GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 19.

7/16/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 19.

I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) 
5. LĂNG VUA KHẢI ĐỊNH.
6.CUỘC CHIẾN TÂM LINH RÙNG RỢN GIỮA NHÀ NGUYỄN GIA LONG VÀ NGUYỄN HUỆ - TÂY SƠN.
7. NHỮNG CUỘC TÀN PHÁ VÀ THẢM SÁT CỦA NHÀ TÂY SƠN. ( Bài đọc thêm phần tư liệu ).
8.ĐƯỜNG TOẠI ĐẠO Ở LĂNG VUA CHÚA TRIỀU NGUYỄN.
9.ĐÀN NAM GIAO TẠI VIỆT NAM .
ĐÀN NAM GIAO TẠI VIỆT NAM .
Theo các tài liệu, thư tịch cổ ghi lại, nước ta ngay từ thuở đầu độc lập, nhà nước phong kiến đã sớm chuẩn bị và thực hiện nghi lễ tế Giao. Các triều đại như Lý, Hồ, Lê đến Lê Trung Hưng, rồi các chúa Nguyễn, triều Tây Sơn đều tổ chức tế Giao. Sang thời Nguyễn, tế Giao được xem là lễ tế có quy mô và quan trọng nhất của triều đình. Thời gian đầu, triều Nguyễn tổ chức tế Giao vào mùa xuân hằng năm. Đến năm Thành Thái thứ 2 (1890), triều đình định lại ba năm tế Giao một lần vào các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu. Nghi lễ này được duy trì cho đến năm 1945, thời điểm sụp đổ của phong kiến Việt Nam.
Trong các nghi lễ của các Kinh đô ở phương Đông cổ truyền nói chung, và Kinh đô của các triều đại phong kiến Việt Nam nói riêng: Nghi lễ tế Nam Giao là quan trọng nhất vì đó là nghi lễ tế Trời, tế Thượng Đế (thần chủ cao cấp nhất) theo quan niệm của Nho Giáo.
Đàn Nam Giao lúc đầu chỉ để tế trời vào ngày lễ đông chí. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí có dẫn sách Chu lễ như sau: “Ngày đông chí tế Trời ở đàn Viên khâu, ngày hạ chí tế Đất ở đàn Phương trạch, đấy là lễ của vương giả.” (Phan Huy Chú 1992 :29)
Phan Huy Chú cũng dẫn theo sách này: “Xét: Theo sách Chu lễ, Viên khâu gọi là Nam giao, Phương trạch gọi là Bắc giao” (Phan Huy Chú 1992 :30) . Trong 2 đoạn dẫn này có 2 điều cần lưu ý:
- Nam Giao là tên gọi khác của Viên Khâu, là đàn tế Trời vào tiết Đông chí.
- Phương trạch là tên gọi khác của đàn Bắc Giao, là đàn tế Đất vào tiết Hạ chí.
Phan Huy Chú cũng lúng túng, có lúc ông cho rằng lễ tế ở đàn Phương Trạch và đàn Nam Giao được  hợp làm một, có chỗ lại không cho là như vậy.
Tên  gọi đàn Nam Giao xuất hiện lần đầu tiên khi sử sách ghi chép về việc Hồ Hán Thương tổ chức tế Nam Giao ở Đốn Sơn nhưng không thành.
Trong 1 đoạn khác, Phan Huy Chú cũng dẫn sách Chu Lễ: “Xét: Lễ tế Giao đời cổ có hai nghĩa: một là tế để đón hòa khí, tức như trong sách Chu lễ nói: Đông chí tế Trời ở đàn Viên khâu; hai là tế để cầu được mùa, tức là như thiên “Nguyệt lệnh” Kinh lễ nói: Ngày mồng một tháng giêng vua tế Trời để cầu được mùa. Đời sau, lễ tế ở đàn Viên khâu và đàn Phương trạch không làm nữa, chỉ có đầu xuân tế Giao, hợp tế cả Trời Đất. Khoảng năm Hồng-vũ (1368-1398), nhà Minh định thành điển. Đầu nhà Lê mới dùng chế độ nhà Minh, làm lễ vào tháng giêng, hơn 300 năm sau vẫn theo không thay đổi” (Phan Huy Chú 1992 : 30,31).
Ở đoạn dẫn này thì thấy đàn Nam Giao trước đó vốn được dùng để tế Trời và cầu được mùa. Từ cuối thế kỷ XIV trở đi ở Việt Nam và Trung Quốc mới có quy định chẽ về đàn Nam Giao và tế Nam Giao:  ở Việt Nam, đàn Nam Giao là nơi tế Trời Đất, linh vị các tiên Đế đương triều vào ngày tốt đầu xuân hàng năm và do chính nhà Vua trực tiếp tế. Việc quy định 2-3 năm một lần làm đại lễ tuỳ thuộc vào mỗi vương triều. Tế Nam Giao được quan niệm là lễ tạ ơn, báo cáo với Trời Đất về sự hiện diện của Vương triều, cầu mong sự trường tồn của Vương triều, sự thịnh vượng của Quốc gia, của “ Quốc thái dân an”.
Chính vì ý nghĩa quan trọng này mà tế Nam Giao được coi là nghi lễ mang tính cung đình,” là lễ của Vương giả”, đàn Nam Giao trở thành một công trình kiến trúc cung đình không thể thiếu của Vương triều, ít nhất là từ thời Lý trở đi.
Về chức năng của đàn Nam Giao:
Chức năng của đàn Nam Giao cũng được hình thành trong một quá trình lịch sử lâu dài. Ngoài chức năng chính là tế trời, đàn Nam Giao còn có các chức năng khác.
Thời Lý, đàn Nam Giao chủ yếu mang chức năng cầu đảo, mưa thuận, gió hoà, chức năng tạ ơn Trời Đất không thấy được ghi chép. Chức năng của đàn Nam Giao và tế Nam Giao được nhắc đến 3 lần vào các năm 1137 và 1138:
- Chức năng cầu mưa:
Năm 1138 : “Tháng 6, mùa hạ. Hạn hán, nhà vua xuống chiếu cho bầy tôi hội nghị. Sai Tả ty lang trung Nguỵ Quốc Bảo triệu tập các bầy tôi đến họp bàn về đại hạn. Phạm Tín xin đến đảo vũ ở đàn Vu. Nhà vua y theo lời, bèn sai quan lại làm lễ đảo vũ ở đàn Vu và chùa Báo Thiên”. (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư,  Bản kỷ (Bản chế bản điện tử), quyển 4: 142).
Trong đoạn dẫn này thì ở thời Lý vua có thể không trực tiếp cầu đảo mà giao cho các quan trong triều.
Việc tế Nam Giao ở thời Trần, sử sách nước ta đều cho rằng không có, có thể do không được ghi chép lại. Tuy nhiên, khi khai quật đàn tế Nam Giao ở thành Thăng Long (địa điểm 114, Mai Hắc Đế, Hà Nội) thì thấy tại đây có khá nhiều vật liệu kiến trúc, di vật thờ cúng và sinh hoạt của thời Trần. Một điểm nữa là khi Hồ Hán Thương tổ chức tế Nam Giao ở Đốn Sơn - Thanh Hoá thì sử sách nước ta lại chép rằng: “Theo lệ cũ, cứ 3 năm một lần đại lễ” (Phan Huy Chú 1992 :29). Chúng tôi ngờ rằng lệ cũ ở đây là lệ của thời Trần chứ không phải là lệ của thời Lý.
Có lẽ từ thời Lê trở đi, việc tế Nam Giao được triều đình rất coi trọng, Vua trực tiếp tế Nam Giao. Trong khi hành lễ tế Nam Giao bất kỳ một sơ sẩy nào cũng được coi là điểm gở. Trong lịch sử tế Nam Giao, có 2 lần sự cố xảy ra trong khi hành lễ. Sự cố thứ nhất là vào năm 1403, khi Hồ Hán Thương dâng rượu tế Nam Giao, tay run đánh đổi rượu xuống đất đã huỷ bỏ lễ tế Nam Giao năm ấy. Sự cố thứ 2 vào năm 1572, vua Lê Anh Tông khi làm lễ tế Nam Giao đã đánh đổ lư hương nên phải đổi niên hiệu từ Chính Trị sang niên hiệu Hồng Phúc.
- Chức năng tế trời đất: “Nhâm Thân, [Hồng Phúc] năm thứ nhất [1572], (Mạc Sùng Khang năm thứ 7; Minh Long Khánh năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, Vua tế Trời Đất ở đàn Nam Giao. Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi xuống đất. Vua biết là điểm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên hiệu thành Hồng Phúc năm thứ nhất.” (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 4, tr. 617). Với chức năng này, tế Nam Giao nhằm tạ ơn Trời Đất, cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, cầu cho Vương triều mãi mãi trường tồn, có tạ ơn Trời Đất thành kính thì mới trị quốc được dễ ràng.
Đặc biệt là trong bài ký khắc trên tấm bia Nam Giao điện bi ký được dựng năm 1679 ở đàn Nam Giao Thăng Long đã khẳng định: “Nơi tế giao sao lại gọi là điện Chiêu sự? Bởi vì đây thờ Thượng đế vậy. Làm sáng tỏ lễ tế giao thì việc trị nước rõ như coi trên bàn tay. Nước Đại Việt ta được dựng nên, đất đai muôn dặm. Xem việc đặt đỉnh, đắp thành, biết rõ được việc dựng nước. Xem hướng lập điện, biết rõ được sự kính cẩn về việc tế Trời. Chọn góc mé Nam thành, xây điện Chiêu sự đàn Nam Giao, chính là nơi muôn loài sinh trưởng”
- Chức năng tế Thần và các vị Hoàng đế tiền triều: Chức năng này được Phạm Đình Hổ chép lại trong Vũ Trung tuỳ bút. Các vị Thần được tế là hậu kỳ thổ địa, các vị tinh tú và các vị thần khác.
Ngoài các chức năng trên, ở thời Tây Sơn, đàn Nam Giao còn là nơi công bố, niêm yết khi thay đổi niên hiệu.
Ỏ thời Nguyễn việc tế Nam Giao được quy định chặt chẽ hơn, có các bàn thờ trời cúng Ngọc Hoàng thượng đế, các tiên đế tiền triều, bàn thờ đất, cúng các vị thần Mặt trời, các vì sao, thần gió, mây, mưa, sấm, thần núi biển, sông, hồ, thần đồng bằng, thiên binh, thiên tướng...
Về lịch sử phát triển của đàn Nam Giao:
Theo hiểu biết của chúng tôi, ngoại trừ việc các chúa Nguyễn có một số lần xây dựng đàn Nam Giao thì đến nay đã có 6 đàn Nam Giao như sau:
- Đàn Nam Giao ở kinh đô Thăng Long được xây dựng từ thời Lý.
- Đàn Nam Giao ở Thanh Hoá do Hồ Hán Thương xây dựng trên dãy Đốn Sơn vào năm 1403.
- Đàn Nam Giao ở Vạn Lại xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá do vua Lê Thế Tông (niên hiệu Quang Hưng thứ nhất, năm 1578) xây dựng.
- Đàn Nam Giao ở kinh đô Phú Xuân của triều Tây Sơn.
- Đàn Viên Khâu (Nam Giao) thời Tây Sơn do Quang Toản đắp ở ngoài cửa Liễu Thị (Hà Nội).
- Đàn Nam Giao ở kinh thành Huế của vương triều Nguyễn được xây dựng năm 1806.
I.ĐÀN NAM GIAO Ở THĂNG LONG.
 Kể từ thời Lý (1010 – 1225), đàn Nam Giao từng được thiết lập ở Thăng Long để nhà Vua tế Trời. Đại Việt sử ký toàn thư, bản Nội các quan bản, khắc in vào niên hiệu Chính Hòa thứ XVIII tức năm Đinh Sửu 1697 (bản kỷ, quyển IV – Ngô Đức Thọ dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính – NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998, tập I, tr.320) chép rằng từ năm Giáp Tuất 1154, niên hiệu Đại Định thứ XV, vua Lý Anh Tông ngự ra cửa Nam thành Đại La (tức thành Thăng Long) xem đắp đàn Viên Khâu. Đàn Viên Khâu (hình tròn) còn gọi đàn Nam Giao, là chỗ Vua tế Trời vào tiết Đông chí, và đàn Phương Trạch (hình vuông) còn gọi đàn Bắc Giao là nơi Vua tế Đất vào tiết Hạ chí theo cổ lệ. Sau, gộp chung cả hai lễ vào tháng giêng, cùng cử hành tại đàn Nam Giao.
 Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) có lưu Vũ trung tùy bút (Tùy bút trong mưa) bằng chữ Hán. Tác phẩm ấy được Nguyễn Hữu Tiến phiên dịch ra chữ quốc ngữ và đăng trên tạp chí Nam Phong từ số 121 (tháng 9-1927) đến số 126 (2-1928), đã giúp hậu thế biết thêm về Giao lễ (lễ tế Giao) thuở xưa. Tác giả Vũ trung tùy bút từng hạ bút: “Lễ tế Giao về thời Lý, thời Trần thì không thể xét được”. Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 – 1784) biên soạn Kiến văn tiểu lục (bản dịch của Phạm Trọng Điềm – NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977, tr.58) cũng thừa nhận: “Lễ nghi tế Giao, tế miếu về hai triều đại nhà Lý, nhà Trần không thể tra khảo được”. Quả thật, lễ tế Giao dưới vương triều Trần tuyệt nhiên không thấy sử nhắc dù chỉ một dòng. Do đó, trong tập 5 Hỏi đáp 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (NXB Trẻ, 2001, tr. 49), Nguyễn Vinh Phúc và Tô Hoài suy đoán: “Thời Trần dường như bỏ lệ tế này. Sang thời Lê, bắt đầu từ Lê Thánh Tông năm 1462 phục hồi nghi lễ này [?]”.
Nhưng sau nhà Trần và trước nhà Lê, nước ta từng có nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Liệu hai triều đại ấy giữ cổ lệ tế Giao chăng? Hầu như rất hiếm tư liệu đề cập. May thay, Đại Việt sử ký toàn thư (sđd, tập II, tr.203) còn bảo lưu thông tin rất đáng chú ý khi ghi chép các sự kiện năm Nhâm Ngọ 1402: “Tháng 8, Hán Thương [con trai và là người kế vị Hồ Quý Ly] đắp Giao đàn ở Đốn Sơn để làm lễ tế Giao. Đại xá. Hôm tế, Hán Thương ngồi kiệu Vân Long, từ cửa nam [thành Tây Đô] đi ra, các cung tần, mệnh phụ, quan văn, quan võ trong triều theo thứ tự đi sau. Mũ áo của đàn bà kém chồng một bậc, nếu bản thân là tôn quý thì không phải kém. Lệ cũ của đời trước có nghi lễ bái yết hai bậc, quan lại và người theo hầu rất đông. Cứ 3 năm cử hành đại tế một lần, thiên tử ngồi xe Thái Bình, khắc gỗ làm 40 hình người tiên, mặc áo vóc, cầm cờ đi trước, nếu đi thuyền nhỏ ở hồ Chu Tước thì dùng dây thừng gấm để kéo thuyền; 2 năm cử hành trung lễ một lần, Thiên tử ngồi ngai chạm bách cầm; 1 năm cử hành tiểu lễ một lần, thiên tử ngồi ngai nhỏ. Chưa từng làm lễ tế Giao, nay Hán Thương run tay, rượu bị đổ xuống đất, nên phải ngừng lại”. Xem thêm Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đời Tự Đức (bản dịch của Phan Trọng Điềm – NXB Thuận Hóa, Huế, 1992, tập II, tr. 270) lại thấy: “Giao đàn cũ nhà Hồ ở phía Nam trên đỉnh Đốn Sơn thuộc xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, [tỉnh Thanh Hóa,] do Hồ Quý Ly xây [?], dưới đàn có giếng tắm [giếng Vua], xây đá làm thành, do Hồ Hán Thương xây; di tích vẫn còn”.
1. Đàn Nam Giao Thăng Long Thời Lý - Trần- Lê:
Bản đồ kinh thành Thăng Long(kèm chú thích),theo Hồng Đức bản đồ sách 洪德版圖冊 (1490).
Đàn Nam Giao ở kinh thành Thăng Long có một lịch sử phát triển và tồn tại lâu dài nhất so với những đàn Nam Giao hiện biết. Đàn Nam Giao Thăng Long trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê và một phần của thời Tây Sơn, đã được ghi chép trong khá nhiều sử sách, bia kí và địa bạ cổ nước ta như: Đại Việt sử kí toàn thư, Kiến văn tiểu lục, Lê triều hội điển, Vũ trung tùy bút, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Thăng Long cổ tích khảo, Địa bạ huyện Thọ Xương, Nam Giao điện bi ký...
Đặc biệt trong địa bạ của thôn Thịnh Yên, tổng Kim Hoa, huyện Thọ Xương có ghi rằng nền điện Nam Giao cũ có diện tích 308m2, chu vi 42m, cao 0,42m (Phan Phương Thảo 2006: 28 - 35).
Tấm bia Nam Giao điện bi ký, dựng năm 1679 được phát hiện ở khu vực số 114 phố Mai Hắc Đế- ngõ Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, cùng với sổ Địa bạ huyện Thọ Xương, những dòng ghi chép trong Đại Nam Nhất Thống chí, Vũ trung tùy bút... Những tư liệu thành văn này chỉ mới cho biết rõ vị trí của đàn Nam Giao Thăng Long thời Lê Trung Hưng - Tây Sơn. Việc xác định Nam Giao Thăng Long thời Lí Trần và Lê sơ còn phải nhờ đến tài liệu khảo cổ học.
Đàn Nam Giao Thăng Long chính là khu vực nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (nay là Công ty cơ khí cổ phần Trần Hưng Đạo), số 114 phố Mai Hắc Đế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đàn này tồn tại từ thời Lý đến thời Tây Sơn. Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung tuỳ bút có một đoạn viết như sau: “Mùa hạ năm Tân Dậu (1801) vua Thiếu chủ đời Tây Sơn (Quang Toản) bỏ Phú Xuân chạy ra Bắc thành đổi Bắc thành là Kinh Bắc, cho đắp gò Viên Khâu ở ngoài cửa Liễu Thị, xây đàn Phương Trạch ở trên Tây hồ, định cứ đến ngày đông chí, hạ chí thì tế thiên địa ở hai nơi ấy.” (Phạm Đình Hổ 1972 : 70).
Trong đoạn viết này thì :
- Dưới thời Tây Sơn đàn Nam Giao (Viên Khâu) và đàn Phương Trạch lại là 2 đàn khác nhau.
- Năm 1801, trước khi nhà Nguyễn được tạo dựng, đàn Nam Giao Thăng Long đã chính thức bị phế bỏ.
 Nhưng trong thực tế thì ngay từ thời Tây Sơn, đàn này đã không còn giữ vị trí và chức năng như trước chỉ còn là nền cầu đảo mỗi khi có hạn hán, là nơi cáo yết khi thay đổi niên hiệu...Nền đàn được xây ngôi đền nhỏ thờ Liễu Hạnh, tại đây diễn ra các cuộc lên đồng và những chuyện hoang đường khác đã được ghi chép trong Vũ Trung tuỳ bút.
 Thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802-1819), đàn đã thì bị phá để lấy gạch xây thành. Năm Tự Đức thứ 11 (1857) ngôi đền chính ở phường Thịnh Yên bị cháy. Điều này đã được ghi chép trong Đại Nam Nhất Thống chí: “Bản triều đầu đời Gia Long giỡ lấy gạch đá để xây thành, chỉ còn đền chính ở phường Thịnh An (có sách chép là phường Lương Giang). Năm Tự Đức thứ 11, đền bị hoả tai” (Quốc sử quán triều Nguyễn 1997: 193-194 ).
Sau đó khu vực nền đàn Nam Giao bị biến thành khu nghĩa địa của thôn Thịnh Yên, mà trong cuộc khai quật đàn này vào năm 2007 - 2008, Viện Khảo cổ học đã tìm được dấu vết của 21 mộ táng có niên đại khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Đầu thế kỉ XX, người Pháp đã phá đàn Nam Giao để xây dựng nhà máy. Năm 1956, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo được xây dựng trên nền đất của đàn Nam Giao. Hiện nay toà nhà thương mại Vincom Tower đã được xây dựng ở một phần của khu vực đàn Nam Giao.
Năm 2006, Viện Khảo cổ học đã đào thám sát ở khu vực phía Nam, trên phần đất còn lại của đàn Nam Giao, với diện tích đào là 101.06 m2. Tiếp theo, vào các năm 2007 và năm 2008 Viện Khảo cổ học và Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội đã tiến hành 3 đợt khai quật khảo cổ học trên phần đất còn lại của khu di tích đàn Nam Giao và 1 đợt di dời toàn bộ phần móng còn lại của kiến trúc nhà chữ công thời Lí về kho tạm Đống Thây (quận Đống Đa, Hà Nội), với tổng số diện tích khai quật 1.805m2.
1.1. Đàn Nam Giao Thăng Long thời Lí:
Trở lại 2 đoạn dẫn từ sách Đại Việt sử kí toàn thư, vào các năm 1137 và 1138 chép về Vu Đàn, mà theo Kinh Xuân Thu, thì Vu Đàn chính là đàn Nam Giao như đã nêu ở trên, chúng ta thấy đàn này đã có từ trước đó, nhưng có từ  bao giờ thì chưa biết.
Do đàn Nam Giao Thăng Long đã bị đào sới, san lấp qua nhiều thời, nhà cửa xây cất chồng chéo lên trên và xung quanh nên không thể xác định được các tầng nền đàn và khu vực trung tâm, nhưng kết quả đào thám sát và khai quật di tích đàn Nam Giao ở địa điểm 114 Mai Hắc Đế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, từ năm 2006- 2008, đã góp phần làm sáng tỏ thêm về đàn Nam Giao Thăng Long.
Những dấu tích kiến trúc và di vật khai quật được ở di tích đàn Nam Giao , đã cho thấy giữa tài liệu thành văn và tài liệu khảo cổ học hoàn toàn khớp nhau về sự có mặt của đàn Nam Giao ở khu vực này. Thậm chí ở mức độ nào đó, qua quy mô của ngôi nhà hình chữ Công ở khu vực phụ, cùng với sự trang trọng, cầu kì trong vật liệu và trang trí kiến trúc, đã cho thấy thời Lí đã rất chú trọng tới tế Nam Giao.
1.2. Đàn Nam Giao Thăng Long thời Trần:
Sử sách nước ta đều cho rằng thời Trần không có tế Nam Giao. Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí đã dẫn lời của Ngô Ngọ Phong “ Từ nhà Trần về trước, không làm lễ Giao tế Trời, lễ ý văn vật thiếu sót nhiều vậy”. Nhưng khi chép về việc Hồ Hán Thương tổ chức tế Nam Giao thì lại viết là: ” Theo lệ cũ, cứ 3 năm một lần đại lễ”. Trong thực tế, tại đây đã phát hiện được một số dấu tích của kiến trúc thời Trần, cùng khá nhiều vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc như tượng uyên ương, lá đề trang trí rồng, phượng. Điều này đã cho thấy thời Trần vẫn xây dựng và củng cố đàn Nam Giao. Điều đó cũng có nghĩa là tế Nam Giao vẫn được tổ chức. Tuy nhiên, cũng như thời Lí, những nghi lễ về tế Nam Giao lại  không được ghi chép, khiến cho các sử gia phong kiến đều hiểu không đúng sự thật. 
1.3. Đàn Nam Giao Thăng Long thời Lê:
Đàn Nam Giao Thăng Long  thời Lê đã được một số tư liệu ghi rõ thời gian xây dựng và sửa chữa qua các thời Hồng Đức (1470-1497), Quang Thuận (1460-1469), Quang Hưng(1578-1599), Cảnh Trị (1663-1671). Tư liệu thành văn ghi chép về đàn Nam Giao thời Lê khá nhiều, tài liệu khai quật khảo cổ học năm 2007-2008, về mặt di vật cũng phù hợp. Nhưng về kiến trúc thì đàn đã bị phá và đào xới nhiều lần nên chỉ còn lại một số dấu vết kiến trúc như trụ móng, chân tảng đá, nền sân lát gạch, cột cờ.
Theo Lê Quý Đôn (Kiến văn tiểu lục, bản dịch NXB sử học năm 1962) thì các đàn tế lễ theo thể chế định trong thời Hồng Đức gồm: điện Chiêu Sự 3 gian, 2 chái, điện Canh y, trai cung, phòng bếp, phòng ăn chay, kho tế khí, cửa giữa, cửa tả, cửa hữu và hai cửa ngoài.
Như vậy chắc chắn trong thời Lê sơ điện Nam Giao đã được sửa lại quy mô ngay trên nền móng cũ của đàn Nam Giao thời Lý và thời Trần.
Thời Lê Quang Thuận sửa lại chính điện 3 gian, đông vu và tây vu mỗi bên 7 gian.
Thời Lê Quang Hưng dựng thêm điện Chiêu Sự.
Thời Lê Cảnh Trị(1664) sửa lại điện Nam Giao. Bia Nam Giao mô tả đây là lần sửa chữa quy mô kiến trúc điện Nam Giao rất rộng.
Tất cả các nguồn tư liệu đã cho biết điện Nam Giao trong thời Lê được xây dựng và sửa chữa rất lớn. Riêng năm 1664, theo văn bia thì việc xây dựng rất quy mô hoành tráng.
Tuy nhiên dấu tích trên thực địa thì các dấu tích kiến trúc thời Lê hiện còn không nhiều lắm.
Hiện chưa tìm thấy dấu tích kiến trúc thời Lê sơ mà chỉ tìm thấy các di vật thời Lê sơ như: ngói ống tráng men vàng có trang trí rồng năm móng, dấu tích các lần sửa chữa của năm Quang Thuận và Quang Hưng cũng không rõ ràng lắm. Dấu tích còn khá rõ, có thể của lần sửa chữa năm 1664 qua nền gạch vồ (hố H11 và H12), các di vật ngói, cặp tượng nghê-sấu trang trí trên nóc của kiến trúc.
Việc dấu tích kiến trúc điện Nam Giao thời Lê được xây dựng quy mô còn lại ít hơn thời Lý, có thể thấy rõ vì di tích ở gần lớp đất mặt, lại bị gặp nhiều biến cố như: nhà Nguyễn dỡ bỏ, hỏa tai, mộ táng thời Nguyễn và các công trình thời cận hiện đại san bạt xây dựng mới.
Như vậy, chính thức đàn Nam Giao Thăng Long bị phá hủy hoàn toàn sau năm Tự Đức thứ 11, phải mãi đến năm 2006 được khảo cổ học phát lộ ra.” Trần Anh Dũng.
Lần đầu tiên tên đàn Viên Khâu (đàn Nam Giao) được xuất hiện vào thời Lý. Đại Việt sử ký toàn thư có chép như sau: [Năm 1154], “Tháng 9, vua ngự ra cửa Nam thành Đại La xem đắp đàn Viên Khâu.” (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 4: 142). Trước đó, cũng sách này còn có 2 đoạn chép về Vu Đàn là loại đàn cầu đảo khi hạn hán:
- Năm 1137 : “Tháng 6, hạn, xuống chiếu cho Nguyễn Công Đào đến Vu Đàn ở phía Nam làm lễ cầu mưa”. (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 3:133)
- Năm 1138: “Tháng 6, mùa hạ. Hạn hán, nhà vua xuống chiếu cho bầy tôi hội nghị. Sai Tả ty lang trung Nguỵ Quốc Bảo triệu tập các bầy tôi đến họp bàn về đại hạn. Phạm Tín xin đến đảo vũ ở Đàn Vu. Nhà vua y theo lời, bèn sai quan lại làm lễ đảo vũ ở Đàn Vu và chùa Báo Thiên”. (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ (chế bản điện tử), quyển 3:142).
Trong thực tế khi khai quật di tích đàn Nam Giao địa điểm 114, Mai Hắc Đế, Hai Bà Trưng, Hà Nội, chúng tôi đã phát hiện được khá nhiều viên gạch thời Lý in hàng chữ Hán: “Lý Gia đệ tam đế Long Thuỵ Thái Bình tứ niên tạo” (năm 1057) ở lớp văn hoá dưới cùng. Đây là niên hiệu của vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072). Điều này cho thấy nhiều khả năng đàn Nam Giao ở nước ta có từ rất sớm. Tuy nhiên sử sách điều không ghi rõ về sự kiện này. Thông thường là khi một quốc gia, một vương triều được thiết lập thì đàn Nam Giao là một trong những công trình thiết yếu của quốc gia, của vương triều đó phải được xây dựng sau đó ít lâu. Ví dụ triều Hồ được thiết lập năm 1400 thì năm 1403 đã xây đàn Nam Giao ở Thanh Hoá; Triều Nguyễn được thiết lập năm 1802 thì năm 1806 đã xây dựng đàn Nam Giao ô kinh thành Huế.
Ngay sau khi định đô ở Thăng Long, vua Lý đã cho dựng đàn Nam Giao ở phía Nam kinh thành. Quy mô điện Nam Giao đã được các bộ sử lớn của nước ta như: Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn và Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ mô tả: “Đàn đắp ở phía Nam kinh thành đàn chính giữa chiều dài 15 thước, chiều cao 7 tấc, đàn tế chung cả Trời - Đất. Hai đàn bên tả và bên hữu chiều dài 16 thước, chiều cao 3 tấc. Hai đàn này chia ra tế các vì sao và thần núi sông. Chung quanh đàn trồng cây, mặt trước đàn mở 3 cửa…”.
Theo bộ sách Đại Nam nhất thống chí biên soạn thời Lê, thì đàn Nam Giao ở kinh thành Thăng Long có từ thời Lý. Đến thời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469), đàn được sửa lại, với chính điện gồm 3 gian, hai bên Đông Vu và Tây Vu mỗi bên đều bảy gian, có các toà điện Canh Y (nơi thay áo). Cạnh đó có trai cung, nhà bếp, nhà kho, bên trong, bên ngoài xây tường bao quanh, cùng ba gian nghi môn.
Sách này cũng cho biết, khoảng những năm niên hiệu Quang Hưng (1578 - 1599), thời vua Lê Thế Tông thì dựng thêm điện Chiêu Sự, dù các sách sử không ghi lại sự kiện vua Lê Thế Tông thực hiện lễ tế Nam Giao lần nào.
Các nghiên cứu lịch sử đều xác định đàn Nam Giao được xây dựng phía Nam thành Thăng Long, thuộc khu vực Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo cũ, gần cửa ô Cầu Dền và ở khoảng giữa các phố Mai Hắc Ðế, Thái Phiên, Ðoàn Trần Nghiệp, Bà Triệu. Cái tên phố Hòa Mã cũng liên quan đến đàn Nam Giao, do phố này nằm ở trên thôn Đổi Mã xưa, và chữ Đổi Mã tiếng Việt cổ có nghĩa là “thay đổi áo xống”.
Chữ “mã” đây không phải chữ Hán là ngựa, mà có nghĩa là cái vỏ, trang phục bề ngoài, được dùng trong câu tục ngữ “tốt mã giẻ cùi”, “tốt mã”. Sách sử cho biết, trước đây ở làng này có cung Đổi Mã (chữ Hán chính là Cung Canh Y). Đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), thôn Đổi Mã mới đổi tên thành Hòa Mã.
Cổng đình và đền Hòa Mã ở phố Phùng Khắc Khoan, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, di tích liên quan đến đàn tế Nam Giao thời Lê trở về trước. Ảnh: Trang tin Di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội.
Khâm Định Việt Sử Thông  Giám Cương Mục.Chính Biên .Quyển thứ 33.Tháng 12. Sứ thần nhà Thanh sang nước ta.
Bọn chánh sứ Ngô Quang và phó sứ Chu Chí Viễn sang dụ bảo việc tế Lê Thần Tông.Khánh thành điện Chiêu Sự ở đàn Nam Giao. Điện vũ ở đàn Nam Giao, trước kia quy mô nhỏ hẹp, nay sai quan gia công xây dựng thêm, đến đây công việc đã hoàn thành, lại hạ lệnh cho từ thần là bọn Hồ Sĩ Dương soạn văn bia để ghi công việc ấy.
Lời cẩn án -Kiến văn lục của Lê Quý Đôn chép: Đời Hồng Đức định quy chế về đàn Nam Giao; điện Chiêu sự ba gian hai chái, đông vũ và tây vũ đều bảy gian, lại có điện canh ly , nhà trai cung và nhà bếp, mở ba tầng cửa, bốn chung quanh xây tường. Tùy bút lục của Phạm Hồ chép: nước ta có đàn Nam Giao bắt đầu từ đời nhà Lý, đến đời Lê Trung Hưng lại sửa sang xây dựng thêm. Nay xét "Lý Anh Tông kỷ" chép: "nhà vua ngự ra cửa nam thành Đại La xem đắp đàn Viên Khưu" . Thế thì từ triều nhà Lý, nước ta đã có đàn Nam Giao, mà điện vũ trong đàn thì bắt đầu xây dựng từ năm Hồng Đức (1470-1497). Lời chua -Điện Chiêu sự: ở phía nam thành Thăng Long về địa phận thôn Thịnh An, huyện Thọ Xương, nay nền cũ vẫn còn.
Đàn Nam Giao ở Thăng Long xưa được đắp từ thời vua Lý Anh Tông. Đại Việt Sử  ký toàn thư viết: “Giáp Tuất, năm thứ 15 (1154) tháng 9, vua ngự ra cửa nam thành Đại La xem đắp đàn Viên Khâu” (Nam Giao). Được dùng để tế trời, theo quan niệm, mọi nghi lễ đều diễn ra trên đàn đắp bằng đất, bày hương án ngoài trời chứ không có mái.
Qua nhiều triều đại kế tiếp, mãi cho đến 509 năm sau, thời Lê Trung Hưng, vua Lê Huyền Tông và chúa Trịnh Tạc mới cho dựng điện Chiêu Sự để tế trời trên nền đàn cũ vào năm 1663. Sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn chép: “Ngày làm lễ, rước hoàng đế ngự ở sân điện Chiêu Minh, sau khi đã quán tẩy, hoàng thượng mới bước lên điện dâng hương trước án, việc dâng hương và đọc chúc đều cử hành trên điện, chỉ quỳ và cúi đầu vái, còn lễ bốn lạy trước và sau khi đọc chúc đều lạy ở sân điện”.
Trong các tấm bản đồ vẽ thành  Thăng  Long   thời  Lê và Nguyễn như  bản  đồ  thành Đông Kinh năm 1490, “Trung đô sơn xuyên hình thắng chi đồ” năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770), “Trung đô nhất phủ nhị huyện chi hình”, “Thăng Long thành Phụng Thiên nhất phủ nhị  huyện  năm Gia Long thứ 9  - 1810 đều vẽ đàn Nam Giao rất rõ.
Nhìn trên tấm bản đồ vẽ thành Thăng Long thời Hồng Đức 1490, thấy vùng đất phía nam mênh mông đầm nước bao bọc suốt từ vùng đại hồ Văn Miếu - cống Lâm Khang đến gần sát đàn Nam Giao. Xem hình minh họa thì đàn Nam Giao được dựng theo lối phương đình tám mái, xung quanh là những bậc đá để nhà Vua bước lên làm lễ tế Trời.
Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, nhà sử học Phan Huy Chú miêu tả điện Chiêu Sự (Nam Giao) do Tây Vương Trịnh Tạc sai dựng như sau: “Huyền Tông năm Cảnh Trị thứ 1 (1663) làm điện Nam Giao... giữa là điện Chiêu Sự, cột bốn góc làm bằng đá, nền và sân bao lơn đều bằng đá cả. Rường, xà, rui, hoành đều sơn son thếp vàng, có  hai dãy hành lang tả hữu, bên ngoài là chỗ vua thay quần áo, đằng trước có ba tầng cửa quy mô chế thức rực rỡ mới mẻ. Sai triều thần là nhóm Hồ Sĩ Dương làm văn khắc bia để ghi việc ấy...
Thế rồi biển dâu biến cải. Cuối thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh suy tàn, vua Lê Chiêu Thống trả thù cái nợ bị đè ép, sai đốt phá hết những gì có dính dáng đến chúa Trịnh. Nhưng chắc đàn Nam Giao không bị đốt, vì ai dám đốt nơi tế trời. Dù sao, thế cuộc đổi thay cũng tác động vào. Đàn trở nên hoang phế. Sau này, gần giữa thế kỉ XIX, thời Minh Mạng,  Vũ Tông Phan (1800 - 1851, đỗ tiến sĩ năm 1826) khi đến thăm di tích, trước cảnh tiêu điều đã phát sinh cảm thán. Bài thơ “Thăm đàn Nam Giao triều trước Lê” của ông có hai đoạn, đoạn đầu là:
Tiêu điều lũy cổ gió thu bay
Vời vợi dấu xưa biết ai đây
Điện vắng trơ vơ mưa nắng dãi
Bia mòn nhập nhoạng bóng chiều vây.
(Bản dịch của Vũ Thế Khôi)
Theo tư liệu thì trong “Lỗ Am di cảo tập”, trước bài thơ, Vũ Tông Phan có lời chú về vùng đất này như sau: “Đàn Nam Giao này tại ô cầu Dền phía nam thành Thăng Long, là nơi tế trời của các triều Lý, Trần, hậu Lê, sau đến nhà Lê Trung Hưng. Vào mùa thu năm Quý Mão hiệu Cảnh Trị  (1663) Tây Vương Trịnh Tạc dựng điện Chiêu Sự ở đây, nay chỉ còn chính điện cột kèo vẫn như mới, nhung hiên mái mất đến nửa. Trước chính điện có con Ly nằm giữa gai góc, chim sẻ làm tổ. Bên ngoài là ruộng lúa, kê bao quanh. Trâu, dê thả rông trên nền điện, xa xa còn thấy một tấm bia đá   vỡ nằm trơ trọi, xóm thôn chen lẫn, cảm khái làm bài thơ...”.
Như vậy là vào giữa thế kỷ  XIX, đàn Nam Giao Thăng Long tuy đã hư hại nhiều nhưng vẫn còn dáng hình. Đàn nằm giữa một vùng đất xung quanh có xóm làng với những ruộng lúa, kê, đám gia súc thả rông lên cả sân điện chứng tỏ không có ai chăm sóc, trông nom.
Đến thời Pháp xâm lược nước ta, trên tấm bản đồ Hà Nội vẽ năm 1873, năm thành Hà Nội bị đánh lần thứ nhất, vẫn thấy có mặt di tích này, ghi là “Lê Nam giáo đàn”. Cuộc bình chiếm Bắc Kỳ kết thúc, Hà Nội trong tay người Pháp, khu đất có đàn Nam Giao được cấp cho một công ty xây dựng nhà máy diêm. Từ năm 1892, khi nhà máy này đi vào sản xuất, đàn Nam Giao mới mất hẳn dấu tích. Văn Sáu.
Năm 1804, người ta cho dỡ gạch ngói của Đàn để xây thành. Tại đây, chỉ còn sót lại nhà bia và tấm bia đá sau được Viện Viễn đông Bác cổ chuyển về đặt tại sân vườn Bảo tàng Louis Finot vào năm 1947 (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia).
Đầu thế kỷ 20, người Pháp đã phá đàn Nam Giao để mở đường và xây nhà máy diêm. Năm 1956, sau khi giải phóng thủ đô, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo được chuyển từ Việt Bắc về và được xây dựng trên nền đất của đàn.

Bia Nam Giao điện bi ký ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
BÀI KÝ BIA ĐIỆN NAM GIAO.
Tế Giao  lại đặt tên điện Chiêu Sự là vì sao? Là vì nơi đó phụng sự Thượng đế. Làm sáng tỏ lễ Tế Giao thì việc trị nước dễ như chỉ bảo trên lòng bàn tay. Kính nghĩ, nước Đại Việt ta xây dựng mở mang trong trời đất muôn dặm như vậy. Đóng đô, xây thành rõ ràng việc xây dựng đất nước; Chọn hướng chính vị, tỏ lòng cung kính với trời. Lấy góc phía Nam thành để dựng điện Nam Giao Chiêu Sự. Vào sớm mồng một đầu năm nghênh tế ở đây. Lễ ấy cử hành trải qua bao đời vẫn giữ, nhưng xây dựng chưa được hoàn hảo, tô điểm cũng chưa thật tinh xảo, chưa đủ để báo ơn trời lớn lao. Cầu mong công trình này có được một quy chế từ xưa chưa có, làm được một việc từ xưa chưa ai làm, hẳn là phải đợi ở bậc Thánh vương có khí trượng vượt qua người thường!
Nay Đại nguyên soái Chưởng quốc chính, Thượng sư Thái phụ, Đức công Nhân uy, Minh thánh Tây vương ). Trời cho thông tuệ, trung hậu nghiệp nhà, tiếp nối Vương nghiệp, trợ giúp Hoàng đồ, phò giúp Đương kim Hoàng thượng  giữ vững ngôi vua, nối được phúc lành, lại ủy sai Nguyên soái Điển quốc chính Định Nam vương , quyết đoán mọi việc, mở mang trị bình.
Thường nghĩ, bậc vương giả, trên vâng mệnh trời đất, dưới vỗ về triệu dân. Biết kính trời thì thịnh trị có thể bền vững, thái bình có thể giữ mãi. Vậy nên thời và điềm, không phải được bắt đầu ở trời sao. Hàng năm vào ngày mồng một tháng Giêng mùa xuân, tự thân phò xa giá Hoàng thượng dẫn các quan triều nghiêm chỉnh đến sân điện, tiến hành đại lễ, cung kính cung kính hết mức, còn cho rằng như thế cũng chưa đủ. Thế là bèn ra uy quyết đoán, chọn lấy ngày lành, tập trung các thợ. Cột xà chọn lựa gỗ tốt; Mực thước theo cung Trường Sinh . Tháo bỏ các thứ cũ xưa, dựng xây toàn công phu mới. Đến tháng 9 mùa thu năm Quý Mão (1663) niên hiệu Cảnh Trị thứ 1 thì khởi công, đến cuối năm Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 (1664) thì hoàn thành. Nền xây bằng gạch, trụ dựng cột đá. Đao cong rực rỡ, đầu rồng dưới mái sóng đôi. Góc uốn huy hoàng. Chân ngao vững vàng cân đối. Rỡ ràng quy mô đổi mới. Hiên ngang xây lại đất trời. Ngôi điện này không chỉ bày tỏ lòng tôn kính đương thời, mà còn muốn truyền mãi cho đời sau. Thế là bèn thuê thợ khắc đá truyền cho đời sau để biết được tấm lòng của Vương thượng, cung kính giữ bên trong, khiêm nhượng biểu hiện ở ngoài. Công thực dày, đức thực lớn. có công đức ấy hẳn sẽ có phúc thọ ấy. Phúc của trời, lộc trời dư dật. Thọ bởi trời ban, tuổi thọ trời cho. Ngàn phúc trăm phúc con cháu muôn ngàn đời dài mãi và cả nghiệp Đế, nghiệp Vương, mệnh trời ban cho dài mãi.
Kính cẩn ghi lại.
Ngày tốt Quý Mùi tháng 10 mùa đông, năm Vĩnh Trị  thứ 4 Hoàng triều (1679).
Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Tham tụng, Công bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, Duệ Quận công Hồ Sĩ Dương , người xã Hoàn Hậu huyện Quỳnh Lưu, cung kính nhuận chính.
Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Cai quan Thự vệ sự, Luân Quận công Vũ Công Chấn, người xã An Cự, huyện Thiên Bản vâng làm đốc công.
Quang tiến Thận lộc Đại phu, Đông các Hiệu thư, Xuân Trạch nam, người xã Nam Nguyễn, huyện Phúc Lộc Nguyễn Tiến Triều vâng lệnh
soạn thảo.
Quang Tiến Thận lộc Đại phu Cai hợp Thị nội Thư tả, Binh bộ Lang trung, Hương Thọ nam, người xã Đình Luân, huyện Gia Lâm Lê Công Chính vâng lệnh viết chữ.
2.ĐÀN NAM GIAO TẠI THÀNH NHÀ HỒ - THANH HÓA.
Cổng chính của thành nhà Hồ
Đàn Nam Giao hay đàn Nam Giao nhà Hồ là một di tích thuộc khu di tích thành nhà Hồ, tỉnh Thanh Hóa. Xưa kia đây là nơi hàng năm triều nhà Hồ tiến hành lễ tế trời, cầu cho quốc thái, dân an hoặc lễ tế vào những dịp đại xá thiên hạ. Năm 2007, di tích khảo cổ địa điểm đàn tế Nam Giao - Tây Đô đã được xếp hạng di tích quốc gia.
Được khai quật từ năm 2004 tại xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá, cách thành nhà Hồ khoảng 2,5 km về phía Đông Nam, đàn tế Nam Giao của nhà Hồ (đàn Nam Giao Tây Đô) là một công trình có giá trị lịch vử và kiến trúc đặc biệt của thời nhà Hồ.
Năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly lên ngôi, lập ra triều đại nhà Hồ và lập kinh đô mới là Tây Đô. Năm 1402, vua Hồ Hán Thương đã cho xây dựng đàn tế Nam Giao ở Đốn Sơn. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi:
"Nhâm Ngọ 1402, tháng 8, Hán Thương sai đắp đàn Nam Giao ở núi Đốn Sơn để làm lễ tế Giao; đại xá thiên hạ. Ngày hôm tế, Hán Thương ngồi trên kiệu Vân Long do cửa Nam đi ra."
Chữ "Giao" có một nghĩa là lễ tế trời ở vùng phía Nam kinh thành. Vì vậy, lễ tế này thường gọi là lễ tế Nam Giao, nơi thực hiện nghi lễ này gọi là đàn Nam Giao .
Cặp rồng đá còn lại của thành Tây Đô.
Đàn Nam Giao nay thuộc địa giới hành chính xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá, cách thành nhà Hồ khoảng 2,5 km về phía Đông Nam. Di tích này cách thành phố Thanh Hóa khoảng 45 km về phía Tây Bắc theo quốc lộ 45, cách thị trấn Hà Trung khoảng 27 km về phía Tây theo tỉnh lộ 217.
Đàn Nam Giao có diện tích khoảng hơn 2 ha, lưng tựa Đốn Sơn (núi Đún), tiền án là "cánh đồng Nam Giao". Tại đây có những dấu tích kiến trúc của các cấp nền bao (nền Thượng, nền Trung, nền Hạ). Vật liệu kiến trúc chính để xây dựng đàn là đá xanh và nhóm vật liệu bằng đất nung (gạch, ngói…). Hiện còn dấu tích con đường linh đạo được lát bằng những phiến đá xanh mài nhẵn, mà trước kia vua đi trên con đường này để vào khu vực tế chính.
Một công trình được bảo tồn khá nguyên vẹn ở đây là Giếng Vua, còn gọi là Ngự Dục, Ngự Duyên. Giếng có hình vuông, được kè đá theo các cấp bậc nhỏ dần vào lòng. Ở độ sâu khoảng 10m so với nền đàn trung tâm, các nhà khảo cổ đã tìm ra mạch nước của giếng cổ.
Xung quanh khu vực đàn Nam Giao, nay có các địa danh như Dọc Bái, Dọc Sen… Tương truyền trước kia khi tế lễ, dân chỉ được đứng ở phía xa để bái vọng .
Năm 2004, một cuộc khai quật với diện tích khai quật 800 m² đã phát lộ di tích chỉ cách mặt đất khoảng 20 cm đến 40 cm. Nhiều hiện vật quan trọng đã được phát hiện. Theo nhà khảo cổ học Nguyễn Hồng Kiên, "cho đến thời điểm này, đây là đàn tế Nam Giao còn lại nguyên vẹn nhất và có thể được xem là quý giá nhất Việt Nam".
Cuộc khai quật, khảo cổ thứ hai năm 2007 được tiến hành trên diện tích 2000 m² và cuộc khai quật, khảo cổ thứ ba năm 2008 đã mở rộng diện tích khai quật thêm 3000 m². Trong các năm từ 2009 đến 2011, tiến hành khai quật, khảo cổ tổng thể di tích trên diện tích 24.000 m².
 Trong các năm 2004, 2007, những đợt khai quật của Viện khảo cổ học VN đã làm phát lộ tại đây một hệ thống móng kiến trúc còn khá nguyên vẹn, với các cấp nền Thượng, nền Trung, nền Hạ cùng trục thần đạo lát đá xanh.
Theo các sử liệu cũ, đàn tế Nam Giao tại Thành nhà Hồ được Hồ Hán Thương cho xây dựng và hoàn thành vào tháng 8/1402. Đây cũng là thời điểm lễ tế giao đầu tiên của vương triều nhà Hồ được tổ chức cùng năm với mục đích cầu cho mưa thuận, gió hòa, quốc thái dân an.
Dưới triều đại vua Hồ Quý Ly, đàn tế Nam Giao là nơi hàng năm Vua tiến hành lễ cúng tế cầu quốc thái, dân an hoặc lễ tế vào những dịp đại xá thiên hạ. Sau hơn 600 năm với những thăng trầm lịch sử, hiện đàn tế Nam giao Thành Nhà Hồ là 1 trong 3 đàn tế còn giữ được mặt bằng tương đối nguyên vẹn cổ nhất trong lịch sử Đàn tế Nam Giao của Việt Nam.
Đàn tế Nam Giao có diện tích khoảng hơn 2 ha, cấu trúc gồm nhiều cấp nền bao thu hẹp dần từ thấp đến cao. Dẫn vào trung tâm của đàn tế là con đường linh đạo được lát bằng những phiến đá xanh mài nhẵn. Trong lòng nền cao nhất có dấu tích đàn tế hình tròn (Viên đàn), đường kính 4,75m.
Một công trình được bảo tồn khá nguyên vẹn ở đây là giếng Vua, có hình vuông, được kè đá theo các cấp bậc nhỏ dần vào lòng, nằm thấp hơn khoảng 10m so với nền đàn trung tâm. Ngoài ra, trong khu vực đàn tế còn có thấy dấu tích hàng chục nền móng của các kiến trúc phụ.

Giếng Vua ở khu vực Đàn tế Nam Giao.
Giới nghiên cứu nhận định, đàn tế Nam Giao nhà Hồ là một di tích kiến trúc quý hiếm, không chỉ đối với lịch sử triều Hồ mà còn là một mắt xích quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử đàn tế và nghi lễ tế trời đất ở Việt Nam và trên thế giới.

Dấu tích đàn tế hình tròn (Viên đàn) – nơi vua tiến hành nghi lễ tế Trời – Đất.
Đàn tế Nam giao Thành Nhà Hồ được Vương triều Hồ xây dựng xong vào tháng 8 năm 1402, nay thuộc địa giới hành chính xã Vĩnh Thành (huyện Vĩnh Lộc), cách thành nhà Hồ khoảng 2,5 km về phía Đông Nam. Đàn Nam Giao có diện tích khoảng hơn 2 ha, lưng tựa Đốn Sơn (núi Đún), tiền án là cánh đồng Nam Giao, cấu trúc gồm nhiều cấp nền bao thu hẹp dần từ thấp đến cao. Dẫn vào trung tâm của đàn tế là con đường linh đạo được lát bằng những phiến đá xanh mài nhẵn. Trong lòng nền cao nhất có dấu tích đàn tế hình tròn (Viên đàn), đường kính 4,75m. Tại đây còn lưu giữ khá nhiều dấu tích kiến trúc của các cấp nền bao: nền Thượng, nền Trung, nền Hạ. Vật liệu kiến trúc chính để xây dựng đàn là đá xanh và nhóm vật liệu bằng đất nung (gạch, ngói…); dấu tích con đường linh đạo được lát bằng những phiến đá xanh mài nhẵn, mà trước kia vua đi trên con đường này để vào khu vực tế chính.( Theo Kiến thức).
3. ĐÀN NAM GIAO TẠI THỌ XUÂN - THANH HÓA.
Đàn Nam Giao ở Vạn Lại xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá do vua Lê Thế Tông (niên hiệu Quang Hưng thứ nhất, năm 1578) xây dựng.
Đất An Trường tên nôm cổ nhất là Kẻ Sánh. Thời Lý – Trần, ông Sính (tức Sánh) mới bắt đầu khai phá đất hoang, lập trại ấp. Ông Sính mất, đất đai trở lại hoang vu. Ông Nguyễn Thiện gốc người Trường An (Ninh Bình) gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, đánh giặc có công được phong tước Đại Trí tự, ban họ vua thành Lê Thiện. Ông không làm quan xin ở lại khai thác đất cũ của ông Sính mà ông Thiện từng một thời gian cư trú lánh nạn giặc Minh. Lê Thiện đem người họ hàng và chiêu mộ dân nghèo đến Kẻ Sánh cày cuốc làm ăn, lập làng đặt tên An Trường để con cháu đời sau không quên gốc tổ Tràng An (chữ An Trường phát âm khác là Yên Trường).
Từ khi dựng nghiệp trung hưng, nhà Lê đóng đô ở nhiều nơi, hoặc Tây Đô hoặc Lam Kinh... Ban đầu, năm 1546, Vua Trang tông lấy Vạn Lại làm hành tại. Năm 1554, nhà vua nhận thấy Lam Kinh chật hẹp, theo lời bàn của Thái sư Trịnh Kiểm: “Chỉ có xã An Trường, huyện Thụy Nguyên (Thọ Xuân), bên tả có nhiều núi, bên hữu có sông to, hình thế rộng thoáng, cảnh tượng tươi đẹp” mới lập hành điện, rước vua đến ở (Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí).
An Trường – Vạn Lại cùng chung dải đất miền bán sơn địa. Bởi ở kề sông Lường (sông Chu) đồng ruộng An Trường được khai phá sớm, dân cư phát triển nhanh chóng. Khi vua Lê chọn đất dựng cung điện, lập quân doanh, làng xã dĩ nhiên sơ tán. Long Hồ vừa rộng, vừa sâu trở thành hồ thủy quân, từ đây thủy quân Lê theo sông Lương ra sông Mã tiến đánh quân Mạc ngoài Bắc. Nó cũng là đường giao thông vận tải thuận tiện, tiếp tế lương thực, mắm muối cho An Trường.
Đất An Trường nhiều thuận lợi cũng lắm khó khăn. Quân Mạc từ ngoài Bắc tiến vào Thanh Hóa, đi đường thủy sông Mã, sông Chu, thẳng tới An Trường đánh phá thành lũy, uy hiếp cung điện vua ở. Phía sau An Trường, tiếp giáp An Trường là Vạn Lại, đồi núi nhấp nhô, chen lẫn gò đống ngổn ngang. Núi không cao, đồi thấp thoai thoải, mênh mông bát ngát, đồng ruộng cằn cỗi, khó mở mang, nổi tiếng nước độc ma thiêng, “muỗi rừng thổi sáo”, “sông Cầu Chày chó lội đứt đuôi!”. Triều đình bàn: Thế đất Vạn Lại đồng ruộng chật hẹp nhưng núi đồi hiểm sâu. Lập quốc tất phải lấy nơi hiểm trở làm căn cứ địa. Sách Vạn Lại núi đứng sững, nước uốn quanh, thực đáng gọi là nơi hình thế đẹp. Đó là do trời đất xếp đặt để làm chỗ dấy nghiệp đế vương (Việt sử thông giám cương mục).
Năm 1554 Vua Lê mở khoa thi văn học đầu tiên ở Vạn Lại. Kết quả khoa thi này chọn được 13 người, người đỗ đầu là đệ nhất giáp chế khoa Nguyễn Văn Nghi, quê quán huyện Đông Sơn. Vua Mạc Phúc Nguyên nổi giận sai Khiêm vương Mạc Kính Điển đem đại quân vào Thanh Hoa, nhằm phá tan Vạn Lại, bị phục binh ở núi Kim Sơn và chợ Ông Công đánh thua tan tác, rút chạy về Bắc.
Cuối thế kỷ XVII, nhà Lê suy yếu, đế nghiệp chuyển sang nhà Tây Sơn rồi nhà Nguyễn Gia Long. Cả hai nhà đều tàn phá An Trường – Vạn Lại thành tro bụi. Cùng với 8 làng hương Lam Sơn. Đời Tự Đức, hương Lam Sơn mới được triều đình Nguyễn cho phép thành lập lại xóm làng. Đôi voi đá đang quỳ chân kính cẩn trên đám cỏ rậm xưa là sân rồng. Những con ngựa đá mấy trăm năm vẫn đứng hiên ngang, trên lưng chỉnh bị yên cương như lúc nào cũng sẵn sàng xông trận. Dấu vết điện Thị triều còn đó, nơi diễn ra các kỳ thi tiến sĩ, tuyển dụng nhân tài phục vụ cho đất nước hiện tại và mai sau, mặc dù đất nước lúc đó vẫn mù mịt khói lửa chiến tranh. Việc học hành được khuyến khích, các khoa thi tiến sĩ mở ra, sĩ tử vùng Thanh – Nghệ lại lều chõng đến kinh đô kháng chiến Vạn Lại, Nhà Lê Trung hưng, khoa thi đầu tiên đời Trung tông năm 1554, lấy đỗ tiến sĩ xuất thân và đồng xuất thân 13 người. Khoa thi thứ hai, năm 1565, lấy đỗ 10 người, đỗ đầu đệ nhất giáp: Lê Khiêm, người Thọ Xuân. Khoa thi thứ ba, năm 1577, đời Lê Thế tông, lấy đỗ 5 người, đỗ đầu đệ nhất giáp Lê Trạc Tú, người Thượng Cốc, Thọ Xuân. Khoa thi thứ tư năm 1580, phục lại khoa thi Hội, lấy đỗ tiến sĩ 6 người, Hội nguyên, Đình nguyên Hoàng giáp: Nguyễn Văn Giai, xã Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh). Khoa thi thứ năm, năm 1583 lấy đỗ tiến sĩ 4 người, đỗ đầu đệ nhị Giáp: Nguyễn Nhân Thiêm, người xã Bột Thái, huyện Hoằng Hóa. Khoa thi thứ sáu, năm 1589, lấy đỗ tiến sĩ 4 người, Đình nguyên Lê Nhữ Bật, người xã Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hóa. Khoa thi thứ bảy, năm 1592, khoa thi cuối cùng nhà Lê Trung hưng tổ chức ở đô thành kháng chiến An Trường – Vạn Lại, lấy đỗ tiến sĩ 3 người, lấy đỗ Đình nguyên Hoàng giáp Trịnh Cảnh Thụy, xã Chân Bái, huyện Yên Định.
Đàn Nam Giao ở thành Vạn Lại (Xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá) do vua Lê Thế Tông, niên hiệu Quang Hưng thứ nhất (Năm 1578), khi chạy vào Thanh Hoá để thủ hiểm chống quân Mạc Mậu Hợp, thậm chí còn được dựng ở ngay bên ngoài của luỹ. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép : “Lập Đàn tế Nam Giao ở Vạn Lại. Trước kia dựng hành tại  ở Vạn Lại; sau đó lập đàn tế Nam Giao ở phía ngoài cửa luỹ” (Quốc sử quán triều Nguyễn (Bản chế bản điện tử) Tr. 663)...
Sách Việt sử Thông giám cương mục chép: “Thái sư Trịnh Kiểm cho rằng lập quốc tất phải căn cứ vào nơi hiểm trở. Sách Vạn Lại, núi đứng sững, nước uốn quanh, thực đáng gọi là nơi hình thế đẹp. Đó là do trời đất xếp đặt để làm chỗ dấy nghiệp đế vương. Trịnh Kiểm bèn sai đào hào đắp lũy, xây dựng hành điện, mời nhà vua đến đóng tại đó”. Một triều đình với đầy đủ văn quan, võ tướng với sứ mệnh trung hưng nhà Lê đã được lập nên. Từ đây, đất nước hình thành 2 vương triều, 2 kinh đô, gồm Nam triều từ Thanh Hóa trở vào thuộc vua Lê; Bắc triều từ Ninh Bình đổ ra, bao gồm cả kinh thành Thăng Long (Đông Kinh) thuộc quyền họ Mạc.
Với tài thao lược của Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, thế lực Nam triều ngày càng lớn mạnh, đánh đâu thắng đó. Đến năm Quý Tỵ (1593), nhà Lê đã đánh đuổi nhà Mạc ra khỏi kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Lê trở về kinh đô Thăng Long mở ra thời kỳ Lê Trung Hưng. Vạn Lại kết thúc sứ mệnh là kinh đô kháng chiến của nhà Lê. Trong thời gian tồn tại suốt 47 năm (1546 - 1593), trải qua 4 đời vua (Lê Trang Tông, Lê Trung Tông, Lê Anh Tông và Lê Thế Tông), có lúc hành điện của nhà Lê phải chuyển đến phủ Yên Trường (cách Vạn Lại khoảng gần 5 km, nay thuộc xã Thọ Lập, H.Thọ Xuân), nhưng Vạn Lại luôn đóng vai trò quan trọng nhất.
Mặc dù là Kinh đô thời loạn, nhưng tại Vạn Lại, nhà Lê đã cho tổ chức 7 khóa thi, tìm ra nhiều hiền tài giúp nước nổi danh cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17. Trong đó, nổi bật có các tiến sĩ Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Thực, Lê Trạc Tú... Tại Văn Miếu Hà Nội ngày nay có 82 bia tiến sĩ, trong đó có 7 bia ghi các tiến sĩ đỗ các khoa thi ở Vạn Lại. Vì được xem là vùng địa linh có mạch phát đế vương nên nhiều vua chúa đã chọn Vạn Lại làm sinh phần (nơi an táng) cho mình sau khi mất.
Mậu Dần, [Quang Hưng] năm thứ 1 [1578] , (Mạc Sùng Khang năm thứ 13; Minh Vạn Lịch năm thứ 6). Tháng 2, ngày 21, Mạc Mậu Hợp bị sét đánh ở trong cung, bị bại liệt nửa mình, sau chữa thuốc lại khỏi, bèn đổi niên hiệu, lấy năm ấy làm năm Diên Khánh thứ 1.
Tháng 7, Mạc Kính Điển đem quân vào lấn các huyện ven sông xứ Thanh Hoa. Tiến đến Giang Biểu20 , Tiết chế Trịnh Tùng sai bọn Trịnh Bách đem quân vượt sông phục sẵn ở núi Phụng Công21 , đánh nhau to ở cầu Phụng Công. Quan quân tập trung súng bắn vào, quân Mạc chết không xiết kể. Kính Điển liền rút quân về Kinh ấp.
Vua lập hành tại ở sách Vạn Lại; lập đàn Nam giao ở ngoài cửa luỹ Vạn Lại.
(Nguồn: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Giai đoạn xung đột Nam – Bắc triều, nhà Mạc cai quản cả vùng đất rộng lớn từ Thanh Hóa trở ra và đóng đô tại Thăng Long, còn vua Lê dựa vào chúa Trịnh trấn giữ xứ Thanh trở vào. Bấy giờ, trong hoàn cảnh khó khăn, vua Lê vẫn tiến hành việc tế Giao tại “chiến khu” và được Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại. Chẳng hạn năm Nhâm Thân 1572, vua Lê Anh Tông (Duy Bang) tổ chức tế trời đất ở đàn Nam Giao vào tháng giêng, có tình tiết: “Khi làm lễ, vua bưng lư hương khấn trời xong, bỗng lư hương rơi xuống đất, vua biết là điềm chẳng lành, bèn xuống chiếu đổi niên hiệu [Chính Trị] thành Hồng Phúc thứ nhất” (sđd, tập III, tr. 146). Năm Mậu Dần 1578, vua Lê Thế Tông (Duy Đàm) vừa nối ngôi, chọn niên hiệu Quang Hưng thứ nhất, sau khi tướng Mạc Kính Điển (con của vua thứ hai nhà Mạc là Đăng Doanh) tuân lệnh Mạc Mậu Hợp dẫn quân tấn công Thanh Hóa và bị Trịnh Tùng đánh cho tan tác, sử ghi: “Vua lập hành tại [chỗ vua tạm trú khi xuất tuần] ở sách Vạn Lại; lập đàn Nam Giao ở ngoài cửa lũy Vạn Lại” (sđd, tập III, tr.155).
 Đóng vai trò như kinh đô của Nam triều vào thế kỷ XVI, Yên Trường (nay ở xã Thọ Lập) rồi Vạn Lại (nay ở xã Xuân Châu) – đều thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa – ít ra đã có hai đàn Nam Giao từng hiện hữu. Rất có thể đàn tế trời giữa thời loạn lạc kia được đắp bằng đất kiểu dã chiến chăng? Nếu thế, e nó đã tan hoang tự bao giờ! Sách Di sản văn hóa xứ Thanh do Nguyễn Văn Hảo và Lê Thị Vinh hợp soạn (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2003, trang 118) phản ánh thực trạng: “Rất đáng tiếc kinh đô Vạn Lại hiện nay chỉ là phế tích. Yên Trường hầu như bị hủy hoại hoàn toàn”.
 Biết đâu nhờ may mắn, dấu vết một trong hai hay cả hai đàn Nam Giao giai đoạn Lê Trung hưng sẽ được phát hiện vào ngày đẹp trời nào đấy, tương tự trường hợp đàn Nam Giao nhà Hồ vừa xuất lộ tại huyện Vĩnh Lộc cùng tỉnh?
Thật ra, nước ta trong buổi nhiễu nhương Nam – Bắc triều, các vua nhà Mạc từ Đăng Dung, Đăng Doanh, Phúc Hải, Phúc Nguyên đến Mậu Hợp nếu tế Giao ắt cử hành tại Thăng Long. Vua nhà Hậu Lê thì có phen chẳng được chủ tế trời đất vì họ Trịnh soán mất “nghĩa vụ” ấy. Đại Việt sử ký toàn thư (sđd, tập III, trang 170) ghi nhận sự kiện năm Nhâm Thìn 1592: “Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 3, tiết chế Trịnh Tùng sai quan lập đàn sắm lễ, trai giới làm lễ tế trời đất, Thái Tổ cao hoàng đế và các vị hoàng đế của bản triều [nhà Lê] cùng các vị linh thần núi sông, các danh tướng xưa nay trong nước”. Tế xong, Trịnh Tùng chỉ huy quân sĩ Bắc tiến, chiếm lại thành Thăng Long, đuổi bắt Mạc Mậu Hợp để bêu đầu thị chúng, khử luôn Mạc Toàn (con của Mạc Mậu Hợp) lẫn Mạc Kính Chỉ.
Kê cứu thư tịch cổ, Trần Trọng Kim biên soạn Việt Nam sử lược (NXB Văn Hóa Thông Tin in lại, Hà Nội, 2002, trang 304) đã tóm tắt kết cục của nhà Mạc: “Từ đó nhà Mạc mất ngôi vua, ngày sau tuy Mạc Kính Cung nhờ có nhà Minh [Trung Hoa] bênh vực được về ở đất Cao Bằng, nhưng cũng là ở một chỗ nhỏ mọn gần biên thùy mà thôi”.
 Tuy vậy, Mạc Kính Cung rồi Mạc Kính Khoan và Mạc Kính Vũ cũng nghênh ngang một cõi biên thùy những 84 năm ròng (1593 – 1677) với niên hiệu riêng theo thứ tự là: Kiền Thống, Long Thái, Thuận Đức. Chẳng rõ ba ông vua Mạc nọ có tổ chức tế Giao tại Cao Bằng? Nếu có, đàn Nam Giao nhà Mạc trên rẻo cao kia như thế nào và hiện còn dấu vết gì không? https://vanhien.vn/.
4. ĐÀN TẾ NAM GIAO CỦA TÂY SƠN Ở BÌNH ĐỊNH.
Lâu nay, chúng ta chỉ hình dung một kinh thành Hoàng đế Thái Đức qua khảo tả của tác giả Đồ Bàn Thành Ký Nguyễn Văn Hiển, nên việc hiểu biết về thành Hoàng Đế còn rất hạn chế. Bởi vì, tất cả các công trình kiến trúc đều bị triệt hạ, chôn vùi trong lòng đất và nhà Nguyễn lại cho xây đền Song Trung (Võ Tánh và Ngô Tùng Châu) ngay trên chính điện của Tử Cấm Thành Hoàng Đế.
Nhằm sưu tập tài liệu góp phần làm cơ sở cho việc phục hồi, trùng tu, tôn tạo thành Hoàng Đế, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng tổng hợp Bình Định khai quật khảo cổ thành Hoàng Đế. Với diện tích hơn 300m2 qua 2 đợt khai quật năm 2004 và 2005 diện mạo kiến trúc thành Hoàng Đế được phát lộ ngày một rõ nét.
Trong đợt khai quật này, các nhà khảo cổ đã khảo sát, điều tra thực tế và nghiên cứu các dấu vết hiện còn và đã phát hiện Đàn Nam Giao đầu tiên của nhà Tây Sơn, đó là Đàn Nam Giao của Hoàng đế Thái Đức Nguyễn Nhạc. Đàn Nam Giao tọa lạc trên một ngọn núi đất - đá ong, tục danh là Hòn Chùa, ngày nay thuộc thôn Nam Tân, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Vị trí Đàn Nam Giao nằm ở phía ngoài góc Tây Nam thành nội và bên trong thành ngoại.
Có lẽ công lao và vai trò của Nguyễn Huệ quá lớn trong công cuộc đánh Nam dẹp Bắc đập tan chế độ phong kiến mục nát đương thời và các thế lực ngoại xâm nên người ta thường quan tâm nhiều hơn đối với Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ và đã có nhiều công trình nghiên cứu về Đàn Nam Giao ở núi Bân (Huế), nơi lên ngôi của Hoàng đế Quang Trung. Còn Đàn Nam Giao đầu tiên của nhà Tây Sơn, nơi lên ngôi của Hoàng đế Thái Đức - Nguyễn Nhạc chưa được quan tâm, mặc dù nơi đây còn để lại dấu vết khá rõ nét.
Đàn Nam Giao thành Hoàng Đế hiện vẫn còn cấu trúc 3 tầng, có chiều cao toàn bộ khoảng 5m. Toàn bộ 3 tầng từ 4 hướng đều có dấu vết hệ thống bậc cấp lên xuống.
Tầng trên cùng hình tròn gọi là Viên Đàn, có đường kính khoảng 35m, đá ong và gạch được xây bó xung quanh, một số chỗ xói lở để lộ ra đá ong và gạch. Trên mặt Viên Đàn, khi có tế lễ thường xây dựng một Thanh Ốc (một nhà tạm mái vòm màu xanh). Khi Tế Giao, trên Viên Đàn bố trí nhiều án thờ như án thờ trời, án thờ đất…
Tầng thứ hai gọi là Phương Đàn, có hình vuông, chiều dài mỗi cạnh khoảng 70m. Ở tầng này, đá ong, ngói và gạch vương vãi rất nhiều. Khi Tế Giao, nơi đây được dựng một Hoàng Ốc (một loại nhà tạm hình vuông có mái màu vàng). Trên mặt bốn phía của Phương Đàn, bố trí các án thờ thần như: thần mặt trời, mặt trăng, các thần biển, sông, núi, đầm…
Tầng dưới cùng cũng hình vuông, có chiều dài mỗi cạnh khoảng 170m, tầng này có bố trí lò đốt ở góc Đông Nam để thiêu con bê khi tế, bố trí địa điểm để chôn trâu và dê (gọi là Ế Khảm) ở góc Tây Bắc, ở góc Đông Bắc có nhà Thần Khố làm kho để đồ liên quan đến tế lễ, bên cạnh là nhà Thần Trù làm nhà bếp. Cũng ở tầng này, còn có tòa nhà Đại Thử là nơi nghỉ chân của vua trong khi chờ đến giờ tế lễ. Ở phía Tây Nam đàn là Trai Cung, nơi vua trai giới trước khi chính thức lên đàn tế. Ngoài ra, liên quan đến Đàn Nam Giao còn có một số công trình khác chỉ dựng lên khi có tế lễ như nhà Quan Cư, nhà Khoản Tiếp…
Tế Giao dùng hình thức Hỏa tế, thông qua nghi thức đốt củi để đón tiếp thần linh lên trên đàn. Nghi thức đón tiếp thần linh là một trong những phần có ý nghĩa nhất của cuộc đại tế Giao Đàn. Từ triều Lý Anh Tông về sau, triều nào cũng lập Đàn Nam Giao, với quy mô và quy định khác nhau. Có triều quy định mỗi năm Tế Giao một lần vào tháng 2 âm lịch, có triều quy định 3 năm tổ chức một lần. Cuộc lễ Tế Giao lần cuối cùng ở Việt Nam vào thời Nguyễn, diễn ra dưới triều vua Bảo Đại (3-1945).
Một phần tử cấm thành được phát lộ qua khai quật - Ảnh: B.Trung
Vương triều Tây Sơn - với những chiến công lẫm liệt của Tây Sơn tam kiệt (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ) - quá ngắn ngủi, lại còn bị sự trả thù của triều Nguyễn và sự bào mòn của thời gian, mọi dấu tích giờ đây còn lại những gì?
Những ngày cuối tháng 9-2007, người dân xã Nhơn Hậu (An Nhơn, tỉnh Bình Định) rộn lên với việc đàn Nam Giao - nơi tế cáo đất trời cùng tổ tiên dân tộc, nằm trong thành Hoàng Đế của nhà Tây Sơn - vừa được phát hiện. Nhưng sau mừng vui là nỗi đau xót của bà con: cả một khu đất rộng nằm sát chân đàn Nam Giao đã bị chính quyền địa phương bán cho tư nhân đào lấy đất sâu như một lòng chảo lớn, mặc dù nơi đây đã được công bố từ lâu là khu vực di tích thành Hoàng Đế.
Trang trọng và hoang tàn.
Trang vàng của thành Hoàng Đế - kinh đô đầu tiên của nhà Tây Sơn (khởi công xây dựng năm 1775) - khép lại đã 200 năm như được thu lại ngắn hơn khi di tích đàn Nam Giao được phát hiện. "Biết cũng chẳng có gì ngoài một ít gạch đá được đào lên nơi ngọn đồi quen thuộc, vậy mà bà con ai cũng cố đến xem cho được" - anh Trần Đức Tâm, nhân viên bảo vệ thành Hoàng Đế, nói. Cách trung tâm thành Hoàng Đế chừng hơn 1km về hướng tây, đàn Nam Giao của nhà Tây Sơn nằm trên đỉnh đồi cao 20m có tên là gò Chùa, rộng chừng 1.500m2, rất bằng phẳng. Cuộc khai quật di tích thành Hoàng Đế vừa được Viện Khảo cổ học VN phối hợp với Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định thực hiện giữa tháng 9-2007 đã làm lộ ra một phần hai móng trong - ngoài của đàn với gạch và một ít đá ong, nhưng trên mặt đồi thì đầy những mảnh gạch ngói vụn để lại từ lâu đời.
Tiến sĩ Lê Đình Phụng - Viện Khảo cổ học VN, trưởng đoàn khai quật di tích thành Hoàng Đế lần này - cho rằng đàn Nam Giao chính là nơi biểu hiện quyền lực tinh thần của vương triều trước trời đất và lịch sử dân tộc, bởi vậy người dân trong vùng đã rất hân hoan trước di tích mới được phát hiện này. "Qua chỗ miếu hoang mình còn phải cúi đầu, huống chi cái chỗ đất thiêng liêng thế này" - ông Lê Xuân Ba, 80 tuổi, một ông lão có học thức của làng Nam Tân, nơi có thành Hoàng Đế, nói.
Nhưng sau hân hoan là... chua xót. Chúng tôi hết sức ngỡ ngàng khi phải lội qua cả một vùng đất mênh mông nằm bên trong bờ thành ngoại của thành Hoàng Đế bị đào lấy đất sâu gần 2m, áp đến sát chân móng ngoài của đàn Nam Giao. Chân đồi bị đào sâu, đàn Nam Giao còn lại trông như đứng trên bờ vực, trơ trọi, chực sụp xuống.
Bi tráng tử cấm thành.
Khu đất rộng nằm sát chân đàn Nam Giao đã bị đào lấy đất.
Di tích còn rõ nhất của thành Hoàng Đế là tử cấm thành - bức tường thành trong cùng (sau thành ngoại, thành nội) - chu vi khoảng 600m, được xây rất kiên cố và bề thế để canh giữ cẩn mật nội điện, dinh sở, nội cung (vốn nằm bên trong tử cấm thành; đã bị phá tan) của triều đình.
Cuộc khai quật hai điểm nội cung ở bên trong và ngoài tử cấm thành của thành Hoàng Đế diễn ra cùng lúc với cuộc khai quật đàn Nam Giao, kết thúc chưa đầy một tuần khi chúng tôi đến. Khi tất cả đã bị vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) cho san thành bình địa sau khi lên ngôi (1802), những phát hiện cũng chỉ là những móng nền với gạch đá. Kề bên nội điện là dấu vết còn lại của một hồ bán nguyệt và một hòn giả sơn, cả hai đều rất giản đơn, bé nhỏ.
Tử cấm thành mới được khai quật giữa năm 2006. Các nhà khảo cổ học cho rằng có thể nó còn kéo dài ra phía bắc, trùm lên nền của một hậu cung vừa mới được khai quật. Được xây bằng loại đá ong khổ lớn và đắp đất bên ngoài nhưng tử cấm thành vẫn có một số đoạn bị sụp đổ. Nhưng không vì thế mà phai mờ với hậu thế những gì triều đại Tây Sơn đã làm được cho dân tộc. Những người cao niên ở làng nhớ khá nhiều về lịch sử Tây Sơn. Ông Lê Xuân Ba và nhiều cụ già ở làng Nam Tân nhắc lại với chúng tôi những chiến thắng mà những đoàn quân xuất phát từ kinh đô này đã mang lại được: đánh tan đại quân của quân Xiêm và quân của Nguyễn Ánh ở phía Nam vào năm 1784; dẹp yên quân của chúa Trịnh ở phía Bắc để trả quyền lại cho vua Lê vào năm 1786; tạo đà cho chiến thắng quân Thanh vào năm 1789. Nhưng họ lại không muốn nhắc lại đoạn bi thảm của kinh thành.
Ấn Sơn nằm trong dãy núi Hoành Sơn cao 364 m nằm ngang theo hướng Bắc – Nam, ở phía Tây xã Bình Tường, huyện Tây Sơn. Theo Quách Tấn, trong “Nước non Bình Định” các thầy địa lý Việt Nam cũng như Trung Hoa đều công nhận cuộc đất Hoành Sơn là đại địa, vì có nào bút (Bút Sơn – Hòn Trưng), nào nghiêng (Hợi Sơn – Hòn Dũng), nào ấn (Ấn Sơn – Hòn Giải), nào kiếm (Kiếm Sơn – Hòn Hóc Lãnh), nào cổ (Cổ Sơn – Hòn Trống), nào chung (Chung Sơn – Hòn Chuông) ở hai bên tả hữu.
Tương truyền mộ của Nguyễn Phi Phúc, thân sinh của Tây Sơn Tam Kiệt an táng ở Hoành Sơn. Sau khi chiếm được long huyệt ở Hoành Sơn thì 3 anh em Nguyễn Nhạc phát tướng, việc học hành võ cũng như văn tiến bộ lạ thường. Thầy học là cụ giáo Hiến, giỏi văn lẫn võ, rành khoa tướng số, nhìn thấy thần sắc 3 anh em họ Nguyễn, biết vận trời đã đến, bèn đem câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra khuyên Nguyễn Nhạc về lo mưu đồ đại sự. Vâng lời thầy, 3 anh em về Kiên Thành lo chiêu mộ hào kiệt.
Cũng theo tương truyền, vùng non nước cẩm tú linh thiêng Ấn Sơn cũng là nơi trời đất đã ban kiếm lệnh và ấn triện có khắc bốn chữ “Sơn hà xã tắc” cho ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Trước khi khởi binh dựng nên sự nghiệp vĩ đại đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh Nguyễn, thống nhất sơn hà, quét sạch ngoại xâm, “dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi dài xuân”, Tây Sơn tam kiệt đã lập đàn tế trời đất ở đây để nhận ấn kiếm và cầu trời đất phù hộ cho đại nghiệp thành công.
Án tế trời tọa lạc trên đỉnh cao nhất của Ấn Sơn, cấu trúc 3 tầng, tầng trên cùng hình tròn gọi là Viên Đàn, có đường kính 27 m, tượng trưng cho Trời, được xây bao bằng đá ong, lan can đá màu đỏ bao quanh, nền đất nện chặt, một lối lên từ hướng Nam có 5 bậc, chính giữa Viên Đàn đặt sập đá và nhang áng đá là áng thờ Trời – Đất. Tầng thứ 2 gọi là Phương Đàn, có hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 54 m, tượng trưng cho Đất, cũng được xây bao bằng đá ong, lan can đá màu vàng bao quanh, 4 lối lên theo 4 hướng Nam, Bắc, Đông, Tây, mỗi lối lên có 9 bậc, nơi đây khi tế lễ sẽ bố trí các áng thờ thần như: Thần mặt trời, mặt trăng, các thần biển, sông, núi, đầm… Tầng dưới cùng cũng hình vuông được xây bao bằng tường đá ong có 4 lối vào theo 4 hướng, hướng chính là hướng Nam với cổng tam quan, 2 tầng, lối đi chính có 2 tầng mái, bên trong tam quan là một bức bình phong bằng đá, ba hướng còn lại là 3 nghi môn kiểu tứ trụ thẳng hàng, là nơi chuẩn bị và một số nghi thức diễn ra ở đây trước khi tế lễ. Nằm bên phải Đàn tế là khu Đền Ấn gồm 3 hạng mục: Tiền tế có kiến trúc mặt bằng chữ Nhất, 5 gian, mái chái, có đầu đao. Nhà Tiền tế có bàn thờ chung các tướng lĩnh và quân sĩ thời Tây Sơn. Tiếp sau Tiền tế là Phương đình – nơi tượng trưng cho sự thông thiên, giao hòa giữa Trời và Đất, giữa Âm và Dương, ở đây sẽ đặt bản sao của Ấn lệnh nhà Tây Sơn. Phía trong cùng là kiến trúc Hậu cung, mặt bằng chữ nhất, 3 gian, mái chái là nơi đặt bàn thờ cùng bài vị của 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Phía trước cổng Tam quan ngoài cùng của trục chính là hồ nước hình bán nguyệt vừa tạo phong thủy tốt cho hướng chính diện của Đàn tế vừa tạo điểm nhấn cho tổng thể qui hoạch Đàn thiêng. Ngoài hồ nước còn có một “nghi môn ngoại” ngăn cách giữa không gian tâm linh với bên ngoài.
Đường lên Đàn tế trời đất Tây Sơn.

Đàn tế Ấn Sơn được xây dựng theo kiểu thức Đàn thiêng tế trời, có nhiều tên gọi khác nhau: Đàn Nam Giao, Thái Giao, Giao Đàn, Giao Khâu, Viên Khâu, Thiên Đàn… Ở Việt Nam, dưới triều vua Lý Anh Tông (1138 – 1175), vào năm 1154 triều đình đã cho đắp Đàn Viên Khâu và đích thân nhà vua lên làm lễ tế Trời. Từ đó về sau, triều nào cũng lập Đàn Nam Giao, với quy mô và quy định khác nhau, có triều quy định mỗi năm Tế Giao một lần vào tháng 2 âm lịch, có triều quy định 3 năm tổ chức một lần. Cuộc lễ Tế Giao lần cuối cùng ở Việt Nam vào thời Nguyễn, diễn ra dưới triều vua Bảo Đại (3.1945). Tế Giao là một lễ hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mà trên hết là tinh thần hòa ái với thiên nhiên, với ước nguyện mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thiên hạ thái bình.
Đàn tế trời đất Tây Sơn được khánh thánh đúng dịp kỷ niệm 220 năm ngày mất của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ tạo thêm một điểm nhấn hấp dẫn trên trục du lịch lịch sử tâm linh về phong trào Tây Sơn dọc theo Quốc lộ 19 gồm Bảo tàng Quang Trung, Đàn tế trời Tây Sơn, những đền thờ nghĩa quân Tây Sơn ở An Khê –Gia Lai.
(Theo Văn hiến Việt Nam, Báo Bình Định. Ảnh: Nguyễn Minh).
5. ĐÀN TẾ NAM GIAO TẠI HUẾ.
1/ ĐÀN TẾ NAM GIAO CỦA TÂY SƠN TẠI NÚI BÂN – HUẾ.
Núi Bân (Bân Sơn) cao 43,92 m, diện tích 80.956 m²; ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây, thành phố Huế). Thời nhà Nguyễn, núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà.
Đây là nơi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ gấp rút cho lập đàn (Đàn Nam Giao Tây Sơn) để làm lễ tế cáo trời, lên ngôi Hoàng đế và xuất quân ra Bắc Hà đánh quân Thanh xâm lược vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788).
Khi xưa, không rõ núi tên gì, nhưng từ khi Nguyễn Huệ cho ban xẻ núi Bân thành ba tầng, để lập đàn tế cáo trời thì người dân gọi núi là Động Tầng, Ba Tầng, Tam Tầng, Ba Vành, Hòn Thiên.
Theo PGS.TS. Đỗ Bang, thì rất có thể Nguyễn Huệ là người đã đặt tên Bân cho núi (nơi mà ông chọn để đắp đàn), với nghĩa: trong và ngoài đều hoàn mỹ. Sách Hoàng Lê nhất thống chí (bản của Ngô Thì Chí) chép nhầm chữ Bân (chữ Hán) thành chữ Sam; và khi phiên âm, các tác giả Trần Trọng Kim, Hoa Bằng, Phan Trần Chúc đều đã ghi nhầm chữ Bân thành chữ Bàn.
Đàn Nam Giao Tây Sơn
Để trở thành Đàn Nam Giao, những người thiết kế và thi công đã ban xẻ núi Bân thành ba khối hình nón cụt chồng lên nhau tăng dần theo chiều cao. Từ chân núi lên đỉnh ở độ cao 37 m, là tầng thứ nhất có chu vi 220 m. Bề rộng của tầng này không đều nhau. Ngay ở chính giữa mặt tầng thứ nhất về phía Tây Nam, hiện còn dấu vết một tầng phụ cao 1 m.
Tầng thứ hai có chu vi 122,5 m, chiều cao so với tầng thứ nhất là 1,65 m.
Tầng thứ ba ở ngay đỉnh đồi, bề mặt khá phẳng, có chu vi 52,7 m và cao hơn tầng thứ hai 1,2 m.
Đường lên đàn theo bốn hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc), bề rộng các con đường càng lên cao càng thu hẹp dần, bề ngang ở tầng thứ nhất là 5,2 m, ở tầng thứ hai chỉ còn 4 m...[1]
Và để sử dụng lâu dài, sau khi Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi và xuất quân ra Bắc năm 1788, người ta đã dùng gạch [2] và đá xếp thành ba vòng tròn bó vỉa quanh ba tầng đàn (hiện nay chỉ còn lại dấu vết) nhằm hạn chế sự xói lở. Nhờ vậy, đàn vẫn được tiếp tục sử dụng để làm lễ cáo trời cho đến khi kinh đô Phú Xuân (Huế) bị chúa Nguyễn Phúc Ánh dẫn quân ra chiếm lấy vào mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (15 tháng 6 năm 1801).
Theo các nhà nghiên cứu, Quang Trung Nguyễn Huệ chọn núi Bân làm đàn Nam Giao là nhằm tận dụng địa thế núi không cao, xung quanh là cánh đồng khá rộng để tập kết hàng vạn quân, dễ dàng cho việc xây dựng đàn trong điều kiện thời gian vô cùng gấp gáp.
Chỉ có hơn một ngày chuẩn bị nên quân đội Tây Sơn đã tận dụng địa thế có sẵn của núi Bân để xẻ đường, bạt núi lập đàn chứ không xây dựng công trình nào.
Đỉnh đàn tế là đỉnh núi, được kiến thiết thành ba tầng hình nón cụt chồng lên nhau, tầng trên cùng bề mặt bằng phẳng. Có bốn lối đi lên đàn tế theo bốn hướng Bắc, Nam, Đông, Tây, lòng đường càng lên đỉnh càng nhỏ lại.
Tại đàn tế Núi Bân, người anh hùng Nguyễn Huệ đã tế cáo trời đất và đọc chiếu lên ngôi hoàng đế nước Việt với niên hiệu Quang Trung, khởi đầu triều đại Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.

Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long đã thực hiện chính sách trả thù khắc nghiệt. Mọi dấu tích của vương triều Tây Sơn gần như bị xóa trắng. Núi Bân gần như là di tích còn lại duy nhất của vương triều Tây Sơn ở Huế còn tồn tại.Theo KIẾN THỨC.
2/ ĐÀN NAM GIAO NHÀ NGUYỄN TẠI PHỦ DƯƠNG XUÂN THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN:
Dải đất Thuận Hóa, Quảng Nam thuộc về quyền cai trị của họ Nguyễn từ năm chúa Tiên vào trấn thủ, năm 1558. Sau cái chết của ông vào năm 1613, chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm quyền. Về bề ngoài, cả chúa Tiên và chúa Sãi vẫn thần phục vua Lê chúa Trịnh, chỉ xưng là Quốc công và coi mình như một chức quan trấn thủ miền biên viễn nên chưa thể công khai tế Trời Đất. Năm 1635, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan lên nối ngôi chúa, dời thủ phủ vào Kim Long, lập đàn tế tạ ơn Trời Đất đầu tiên của đế vương dòng họ Nguyễn. Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm chép rằng "Thượng vương lên nối ngôi, xuống lệnh đại xá thiên hạ, dựng đàn tạ ơn trời đất, yết cáo tiên vương ở nhà Thái miếu".
Lên ngôi năm 1648, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần vẫn chọn Kim Long làm thủ phủ của mình. Và vào năm 1673, sau khi chống chọi thành công cuộc tiến đánh của quân Trịnh vào năm 1672, chúa khải hoàn về phủ chính Kim Long, tế cáo Trời Đất Tôn miếu, gia phong cho các vị linh thần. Cũng trong khoảng thập kỉ 70 của thế kỉ XVII, một giáo sĩ người Pháp là Bénigne Vachet đã có dịp tới Đàng Trong và miêu tả một buổi lễ tế Trời của chúa Nguyễn vào ngày đầu năm. Theo B. Vachet, sáng sớm tinh mơ mùng Một Tết năm nọ, các ông hoàng, đức ông, quan võ, quan tư pháp cùng binh lính tới vương phủ phò chúa Nguyễn ra ngoài ruộng đồng. Toàn đoàn giữ im lặng cho đến khi mặt trời mọc. Chúa mặc đồ đen, đầu trần, rời khỏi ngai, bước ra vạt đất trống, quỳ xuống lạy trời chín lạy. Rồi chúa lên ngai. Cả đoàn lần lượt đến chúc tụng, vái tạ, chúc phúc và tung hô vạn tuế chúa. Kết thúc là những loạt súng lệnh đã đặt sẵn quanh dinh phủ nổ vang chào mừng. Có thể thấy chúa Hiền tế Trời rất đơn giản, không cần đắp đàn mà chỉ tế ở vạt đất trống giữa đồng ruộng, có thể là ở Kim Long, hoặc ở vùng lân cận phủ Kim Long như làng An Ninh kề trên hoặc Vạn Xuân kề dưới.
Đàn Nam Giao của triều đại quân chủ cuối cùng (1806 - 1945)
Sau nhiều biến cố đầy xáo động cuối thế kỉ XVIII, Nguyễn Ánh, kẻ may mắn sống sót sau những cuộc truy bức gắt gao của Tây Sơn, âm thầm trở về Gia Định vào năm 1787. Bài học từ thất bại Rạch Gầm - Xoài Mút đã khiến Nguyễn Ánh hiểu ra rằng không nên trông mong vào ngoại quốc. Củng cố thế lực ở Nam Hà và Bắc tiến theo gió Nam, sách lược ấy tỏ ra hữu hiệu, nhất là khi nội bộ nhà Tây Sơn trở nên lục đục và hủ bại. Năm 1801, quân Nguyễn đại thắng trong trận quyết định Thị Nại và đánh bại hoàn toàn nhà Tây Sơn năm 1802. Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, cai trị một đất nước rộng lớn chưa từng có kể từ thời nhà Ngô. Để chứng minh cho tính chính thống của triều đại mình, triều Nguyễn, năm 1803, Gia Long cho xây dựng đàn tế Trời Đất ở cánh đồng làng An Ninh, phía tây Kinh thành Huế. Công trình này được khởi công xây dựng vào ngày ất dậu tháng 1 năm Quý Hợi tức ngày 10 tháng 2 năm 1803. Cùng năm, vua ra lệnh cho bộ Lễ xem xét nghi lễ tế Giao vì thấy nghi thức từ trước còn sơ lược.
Không rõ vì vấn đề gì, nhà Nguyễn lại có ý định di dời đàn tế Trời Đất đến địa điểm mới: xã Dương Xuân, phía Nam Kinh thành Huế. Vào ngày giáp thân tháng 2 năm Bính Dần tức ngày 25 tháng 3 năm 1806, một đàn tế Trời Đất mới đã được khởi công xây dựng ở Dương Xuân. Công việc thi công được giao cho Chưởng quân Phạm Văn Nhân. Quanh việc quy hoạch và giải tỏa mặt bằng để xây đàn Nam Giao, triều Nguyễn đã tiến hành một cách đàng hoàng, thỏa đáng, tránh để nhân dân chịu thiệt thòi mà oán thán. Ban đầu, ở địa điểm này đã có một số khá nhiều mồ mả và đất đai của dân chúng. Sau khi có lệnh bốc dời, nếu ngôi mộ nào không có thân nhân đến thực hiện, thì triều đình cho bốc và đưa về một chỗ. Những hài cốt ấy được chôn chung thành hai ngôi mộ tập thể ở gần Ba Đồn, cách đàn Nam Giao chừng 200m về phía Đông Nam, hàng năm đều ban tế lễ. Đất đai của tư nhân bị xâm chiếm thì bồi thường bằng tiền bạc.
Sử sách không ghi rõ thời gian hoàn thành đàn Nam Giao triều Nguyễn, nhưng có lẽ đàn được khánh thành vào năm 1806 vì năm sau 1807, vua Gia Long đã tổ chức đại lễ tế Giao tại đây. Sau khi hoàn thành, triều đình thưởng cho quân lính xây dựng 5000 quan tiền, lấy 25 người dân xã Dương Xuân sung làm đàn phu, miễn cho giao dịch để trông coi bảo vệ đàn. Ngày 27 tháng 3 năm 1807, vua Gia Long lần đầu tiên làm lễ tế Trời Đất ở đàn Nam Giao, rước chúa Tiên Nguyễn Hoàng thăng phối. Từ đó, cứ tháng trọng xuân (tháng hai âm lịch) hoặc tháng quý xuân (tháng ba âm lịch) mỗi năm, triều Nguyễn lại tổ chức lễ tế Giao với sự chỉ trì của nhà vua. Nếu nhà vua không thể hành lễ thì sẽ sai người tế thay, như năm 1818, Thái tử Nguyễn Phúc Đảm tế Giao thay vua Gia Long.
Trước lễ tế Giao năm 1834, vua Minh Mạng tự tay trồng 10 cây thông ở sân Trai cung, đồng thời sai Hoàng tử tước công trồng thông ở xung quanh đường vua ngự. Về sau, các quan lại ở Kinh đô từ tứ phẩm trở lên và các quan địa phương về dự lễ tế Giao đều được phép trồng thông và gắn biển tên, tạo nên một rừng thông xanh rậm rì bao quanh khuôn viên đàn tế. Cũng trong dịp tế lễ này, vua sai Phủ doãn phủ Thừa Thiên đắp lại mồ mả vô chủ được di dời khi xây đắp đàn Nam Giao, vì sợ năm tháng lâu ngày, các ngôi mộ này bị sụt lở. Dưới thời vua Minh Mạng, xung quanh khu vực đàn Nam Giao rất vắng vẻ, không có người ở. Trong lễ tế Giao năm 1839, nhà vua nói rằng "Đàn tế Giao được Thế Tổ Cao Hoàng đế ta làm nên, chỗ ấy thực là cao ráo sáng sủa, nhưng gần núi vắng vẻ, trong một năm binh dân tụ họp chẳng qua mấy ngày tế Giao mà thôi, cho nên khí lạnh ẩm dễ làm người cảm, nay nên trù tính thế nào xây dựng nhà cửa cho quan văn võ, cho dân đến ở, lập ra hàng chợ, thì người và khói lửa tập hợp, khí núi có thể bớt dần".
Dưới thời vua Thiệu Trị và Tự Đức, lễ tế Giao vẫn được tiến hành như thường lệ, dù rằng với sức khỏe yếu kém, rất nhiều năm liền vua Tự Đức phải sai người tế thay (như Phan Thanh Giản, Đoàn Thọ hoặc Dục Đức). Năm 1883, sau cái chết của vua Tự Đức, nhà Nguyễn lại phải bối rối với tiếng súng của tàu Pháp ở cửa biển Thuận An. Hiệp ước Harmand và sau đó là Hiệp ước Patenôtre được ký kết, triều Nguyễn mất đi tư cách là vương triều phong kiến độc lập, từ bây giờ phải chịu sự bảo hộ của Pháp. Nhưng đặc quyền được tế Trời Đất vào mỗi mùa xuân hàng năm vẫn thuộc về vua Nguyễn và người Pháp cũng không có hành động cấm cản nào đối với đại lễ này. Ngày 22 tháng 3 năm 1884, lễ Nam Giao được tổ chức dù vua Kiến Phúc không đến tế mà sai hoàng thân Tôn Thất Thế thay mình. Ngày 27 tháng 3 năm 1885, vua Hàm Nghi cũng không đến tế mà sai Đặng Đức Địch hành lễ thay. Có lẽ lễ Nam Giao sẽ tiếp tục được cử hành nếu không có biến cố tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi rút lên căn cứ Tân Sở, người Pháp lập Đồng Khánh làm vua.
Mùa xuân năm 1886, triều thần dâng phiếu tâu xin với vua rằng, "vừa mới loạn xong, chuẩn cho đình tế một lần". Do đó, năm ấy không tổ chức tế Giao. Có lẽ các năm 1887, 1888 cũng không tổ chức tế Giao vì theo như chiếu chỉ của vua Đồng Khánh vào tháng 11 âm lịch năm 1888, cho thấy vua chưa hề tế Giao lần nào "Đời xưa cứ mỗi năm làm đàn Giao, tế Trời Đất chín lễ, bản triều tế Trời Đất, phối hưởng tổ khảo, mỗi năm một lễ, chép ở tự điển, rất là to lớn long trọng. Trẫm từ khi nối ngôi đến nay, từng vì sau khi loạn lạc, chưa kịp cử hành, một niềm tôn kính, rất không tự yên. Vậy chuẩn cho tôn nhân đình thần tùy nghi châm chước định điển lễ thế nào cho thích hợp, để kịp sang năm cử hành; đợi ngày nào kho tàng của nước được sung túc, đồ thờ lễ phẩm đầy đủ, sẽ theo cũ mà làm". Năm ấy, triều đình ấn định ba năm tế Giao một lần, vào các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu. Nhưng vua Đồng Khánh chưa kịp làm lễ tế Giao thì đã ra người thiên cổ. Và khả năng tài chính eo hẹp của triều đình Huế không cho phép ước mơ theo cũ mà làm của ông thành hiện thực. Từ năm 1891 đến năm 1945, ba năm một lần làm lễ tế Giao ở đàn Nam Giao với 18 đại lễ được cử hành.
Lễ tế Giao cuối cùng dưới thời quân chủ được tổ chức ở đàn Nam Giao triều Nguyễn là vào ngày 23 tháng 3 năm 1945. Ngày 30 tháng 8 năm ấy, vua Bảo Đại thoái vị ở Ngọ Môn trong cao trào Cách mạng tháng Tám, nhà Nguyễn chính thức cáo chung, báo hiệu một thời kì lịch sử mới của Việt Nam cũng như một giai đoạn "chìm nổi phong trần" của đàn Nam Giao triều Nguyễn. Sau đó, vua Bảo Đại, lúc này là quốc trưởng Bảo Đại, cũng tổ chức tế Trời Đất nhưng không ở Huế mà là ở Ban Mê Thuột vào năm 1953.
Qua chính sử và thực địa, chúng tôi đã khám phá phủ Dương Xuân thời các chúa Nguyễn tọa lạc trên gò Dương Xuân / gò ấp Bình An ở phía bắc đàn Nam Giao.
Khám phá đó đã đăng trên nhiều báo và tạp chí, in trong sách Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương - sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung xuất bản và tái bản trên dưới mười năm nay[1]. Nó cũng đã được trình bày trong nhiều cuộc nói chuyện và nhiều hội thảo khoa học ở Huế và nhiều thành phố trong nước - đặc biệt  trong cuộc Hội thảo Khoa học Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn ở Huế do Hội Khoa học lịch sử (KHLS) Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 30/10/2015 dưới sự chủ trì của GS Phan Huy Lê – Chủ tịch Hội KHLS Việt Nam. Trong hội thảo này, có những phản biện gay gắt nhưng không có phản biện nào chứng minh chính sử của nhà Nguyễn (bộ Đại Nam nhất thống chí) viết Phủ Dương Xuân trên gò Dương Xuân - phía nam có đàn Nam Giao (tức Phủ Dương Xuân ở phía bắc đàn Nam Giao) là sai cả. 
       Vị trí đàn Nam Giao (A) so với gò Dương Xuân (B) – điểm chùa Vạn Phước và đình làng Dương Xuân Hạ (C) – Bản đồ của Cơ quan Trắc địa Đông Dương, 1910
Thời gian qua, bất ngờ xuất hiện những thông tin trái chiều liên quan đến phủ Dương Xuân thời các chúa Nguyễn trong truyền thông đại chúng. Hầu hết các bài viết trái chiều ấy đã bỏ quên những thông tin có giá trị, bỏ qua những thao tác cụ thể để xác định đâu là khu vực của phủ Dương Xuân xưa. Vì thế, chúng tôi xin cung cấp lại thông tin cụ thể từ chính sử và khảo sát thực địa để những ai quan tâm có thể tham khảo.
Phủ Dương Xuân là một trong các phủ chính của Huế, còn được xem như Cung điện Mùa Đông của các chúa Nguyễn. Với tầm quan trọng như vậy, phủ Dương Xuân được ghi lại qua các tư liệu của người Việt, người Hoa và người phương Tây sau khi họ có dịp đến đây. Từ các ghi chép của Thích Đại Sán, J.Koffler, Pièrre Poivre, Lê Quý Đôn, hay miêu tả của sách “Đại Nam nhất thống chí” là những chứng cứ để chúng ta đi tìm ẩn số phủ Dương Xuân vốn được xem đã “mất tích” trong chính sử nhà Nguyễn và trên thực địa.
Vị trí ấp Bình An
Trong số những tài liệu chính sử, thông tin về phủ Dương Xuân trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn có giá trị cao nhất. Bởi lẽ, triều Nguyễn là triều đại tiếp nối của các chúa Nguyễn, cũng có nghĩa rằng họ là những hậu duệ của chủ nhân phủ Dương Xuân. Hơn nữa, thế thứ của dòng họ Nguyễn không đứt đoạn, chỉ có quyền lực là tạm thời gián đoạn từ năm 1774 đến năm 1801 mà thôi. Vì thế, thông tin về vị trí phủ Dương Xuân trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn cần được chú ý hàng đầu trong việc tìm kiếm trên thực địa.
Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, tập Thượng của Thừa Thiên Phủ, nói về “Gò Dương Xuân” như sau: “Gò Dương Xuân”: Ở phía tây bắc huyện (Hương Thủy) 15 dặm; thế gò bằng phẳng rộng rãi, chỗ cao chỗ thấp, la liệt dài dặc độ vài dặm; phía nam gò có đàn Nam Giao, phía tây có nhiều danh - lam - cổ - sát, cũng xưng là nơi giai thắng.
Cẩn Án: Lúc đầu bản triều khai quốc có dựng phủ ở gò Dương Xuân nầy. Đời vua Hiển Tôn năm Canh Thìn thứ 9 (1700) trùng tu, cơ Tả Thủy, đào thấy 1 cái ấn đồng có khắc chữ: “Trấn Lỗ Tướng Quân chi ấn” là ấn của Trấn Lỗ Tướng Quân, nhân đó đặt tên phủ là Ấn phủ. Từ sau khi bị binh hỏa đến nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào”. (Quốc Sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Thừa Thiên phủ, tập Thượng, bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Bộ QGGD, SG. 1961, tr.56).
Bản thảo Đại Nam Nhất Thống Chí soạn thời Tự Đức (chưa in) – đoạn viết về gò Dương Xuân (Dương Xuân Cương), bắt đầu như sau: “Tại Huyện tây bắc, cương thế bình ổn, kỳ nam Nam Giao đàn tại yên” (Viện Sử học dịch : “Ở phía tây bắc huyện Hương Thủy, hình thể bằng rộng, ở phía nam có đàn Nam Giao...” (Viện Sử học, Đại Nam Nhất Thống Chí, Tập I, Nxb KHXH, HN. 1969, tr.120).
Đại Nam Nhất Thống Chí, Thừa Thiên Phủ, tập Thượng, phần về Dương Xuân Cương, tr. 26B cho biết: “Tại Huyện tây bắc thập ngũ lý, cương thế bình quãng, khỏi phục la liệt, diên đáng sổ lý, hứa kỳ nam Nam Giao đàn tại yên…” (Nguyễn Tạo dịch: Ở phía Tây Bắc huyện 15 dặm, thế gò bằng thẳng rộng rãi, chỗ cao chỗ thấp, la liệt, dài dặc độ vài dặm. “Phía Nam gò có đàn Nam Giao”. (ĐNNTC, Thừa Thiên Phủ, Tập Thượng, Nha Văn hóa Bộ QGGD xuất bản, SG 1961, tr. 56).
Đối chiếu tư liệu, Đại Nam nhất thống chí bản đời Duy Tân sử dụng lại bản biên soạn thời Tự Đức, thêm một số chi tiết mới nhưng vẫn giữ nguyên thông tin: “Ở phía Nam (gò Dương Xuân) có đàn Nam Giao”.
Tầm quan trọng của thông tin liên quan gò Dương Xuân một cách cụ thể như sách “Đại Nam nhất thống chí” khi sách đã cho biết rằng phủ Dương Xuân được xây dựng trên gò Dương Xuân, phủ Dương Xuân còn có tên là phủ Ấn. Đặc biệt là định hướng của gò Dương Xuân so với đàn Nam Giao – phía nam gò có đàn Nam Giao! Như thế, đã có sự xác định phương vị của một cái phủ đang cần tìm – phủ Dương Xuân dựa trên một cái đàn đang tồn tại – đàn Nam Giao. Thông tin của sách “Đại Nam nhất thống chí” đã cho chúng ta thấy được sự định vị phủ Dương Xuân. Phía Nam gò Dương Xuân có đàn Nam Giao, vậy đối ngược với phía Nam là phía Bắc, và ở đây thấy rằng, phía Bắc của đàn Nam Giao là phủ Dương Xuân ở trên gò Dương Xuân (chúng tôi nhấn mạnh).
Từ thông tin của sách “Đại Nam nhất thống chí”, chúng tôi thực hiện các thao tác kỹ thuật bản đồ và đo đạc thực địa như sau:    
Ở bản đồ trên (ảnh 1), gò Dương Xuân (B) ở về phía Bắc của đàn Nam Giao (A) do phía nam gò Dương Xuân có đàn Nam Giao. Tìm sự tương ứng trên thực địa chính là khu gò ấp Bình An (chùa Vạn Phước ngày nay) thuộc phường Trường An – thành phố Huế. Còn ngọn đồi có đình làng Dương Xuân Hạ (C) được đo cho thấy, đình làng Dương Xuân Hạ (C) – phường Thủy Xuân, chếch khoảng 40 độ so với điểm chùa Vạn Phước – phường Trường An, trên gò Dương Xuân (B), tức là trục AC chếch khoảng 40 độ về hướng tây bắc so với trục AB. Như thế, đình Dương Xuân Hạ (C) ở về phía gần như tây bắc so với đàn Nam Giao (A). Do đó phía nam đình Dương Xuân Hạ (C) không thể có đàn Nam Giao.
Không khó để nhận diện khu vực gò Dương Xuân trên thực địa với kỹ thuật hiện nay, đó chính là vùng Bình An thuộc phường Trường An, thành phố Huế. Vùng Bình An đó còn được gọi là gò ấp Bình An, gò Hàm Long, Long Sơn, gò Dương Xuân. Phủ Dương Xuân cũng vì thế mà được xác định ở khu vực Bình An này.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN - NGUYỄN ĐÌNH ĐÍNH.
3/ ĐÀN NAM GIAO NHÀ NGUYỄN TẠI KINH THÀNH HUẾ.
Địa điểm: Phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.( Còn tiếp )
Xin theo dõi tiếp BÀI 20. dienbatn tổng hợp từ nhiều nguồn sử liệu.

Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 18.

7/15/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 18.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) 
5. LĂNG VUA KHẢI ĐỊNH.
6.CUỘC CHIẾN TÂM LINH RÙNG RỢN GIỮA NHÀ NGUYỄN GIA LONG VÀ NGUYỄN HUỆ - TÂY SƠN.
7. NHỮNG CUỘC TÀN PHÁ VÀ THẢM SÁT CỦA NHÀ TÂY SƠN. ( Bài đọc thêm phần tư liệu ).
8.ĐƯỜNG TOẠI ĐẠO Ở LĂNG VUA CHÚA TRIỀU NGUYỄN.
Lăng tẩm các bậc tôn quí thời phong kiến ở nước ta ngoài những cấu kiện trên mặt đất như bửu thành với cổng lăng, bi đình,…còn có cấu kiện ngầm là quan tài, kim tỉnh, quách, và đặc biệt là đường toại đạo. Bài nghiên cứu này khảo sát những đặc trưng của đường toại đạo nói chung, minh họa qua những lăng tẩm vua chúa triều Nguyễn ở Thừa Thiên Huế, sau đó chúng tôi vận dụng để khảo sát lăng BaVành và lăng Thủy Tiên ở vùng đồi Thiên An, sát chân núi Kim Sơn (Núi Châu Chữ) thuộc vùng đồi núi như cái bướu của dãy núi Hương Uyển. Đầu núi Hương Uyển là núi Ngọc Trản (Hòn Chén), bướu và núi Ngọc Trản  cách nhau bởi một đoạn sông Hương. Ngô Thì Hoàng trong bài thơ Vịnh sử gọi núi và đồi ấy là “Ngọc Trản phong đầu”.
Đường toại đạo ở lăng tẩm vua chúa .
Đường toại đạo ở lăng tẩm vua chúa, thân vương, hoàng tử, quận công, công chúa, đại quan,…là đường hầm được đào sâu dưới đất, nối nơi thấp đến nơi cao có huyệt mộ, nhằm đưa quan tài của bậc tôn quí vào đúng huyệt mộ chính thức, giữ bí mật nơi táng hài cốt, thoát nước để làm ráo khô huyệt mộ.
Dân thường khi qua đời, chỉ vài ngày là đã khai huyệt, có điều kiện thì xây “kim tỉnh”, chỉ là bốn thành gạch, sau khi hạ huyệt, người ta đắp nấm tạm bằng cát, đất sau đó vài ngày có thể tiến hành xây cất, hoặc đợi vài năm có điều kiện vật chất và “coi ngày giờ” tốt mới xây lăng. Trong quá trình an táng, xây dựng thì âm công, thợ nề,… phải đi lại trên nấm mộ, người thân biết như thế là “thất lễ”đối với “hương linh” nhưng đành chịu. Ở đời “phú quí sinh lễ nghĩa”, thân nhân của những bậc “tôn quí” sẵn tiền bạc, sau khi khâm liệm người chết, quàng linh cửu ở nhà tang lễ, cho xây trước mọi thứ như kim tỉnh,  quách, nấm mộ, nhà bia, uynh thành,…xong các thứ mới  đưa linh cửu vào táng để tránh việc “thất lễ” nêu trên; thế thì việc kiến tạo “đường toại đạo” cho lăng tẩm  là tất yếu. Do đó thời gian từ khi người quá cố mất đến khi  ninh lăng (táng) khá dài, dài khoảng 7,8 tháng, ngắn khoảng 3 tháng.
Ngoài ra  có loại “đường toại đạo” do những kẻ gian thực hiện, nhằm trộm cắp đồ tùy táng của chủ nhân tôn quí như vua, hoàng hậu, công chúa,…
Tài liệu về đường toại đạo ở các lăng mộ vua chúa thời phong kiến ở nước ta quá hiếm, không khảo được. Tuy nhiên chắc chắn khi an táng và tạo tác lăng mộ vua chúa các thời đều có đường toại đạo. Thật vậy trên vnespress, 12-6-2012, tác giả Xuân Hoa viết bài “Lăng mộ vua Trần bị đào trộm” cho biết: “Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam vừa hoàn thành khai quật khảo cổ Phụ Sơn lăng – lăng tẩm của vua Trần Dụ Tông (1336 – 1369) và Nguyên lăng – lăng tẩm vua Trần Nghệ Tông ở Quảng Ninh”. Trong quá trình khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện đường toại đạo ở lăng vua dài 4,5m, rộng 3,1m ở phía Nam của lăng. Căn cứ vào ảnh vệ tinh chụp cuộc đất có lăng vua Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông có thể biết các lăng này “tọa cấn hướng khôn”, nghĩa là “đầu” dựa vào đồi núi Đông-Bắc và “chân” tựa hướng Tây- Nam. Đường toại đạo ở phía Nam của khu lăng  nên nó  ở bên trái của các lăng vậy.
Ảnh chụp vệ tinh Phụ Sơn lăng và Nguyên lăng của vua Trần Dụ Tông và Trần Nghệ Tông.
Hiện trường khảo sát khảo cổ học Phụ Sơn lăng năm 2012(ng. vnespress)
Đường toại đạo ở lăng chúa Nguyễn và lăng chánh thất của chúa Nguyễn:
Lăng của chúa Nguyễn và bà chánh thất có danh xưng gồm hai từ, lăng chúa  với danh xưng có từ đầu là Trường, lăng bà chánh thất của chúa có danh   xưng với từ đầu là  Vĩnh. Từ thứ hai của danh xưng lăng chúa và bà chánh thất là giống nhau.
Lăng chúa Nguyễn Hoàng và bà chánh thất là Trường Cơ, Vĩnh Cơ                  [1]
Lăng chúa Nguyễn Phúc Nguyên và bà chánh thất  là Trường Diễn,Vĩnh Diễn  [2]
Lăng chúa Nguyễn Phúc Lan và bà chánh thất  là Trường Diên, Vĩnh Diên       [3]
Lăng chúa Nguyễn Phúc Tần và bà chánh thất  là Trường Hưng, Vĩnh Hưng    [4]
Lăng chúa Nguyễn Phúc Thái và bà chánh thất  là Trường Mậu, Vĩnh Mậu       [5]
Lăng chúa Nguyễn Phúc Chu và bà chánh thất  là Trường Thanh, Vĩnh Thanh  [6]
Lăng chúa Nguyễn Phúc Thụ và bà chánh thất  là Trường Phong, Vĩnh Phong  [7]
Lăng chúa Nguyễn Phúc Khoát và bà chánh thất  là Trường Thái, Vĩnh Thái     [8]
Lăng chúa Nguyễn Phúc Thuần làTrường Thiệu                                                 [9]
Nhóm lăng [1], [4],[5], [6],[7],[8], lăng Trường Diễn, Trường Diên ở vùng núi phía Tây hoặc Tây Nam phòng thành Huế. Lăng Vĩnh Diễn, Vĩnh Diên ở Duy Xuyên, Quảng Nam. Lăng [9] cải táng từ Gia Định về Huế thời Gia Long.
Theo chính sử thì các lăng nói trên đều bị Tây Sơn xâm hại vào năm 1791. Chính sử chỉ ghi chép Tây Sơn đến các lăng nói trên lấy hài cốt ném xuống sông nhưng không nói rõ lấy bằng cách nào. Khoảng năm 1980 đến năm 2013,  những vụ đào trộm mộ cổ, trong đó có một số mộ chúa Nguyễn, kẻ đào trộm thường đào bên trái của mộ (khi đứng nhìn từ nấm ra cửa mộ) thì gặp đường toại đạo. Đường toại đạo không thẳng, uốn cong theo bình đồ và có đoạn sâu hơn nơi xây kim tỉnh. Một vị thuộc Nguyễn Phước Tộc (yêu cầu giấu tên) sau vụ đào trộm lăng Trường Thanh của chúa Nguyễn Phúc Chu, được tin liền lên hiện trường và đã từng theo đường toại đạo để tiếp cận kim tỉnh.Vị ấy đã nhờ đèn pin, thấy “cốt dâu bện rơm” chứ không có hài cốt. Do sự kiện này  có thể biết Tây Sơn tra khảo những người trong gia đình chúa Nguyễn, tìm  đường toại đạo, theo đường ấy vào đúng nơi đặt quan tài chủ nhân ngôi lăng để lấy hài cốt…Và khi Nguyễn vương trở lại kinh thành Phú Xuân,  nhờ các pháp sư, bằng thuật “chiêu hồn nhập cốt” vào  “cốt dâu bện rơm”, sau đó cũng bằng “đường toại đạo” để đưa “hài cốt” (biểu tượng) vào táng lại trong các lăng nói trên.
Lăng Trường Thanh của Hiển Tôn Nguyễn Phúc Chu (ng. KTNN).
 Nhân nói về những vụ đào phá, đào trộm lăng mộ ở Thừa Thiên Huế, chúng tôi nêu  một sự kiện huyền bí, liên quan đến chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu. Sinh thời vị chúa này rất mộ Phật, từng mời Thạch Liêm hòa thượng Thích Đại Sán ở Trung  Hoa sang Phú Xuân để chấn hưng Phật giáo Đàng Trong. Bản thân nhà chúa cũng qui y Phật, thọ Bồ Tát giới, pháp danh Hưng Long, hiệu Thiên Túng đạo nhân. Tương truyền sau khi ngài băng, năm 1725, thường hiển linh, báo mộng cho người thân hoặc kẻ thù dưới dạng “ông lão râu tóc bạc phơ, mặc áo trắng hoặc áo đỏ, tay cầm gậy sắt”. Đại Nam thực lục chính biên từng chép, năm 1791 bà Tả cung hoàng hậu của vua Quang Trung băng, Tây Sơn tìm được cuộc đất gần lăng Trường Mậu (lăng thân phụ của Nguyễn Phúc Chu), cho quân lính khai huyệt, thì ngài Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu hiển linh, đã xua vài con cọp dữ nhảy ra vồ đuổi quân lính Tây Sơn; cuối cùng Tây Sơn phải đi tìm cuộc đất khác. Khi vua Quang Trung cuồng đau do bà Tả cung hoàng hậu băng, lại gặp trở ngại trong việc khai huyệt để táng vợ, cận thần có kẻ tâu đất tây nam Phú Xuân là đất kết phát cho họ Nguyễn nên Nguyễn Ánh nhiều lần suýt bị Tây Sơn bắt đều thoát…làm vua Quang Trung cuồng nộ, ra lệnh quân tướng lên các lăng chúa Nguyễn lấy hài cốt ném  xuống sông Hương. Người chỉ huy đang thi hành lệnh vua thì nhà của y bị cháy. Riêng vua Quang Trung vào năm sau 1792, bệnh đột ngột hơn một tháng thì băng hà. Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Huệ….lúc mới chiếm cứ được đô thành xâm phạm vào tất cả các lăng liệt thánh. Một hôm về buổi chiều Huệ  đương ngồi bỗng nhiên tối mắt, thấy một ông bạc đầu từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: cha mày sinh ra ở đất nhà vua, đời đời làm dân nhà vua, mày sao dám phạm đến lăng tẩm, rồi lấy gậy đánh vào trán. Huệ tối sầm mắt ngã vật ra một lúc lâu mới tĩnh. Huệ đem lời  ấy nói với Trung thư Trần Văn Kỷ. Từ ấy bệnh chuyển nặng lên…” (sđd,tr.560).       Người Huế không tin sự hiển linh của Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu, đặt vấn đề: “Nếu ngài hiển linh thì tại sao để kẻ trộm theo đường toại đạo vào lấy đồ tùy táng ở lăng ngài?” Người tin có hiển linh lại giải thích: “ Ngài để kẻ trộm tìm ra đường toại đạo, nhờ thế hậu duệ ngài mới theo đường toại đạo vào huyệt mộ ngài mới biết được sự kiện Tây Sơn lấy hài cốt ra khỏi lăng là có thật và vua Gia Long đã tạo hài cốt giả bằng “cốt dâu bện rơm” để táng lại”. Kẻ gian nhiều lần tiến hành đào trộm lăng Trường Mậu, chủ nhân lăng là Anh Tông Nguyễn Phúc Thái, thân phụ của Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu nhưng phải bỏ dở. Lần nào ngài cũng báo mộng cho ông cụ Nguyễn Lô, người tự nguyện hộ lăng Trường Mậu, biết và tìm cách xua đuổi bọn trộm. Tác giả bài viết  “Giấc mộng kỳ lạ của ông lão canh lăng chúa Nguyễn”, đăng ở báo Pháp luật Việt Nam viết: “Ông Lô tiết lộ rằng, đã có nhiều kẻ đào trộm mộ đã đến lăng Ngài hoàng đào 2-3 lần nhưng không thành vì có người báo mộng cho ông biết để cản trở hành động của chúng. Không chỉ mơ thấy người đó báo mộng một lần mà nhiều lần, mà đặc biệt lần nào cũng chính xác…Ông không tin vào chuyện ma quỷ hay báo mộng là gì. Tuy nhiên, khi đến sống và bảo vệ ở Lăng này ông mới cảm thấy không có chuyện gì là không xảy ra cả.
 Ông kể: “Một đêm cách đây đã lâu, lúc đó chừng 2h sáng, tui đang nằm ngủ mê man thì trong giấc mơ bỗng hiện lên một ông lão vận đồ hoàng tộc ngày xưa bằng màu đỏ, râu tóc bạc phơ đến đánh thức tui, bảo có kẻ đang đào trộm lăng. Tĩnh dậy, đến gần lăng tui nghe có tiếng đào bới, biết là bọn trộm nên giả vờ đánh tiếng, bọn chúng biết bị lộ nên bỏ đi, không đào nữa.”
Ông Nguyễn Lô, người tự nguyện bảo vệ lăng Trường Mậu(ng.KTNN).
Lăng mộ Trường Mậu của Anh Tông Nguyễn Phúc Thái (ng.KTNN)
Một số người Huế, tin thuyết “Trường sinh học” của môn Lý Sinh hiện đại hoặc đang nghiên cứu “cận tâm lý” thì ghi nhận sự hiển linh của ngài Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu, hiệu Thiên Túng đạo nhân, người từng trùng tu chùa Thiên Mụ, đúc đại hồng chung chùa Thiên Mụ và đặc biệt đúc ấn: ” Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo”. Ấn này nhiều lần thất lạc nhưng vẫn trở về hậu duệ chúa Nguyễn, cho đến khi dòng họ Nguyễn làm nên nghiệp đế.Ở làng Bác Vọng Tây có  chùa Thiên Khánh, tọa lạc  trước  phủ chúa Bác Vọng, do chúa Nguyễn Phúc Chu xây dựng từ năm 1712, tọa càn hướng tốn, trước có sông Bồ. Thiên Túng đạo nhân  tu tập hạnh bồ tát ở chùa này khi ra phủ Bác Vọng. Gần đây, có nhà sư Thích Nguyên Pháp, gốc họ Trần làng Bác Vọng Tây, từng tu ở Di Linh, Lâm Đồng. Vị sư này về quê, trên vườn cũ nhà ông nội của sư, dựng thất để tu. Sư  có đặc điểm thi thoảng nói những câu nói khác thường, người ta thu băng, xử lý, chắt lọc, ráp nối…thì thành những lời “khuyên răn”, “tư vấn” của một vị bồ tát cho một số “đại quan”, “đại gia”. Các vị này làm theo và “đạt vạn sự như ý”. Các vị ấy đã quyên góp một số tiền, vàng rất lớn cúng dường các đồ tự khí, phục chế các tượng Phật, bồ tát, la hán, …để sư lập chùa tạm gọi chùa “Chúa Nguyễn”, ở phía trái chùa Thiện Khách và lên kế hoạch lập một đền thờ để thờ vua chúa Nguyễn. Thiện nam tín nữ  đã phục chế 13 ấn tín của vua chúa triều Nguyễn bằng đồng, mạ vàng và hiện đang tôn trí ở chùa “Chúa Nguyễn”, có người  bảo vệ cẩn mật.
 Đường toại đạo ở lăng các vua Nguyễn:
 Lăng vua Gia Long và Thừa Thiên cao hoàng hậu là song táng, với hai nấm mộ được tạo tác treo lối “trúc cách”. Hoàng hậu băng trước (22-2-1814) và vua Gia Long băng sau (3-2-1820). Không có tư liệu ghi chép đường toại đạo để đưa quan tài các ngài khi ninh lăng. Chúng tôi đoán, đường toại đạo ở lăng này, ngắn, ở dưới sâu trong khuôn viên bửu thành. Tại sao? Năm 1814, khi hoàng hậu băng, vua Gia Long cho xây lăng, đã dựng luôn hai nấm trúc cách, bên dưới có thể có kim tỉnh thông với đường toại đạo. Khi táng xong hoàng hậu, người ta đã đóng cửa toại đạo và lấp hố có cửa xong dùng hồ vữa xưa tráng bằng. Sáu năm sau nhà vua băng hà, người ta lại đục lớp vữa, mở cửa đương toại đạo, đưa quan tài vua vào kim tỉnh, đúng hướng thầy địa phân kim, đóng cửa toại đạo, lấp hố có cửa này và dùng vữa láng bằng. Độc giả xem ảnh chụp có thể thấy dấu vết của lớp vữa ở góc ảnh, khác hoàn toàn lớp vữa nơi khác trong khuôn viên bửu thành ngôi lăng.
Hiếu lăng của vua Minh Mạng,  Xương lăng của vua Thiệu Trị, Khiêm lăng của vua Tự Đức,…đều  có đường toại đạo và cách kiến tạo cơ bản  giống nhau. Đỗ Phước Tiến viết bài “Miếng ăn để đời”, có đoạn:  “Và chuyện này do người thuyết minh di tích Hiếu lăng kể: ngày 20-8-1841, quan tài của vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu thành bằng đường toại đạo (đường hầm đưa quan tài vào huyệt mộ). Đường hầm kéo dài từ Đại Hồng môn đến điểm tận cùng của La thành cách nhau đến 700 mét…Theo lời dặn của vua cha Thiệu Trị, khi xây Xương lăng vua Tự Đức căn dặn Đổng lý Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm toại đạo của Hiếu lăng. Nghĩa là truyền thống vẫn tiếp tục.” Vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày 4 tháng 11 năm 1847, lúc mới 41 tuổi. Khi hấp hối, nhà vua còn dặn Hồng Nhậm: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiệm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”. Vua Tự Đức dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm “toại đạo” giống như Hiếu lăng. Toại đạo được xây vào ngày 24 tháng 3 năm 1848. Khi xây dựng các công trình như điện, đình, các, viện thì bắt chước quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa hình để châm chước định liệu mà làm.
Lê Nguyễn trong bài “Sự thật về chuyện đào mả vua Tự Đức năm 1912”(KTNN) có trích Điều 1815 của Đệ lục kỷ Phụ biên :“…Khâm sứ đại thần Mahé hội thương nói nghe báo ở gian giữa điện Hòa Khiêm vốn có chôn nhiều vàng bạc, nên bàn ủy Hữu Tôn khanh Phủ Tôn nhân Ưng Hào, Tả Tham tri bộ Lễ Mai Hữu Dực, Phụng hộ Phó sứ Tùng Lễ hội đồng với hai viên Hội biện Lại Hộ lập tức tới nơi đào lên lấy số vàng bạc ấy giao cho Phủ Nội vụ để làm việc có ích. Bề tôi Phủ Phụ chính kính chiểu tôn điện là nơi trang trọng, ai báo tin ấy hư thực chưa rõ nhưng thế khó bàn bạc cản trở nên bàn định chờ xem khám nghiệm thế nào sẽ có thưởng phạt để tỏ rõ sự khuyến khích trừng phạt. Bèn ghi lại biên bản tâu lên để vua rõ. Sau đó hội đồng đào lên, qua hơn 10 ngày không có gì cả, kế quý tòa nói đã có lời Toàn quyền đại thần bàn dừng lại để khỏi ngờ vực náo động. … Khâm sứ Mahé cũng vì việc ấy không có hiệu quả nên tháng 3 năm sau về nước” (tltk 1, trang 569)”.
Qua những tư liệu trên có thể đoán định đường toại đạo ở Hiếu lăng, Xương lăng, Khiêm lăng nằm ở đường  thần đạo (trục đối xứng hình học của lăng). Riêng Khiêm lăng, có khả năng cửa đường toại đạo nằm sâu dưới Hòa Khiêm điện. Đồ tùy táng vàng bạc, châu báu có thể ở sát kim tỉnh, gần cuối toại đạo. Khi người ta đào ở Hòa Khiêm điện thì không thể gặp đồ tùy táng, chỉ quanh nơi cửa đường toại đạo, lại thêm có sự phản kháng của Nam triều, sự bất bình của dân chúng  nên người Pháp phải ra lệnh ngưng đào. 
dienbatn bổ xung :  Để chuẩn bị kháng chiến, hồi mùa hè năm 1885, trước khi ra Tân Sở, triều đình Huế đã chon một số vàng bạc trong Đại nội. Sau này khi chiếm được Hoàng thành Huế, bọn thực dân Pháp đã đào bới được một số của cải quý. Mahé vốn là một tên thực dân tham lam, khi được cử làm khâm sứ Huế, y đã sai thuộc hạ là De La Suisse – Hộ lý bộ Lại và bộ Học – lập kế hoạch đào lăng vua Tự Đức để tìm vàng.
Phủ phụ chánh triều vua Duy Tân. Từ trái sang phải: Tôn Thất Hân (thượng thư bộ hình), Nguyễn Hữu Bài (thượng thư bộ lại), Huỳnh Côn (thượng thư bộ lễ), Hoàng thân Miên Lịch, Lê Trinh (thượng thư bộ công), Cao Xuân Dục (thượng thư bộ học)
  Việc đào lăng tìm vàng liên quan đến tài sản nên hắn đã phải bàn với Thượng thư bộ Công Nguyễn Hữu Bài, ông Bài phản đối. Ngày 17/01/1913, De La Suisse lừa đưa Thượng thư bộ Lễ Huỳnh Côn lên lăng vua Tự Đức và buộc ông Côn phải chỉ huy đào lăng tìm vàng. Ông Côn bị bắt bí đành phải nhúng tay vào việc vi phạm đạo đức ấy.
Quân của De La Suisse ra sức đào ba ngày nhưng không có kết quả đành bỏ cuộc[1]. Ngày 4/2/1913, nhân khi vào Huế họp hội đồng Chính phủ, Albert Saraut nghe có chuyện đào lăng vua Tự Đức, Saraut hỏi, lúc đó Mahé mới báo cáo và cho biết chưa có gì. Ba ngày sau, 7/2/1913, Saraut ra lệnh cho Mahe phải lập tức dừng ngay việc tìm vàng và tu sửa lại Khiêm lăng. Nhưng vì đang dịp nghỉ Tết Quý Sửu (1913), các đại thần Việt Nam hứa ra đầu tháng Giêng sẽ lấp lại các hố đào. Sự chậm trễ ấy đã giúp cho báo chí có dịp tiếp cận.
Hạ tuần tháng 12/1913, báo Le Courrier d’Haiphong công khai chỉ trích việc làm của Mahe. Toàn quyền, A.Sarraut và các quan lại triều đình Huế nhận được nhiều thư trách móc, nguyền rủa. Việt Nam quang phục quân nhân dịp đó, “mượn tạc đạn” để bày tỏ sự bất mãn của mình. Toàn quyền A.Sarraut lại yêu cầu Mahé báo cáo việc tu sửa lăng Tự Đức  nhưng cho đến lúc đó vẫn chưa hoàn tất[2].
Tin lăng vua Tự Đức bị đào bay sang Châu Âu. Cụ phó bảng Phan Châu Trinh nghe tin rất phẫn nộ. Ngày 2/4/1913, nhân dịp ông Roux được thăng cấp thiếu tá, cụ Phan gửi cho Roux một lá thư dài bày tỏ sự bất mãn về việc đào mả Tự Đức và phản đối chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Vua Duy Tân hết sức giận dữ chê trách nặng nề các Thượng thư dưới quyền. Hai cụ Trần Cao Vân và Thái Phiên đã nắm lấy sự phẫn nộ của vua Duy Tân tìm cách liên lạc với nhà vua, mời nhà vua làm minh chủ cho cuộc khởi nghĩa chống Pháp hồi tháng 5/1916. Vua Duy Tân đã đồng ý. Cuộc khởi nghĩa chống Pháp năm 1916 đã diễn ra nhưng tiếc thay nó đã bị thất bại ngay sau khi vua Duy Tân vừa rời khỏi Hoàng Cung."(Nguồn lichsuvietnam)
Lại có đường toại đạo do kẻ gian bí mật đào để tiếp cận quách, kim tỉnh, quan tài nhằm trộm cắp đồ tùy táng. Phần lớn tẩm mộ cỡ vừa ở vùng hẻo lánh thì kẻ gian đào đường toại đạo ngắn, dài trên dưới vài mét. Riêng ở Thừa Thiên Huế, xảy ra vụ đào trộm Xương Thọ lăng, kẻ gian đã nghiên cứu đào đường toại đạo từ bờ sông, dài vài trăm mét, tránh bị phát hiện và chúng đã “đạt mục đích”. Ngày 3/11/2013, Đỗ Nguyễn trên báo ANTĐ viết bài “Cổ vật có ma ở Kinh thành Huế” có đoạn: “Cách đây đã gần 30 năm, một vụ đào mộ động trời đã khiến dư luận xôn xao khi 6 tên trộm mộ đào một đường hầm dài dẫn từ sông Hương vào khu lăng mộ của Hoàng Thái hậu Từ Dũ (Từ Dụ). Khi sự vụ bị phát hiện, lăng bà Từ Dũ đã bị kẻ gian lấy đi nhiều hiện vật quý hiếm. Dù đã tóm gọn cả 6 tên trộm mộ, nhưng phải mất nhiều năm sau cơ quan công an mới tìm lại được 18 hiện vật. Dư luận cho rằng số hiện vật bị lấy mất còn gấp nhiều lần như thế. Thực tế, các cán bộ văn hóa ở Huế thời điểm đó đều khẳng định con số có thể lớn hơn nhiều số hiện vật mà cơ quan chức năng tìm lại được… Theo một cán bộ Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cho biết: “Sau khi mãn hạn tù do hành vi trộm cắp của mình, 3 trong số 6 tên trộm mộ đã chết bất đắc kỳ tử. 2 người thì bỏ đi lang thang biệt xứ. Một người thì phát điên lảm nhảm linh tinh suốt ngày đêm…”
Đường toại đạo ở lăng Ba Vành và lăng Thủy Tiên:
Chúng tôi đến khảo sát lăng Ba Vành vào năm 1986, thấy nấm hình mai rùa bị bạt góc chéo, mất khoảng 1/5.Hỏi dân sở tại cho biết thời chiến tranh, có người từng đào, lấy đất để làm hầm trú ẩn. Nhờ vậy chúng tôi mới dễ phát hiện bên dưới nấm mai rùa, tạo bằng lớp bê tông dày, lại có một tấm đoang làm bằng vữa cổ khá dày. Trần nấm mai rùa và tấm đoang  này cách nhau chưa tới 1mét, không có dấu vết quách mộ, như thế không thể đặt quan tài trên tấm đoang. Vậy kim  tỉnh phải ở dưới tấm đoang và chắc chắn việc đưa quan tài vào kim tỉnh (khi hung táng) hoặc lấy quan tài ra (khi đào phá) phải nhờ đường toại đạo.
Chúng tôi đã nhờ người phát quang, làm cỏ mới phát hiện nhiều mảnh gạch bìa màu đỏ và một số gạch lát nền màu xám; đặc biệt có một viên gạch độc đáo, tìm thấy ở hầm chứa đồ tùy táng của lăng Ba Vành, được nung rất kỹ, hình hộp (trông như cái bánh chưng), kích thước 15cmx15cmx4cm. Trên một mặt vuông của viên gạch, người xưa đã vẽ phác thảo ngọn đồi, ở đỉnh đồi có mộ, và một đường toại đạo từ dưới chân đồi lên mộ.
Hình vẽ viên gạch nung, trên một mặt có vẽ đường toại đạo kép của lăng Ba Vành và lăng Thủy Tiên (Bảo tàng VHDG Huế hiện giữ viên gạch này)
 Điều chúng tôi thắc mắc là tại sao hình vẽ đường toại đạo trên viên gạch nung lại có hai nhánh ngắn, nhập lại thành một, rồi dẫn tới huyệt mộ lăng Ba Vành? Cửa vào đường toại đạo ở đâu?
Năm 2007, nhóm chúng tôi gồm có Trần Viết Điền, Trần Viết Hòa đã gặp thầy Phan Quang Hoành của Đan viện Thiên An đang đi dạo bên hồ Thủy Tiên, gần Đan viện. Chúng tôi được thầy Phan Quang Hoành tiếp chuyện và thầy đã nhiệt tình cho phép chúng tôi vào nhà quản vụ để nói chuyện khi biết chúng tôi từng lên lăng Ba Vành nghiên cứu trong 21 năm. Trong câu chuyện, biết chúng tôi đến đây với mục đích nghiên cứu, không liên quan những việc thương thảo về đất đai giữa xã Thủy Bằng với Đan Viện Thiên An, nên quản vụ vườn cam Đoàn Tiến An và thầy Phan Quang Hoành vui vẻ trả lời những thắc mắc của chúng tôi quanh lịch sử Đan Viện Thiên An. Các thầy xác nhận “Tháng 3 năm 1939, cha Romain Guillauma, một đan sĩ người Pháp, quyết định lập dòng tại Huế, và vẫn duy trì sở Miévelle làm nơi nghỉ chân (sở đất này sẽ bán lại cho các nữ tu Phan sinh vào năm 1954). Ngày 10-6-1940, thánh lễ đầu tiên được cha Romain cử hành trong ngôi nhà tranh vừa dựng xong gần chân đồi Ðức Mẹ, đánh dấu ngày thành lập Ðan viện Thiên An, trước sự hiện diện của cha Corentin”.Các bô lão làng Kim Sơn có truyền ức thời vua Nguyễn cấm đạo,từng có một vị giáo sĩ phương Tây xuống hang đá (nay là nhà nguyện, thư viện,  dưới lòng đất của Đan Viện Thiên An), xong vào một đường hầm để trốn, sau đó ngài cũng bị bắt và bị hành quyết. Một vị tiến sĩ, giảng viên của Đại học khoa học, viện đại học Huế (yêu cầu giấu tên), có thân phụ là người chuyên lo việc tạo tác của Đan Viện khoảng từ 1950 đến 1975, cho biết ở nhà nguyện dưới đất của Đan viện có một “sập đá” phẳng, tạo bởi đá granit, …và ở tường nhà nguyện có cửa hang(?)
Ngày 1/1/2011, trên Vietsciences, chúng tôi đăng bài “Lăng Chính cung Hoàng hậu, vợ vua Quang Trung ở đâu?”, nhằm chứng minh lăng Chính cung hoàng  hậu triều Tây Sơn không ở núi Kim Phụng (Thương Sơn) mà ở vùng núi Kim Sơn (Ngọc Trản phong đầu) và chúng tôi tạm gọi “Lăng ThủyTiên”.Từ ấy chúng tôi kiến giải hình vẽ đường toại đạo trên viên gạch nói trên như sau:
Năm 1791 khi táng bà Chánh cung hoàng hậu, triều Tây Sơn đã đưa quan tài vào lăng Thủy Tiên bằng đường toại đạo, có cửa ở dưới chân đồi (Thiên An),ở khuôn viên của nhà hộ lăng(nay là nhà quản vụ vườn cam thuộc Đan viện Thiên An). Đường toại đạo này ở bên trái của lăng Thủy Tiên. Năm sau, vua Quang Trung băng hà, để giữ bí mật, triều Tây Sơn đã đào một hang sâu trên đồi Thiên An, tạo tác thành một nhà quàng linh cửu vua Quang Trung, đặt linh cửu trên một bệ đá granit. Từ hang có nhà quàng linh cửu, triều Tây Sơn bí mật đào đường toại đạo đến nhà hộ lăng, có cửa đường toại đạo lăng bà Chính cung hoàng hậu, xong tiếp tục đào tiếp đến lăng Ba Vành. Tính từ nhà hộ lăng đến lăng Ba Vành thì đường toại đạo của lăng này cũng ở bên trái. Như vậy cửa hai đường toại đạo của hai lăng đều ở khuôn viên(dưới sâu) của nhà hộ lăng vậy. Rất tiện lợi!
 Thay lời kết:
  Trong công trình “ Đi tìm dấu tích CUNG ĐIỆN ĐAN DƯƠNG sơn lăng của hoàng đế Quang Trung”(nxb Thuận Hóa, Huế, 2007), nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân công bố : “Ngày 17-12-1988, chúng tôi…đã tiến hành khai quật để thăm dò ở đầu hè phía tây ngôi nhà 63/13/12 Điện Biên Phủ (nay là số 10/17 kiệt 120 Điện Biên Phủ, phường Trường An, Thành phố Huế). (Xem A.076).
   Chúng tôi đào xuống sâu 0,5m gặp một lớp thành dày chạy dọc theo hiên phía tây nhà bà Liên. Mặt trong của thành nằm sâu dưới nền nhà. Chúng tôi đào sâu thêm 1,50m vẫn chưa đến chân thành, đào dọc theo bức thành 3m vẫn chưa giáp với hai đầu bức thành (Xem A. 077). Bà Liên xác nhận “Cái đường hầm nằm dưới nền nhà bà không thể đào sâu thêm được nữa, đào thêm nữa sẽ sập nhà bà !”.
 Những người có mặt đều rất vui mừng.Chúng tôi tạm dừng công việc khai quật thám sát ở đó.
  Chúng tôi tạm kết luận: tấm đá lớn còn giữ được và đang  làm mặt bàn trong nhà bếp chùa Vạn Phước và bức thành bên ngoài đường hầm (được xem là kim tỉnh hay khuôn tỉnh) ở phía tây nhà bà Nguyễn Thị Liên là những dấu hiệu của cái huyệt mộ đã bị quật phá. Đó là những dấu hiệu còn chờ khai quật khảo cổ học chính thức của các cơ quan chức năng mới có thể có kết luận cuối cùng” (sđd, tr. 124, 125,126).
Chúng tôi nghĩ  rằng nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã tiếp cận đường toại đạo và kim tỉnh của lăng mộ bậc tôn quí, có khả năng là lăng vua Quang Trung. Rất tiếc trong cuộc khảo sát khảo cổ học ở gò Bình An,từ 6 đến 15-10-2016,  nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân không yêu cầu viện khảo cổ tiếp tục thám sát đường toại đạo ở khuôn viên nhà bà Liên,  lấy mẩu đường toại đạo và kim tỉnh nói trên, đo tuổi bằng phương pháp nhiệt huỳnh quang ,  để sớm kết luận cuối cùng về công trình dày công của mình.
Huế, ngày 1-11-2017 - Trần Viết Điền.

ĐỌC THÊM TƯ LIỆU :
Bí ẩn mới hé lộ sau những cuộc khai quật lăng mộ tại Huế.
Những câu chuyện kỳ bí trong quá trình khai quật cố đô Huế đã được hé lộ qua lời kể của chuyên gia khảo cổ học Nguyễn Tuấn Lâm – người chịu trách nhiệm khai quật các di chỉ khảo khổ tại Huế. Ông Nguyễn Tuấn Lâm cũng là một trong 2 chuyên gia khảo cổ học Việt Nam được cử đi đào tạo tại Úc về khảo cổ học dưới nước. Suốt 10 năm trời lăn lộn với những cuộc khai quật khảo cổ tại cố đô Huế, ông Lâm đã gặp những câu chuyện kỳ bí, những sự trùng hợp kỳ lạ  không thể giải thích nổi. Chuyên gia khảo cổ này đã kể lại những câu chuyện đó với An ninh Thủ đô cuối tuần…
Đó là những sự trùng hợp đến kỳ lạ mà cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp. Như cái chết của người quản tượng; Hòn đá bất thường trong Điện thờ lăng Gia Long; Tiếng gọi bí ẩn dẫn nhà khảo cổ học tìm ra cột thiêng cùng tấm địa đồ tại Lăng Thiệu Trị, và cả những cái chết bất ngờ…
Lăng Vua Gia Long
Tấm bia đàn xã tắc và 2 đám tang.
Trong 10 năm thực hiện Dự án khai quật khảo cổ học 17 di tích tại Huế, Trưởng đoàn khảo cổ học tại Huế của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, chuyên gia khảo cổ học Nguyễn Tuấn Lâm đã ghi nhận lại rất nhiều chuyện thần bí, kỳ lạ đã xảy ra. Trong suốt nhiều năm qua ông Lâm vẫn ám ảnh về những câu chuyện bí ẩn đó mà chưa từng hé lộ. Ông Tuân kể lại:
Cuối tháng 7-2007, Bộ VH-TT&DL ra quyết định thực hiện Dự án khai quật khảo cổ học Đàn Xã tắc phục vụ công tác trùng tu trước thềm Festival Huế 2008. Ngày động thổ được chọn là 1-1-2008, nhưng ngay khi lễ động thổ vừa diễn ra, tôi nhận được tin báo, nhạc phụ qua đời do đột tử tại TP.HCM. Sau 3 ngày tổ chức tang lễ, lo hậu sự cho bố, tôi tiếp tục quay trở lại thực hiện dự án còn dang dở thì nhiều sự kiện kỳ lạ lại liên tiếp diễn ra. Đó là chuyện công nhân làm việc tại đây cùng người dân trong khu vực bàn tán xôn xao về việc nhiều người cùng mơ thấy một giấc mộng. Trong đó, hàng đêm có một cụ ông râu dài, tóc bạc phơ chỉ mặc một bộ quần áo trắng tha thẩn trong khu khảo cổ. Sau nhiều lần đắn đo, tôi quyết định mở hố thăm dò tại đúng vị trí đó thì bất ngờ một tấm bia lớn được phát lộ. Đó chính là tấm bia “Xã tắc chi thần” mà các nhà khoa học vẫn tranh luận lâu nay để tìm ra vị trí đặt bia nhưng chưa có kết quả. Ngay sau đó, tấm bia được dựng lại và cũng từ đó, các vị trí cột mốc, chỉ giới dần dần lộ ra đầy đủ và hoàn chỉnh. Sự việc nếu chỉ có thế thì chắc cũng không có gì lạ, nhưng đến đúng ngày  nộp báo cáo kết quả khảo cổ học, kết thúc dự án thì tôi tiếp tục nhận được tin thân phụ mình qua đời tại Hà Nội. Từ đó, những sự việc kỳ lạ kiểu như thế được tôi để ý đến nhiều hơn và xâu chuỗi lại.
Sự cố ám ảnh
Nhắc lại những chuyện kỳ lạ chuyên gia Nguyễn Tuấn Lâm cho biết ông bị ám ảnh nhất là những cái chết và hiện tượng bất thường xảy ra đúng vào kỳ Festival Huế năm 2006. Để phục dựng lại Lễ tế đàn Nam Giao trong Festival Huế 2006, chính quyền Huế đã quyết định mua từ Đắk-Lắk 2 con voi và thuê 2 người quản tượng. Theo kế hoạch 2 con voi này sẽ đi đầu đoàn ngự đạo dẫn theo đội ngũ quan binh chỉnh tề tiến về nơi hành lễ. Song, ngay trước buổi lễ, một người quản tượng trong lúc cho voi ăn đã bất ngờ bị voi dùng ngà xuyên thẳng bụng, quăng lên trời quật chết. Ông Nguyễn Tuấn Lâm chia sẻ: “Mãi cho tới bây giờ, cái chết của người quản tượng vẫn còn ám ảnh tôi bởi cảnh tượng kinh hoàng đó. Thêm vào đó, cùng kỳ Festival còn xảy ra một sự cố đau buồn khác. Ngay trong buổi lễ khai mạc Festival, trời bỗng nổi cuồng phong dữ dội làm đắm một chiếc thuyền đang ngoạn cảnh trên sông Hương đoạn qua gần điện Hòn Chén. Theo tôi nhớ có tới 3, 4 người đã  bỏ mạng trong tai nạn này”.
Không chỉ những tai nạn bất ngờ, tại đây cũng luôn xảy ra các sự trùng hợp, kỳ bí đến nay vẫn chưa có lời giải thích. Như lần đoàn kiểm tra của các nhà lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên – Huế cùng các nhà nghiên cứu văn hóa, sử học có tên tuổi và khách thăm quan đến thăm khu khai quật lăng Gia Long (Thiên Thọ lăng). Chuyến thăm của đoàn từ lúc xuống xe cho tới khi vào điện làm lễ, thắp hương đều được nhà khảo cổ học Nguyễn Tuấn Lâm dùng máy quay ghi lại. Tuy nhiên, đến khi xem lại thì toàn bộ đoạn ghi hình đoàn tiến vào điện chính dâng lễ, thắp hương trong điện đã trở thành một khoảng đen khó hiểu.
Cũng tại khu vực điện chính, chỉ trước đó vài ngày, một vụ tai nạn kỳ lạ đã xảy ra. Trong lúc kiểm tra, chụp ảnh tư liệu hiện trường, một cán bộ Ban quản lý dự án Cố đô Huế lúc đó phát hiện ra một tảng đá lạ thường rất đẹp ở trong điện. Để tiện việc nghiên cứu, ông đã yêu cầu bảo vệ nhấc tảng đá ra khỏi điện để chụp ảnh nhưng lại quên bê hòn đá trả lại vị trí cũ. Và khi ông cán bộ này vừa đến cổng thì bị va chạm xe máy. Sau nửa tiếng tìm kiếm, mọi người mới phát hiện ra ông đang nằm bất động trong một bụi tre gần đó. “Đến giờ chúng tôi vẫn chưa thể lý giải được nguyên do nào cán bộ đó bắn vào trong bụi tre có chiều cao quá đầu người mà chỉ bị xây xát ngoài da. Để đưa ông ra, người ta đã phải chặt bụi tre. Chiếc xe của ông chỉ khởi động được khi hòn đá được đem trả vào vị trí cũ trong điện”…
Tiếng gọi lạ và bức địa đồ
Là một nhà khoa học, không bao giờ tin vào những chuyện ma mị, kỳ quái, nhưng đến tận bây giờ tôi vẫn chưa thể tìm ra những bí ẩn đằng sau các câu chuyện kỳ lạ trong quá trình khai quật lăng Thiệu Trị (Xương Lăng). Những ngày đầu mở hố thám sát khai quật khảo cổ học, tôi cùng các đồng nghiệp nghe thấy đâu đó có tiếng lảng bảng vọng lại. Đến nửa đêm, tôi lại nằm mơ có người chỉ dẫn mình đến một di chỉ vô cùng quan trọng tại khu vực lăng Thiệu Trị. Quyết định thử vận may tại địa điểm vừa được báo, ông cho tổ chức đào ngay tại đó. Chỉ qua lớp đất mặt, một bức tranh được xếp bằng gạch đá được phát lộ. Ông tự tay tỉ mẩn làm sạch từng góc cạnh và phát hiện đây là một bức địa đồ với trung tâm ở giữa là dòng sông Hương uốn lượn. Điểm đặc biệt ở chỗ, những viên gạch dùng để xếp bức địa đồ đều là loại gạch có từ thời Gia Long. Nhưng địa điểm phát hiện lại nằm trong quần thể khu di tích lăng Thiệu Trị. Biết tin, các nhà nghiên cứu về cố đô Huế đã có mặt với rất nhiều giả thuyết đã được đưa ra. Trong đó, chủ yếu tập trung ý kiến cho rằng bức địa đồ thể hiện lại những thế đất đẹp ở Huế với hai bên tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ xoay quanh trục chính là sông Hương. Tại thời điểm ấy, mọi người đều muốn tổ chức một cuộc hội thảo để luận bàn tấm địa đồ kia thể hiện những gì và tại sao lại xuất hiện ở khu vực lăng Thiệu Trị. Nhưng sau nhiều biến động, cho đến nay, hội thảo vẫn chưa được diễn ra. Ý nghĩa thật sự của bức địa đồ vẫn là một bí ẩn.
Những ngày tiếp sau, tiếng gọi lạ lại xuất hiện đưa ông ra xa khỏi khu vực khảo cổ, lần tìm đến sát bờ sông Hương. Tại đây, ông và một người đồng nghiệp đã phát hiện ra một di tích, đó chính là cột chỉ giới quan trọng của lăng Thiệu Trị. Sử sách có ghi lại, cây cột thiêng được dựng để nhắc nhở người dân là khu vực linh thiêng, ai đi ngựa qua phải xuống ngựa, ai đi bộ phải ngả nón cúi đầu mà đi, người trên thuyền không được khua mái, cấm những lời bông đùa, cợt nhả. Cây cột cao tới 4m với nhiều hoa văn lạ mắt trạm trổ trên chất liệu gạch được gắn bởi loại vữa đặc biệt. Do tối trời, ông chỉ kịp cùng người đồng nghiệp chụp lại vài tấm hình làm tư liệu. Sáng sớm hôm sau, khi trở lại nghiên cứu thì cây cột đã bị đập phá tan tành, toàn bộ phần thân của cây cột chỉ còn 1m, xung quanh là đống gạch đá kéo dài ra bờ sông Hương. Cây cột bị chủ mảnh đất đập đi để xây khu nghỉ dưỡng. Sau này, chính người chủ nhà đã phải thừa nhận và  phục dựng lại cây cột theo các hình ảnh chụp được trước đó. Nhưng, chắc chắn một điều nếu không có sự dẫn dắt kỳ lạ kia, thì sẽ chẳng còn dấu tích của cây cột thiêng.
Nhà khảo cổ học Nguyễn Tuấn Lâm chia sẻ cố đô Huế – đất văn hiến vẫn còn muôn vàn những chuyện kỳ bí chưa tìm được lời giải đáp. Những chuyện  mà ông kể có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên được nhiều người chú ý. Đến nay những câu chuyện kỳ bí như vậy vẫn được người dân Huế truyền tai nhau thu hút sự quan tâm của tất cả các du khách mỗi khi đặt chân đến nơi đây.
Theo An ninh Thủ đô.
dienbatn giớithiệu.Xin theo dõi tiếp BÀI 19.


Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 17.

7/14/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 17.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) 
5. LĂNG VUA KHẢI ĐỊNH.
6.CUỘC CHIẾN TÂM LINH RÙNG RỢN GIỮA NHÀ NGUYỄN GIA LONG VÀ NGUYỄN HUỆ - TÂY SƠN.
7. NHỮNG CUỘC TÀN PHÁ VÀ THẢM SÁT CỦA NHÀ TÂY SƠN. ( Bài đọc thêm phần tư liệu ).
Sự thất bại của quân Tây Sơn trước nhà Nguyễn thường được cho là vì cái chết của vua Quang Trung. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử, tại sao Nguyễn Phúc Ánh bao nhiêu lần tay trắng bại vong lại vẫn nhận được sự ủng hộ của người dân? Nhà Tây Sơn đã làm những điều gì để mất lòng dân đến như vậy?
TẠI HỘI AN  :
Phố cổ Hội An xưa (Ảnh qua vi.wikipedia.org)
Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Hội An được xây dựng và phát triển trở thành thương cảng tiêu biểu của châu Á và nổi tiếng khắp thế giới. Rất nhiều thương nhân từ Nhật Bản, Trung Quốc, châu Âu đến đây giao thương, biến Hội An thành hải cảng quốc tế tiêu biểu ở châu Á. Hội An là đô thị rất trù phú, được nhiều nơi trên thế giới biết đến, có rất nhiều khu phố dành cho thương gia nước ngoài.
Một người Ý là Christoforo Borri cư trú ở Hội An vào năm 1618 đã mô tả rằng:
“Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.
“Người Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ”
“Do chợ này mà Quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích”.
Thế nhưng quân chúa Trịnh và quân Tây Sơn sau khi chiếm Quảng Nam đã tàn phá tất cả Hội An. Không chỉ sử liệu thời nhà Nguyễn mà nhiều thương gia phương Tây cũng chứng kiến ghi nhận cảnh này.
Vào thời điểm 1774-1775 là giai đoạn mà quân Trịnh tiến đánh Phú Xuân (Huế), chúa Nguyễn phải chạy về Quảng Nam, lại bị quân Tây Sơn đánh ra uy hiếp. Một bức thư năm 1775 của Halbout đã ghi nhận:
“Quân nổi loạn đã cướp bóc, cướp phá chẳng nương tay, đến nổi các tỉnh Cham cứ 20 người thì có 19 người chết vì bị đầy đọa khổ sở. Các giáo khu ở Hàn và Cầu Né đều không còn… Năm ngoái, ở Bầu Nghé từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch số giáo dân bị giết đến sáu trăm người… Ở một nơi khác cũng thời gian ấy, ít nhất có đến 1500 giáo dân bị giết. Suốt hai năm ròng gần như quanh tôi lúc nào cũng có người chết và hấp hối…” Thư của các giáo sĩ thừa sai, NXB Văn học Hà Nội.
Một người Anh Charles Chapman phải thốt lên rằng:
“Khi tới Hội An, thành phố lớn này chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch quy củ với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức mà thôi”
Sau này thành phố Hội An đã được xây dựng lại nhưng không thể được như trước nữa, những khu phố sầm uất đã không còn, nhiều thương gia chứng kiến cảnh tàn phá cướp bóc cũng sợ hãi mà không dám quay lại.
Nhà nghiên cứu Tạ chí Đại Trường dẫn lời Linh mục Labartette miêu tả:
“Ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) không còn một con heo, gà, vịt, đường cát trước kia sản xuất rất nhiều nay biến mất, tiền mất giá một quan còn giá trị độ một đồng, tình trạng đói khổ ăn xin xuất hiện phổ biến trong xứ.”
Lê Quý Đôn cũng ghi nhận trong thảm cảnh ở Quảng Nam trong “Phủ biên tạp lục” như sau:
“…quá đỗi đói khổ cùng khốn, họ chỉ ngóng trông quân nhà vua đến giải cứu cho họ…”
TẠI CÙ LAO PHỐ :
Những gì còn lại đều bị đốt sạch. (Ảnh minh họa từ imgur.com)
Trung tâm thương mại sầm uất nhất Nam Bộ bị tàn phá
Trung tâm thương mại ở Nam Bộ là cù lao Phố nằm bên sông Đồng Nai thuộc xã Hiệp Hòa, Biên Hòa ngày nay. Nguồn gốc của nó là do một số tướng lĩnh nhà Minh do không quy phục nhà Thanh nên đến xin chúa Nguyễn được làm con dân Đại Việt và được cho phép khai phá vùng đất này. 
Thời ấy thương nghiệp phát triển dẫn đến các nghề thủ công như dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo v.v.. rất phát triển. Nơi đây thuận tiện giao thông thủy bộ, buôn bán tấp nập, nên bắt đầu phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Nam Bộ.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” mô tả rằng Nông Nại đại phố lúc đầu do Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài – từng là tổng binh ba châu Cao – Lôi – Liêm dưới triều Minh) khai phá, ông “chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội…”
Trịnh Hoài Đức mô tả trong “Gia Định thành thông chí” của mình như sau:
“Các thuyền ngoại quốc tới nơi này (cù lao Phố) bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất liền biết. Các hiệu buôn này định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ động. Đến ngày trở buồm về, gọi là ‘hồi đường’, chủ thuyền cần mua món hàng gì, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước nhờ mua dùm. Như thế, khách chủ đều được tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đàn hát vui chơi, đã có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi…”.
Khi quân Tây Sơn đánh vào Nam bộ, lịch sử ghi nhận rằng cù lao Phố bị tàn phá, người Hoa kiều bị tàn sát. Quân Tây Sơn cướp bóc của cải chở về Quy Nhơn, những gì còn lại đều bị đốt sạch. Các cơ sở thủ công bị phá, dân chúng bị tàn sát, nước đỏ ngầu vì máu. Những người Hoa may mắn sống sót chạy về Bến Nghé, sau này thành lập lại trung tâm thương mại ở vùng Chợ Lớn.
Trịnh Hoài Đức mô tả sự việc này trong “Gia Định thành thông chí” rằng từ khi bị Tây Sơn tàn phá, “nơi đây biến thành gò hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước”.
Sau khi chợ búa cùng phố xá bị tàn phá nặng nề, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn, sinh sống và lập những cơ sở thương mãi khác cho đến nay. Kể từ đó, vùng cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho.
TẠI MỸ THO : Vùng kinh tế hưng thịnh bị tàn phá.
Vào năm 1679, một nhóm khoảng ba ngàn người Minh Hương được Chúa Nguyễn cho định cư vùng đất mới này. Trong nhóm có Dương Ngạn Địch đứng ra lập Mỹ Tho đại phố ở làng Mỹ Chánh, huyện Kiến Hòa. Khu đại phố này kéo dài đến Cầu Vĩ, Gò Cát, tức khu vực xã Mỹ Phong hiện nay. Rất nhiều làng xã mọc lên xung quanh khu vực Mỹ Tho: Thái Trấn lập làng An Hoà (sau đổi là Thạnh Trị), Nguyễn Văn Trước lập làng Điều Hòa (khu vực đường Nguyễn Hùynh Đức bây giờ ).
Vào thế kỷ 17, Mỹ Tho đã trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ (trung tâm còn lại là cù lao Phố). Sự hưng thịnh của phố chợ Mỹ Tho cho thấy nền sản xuất nông – ngư nghiệp và kinh tế hàng hóa địa phương ở thời điểm đó đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là đối với ngành thương mại.
Tuy nhiên quân Tây Sơn đã tàn phá vùng kinh tế hưng thịnh này một cách không thương tiếc. Nhà nghiên cứu Sơn Nam đã mô tả trong “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” rằng:
“Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chàm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”.
Thậm chí người ta đã coi quân Tây Sơn như cường đạo. Tại Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng “đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì”.
THẢM SÁT NGƯỜI HOA Ở CHỢ LỚN :
Chợ Lớn xưa. (Ảnh từ internet)
Từ khi cù lao Phố bị phá hủy thì các hoạt động thương mại phải di dời tập trung về Chợ Lớn.
Năm 1782 Nguyễn Nhạc đến “18 thôn vườn trầu” thì bị phục kích thua trận. Nhận ra quân phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Hoa ủng hộ Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Nhạc đã thực hiện một cuộc thảm sát đối với người Hoa.
Nhà nghiên cứu Sơn Nam căn cứ theo “Gia Định thông chí” viết trong cuốn “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” như sau:
“Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10.000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền, còn các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu não kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.
Sự thật là quân Tây Sơn đã tàn sát bao nhiêu người? Linh mục Andre Tôn trong bức thư viết ngày 1/7/1784 mô tả số người chết trong cuộc thảm sát này là 10.000 đến 11.000 người, trong đó phần lớn là người Hoa. Linh mục Castuera, người đã có mặt ở Chợ Quán ngày 7/7/1782, ghi nhận có 4000 người Hoa bị giết. Số nạn nhân thật sự trong những cuộc thành trừng của Tây Sơn là không thể biết chính xác, nhưng một bầu không khí khủng bố đối với người Hoa ở đây là có thật.( Trần Hưng ).- https://trithucvn.net/van-hoa/dieu-gi-khien-nha-tay-son-bai-boi-nha-nguyen-phan-1.html.


NHỮNG GÓC KHUẤT CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN.
 Bài viết này không nhằm mục đích hạ bệ, hay đánh đổ vai trò lịch sử của phong trào nông dân Tây Sơn, ngược lại chúng tôi cho rằng phong trào này có rất nhiều tiến bộ; như lật đổ các thế lực phong kiến Trịnh – Nguyễn đang trên đà suy thoái, đánh bại các âm mưu xâm lược của ngoại xâm như Xiêm La, Mãn Thanh… Thế nhưng, lịch sử luôn có những mặt trái của nó, và vai trò lịch sử của phong trào Tây Sơn không chỉ là một “màu hồng” nó vẫn còn có những góc khuất, những góc khuất tác động tiêu cực đến lịch sử.
Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường có thể là người đầu tiên đụng đến những góc khuất của phong trào khởi nghĩa[1], phải đến hơn 20 năm sau mới có người lại đề cập đến những góc khuất này, đó là giáo sư Trần Quốc Vượng[2]. Gần đây chủ đề về mặt trái của Tây Sơn lại được khơi gợi từ sử gia George Dutton (Đại học Califonia), tuy nhiên công trình của ông vẫn chưa được in thành sách mà Nguyệt Cầm chuyển ngữ sang tiếng Việt. Hiện nay, nền sử học trong nước cũng đang trải qua thời kỳ “phản tỉnh” mạnh mẽ, bằng một loạt các trào lưu đánh sự kiện, hiện tượng và nhân vật lịch sử như đánh giá lại về nhà Mạc, nhà Nguyễn… Thế nhưng, cho đến nay việc “soi rọi” những góc khuất của phong trào Tây Sơn vẫn còn chưa được nhiều người chú ý, bài viết này hy vọng đóng góp một phần vào mục tiêu ấy. 
Từ Hội An, Quảng Nam…
Trong khí thế của một cao trào phản kháng đang lên, của một đội quân  – đa dạng, đủ thành phần nhưng phần lớn xuất thân từ những nông dân, thảo khấu – lúc nào cũng hừng hực khí thế chiến đấu trước kẻ thù, thì dù là một đội quân “cướp của người giàu chia cho người nghèo” không thể tránh khỏi sự quá đà trong những lần chinh chiến trên chiến trường. Trong những năm 1773 – 1775, cuộc nổi dậy mang tên Tây Sơn (bắt nguồn từ Bình Định) đã nhanh chóng lan đến Quảng Nam, trong suốt thời gian đó Quảng Nam là vùng đất tranh chiếm và giằng co quyết liệt giữa Tây Sơn với chúa Nguyễn và sau này là với quân Trịnh (Đàng Ngoài). Chính trong thời gian này, người ta chứng kiến được những cảnh cướp phá và vơ vét của những đội quân với tinh thần “cách mạng” thái quá, tiếc thay sử liệu minh chứng cho những sự kiện này không phải xuất hiện từ phía nhà Nguyễn (vốn có tư tưởng thù địch với Tây Sơn), mà từ chính các nhà truyền giáo, các thuyền buôn nước ngoài, những người trực tiếp chứng kiến cảnh tượng ấy.
Trong một bức thư viết khoảng tháng 7 năm 1775, Đức cha Halbout đã ghi nhận: “…Quân nổi loạn đã cướp bóc, cướp phá chẳng nương tay, đến nổi các tỉnh Cham cứ 20 người thì có 19 người chết vì bị đầy đọa khổ sở. Các giáo khu ở Hàn và Cầu Né đều không còn… Năm ngoái, ở Bầu Nghé từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch số giáo dân bị giết đến sáu trăm người… Ở một nơi khác cũng thời gian ấy, ít nhất có đến 1500 giáo dân bị giết. Suốt hai năm ròng gần như quanh tôi lúc nào cũng có người chết và hấp hối…”[3].
Cảng thị Hội An nơi trước đây là một thương cảng sấm uất với “hàng trăm thuyền bè từ các của biển Trung Hoa và Nhật Bản đến mua đường, quế hồ tiêu…” nay trong mắt nhà buôn Chapman chỉ là một cảng thị điêu tàn[4], mà đến 10 năm sau chưa phục hồi lại được[5]. Linh mục Labartette miêu tả ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) không còn một con heo, gà, vịt, đường cát trước kia sản xuất rất nhiều nay biến mất, tiền mất giá một quan còn giá trị độ một đồng, tình trạng đói khổ ăn xin xuất hiện phổ biến trong xứ, tình trạng này còn ảnh hưởng đến cả các dòng họ tôn thất và quan quyền của triều Nguyễn trước đây[6].
Tình trạng diễn ra ở Quảng Nam không phải là cá biệt, trước đó khi chiếm Quy Nhơn năm 1773, và sau này là Quảng Ngãi quân Tây Sơn cũng nhiều lần đốt phá dinh cơ[7]. Nhưng tình cảnh ở Quảng Nam có vẻ thê thảm hơn hay chúng ta không có nhiều tư liệu cho thấy tình cảnh này ở các nơi khác? Không chỉ có các tài liệu phương Tây, hệ quả mà quân Tây Sơn gây ra đã khiến cho dân xứ Quảng Nam, như Lê Qúy Đôn ghi nhận: “…quá đỗi đói khổ cùng khốn, họ chỉ ngóng trong quân nhà vua đến giải cứu cho họ…”[8]. Nhìn vào hiện tượng này, ta thấy dường như những động cơ tiến bộ của một cuộc khởi nghĩa nông dân đã bị các hành động thái quá làm biến dạng phần nào!
…đến Cù Lao Phố, Gia Định
Từ năm 1776, sau khi tạm hòa với Trịnh ở mặt Bắc, Tây Sơn bắt đầu những cuộc truy đuổi tàn dư chúa Nguyễn ở phía Nam. Ngay trong lần đầu hành quân ấy, dù không lấy được Gia Định, nhưng quân tướng nhà Tây Sơn dưới quyền của Nguyễn Lữ, như cách nói của sử quan triều Nguyễn, đã kịp vơ vét thóc lúa chở trên hai trăm thuyền về Quy Nhơn[9]. Kể từ đó, cứ hằng năm quân Tây Sơn lại đánh chiếm Gia Định, quân Nguyễn vừa chống vừa lui, hễ đại quân Tây Sơn rút về Quy Nhơn, quân Nguyễn lại đến tái chiếm, dẫn đến thế trận giằng co liên tục. Từ đây lịch sử sẽ ghi nhận chiến công của Tây Sơn trong công cuộc đánh bại chúa Nguyễn và quân xâm lược Xiêm La (1784), nhưng cũng sẽ ghi nhận cuộc tàn phá và giết chóc tàn bạo nhất của phong trào này.
Những tài liệu cho đến nay vẫn còn ghi nhận về một cuộc thảm sát chưa từng có, của quân Tây Sơn đối với các cư dân người Hoa ở Gia Định, mà nhất là Cù Lao Phố vào năm 1782. Các sử liệu của nhà Nguyễn ghi nhận, tháng 3 năm ấy, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vào đánh chiếm Gia Định, một viên tướng của Tây Sơn là Phạm Ngạn bị quân Hòa Nghĩa (gồm phần đông người Hoa theo Nguyễn Ánh) do tướng Trần Công Chương cầm đầu giết ở cầu Tham Lương. Đáp lại, Nguyễn Nhạc ra lệnh bắt người Hoa ở Gia Định không kể quân hay dân đều giết hết, xác quăng xuống sông, thây chắt ngổn ngang đến nổi nước không chảy nổi, hơn một tháng người dân không dám ăn cá, tôm và uống nước sông[10].
Những cảnh tượng “kinh khủng” được miêu tả ở trên phần nhiều là do sự phóng đại của sử quan triều Nguyễn vốn chẳng ưa gì nhà Tây Sơn, con số “hơn vạn người” mà họ đưa ra cũng có thể phần nhiều chỉ là “thổi phồng”. Thế nhưng, bức thư của Linh mục Andre Tôn (1-7-1784) lại ghi nhận số người chết trong các cuộc tấn công của nhà Tây Sơn là khoảng từ 10000 – 11000 người, trong đó phần lớn là người Hoa[11]. Ngược lại, Linh mục Castuera, người đã có mặt ở Chợ Quán ngày 7/7/ 1782, ghi nhận chỉ có 4000 người Hoa bị giết[12]. Vì thế cho đến nay, số nạn nhân thật sự trong những cuộc thành trừng của Tây Sơn là không thể biết chính xác, nhưng một bầu không khí khủng bố đối với người Hoa ở đây là có thật, đó là lý do tại sao mà từ những năm 1778, người Hoa từ Cù Lao Phố đã bắt đầu di cư đến vùng đất Sài Gòn ngày nay và cũng kể từ sau thời kỳ bị Tây Sơn chiếm đóng, Cù Lao Phố hay Nông Nại Đại Phố, một thời thịnh đạt“trên bến dưới thuyền” trở nên hoang tàn[13].
Nguyên nhân dẫn đến cuộc thảm sát năm 1782 là gì? Tại sao Nguyễn Nhạc lại đưa ra quyết định trừng phạt người Hoa một cách tàn bạo như vậy? Đó là những câu hỏi lịch sử cần được giải đáp. Trong học giới, hầu hết các học giả như Tạ Chí Đại Trường, Fujiwara Riichiro, Huỳnh Minh và Choi Byung Wook xem việc người Hoa ở Gia Định ủng hộ Nguyễn Ánh trong cuộc chiến chống lại Tây Sơn là lý do chính để gây ra cuộc thảm sát[14]. Tuy nhiên, nguyên nhân của thái độ ác cảm của các thủ lĩnh Tây Sơn hay cuộc thảm sát năm 1782 lại bắt đầu từ một nguyên nhân xâu xa hơn nằm ngoài phạm vi Gia Định, là hệ quả của một chuỗi các sự kiện trước đó.
Người Hoa, ngay từ những ngày đầu xuất hiện trong hàng ngũ Tây Sơn, mà quan trọng nhất là nhóm người Hoa ở Quy Nhơn, tập hợp lại thành Hòa Nghĩa quân do Tập Đình và Lý Tài đứng đầu. Trong lúc quân Tây Sơn đánh chiếm Quảng Nam, họ gặp một nhóm người Hoa nữa chính là những khách buôn giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động mậu dịch ở Hội An. Cũng như nhóm người Hoa ở Gia Định, nhóm người Hoa ở đây lại ủng hộ họ Nguyễn, năm 1775, khi Tôn Thất Quyền, Tôn Thất Xuân nổi dậy chống lại Tây Sơn ở Quảng Nam, một thương nhân người Hoa đã đem tiền bạc giúp sức, nhờ vậy mà quân nổi dậy cầm cự một thời gian[15]. Việc Tây Sơn tàn phá Hội An có thể bắt nguồn từ đây chăng?
Cũng trong năm này, Tập Đình bị cách chức, Lý Tài cũng ngã về hàng ngũ chúa Nguyễn[16]. Sự phản bội của Lý Tài làm Tây Sơn mất đi một lực lượng quan trọng, không khỏi gây ra sự hậm hực của Nguyễn Nhạc, từ đây ác cảm của ông với người Hoa càng sâu đậm. Sau này, người Hoa Gia Định lại càng là nguồn hỗ trợ đắc lực cho Nguyễn Ánh ớ phía Nam, và là lực lượng hăng hái nhất trong cuộc đối đầu với Tây Sơn. Đó là lý do tại sao ngay từ năm 1776, quân Tây Sơn khi mới vào Gia Định đã đánh đuổi, cướp phá của người Hoa, cho đến năm 1782, nhân cái chết của một vị tướng thân thuộc – Phạm Ngạn – Nguyễn Nhạc đã quyết tiêu diệt người Hoa, trước là để trả thù riêng, sau là muốn diệt trừ một lực lượng quan trọng đóng góp trong sự nghiệp trung hưng nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh lúc bấy giờ.
Tạm kết
Bài viết này vừa điểm lại một phần lẫn khuất phía sau hào quang của Tây Sơn, như một phong trào cách mạng, tạo nên những chuyển biến sâu sắc trong lịch sử nước nhà trong suốt thời kỳ hậu bán thế kỷ XVIII. Trong đó, chúng tôi chú ý đến những góc khuất lịch sử vẫn còn nhiều bí ấn, bài viết chỉ là một nghiên cứu ngắn về nhà Tây Sơn, những chi tiết này chỉ là một “gam màu” tối trong lịch sử của phong trào Tây Sơn. Những góc khuất này không thể che lắp và phủ định được vài trò lịch sử của Tây Sơn, nhưng tự bản thân nó giúp chúng ta nhận chân hơn lịch sử, nhìn lịch sử bằng cái nhìn tương đối và tuyệt đối không huyền thoại hóa lịch sử.
(Bài đã đăng trên tạp chí Xưa và Nay số tháng 7/2016, lần này có chỉnh sửa và bổ sung)
Tài liệu tham khảo
Choi Byung Wook, Vùng đất Nam Bộ dưới thời Minh Mạng, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2011, tr. 65 – 69.  
Huỳnh Minh, Gia Định Xưa và Nay, Saigon, 1973.
Fujiwara Riichiro, “Vietnamese Dynasties Policies Toward Chinese Immigrants”, Acta Asiatica 18 (1970).
Garnier. F, “Cholen”,Annuaire de la Cochinchina Francasie, Imprimerie Impériale, Saigon, 1865.
Lorenzo Pérez. P, “La Révolte et la guerre des Tayson d’après les Franciscains Espagnols de Cochinchine”, Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, XII, no.3-4 (1940).
Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, tập 1, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản, Saigon, 1972.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2006.
Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771 – 1802), Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2012.
Trần Văn Giàu (Chủ biên), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Thư của các giáo sĩ thừa sai, Nguyễn Minh Hoàng dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2013.
Trần Quốc Vượng, “Mấy vấn đề về vua Gia Long”, Tạp chí Xưa và Nay, số 448, tháng 6, 2014, tr. 26 – 29 và số 450, tháng 10, 2014.    
 Chú thích:
[1]Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771 – 1802), Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2012.
[2]Trần Quốc Vượng, “Mấy vấn đề về vua Gia Long”, Tạp chí Xưa và Nay, số 448, tháng 6, 2014, tr. 26 – 29 và số 450, tháng 10, 2014, tr. 14 – 18. 
[3]Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Thư của các giáo sĩ thừa sai, Nguyễn Minh Hoàng dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2013, tr. 232 – 233.
[4]Dẫn theo Tạ Chí Đại Trường, sđd, tr. 58.
[5] Trần Quốc Vượng, “Mấy vấn đề về vua Gia Long”, Tạp chí Xưa và Nay,số 450, tháng 10, 2014, tr. 16.
[6] Dẫn theo Tạ Chí Đại Trường, sđd, tr. 64 – 65.
[7]P. Lorenzo Pérez, “La Révolte et la guerre des Tayson d’après les Franciscains Espagnols de Cochinchine”,Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, XII, no.3-4 (1940), pp. 76.
[8] Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, tập 1, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản, Saigon, 1972, tr. 134.
[9] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 187; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2006, tr. 561.
[10] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, sđd, tr. 212; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện,sđd, tr. 562.
[11] Trung tâm Nghiên cứu Quốc học,sđd, tr. 392.
[12]Dẫn theo Tạ Chí Đại Trường, sđd, tr. 101.  
[13]F. Garnier, “Cholen”, Annuaire de la Cochinchina Francasie, Imprimerie Impériale, Saigon, 1865, pp. 51; Trần Văn Giàu (Chủ biên), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr. 220.
[14] Tạ Chí Đại Trường, sđd, tr. 100 – 101; Fujiwara Riichiro, “Vietnamese Dynasties Policies Toward Chinese Immigrants”, Acta Asiatica 18 (1970), p. 60; Huỳnh Minh, Gia Định Xưa và Nay, Saigon, 1973, tr. 182; Choi Byung Wook, Vùng đất Nam Bộ dưới thời Minh Mạng, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2011, tr. 65 – 69. 
[15] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, sđd, tr. 185; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, sđd, tr. 560 – 561.
[16]Như trên.
( https://nghiencuulichsu.com).
dienbatn giới thiệu.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *