rượu với con gà luộc, ĐHC như mơ như tỉnh, anh Ba kêu một thanh niên khá gày gò lên giới thiệu :
- Thằng nhỏ này là con anh, 17 tuổi, anh mới vừa cưới con vợ thứ ba cho nó….con Gái đâu rồi, ra đây biểu coi,…con nhỏ này mới vừa 16 tuổi, siêng năng , chịu khó nên anh cưới nó về để nhà có thêm người làm…..
ĐHC thấy cô bé này cũng xinh ra phết, hai mắt đen lay láy, mới 16 tuổi đầu đã đi làm vợ người ta nhưng vẫn không giấu được nét ngây thơ của một cô bé, nhìn xa xa còn thấy lấp ló đằng sau vài người đàn bà nữa, chắc đều là vợ của cậu con “anh Ba”. Xem ra “anh Ba” quả là một ông trùm đích thực.
Nãy giờ ĐHC quên mô tả nhân diện của “anh Ba”. Đó là gương mặt của một người có cân nặng khoảng 150 kg, đỏ như con gà chọi, gắn trên nó là hai con mắt hùm hụp, cái miệng mỏng quẹt với hai mép trễ……tóm lại đó là cái mặt có thể khiến người đối diện phải khiếp vía. Xem ra chuyến đi này của ĐHC không phải là dễ dàng rồi.

Sáng hôm sau, sau khi mướn chiếc ghe của “anh Ba”, cùng với khoảng 6 người bao gồm “anh Năm”,…Tư râu, Ba Đen và 3 người nữa, ĐHC cùng Người Bạn bắt đầu lên đường.
Vùng đất Cần Giờ có rất nhiều gò đất cao nổi trên sông mà người ta gọi là Giồng, ví như Giồng Đỏ, Giồng Am, Giồng cá Trăng ông Hàn, Giồng cá Vồ……có khỏang vài chục cái giồng như vậy. Vị trí đầu tiên mà ĐHC cùng Người Bạn lựa chọn tạm đặt tên là Giồng A.
Phụ trách chèo ghe là “anh Năm” và Tư Râu, “anh Năm” chèo lái còn Tư Râu chèo mũi. Tư Râu dáng người tầm thước, có bộ râu quai nón nom như cao bồi miền Viễn Tây, mũi y rất cao, còn cặp mắt sắc lạnh nom khá đáng sợ. Vợ con Tư Râu đi vượt biên đã chết cả ngoài biển, một mình y bơi được vào bờ, hiện giờ y về đầu quân với “anh Ba”. Còn Ba Đen thì đúng như tên gọi của y, đen trùi trụi. Người Cần Giờ hầu như ai cũng đen, nhưng Ba Đen xem ra là đen hơn cả…nhìn y không khác gì hòn than là mấy. Ba Đen người nhỏ con nhưng rất rắn chắc, vợ y đã chết, để lại y hai đứa con một trai một gái. Hiện giờ y cũng là đệ tử của “anh Ba”. Còn 3 người còn lại chỉ là dân chài trong xóm, xem ra không có gì đáng kể.
Anh Năm và Tư Râu chèo rất đều tay, từ xóm ra đến nơi ước tính khỏang trên 15 cây số, quanh quẹo qua nhiều khúc sông, có lúc đi xuyên qua rừng đước. Trên đường đi Ba Đen thao thao kể chuyện, nghề chính của y là đánh cá, nhưng Cần Giờ bây giờ ít cá và bão nhiều…..những lúc đói kém y thường xuyên chèo ghe đi chặt trộm đước hoặc câu trộm tôm, “tiền kiếm được nhiều hơn đi biển”!.
Đến nơi thì đã khoảng hơn 9h, giồng A là một cái giồng còn bỏ hoang, cây cối thưa thớt nên khá nắng. ĐHC cho căng lều sau đó bắt đầu chuẩn bị.
Để tìm báu vật dưới lòng đất không phải chuyện dễ. Đầu tiên và quan trọng nhất là phải xem thế đất và phong thủy. Phải xác định được thế đất và phong thủy là có báu vật hay không sau đó mới tính đến những chuyện khác. Cần dùng 2 cái la-bàn để xác định phương hướng và 3 cái ni-vô để xác định cao độ. Mắt người nhìn nhiều khi không chính xác, phân định độ cao mà lầm lẫn nhiều khi dẫn đến những sai lầm mà hậu quả của nó là tiêu tốn cả hàng chục triệu đồng như bỡn. Còn một điều nữa là nhiều khi chỗ đất mà ta tưởng là cao thực ra lại là chỗ đất mà người sau này mới đắp, còn cái chỗ trũng thấp nhiều khi trước kia lại chính là nơi cao nhất… Các nhà khảo cổ khi đào thường nghiên cứu địa tầng sau đó phân đất thành từng ô vuông nhỏ, đánh số và triển khai đào từ từ. Công việc của họ đòi hỏi nhiều nhân lực và tiền bạc, thời gian cũng phải rất lâu. Việc truy tìm vật báu không được phép đào lâu như vậy, ngòai việc đo đạc, đánh dấu, định phương hướng, linh cảm và trực giác là quan trọng nhất… đó là cái khả năng nhìn thấy được cái cần nhìn thấy trong lòng đất. Quý vị tưởng tượng, cả một vùng đất mênh mông mà đào bới lung tung thì đến tiền tỉ cũng không đủ chứ đừng nói mà tay không trở về thì có mà đi ăn mày sớm. Ở đây ĐHC xin không nói rõ phương cách đào tìm vì nó không thể rao truyền được.
Sau khi định vị chính xác, ĐHC trải một cái mâm đỏ và một ít lễ vật, rượu nếp trắng, đi xung quanh 3 vòng, cầu khấn sau đó đổ rượu ra xung quanh khấn sơn thần, thổ địa. Bắt đầu đóng chiếc cọc đào đầu tiên là vừa vặn đúng ngọ. Để tiết kiệm chi phí, chỉ Tư Râu và 3 người sẽ đào còn “anh Năm” sẽ lo nấu cơm, Ba Đen được giao đi bắt cá để cải thiện thêm. ĐHC dự định sẽ đào trong 3 ngày liên tục, nếu gấp thì sẽ đào đêm luôn.
Trời buổi trưa nóng như lửa đốt, nhưng trong việc đào, nắng càng gắt là càng tốt, ban đầu ĐHC chỉ đào phạm vi nhỏ để lấy địa tầng trước, trong lúc đó Người Bạn sẽ đi vòng quanh giồng để tìm hiểu thế đất và nhặt các mảnh đất đá vụn v.v…Nắm vững địa tầng là việc vô cùng quan trọng của một Ông thầy địa lý, quý vị sẽ thấy rằng nếu gặp một ông thầy địa lý phong thủy mà thao thao bất tuyệt về đủ lọai thế đất, hướng gió, hướng nhà…..này nọ, mà không nắm được địa tầng ngay nơi chân mình đứng, dòng chảy của mạch nước như thế nào, thì có thể nghi ngờ đó là một ông thầy địa lý giả hiệu. Còn việc nhặt các mảnh đất đá vụn nhiều khi vô tình sẽ nói cho ta biết được rất nhiều điều mà nhiều khi chủ quan bỏ sót.
Đào liên tục hơn 4 giờ đồng hồ thì tạm nghỉ, xem ra tình hình không mấy khả quan ở giồng đất này. Nhưng trong ngày đầu tiên ĐHC cũng không đòi hỏi gì nhiều. Cả đoàn cùng ăn cơm trên một tấm bạt, “anh Năm” nấu cơm thật ngon, còn Ba Đen quả là một cao thủ bắt cá. Có mấy tiếng buổi chiều mà y bắt được một đống cá cộng thêm vài con bạch tuộc nho nhỏ. Trong lúc ăn, ĐHC mới quan sát kỹ “anh Năm” . Năm ông Phật được xăm trước ngực “anh Năm” thật kỹ lưỡng và tinh xảo, ông Phật chính giữa nom hao hao giống Phật Tổ, bốn ông ở hai bên có lẽ là Tả Hữu hộ pháp. Phía sau lưng lại là hình của 5 ngôi chùa tháp theo kiểu chùa Miên. Hai con rồng chạy từ bả vai xuống đến gần cổ tay ửng cái màu xanh xanh kỳ lạ. Kiểu xăm này không phải là kiểu xăm của giới giang hồ,….mà có lẽ thuộc về một võ đạo của người Miên. Đặc biệt có những chữ loằng ngoằng nửa chữ Miên, nửa chữ Phạn ở dưới những ngôi chùa….có một vết thẹo dài dưới khủy vai, chắc là một vết chém cực mạnh.
Người Bạn cho ĐHC xem một vài mảnh gốm nhỏ, toàn là gốm Miên, có một vài mảnh gốm Tàu, có thể cách đây trăm năm những thưyền buôn của người Tàu có ghé qua đây. Hình như mọi động thái của ĐHC và Người Bạn đều không qua khỏi cặp mắt trắng dã của Ba Đen.

Nguyên buổi sáng hôm sau không tìm được gì ngoài một vài mảnh vỡ của mấy cái đĩa và một cái bình có hoa văn của Tàu…. ĐHC cho thu lượm tất cả các mảnh gốm, đá sỏi đặc biệt vào khoảng mấy chiếc bao sau đó rút về . Lúc về, thuyền ghé ngang một cái gò gần ngay cửa biển. Cái gò này thể hiện dấu tích của người Sa Hùynh rất rõ. Rất nhiều mảnh gốm vỡ nát có những hoa văn sóng nước đặc trưng của người Sa Hùynh, gốm Sa Hùynh rất đỏ và rất cứng nên có thể tồn tại rất lâu với thời gian mà không bị hề hấn gì.
Trên đường về, đi ngang cửa biển không ngờ gặp hôm sóng lớn, thuyền dập dềnh sát mép nước, ĐHC nhìn ra xung quanh thấy biển nước mênh mông mà lòng ớn lạnh, lại nhìn thấy cái mái chèo của “anh Năm” đưa qua đưa lại càng thêm khiếp vía….Bỗng Ba Đen la lớn “có cái gì trôi kìa”, quả thật xa xa có một khối đen to trôi bập bềnh, thuyền ghé lại. Ba Đen phóng ngay xuống nước, nhưng y lại vọt lên ngay, hốt hỏang nói “con cá gì to quá, bị vướng lưới chết..”
Tư Râu và Ba Đen cùng nhảy xuống một lần nữa, con cá to thật, dài phải hơn 4 mét, nhìn giống cá nược, chắc nó bị vướng lưới chết nên ngư dân hỏang sợ cắt bỏ lưới thả nó trôi lềnh bềnh trên biển. Con cá quá to không thể đưa lên thuyền, phải cột chặt nó vào mạn thuyền và kéo nó theo. Ngư dân Cần Giờ họ thờ cá Voi nên thấy nó rồi không thể bỏ được mà phải mang về chôn và cúng đàng hoàng.
Thuyền về đến xóm, cả xóm đổ ra xem con cá lạ. Con cá to quá phải hơn 10 người mới kéo nó lên bờ được. Khi kéo nó lên bờ để hơn nửa tiếng thì tự nhiên mắt nó ứa ra máu…. dân làng quyết định sẽ chôn nó ngay bờ biển. “anh Ba” là người sẽ chủ trì cúng tế. ĐHC thấy “anh Ba” tuy to lớn dềnh dàng như vậy nhưng đi đứng lại rất nhẹ nhàng, không hề tỏ ra nặng nề gì cả. Buổi cúng tế rất trang trọng, có mâm quả, nhang đèn đầy đủ, “anh Ba” khấn vái sau đó đốt một đạo bùa thả tro xuống biển. Cuối buổi còn cắm 4 chiếc cọc căng bạt làm một mái lều để che mộ cá ông trong 3 ngày.
Mới hơn 8h mà làng chài đã tối hù như hũ nút, ĐHC và Nghi (tên của trưởng CA xã) đảo bộ đi ra quán. Quán tối om, chỉ có một ngọn đèn cầy leo lét, còn năm bảy ngư dân ngồi nhậu. Nghi bước vào, không khí trong quán đâm ra im ắng lạ. Nghi và ĐHC chọn một cái bàn nhỏ trong góc ngồi. Chủ quán tên Bảy Chìa thấy Nghi đến thì lăng xăng mang mồi và rượu tới.
Bảy Chìa nói “tôi ở xóm chài này đã lâu mà chưa từng thấy con cá nào to như vậy, chú Hai mới ra mà gặp được nó cũng là một điềm lạ”. Nghi chẳng nói gì, y có tính bình thường thì nói nhiều, nhưng uống rượu vào thì lại lầm lỳ ít nói. Sau hơn 3 xị rượu, quán bây giờ vắng tanh, ngư dân đã về hết. Bảy Chìa cũng đã gật gù vì uống suốt từ chiều đến giờ. Nghi chắc cũng đã say, hai con mắt sắc lẻm của y giờ trở nên đỏ ké. ĐHC cũng đã ngà ngà say, sực nhìn vào tuốt phía trong góc quán không hiểu từ lúc nào lại có một người đàn bà ngồi từ bao giờ. Ánh sáng đèn cầy leo lét hắt vào mặt người đàn bà nom cô ta thật ma quái. Nghi cũng đã nhìn thấy cô ta, y chỉ cái ghế kêu cô ta lại ngồi; khi cô ta đến gần, ĐHC cũng giật mình vì cô ta quả là rất đẹp. Người đàn bà tên Nhi, mắt một mí hình như là lai Tàu, có nước da khá trắng so với người miền biển. Nghi có lối hút thuốc rất lạ, y không hút ba số 5 mà hút ba số 7, một lọai thuốc rất nặng và hôi, đầu tiên y nhét thuốc vào mép phải, sau đó dùng lưỡi đẩy qua mép trái, khi điếu thuốc hơi gật trễ xuống thì Nhi bật quẹt xòe một cái rồi châm cho y, xem ra cô nàng tỏ ra khá thân với Nghi. Thêm 3 xị rượu nữa thì ĐHC đâm ra say thật, Nhi bây giờ đã kéo ghế ngồi gần ĐHC. Hơi rượu ngà ngà cộng với mùi tóc thơm phảng phất của người đàn bà làm ĐHC thêm ngây ngất. Câu chuyện càng ngày càng trở nên thân mật, Nhi kể cô ta đúng là lai Tàu thiệt, nhưng cô ta không nói được tiếng Tàu vì ba của cô ta đã bỏ mẹ con cô ta ra đi từ lúc cô ta còn rất nhỏ, chồng cô ta chết đã lâu, một mình nuôi con quả là khó khăn quá, may mà có “anh Ba” giúp đỡ. “em trở thành em nuôi anh Ba từ đó” .
Nghi đã về từ lúc nào, ĐHC ráng ngồi chút nữa với Bảy Chìa và Nhi. Cô ta bắt đầu nói quá nhiều, đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Nhiều khi cô ta còn tò mò hỏi ĐHC xuống đây làm gì?! Trước khi về ĐHC đưa cho cô ta “hai xị”, cô ta đỏ bừng mặt, chồm sát lên hôn và thì thào “ anh ở đây phải cẩn thận đó nha”.
Hôm sau, ĐHC và đoàn tiếp tục lên đường, địa điểm bây giờ tạm gọi là giồng B, cách xã khá xa, hơn 20 km nên phải lên đường sớm. Lần này Ba Đen dắt theo một đứa trẻ giới thiệu là con anh ta, cô bé lên chín mà nom choắt cheo như mới lên bảy. Khi đi ngang qua một cái giồng đất cây cối nhiều Ba Đen cho dừng ghe thả cô bé xuống, “ từ đây đến trưa là con bé vớt được cả rổ chem chép, mang về bán được hơn 5 ngàn bạc” – ĐHC hỏi “thế con bé về bằng cách nào ?” – “ “Nó chỉ cần ra bìa giồng đứng, có thuyền nào đi ngang qua là rước nó về, ở đây mọi người biết nhau cả” – “Thế có sợ con bé chết đưối không” – “Nó lội còn hơn cá nữa làm sao mà chết đuối được”. Cô bé lội nước tài thật, cái bóng dáng nhỏ bé trong chốc lát đã biến mất dưới những bụi đước um tùm….
Giồng B khá rộng lớn, đã có người đến ở nhưng ĐHC cho đào ở phần đất còn bỏ hoang, vì vùng đất này quá cứng nên họ chưa canh tác tới. Đây cũng là điều may, vì chính chỗ đất này mới cơ may có báu vật. Công việc đào vẫn sắp xếp như lần trước nhưng đã hơn 2 ngày rồi mà vẫn chưa có gì……ngày đào, đêm nằm đất ngủ, bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Chiều hôm ấy hố đào đã to và sâu gần hơn 2 mét rồi thì bất ngờ Tư Râu thấy cái gì đó, y hùng hục đào liên tục….

Tất cả tập trung lại chỗ Tư Râu đào sâu xuống thì thấy toàn là xương người. Tư Râu sợ không chịu đào nữa, Ba Đen nhảy xuống đào thay, thêm một lúc nữa thì mang lên được hai bộ xương. ĐHC xem kĩ thì thấy là hai bộ xương mới chôn chừng trăm năm đổ lại, xương còn mới lắm. Một bộ xương đàn ông khá cao và một bộ xương con nít, cái sọ vẫn còn nguyên. Có lẽ một chiếc thuyền nào đó của người xưa khi đi ngang qua đây thì gặp dịch bệnh hay gì đó, có người chết nên mang lên đây chôn….
Đào mãi mà chẳng có gì lại gặp xương người, đành tạm nghỉ, mọi người quây quần quanh nồi cháo cá “anh Năm” nấu ăn cho đỡ mệt. Đêm xuống dần, nhìn ra mặt sông mênh mông phẳng lặng mà cảm thấy nao nao buồn. Trời tối thật nhanh, tất cả chui vào lều ngủ, chỉ đốt một cây đèn cầy thật nhỏ để tránh sự chú ý, đến khuya có khi tắt đi luôn. Gió từ cửa biển thổi về ào ạt, đêm Cần Giờ thật lạnh…tất cả dường như chìm dần vào giấc ngủ. Trong cơn mê chập chờn, ĐHC thấy hai bóng người, một bóng người đứng xa xa to lớn, như là người đàn ông, nom ông ta có vẻ rất buồn. Rồi bỗng có một cô bé chạy tới , tay cô bé nắm chặt lấy vạt áo của ĐHC mà giật rất mạnh, cô bé rất giận dữ, dường như cô cho là các người đến phá không cho cô nghỉ ngơi thì phải. Cô bé giật mãi, giật mãi, đến khi ĐHC giật mình tỉnh dậy thì mặt trời đã gần ló rạng.
Sáng hôm sau, ĐHC bọc hai bộ xương vào vải bạt và cho chôn trở lại. Lấp đất lại như cũ, nấu một nồi cơm trắng, xới 2 chén cơm và tô cá kho, thắp nhang cúng, cầu cho họ được an nghỉ. Một khi họ đã báo mộng như vậy thì không nên cố đào nữa, nếu không có thể sẽ gặp những chuyện chẳng lành. ĐHC trở về mà lòng cảm thấy nặng trĩu, chuyến đi này quả là lành ít, dữ nhiều. Về đến xóm chài, chẳng có gì ngoài hơn chục bao đất đá làm Nghi có vẻ bực bội, “anh Ba” cũng tỏ ra sốt ruột.
Chiều đến, ĐHC thơ thẩn đi ra bờ sông thì thấy một chiếc ghe chài cập vào bờ. Đó là một chiếc ghe buôn hàng, trên ghe có hai người, chắc là hai vợ chồng. Chờ cho họ buôn bán xong, ĐHC liền xuống ghe hỏi chuyện, chủ ghe tên là Phương, bàn tay phải bị cụt ba ngón nên mọi người gọi là “Phương cụt”. Anh ta trạc khoảng trên ba mươi, có nước da nâu nâu, cái mặt vuông vuông, ngăn ngắn còn đôi mắt lại he hé. Ghe chài đi từ Cần Giờ lên Sài Gòn, trước khi đi ghe thường ghé qua xóm để trao đổi hàng. “Nghe nói anh Hai có chở ba cái đồ đất đá nhiều, nếu về Sài Gòn cứ quá giang ghe của em, đi vừa khoẻ vừa có dịp ngắm sông nước, buổi sáng đi thì chiều là tới rồi”. “Phương cụt” còn ở lại vài ngày nữa rồi mới đi tiếp nên ĐHC mời hai vợ chồng anh ta lên quán lai rai, vợ Phương không chịu đi lấy lý do phải ở trông hàng.
“Phương cụt” uống rất mạnh, anh ta rượu vào lời ra, nói chuyện huyên thuyên trời đất. ĐHC hỏi anh ta có biết “anh Ba” không, “Phương cụt” hứng chí kể “Ông ta là thầy bùa Miên đó, em nghe nói hồi xưa ổng theo đòan lái trâu lưu lạc bên Miên từ nhỏ, có lần bị trâu húc chết, chôn được ba ngày thì sống lại. Có một ông thầy bùa người Miên biết được việc này cho là ổng có duyên với cõi âm nên mua ông về, sau nhận ổng làm đệ tử, em có xin được của ổng một tấm phù “buôn bán”, còn đang đeo trên người”. Lúc bây giờ Nhi đến, cô ta còn bận phụ Bảy Chìa bán quán. “Phương cụt” thì thầm nói “ Anh Hai phải coi chừng con nhỏ này, nó có bùa yêu đó, nhiều người đã bị nó móc hết tiền bạc, có khi còn mất mạng”. “Phương cụt” ngồi một lát thì về, mọi người cũng về hết, Nhi lại ngồi, cô ta nói “nghe nói anh gặp ma” – “ai kể cho em nghe ?” – “thì bạn anh chứ ai, lúc nãy em có gặp ảnh ngoài Cần Thạnh, ảnh còn cho em quá giang về đây nữa”. ĐHC mời Nhi uống vài ly, cô ta uống vào là bắt đầu nói “hay là anh nhờ anh Ba làm phép cho, ảnh hay lắm đó”.... Cuộc rượu đến tối mịt mới tàn, ĐHC đưa Nhi về nhà, nhà cô ta nằm ở ngay đầu xóm, trong nhà chỉ có một bà cụ già tóc bạc phơ, chắc là mẹ Nhi, có lẽ Nhi chưa bỏ xứ ra đi chắc cũng là vì bà cụ này. Bà cụ còn thức để chờ Nhi về. ĐHC đưa cho Nhi thêm “hai xị” và nói “hai ba bữa nữa anh có việc nhờ đến em, giúp anh được không ?” Nhi nói “anh tốt với em như vậy thì có việc gì em sẵn sàng thôi”….
Hôm sau, ĐHC quyết định sẽ đi xa hơn nữa. Tư Râu sau chuyện đào trúng xương người đâm ra sợ, xin nghỉ. Hai người dân chài cũng xin nghỉ theo, chỉ còn một người tên Sáng. Như vậy chỉ còn lại năm người là ĐHC , Người Bạn,“anh Năm” , Sáng và Ba Đen. Lần này khởi hành thật sớm, chỉ còn một mình “anh Năm” chèo nên tốc độ đi có phần chậm lại. Hơn 9 giờ, lúc ghe đi vào một con rạch nhỏ, thì nước bắt đầu cạn, không còn đi ghe được nữa. Tất cả đành phải lội sình lên đến ngang thắt lưng mới tiến sâu vào được. Đường đi thật gian nan, lội sình hàng mấy cây số mà chưa tới….
Nơi này nghe đồn đại cứ chiều đến là không còn ai dám bén mảng đến đây nữa. Những lời đồn về ma quỷ là do cánh đi trộm đước về kể, có người còn bị rượt chạy te tua hay thậm chí có người về là bị cấm khẩu, đố còn nói gì được….Khi ĐHC đến nơi thì trời bắt đầu đứng nắng, giữa buổi trưa mà âm khí ở nơi này bốc lên ngùn ngụt, u ám cả một vùng. Xem ra cần phải đào gấp, đến chiều là phải rút đi ngay vì buổi tối ở lại đây là thậm phần nguy hiểm.

Giồng đất này hầu như đã bị đào phá lung tung, ĐHC chọn một nơi còn hoang vu, chưa từng bị đào vì dân ở đây nói xương người nhiều nên họ không dám động tới. Chỗ này âm khí tràn ngập nên phải cúng lễ cẩn thận, sau đó vừa đúng ngọ là bắt đầu cắm cọc đào . Vừa đào xuống khoảng vài tấc thì đã gặp xương người, xương này vừa nhìn thì đã biết cổ xưa lắm rồi…, đào xuống tiếp tục thì thấy có rất nhiều đồ gốm cổ, chính là khu mộ của người Sa Hùynh. Một khu mộ cực lớn, người Sa Hùynh chôn người chết vào những chiếc chum sành to, người chết được xếp lại theo tư thế giống như bào thai nằm trong bụng mẹ vậy. Đào theo hai đường dọc và ngang mỗi bên được chừng hơn năm cái mộ chum như vậy, thì bắt đầu cho khóet sâu vào trong chum. Xương người còn rất đầy đủ, đến một cái chum còn nguyên một cái sọ người, hai hốc mắt trong sọ bỗng nhiên lóe lên ánh đỏ rực….Sáng sợ quá vùng bật dậy bỏ chạy, Người Bạn và “anh Năm” lật đật chạy theo, ra tới bìa giồng mới bắt kịp được Sáng. Y quá sợ rồi nên không dám làm nữa, buộc phải cho Sáng ra một góc ngồi. Ánh sáng mặt trời chiếu vào hốc mắt của sọ người gặp hai viên đá phát quang nên mới rực lên như vậy. Trong lúc mọi người cùng người bạn tập trung vào mộ chum chính giữa tìm mấy viên đá thì ĐHC để ý đến chiếc mộ chum nằm ngoài bìa, nó to hơn bình thường một chút, nắp đậy vẫn còn nguyên….xem ra đây mới đúng là chiếc mộ chum cần tìm. ĐHC cạy nắp ra, dùng một con dao nhỏ khoét từ từ, cho tay vào sâu bên trong lần theo các khúc xương thì gặp một vật lạnh ngắt ; tấm linh phù đeo trên cổ của người Sa Hùynh đây rồi….mấy chục năm nay hầu như chưa ai tìm được. ĐHC lấy ngón tay cái kẹp lấy, che nó trong lòng bàn tay rồi thản nhiên đứng dậy, bỏ gọn vào túi áo mà tim còn đập thình thịch.
Đến xế chiều thì đào được 9 viên ngọc đỏ và 3 cái vòng đeo tay trong cái mộ chum mà ĐHC lấy được tấm linh phù. Bộ xương người trong mộ còn nguyên, rất thanh mảnh, răng, tóc cũng còn đầy đủ, chắc là của một người đàn bà. Có thể là Hoàng Hậu hoặc Công Chúa gì đó vì đồ tùy táng chôn theo toàn là đồ trân quý. Ví như 3 chiếc vòng đeo tay, bề ngang to phải hơn 2 phân, một chiếc màu xanh, có thể là đá cẩm thạch, nặng trìu trịu, hai chiếc còn lại một vàng một đỏ bằng thủy tinh cực đẹp. Những viên ngọc đỏ màu huyết dụ, trong veo, mỗi viên ước chừng đầu ngón tay út. Một số cục đá hình dạng kỳ lạ, hoa văn lộng lẫy, giống như đá mã não hay gân gà gì đó, sáng lấp lánh, chắc là đồ trấn yểm được chôn theo... Sau khi lấp đất chôn lại, cúng tế thêm một lần nữa, thì bắt đầu rút về. Sáng bây giờ trở nên câm lặng, không nói được gì nữa, cặp mắt lờ đờ, anh ta xui xẻo bị trúng tà khí dưới mộ bốc lên nên thành ra như vậy. Đành phải cho Sáng nằm trên thuyền, theo kinh nghiệm chừng vài ngày thì Sáng sẽ khỏi. Trên đường đi Ba Đen cũng đâm ra lầm lỳ, chỉ có “anh Năm” là vẫn ung dung chèo ghe miệt mài. Về đến nơi thì trời cũng vừa sập tối. 


Chiều hôm sau “anh Ba” nấu một nồi cháo hào và làm một con gà, kêu Nhi qua mời ĐHC. Trên đường đi, Nhi nói “sáng nay em thấy anh cho chuyển đồ xuống ghe anh Phương, bộ mai anh về sớm?” – Nhi hạ giọng nói nhỏ “du kích xã họ bàn tính lúc anh ra sông là họ sẽ chặn xét ghe đó” – “họ lấy lý do gì để xét” – “họ xét ghe lấy hết đồ quý rồi anh Nghi sẽ đến nói là xét lầm thôi, lúc đó thì huề cả làng” – Thì ra là vậy, thảo nào thấy Nghi rất ung dung, anh ta làm như không biết chuyện gì xảy ra cả. ĐHC hỏi “sao họ lại biết có đồ gì” – Nhi thì thầm “thì Ba Đen chứ ai” –Ba Đen quá cùng quẫn nên làm bất cứ chuyện gì miễn là có tiền.- Nhi nói tiếp “anh Ba biết Ba Đen như vậy nên cũng dùng y xem chừng anh Nghi luôn…em cho anh biết, Phương cụt cũng là đệ tử của anh Ba đó, ảnh sắm ghe, đưa tiền cho anh Phương buôn hàng, chứ cỡ “Phương cụt” thì làm gì có tiền”. Thì ra, nếu ĐHC có thoát khỏi tay Nghi thì cũng khó mà thoát khỏi thiên la địa võng mà “anh Ba” đã giăng sẵn.
Ngồi trên bộ ván ngựa khổng lồ, ngoài ĐHC, còn có một người lạ mặt mà “anh Ba” giới thiệu là “đồng môn huynh đệ”. Người này mắt nhỏ mà râu dài, nhìn bề ngoài cũng biết là thầy pháp. Chỉ nội một mình “anh Ba” thôi đối phó cũng đủ mệt rồi, có thêm người này nữa thì phen này ĐHC chắc là hết đường về. Tới lúc này mới có dịp nhìn kỹ cái bàn thờ của “anh Ba”. Cái bàn thờ đúng là bằng gỗ mun, chạm khắc rất cầu kỳ, tinh xảo, cẩn ốc xà cừ bảy màu lấp lánh. Cái lư hương không chạm rồng phượng như những lư hương bình thường mà lại chạm hình rắn thần có ba đầu. Phía trên là tượng Phật nhưng lại có con mãng xà năm đầu che phủ bên trên, hai bên cũng có tả hữu Hộ pháp….

Trời chập tối, gió từ cửa biển thổi về ào ào, mang theo hơi lạnh và mùi vị mặn mặn. Rượu bắt đầu ngà ngà, ĐHC đi ra sau rửa mặt, đang đứng múc nước dội lên đầu cho tỉnh thì bỗng có một bàn tay nặng trĩu đặt lên vai. Giật mình, ngửng đầu lên thì té ra là “anh Năm”. Anh ta to lớn như vậy mà đến sát bên cạnh mà ĐHC không hề hay biết. Sợ cứng cả người, nhưng ĐHC cũng cố làm ra vẻ bình tĩnh. Bỗng “anh Năm” cúi xuống nói nho nhỏ, trầm trầm “nhớ đừng uống ly rượu cúng của anh Ba ”. Nói xong “anh Năm” lập tức bỏ đi, cái bóng to lớn của anh ta nhanh chóng biến mất vào màn đêm mù mịt.
ĐHC trở vào, sau khi ngồi lên trên tấm ván ngựa kỳ bảo, liền thò tay lấy ra trong túi áo một viên ngọc đỏ, đưa cho “anh Ba” xem. “anh Ba” đưa lên mắt, nhìn sơ một cái là biết đó là viên hồng ngọc thật, giá trị liên thành thì cứ cầm ngắm nghía mãi. ĐHC liền nói “Lần đầu được gặp anh Ba, không có gì hơn xin tặng anh viên đá nhỏ này làm quà”. “Anh Ba” chẳng thèm từ chối, hai mắt híp lại, cố gắng rặn ra một nụ cười trên cái gương mặt to chần vần làm nó trở nên méo mó dễ sợ. “Anh Ba” ra chỗ bàn thờ, lấy xuống một cái bình trắng và nói “đây là bình rượu quý, chỉ dành cúng tổ của anh, đặc biệt hôm nay mời chú em một ly để kết tình anh em đời đời…” Bình rượu vừa mở nắp thì hương thơm tỏa ra ngào ngạt, át cả mùi vị của gió biển. Cái ly đựng rượu cũng thật là đẹp…. ĐHC cầm ly rượu trên tay, nhìn cái màu rượu sánh vàng như mật ong, ngửi cái mùi thơm ngạt ngào mà thầm nghĩ “ Rượu này chắc được luyện bùa chú nhiều năm, ngâm kỳ trân dị bảo, thuốc gì quý lắm nên mới có được mùi thơm vô cùng như vậy….uống ly rượu này vào rồi thì ĐHC chắc sẽ hai tay dâng nốt mấy viên hồng ngọc, vòng ngọc cho “anh Ba”, hoặc cũng trở thành đệ tử của “anh Ba” như Tư Râu , Ba Đen …..!”.
Cầm ly rượu trên tay mãi không lẽ không uống?, cặp mắt của “anh Ba” thì cứ nhìn chòng chọc. Uống một hơi cạn ly rượu, nóng ran cả cổ, rượu ngon thật không thể gì sánh bằng…. không lẽ lại xin thêm uống nữa ?! “anh Ba” lúc bấy giờ trở nên đỏ sặc như con cá lia thia đang sừng vậy, xem ra “anh Ba” vui vẻ vô cùng…
2h sáng thì Nhi đã đưa ĐHC ra được đến Cần Thạnh. Đêm Cần Thạnh im ắng như tờ, chỉ có gió từ biển thổi về rào rạt. ĐHC đưa cho Nhi chiếc vòng cẩm thạch xanh và nói “em giữ thật kỹ, vài tháng nữa hãy bán đi, tiền đủ để nuôi mẹ và con em được vài năm….”. ĐHC lên chiếc cúp 78 gửi nhà người quen, phóng một mạch, mặc cho đường xá lầy lội, mặc cho gió thổi ào ào, 8h sáng đã ung dung ngồi uống ly cà phê tại Hồ Con Rùa. Người Bạn chỉ còn mình không với mớ đất đá thong thả theo ghe của “Phương cụt” đến chiều thì cũng về tới thôi. Nhớ đến “anh Năm”, con người có vẻ bề ngoài nom dữ tợn nhưng tâm can lại hiền lành chất phác. Đến lúc này ly rượu tổ của “anh Ba” mới bắt đầu phát tác. Trời ban ngày đang sáng rực như vậy mà tự nhiên thấy tối đen mù mịt, xung quanh đầy những tiếng ma quỷ thét gào. Toàn thân bỗng nhiên lạnh ngắt mà trán thì đổ mồ hôi giọt giọt. ĐHC lên cơn mê sảng, tay chân bắt đầu co giật, trong cơn mê cố gắng quờ quạng lên ngực, nắm được tấm linh phù 2500 năm tuổi của người Sa Hùynh, tấm linh phù bình thường lạnh ngắt như đá, bây giờ lại trở nên ấm nóng lạ thường……Giữa cái bóng đêm mịt mù đầy ma quỷ bỗng như có chớp sáng, xa xa như hiện lên hình bóng đẹp lộng lẫy của nàng công chúa Sa Hùynh. Cái ánh sáng chói lọi rực rỡ của những linh hồn bất tử tràn ngập cả không gian…/.

dienbatn giới thiệu.


Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *