PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 11.

9/07/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 11.


PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH.

Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.
XIN Ý KIẾN : Một số bạn phản ánh để font chữ màu xanh nhìn chói mắt. dienbatn để đen trắng như bài này để kiểm tra. Thân ái. dienbatn.

PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. ( Tiếp theo bài 10 ).

1. ĐỊA HÌNH.

2. LONG MẠCH VÀ DANH NHÂN HUYỆN ĐỨC THỌ. ( Thuộc Giai đoạn 4 ).

1/PHONG THỦY XÃ ĐỨC VỊNH – ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH.

2/PHỐ CỔ PHÙ THẠCH .


Phó Giáo sư-tiến sĩ sử học Hasuda Takashi (thuộc Trung tâm Nghiên cứu xuyên Đông Á, Viện Nghiên cứu khoa học nhân văn, xã hội và giáo dục, ĐH Niigata - Nhật Bản) đã trao tặng Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh 4 văn bản cổ rất quý hiếm minh chứng cho mối quan hệ bang giao Việt Nam - Nhật Bản tại Hà Tĩnh cách ngày nay hơn bốn thế kỷ (Ảnh: Laodong.com.vn)

"Từ cuối đời Trần qua đời Lê đến đầu đời Tây Sơn, ly sở Nghệ An (Nghệ Tĩnh) đặt ở núi Lam Thành (tức Hùng Sơn), địa phận các xã Nghĩa Liệt và Triều Khẩu, nên sử sách chép nhiều tên: thành Nghệ An, thành Lam, thành Hùng Sơn, thành Nghĩa Liệt, thành Triều Khẩu, lại có tên thành Phù Thạch.Trong tờ chiếu năm 1788, Nguyễn Huệ truyền cho Nguyễn Thiếp tìm đất đặt kinh đô, có câu: “tướng địa tác đô tại Phù Thạch” (xem đất lập đô tại Phù Thạch).Thật ra, Phù Thạch thuộc đất làng Vĩnh Đại, huyện La Sơn (nay là xã Đức Vịnh, huyện Đức Thọ) ở bờ Nam sông Lam, đối ngạn chợ Tràng, xã Triều Khẩu (nay thuộc huyện Hưng Nguyên, Tỉnh Nghệ An), ở bờ Bắc. Mé sông có tảng đá lớn lúc thủy triều xuống thì nổi lên mặt nước, nên có tên Phù Thạch (Đá Nổi). Gần gành đá là vực, một trong ba nơi nước sâu nhất sông Lam, thời trước.

Đá đâu lấp ló giữa dòng,

Như bay hoa sóng, như chồng gương nga.

(Nguyễn Huy Hổ - Mai đình mộng ký) .

Sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch (1757-1827) chép: “ Trước, đất mé sông Lam rất rộng, sông La ở La Sơn, sông Minh Lương ở Thiên Lộc chảy vào chỗ ấy. Chỗ sông Minh chảy vào có đá nổi, bên đông đã có đò, gọi là bến đò Phù Thạch. Trên bến đò có phố buồn của Khách trú. Nhà cửa san sát, thuyền mành tấp nập. Tên phố là Phù Thạch phố..”.

Sách Đại Nam nhất thống chí cũng chép: “.. Đến đây có sông Phù Thạch, phía đông có bến đò là chỗ cư trú của khách buôn phương Bắc, nhà cửa, thuyền bè tấp nập, gọi là phố Phù Thạch...”.

Theo tài liệu khảo sát của PGS Trần Bá Chí (Khảo tả về phố cổ Phù Thạch, bản in rộnêộ) thì giữa thế kỷ XVII, xã Vĩnh Đại cắt ra phần đất sát bờ sông Lam “thượng tự bến Trùm, hạ chí Ấn Quang tự” (trên từ bến Trùm, dưới đến chùa Ấn Quang, tức chùa Gành) bán cho kiều dân người Hoa gốc Quảng Đông, Phúc Kiến. Họ không chịu sống dưới chính quyền Mãn Thanh, nên chạy sang Việt Nam lập nghiệp, đến đây tạo đất dựng lên làng Minh Hương.

Lúc thịnh nhất, làng Minh Hương có khoảng một trăm hộ thuộc 12 dòng họ Quan, Quách, Đàm, Thái, Lý, Ngô, Mạnh,

(1) Dải đá ngầm từ núi Hồng Lĩnh kéo lên, qua xã Ngũ Khố (sau là Ngũ Lộc) đến Vĩnh Đại thì nổi lên giữa sông nên gọi “Phù Thạch” - đá nổi.
Trần, Trương, Hồng, Lương. Đến sớm nhất là người các họ Thái, Quan, Quách, Đàm, Lâm vào khoảng đầu đời Thanh (sau 1622).

Người Minh Hương lập phố xá buôn bán và sản xuất hàng miến, bánh, gia vị cung cấp cho dân trong vùng...

Trước khi có làng Minh Hương, từ thế kỷ XIII, XIV, đời Trần, Phù Thạch đã là thắng địa, có tiếng ở xứ Nghệ. Bài thơ Qua đò Phù Thạch, Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) mô tả (Thanh Minh dịch):

Triều lên triều xuống dòng xuôi ngược,

Mây hợp mây tan núi nổi chìm.

Nốc cá thấp nhoi làn sóng tỏa,

Chùa sư thấp thoáng bức độ in...”

- Chùa sư ở đây là chùa Gành Ân Quang tự, một thiền viện lớn ở châu Hoan, dựng từ đời Trần bên gánh Phù Thạch.

Cuối đời Lê, đầu đời Nguyễn, phố Phù Thạch càng phát triển mạnh mẽ, thành nơi đô hội, thu hút khách thương, khách du. Năm 1777, Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744-1818) vào làm Đốc đồng Nghệ An qua đây đã viết (TKĐ dịch):

Lô nhô phố Khách hương trà thoảng,

Thấp thoáng nhà chùa bóng trúc che.

Vào dịp rằm tháng giêng năm Kỷ Tỵ (1809), Nguyễn Huy Hổ (1783-1841), nhân nghỉ lại phố Phù Thạch, xem hội đèn, đã viết lại trong Mai đình mộng ký cảnh đêm trăng, và xác nhận:

Phồn hoa nổi tiếng thị thành,

Này Phù Thạch phố là danh lịch triều.

Trên phố, dưới sông, bến Phù Thạch luôn tấp nập, tàu thuyền ra vào buôn bán. Nhiều thuyền buôn nước ngoài cũng tới đây đổ hàng, cất hàng. Tương truyền, một chiếc tàu Nhật Bản bị bão lật đắm ở vũng tàu gần ghềnh đá.

Đối diện Phù Thạch, ở bờ Bắc, theo một tài liệu tiếng Nhật (TBC dịch và dẫn trong bài khảo sát) thì từ năm 1608, Hoa Viên, Phục Lễ (Triều Khẩu) có phố người Nhật, có chợ Tràng buôn bán đủ mặt hàng xứ Nghệ và của cả Đàng Ngoài, Đàng Trong, của nước ngoài (thuốc bắc, lụa, gấm Tàu, bút mực sách Tàu, cúc mã não, chè Ô long, sâm Cao Ly).

Chợ Tràng tháng hâm bảy nhiên,

Ai đi bộ cứ bước, ai đi thuyền cứ đi.

(Ca dao)

Ngoài ngôi chùa Gành – Ấn Quang tự, ở Phù Thạch còn hai ngôi đền do người Minh Hương xây dựng từ lúc mới lập làng, dựng phố. Đó là đền Nhà Ông thờ Quan Vân Trường, dựng năm Bính dần niên hiệu Chính Hòa đời Lê Hy Tông (1686) và đền Nhà Bà thờ Thiên Hậu thánh mẫu, hải thần họ Lâm, người Phúc Kiến, được phong thần từ đời Tống, và quý phi nhà Tống họ Dương.

Người Minh Hương còn đóng góp cùng người sở tại sửa sang ngôi chùa cổ Ấn Quang ngày càng to đẹp.

Khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ ra Bắc năm 1786, đến trấn lỵ Lam Thành, người Minh Hương đã cung tiến nhiều tiền bạc giúp quân lương.

Từ năm Gia Long thứ ba (1804), trấn lỵ Nghệ An chính thức dời ra Vĩnh Yên (Vinh). Đời Minh Mệnh, Hoa kiều ở Phù Thạch được lệnh chuyển ra tỉnh Nghệ. Người các họ Quan, Quách, Đàm chuyển hết ra đợt đầu, dựng đền Quan Thánh ở phía Nam thành vào năm Đinh Dậu (1837). Người chín họ khác thì một phần chuyển ra tỉnh Nghệ (Vinh), khoảng một nửa vẫn ở lại Phù Thạch tiếp tục buôn bán, làm bánh, làm miến... hoặc chuyển nghề khác. Có những gia đình trở thành giàu có như Thái Trọng Thân, Ngô Cần... Triện làng Minh Hương đến năm 1937 vẫn còn, nhưng số dân chỉ còn vài ba chục hộ, hòa nhập vào làng Vĩnh Đại...

Vào đầu thập kỷ thứ hai của Thế kỷ XX, dưới thời thuộc Pháp, đường thuộc địa số 8 Vinh Na-pê (Lào) đi qua Chợ Tràng sang Phù Thạch, Vĩnh Đại lên Yên Hồ, Linh Cảm, phố Phù Thạch tuy không được như xưa, vẫn trên quan dưới thuyền vui vẻ. Nhưng hơn nửa Thế kỷ nay, đoạn đường này bị bãi bỏ. Vĩnh Đại - Phù Thạch không còn nằm trên trục đường giao thông quan trọng, trở thành vùng nông thôn hẻo lánh.

Qua hai cuộc kháng chiến, ngôi chùa Gành cổ kính cùng hai ngôi đền Quán Thánh và Thiên Hậu của người Hoa đều bị tàn phá, rồi bị dỡ đi. Hiện nay, đoạn sông Lam qua đây đã bị lấp. Trước bến Phù Thạch xưa, chỉ còn một con lạch nhỏ, bên kia là bãi cát bồi, cây cối xanh tốt. Bờ sông Lam đã chuyển ra phía ngoài bãi, cách bến cũ hàng nửa cây số. Dấu vết còn lại là những mỏm “đá nổi”, nền chùa Gành, và mé Bắc bên kia con sông nhỏ là “ụ tàu”, tương truyền là nơi chiếc tàu buôn nước ngoài chìm, bị lấp ở đây. Còn từ nền đền Thiên Hậu trở lên Bến Trùm – “Phố cổ”, thì nay là xóm cư dân đông đúc, cửa làng Vĩnh Đại cũ (xã Đức Vĩnh).

Nhưng “Phố cổ Phù Thạch” – một đô thị ven sông Lam xuất hiện đồng thời với Đà Nẵng - từng có một lịch sử ngót 150 năm, thì vẫn không phai mờ trong ký ức của nhân dân và được ghi chép trong sử sách." ( Theo cuốn Hà Tĩnh đất văn vật Hồng Lam - Thái Kim Đỉnh ).

Phù Thạch thuộc đất làng Vĩnh Đại, huyện La Sơn (nay là xã Đức Vịnh, Đức Thọ), ở bờ Nam sông Lam, đối diện với chợ Tràng, xã Triều Khẩu, phía dưới Lam Thành (nay thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An ở bờ Bắc). Mé sông có tảng đá lớn, lúc thủy triều xuống thì nổi lên mặt nước nên có tên Phù Thạch.

Sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch (1757-1828) chép: “Chỗ sông Minh chảy vào có đá nổi, bên đông đá có đò, gọi là bến đò Phù Thạch. Trên bến đò có phố buôn của khách trú. Nhà cửa san sát, thuyền bè tấp nập”. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng chép: “Đến đây có sông Phù Thạch, phía Đông có bến đò là chỗ cư trú của khách buôn phương Bắc, nhà cửa, thuyền bè tấp nập gọi là phố Phù Thạch”.

Thế kỷ thứ XIII, XIV, đời Trần, Phù Thạch đã là một thắng địa có tiếng ở Xứ Nghệ. Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn miêu tả trong bài thơ: Qua đò Phù Thạch: “Triều lên triều xuống dòng xuôi ngược,

Mây hợp, mây tan núi nổi chìm.

Nốc cá nhấp nhoi làn sóng tỏa,

Chùa sư thấp tháng bức đồ in”. 

Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) thì viết, trong Mai đình mộng ký: 

Phồn hoa nổi tiếng thị thành,

Nay Phù Thạch phố là danh lịch triều”.

Trên phố, dưới sông, bến Phù Thạch luôn tấp nập tàu thuyền ra vào buôn bán. Nhiều thuyền buôn nước ngoài theo con đường tơ lụa tới đây đổ hàng, cất hàng. Ở Hoa Viên, Phục Lễ (Triều Khẩu) có phố người Nhật, có chợ Tràng buôn bán đủ các mặt hàng Xứ Nghệ, của Đàng Trong, Đàng Ngoài, của nước ngoài như thuốc bắc, lụa, gấm tàu, bút mực, sách tàu, cúc mã não, chè ô long, sâm cao ly, gốm Itxlam, Ấn Độ, Trung Quốc.

Từ năm Gia Long thứ 3 (1804), trấn lỵ Nghệ An chính thức dời ra Vĩnh Yên (Vinh), người Hoa chuyển ra tỉnh Nghệ. Tiếp đó, bờ sông Lam bị xói lở, một phần đất phố Khách bị đổ xuống sông. Những ngôi chùa “thấp thoáng, bóng trúc che (thơ - Bùi Huy Bích) cũng không còn. Thương cảng Cửa Hội và phố Phù Thạch có lịch sử 150 năm chỉ còn trong ký ức của nhiều người. Nó là bóng dáng một thời vàng son của thương nghiệp giao lưu quốc tế trên đất Hà Tĩnh hàng trăm năm trước." Đức Ban).


dienbatn với nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Minh Nguyệt.

3/MỘT VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ  CHÙA GHỀNH.


"Chùa Ân Quang (gọi là chùa Ghềnh) là một thiền viện lớn, được xây dựng đầu Thể kỷ XIII, đời nhà Trần, ở mé ghềnh đá nổi - phố Phù Thạch, ở bờ Nam sông Lam, nên thường gọi là chùa Ghềnh. Vùng này từ đời nhà Lê là làng Vĩnh Đại, huyện La Sơn đối diện xã Triều Khẩu, bờ Bắc Nghệ An. Đặc biệt Chùa có 4 lư hương bằng đá thạch, chạm trổ tinh xảo, trong chùa có 55 pho tượng và có 14 bộ kinh phật…

Từ đời Trần, chùa Ân Quang (chùa Ghềnh) đã là một danh lam xứ Nghệ, được cả nước biết đến. Du khách thường qua lại, viếng thăm và nhiều tao nhân mộ khách đã để lại nhiều tác phẩm thơ ca nổi tiếng như nhà thờ Phạm Ngộ (nguyên tên Chúc Kiên, người Hương Kính Chủ, nay thuộc Hải Dương)làm quan dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329), trong bài thơ làm khi ngồi thuyền đi chơi Phù Thạch cho biết tiên tổ của ông từng tu hành ở đây và lúc nhỏ ông cũng đã theo cha đến đây:

Năm nay Phù Thạch giong đò

Non sông như cũ đầu phơ bạc rồi

Còn đâu năm tháng mảng vui

Khói mây ngàn dặm chơi vơi tức lòng

Cuộc chơi duyên nợ đèo bồng

Ngày nào trở lại đường phong bụi trần

Tựa ngồi thoáng chuyện trăm năm

Cánh buồm xa vút theo tầm cánh chim

(Trích bản dịch của Thanh Minh)

 Cùng thời nhà thơ Phạm Ngộ - Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn (1289-1368) người lộ Khoái Châu (nay thuộc Hưng Yên) từng qua Phù Thạch cũng có bài thơ nhắc đến chùa Gành “Chùa sư thấp thoáng bức tranh in”.

Thời Lê Sơ, sự kiện lịch sử đất nước liên quan đến vùng đất này được sử sách, bi ký ghi chép là việc Vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua đây năm 1470-1471. Trên đoạn đường nhà Vua đi qua bến Phù Thạch, Vua có làm bài thơ Quá Phù Thạch độ (Qua bến Phù Thạch). Dưới đây là bài thứ nhất, Thái Kim Đỉnh phỏng dịch:

“Sóng lạnh, triều xô ra biển xa

Nhấp nhô gành đá, ánh dương tà.

Đầu non, mũ trắng, chùm mây vấn.

Đáy nước, the hồng, sợi ráng sa.

Lửa đã bốc theo vừng nhật đó,

Rồng còn luyến mãi vực sâu a?

Sửa văn, xếp võ, nay là lúc.

Ban bố đức âm khắp mọi nhà”.

(Trích địa chí Đức Thọ, xuất bản năm 2004- trang178)

 Đời Lê Nguyễn, phố Phù Thạch càng đông vui thì chùa Ghềnh càng nhiều người viếng. Năm 1777, Hoàng giáp Bùi Huy Bích (1744-1818) vào làm đốc đồng Nghệ An đã làm bài thơ về phố Phù Thạch, có câu:

Lô nhô phố khách hương trà ngát

Thấp thoáng nhà chùa bóng trúc che

  Và Phu Tử đất La Sơn Nguyễn Thiếp là khách quen của nhà chùa, chẳng những đi về luôn mà “Ba năm làm quan nhỏ; Mấy lần trọ chùa này”. Về sau, ông lại “Gặp ông chài già ở Phù Thạch”  và tỏ rõ vị trí của ngôi chùa:

Bên trái chùa Ân Quang là phố khách

Bên phải chùa Ân Quang là bến đò sông Lam

Đến Thế kỷ thứ XVII chùa đã được sữa chữa nhiều lần. Lần trùng tu cuối cùng vào năm Giáp Tý đời Tự Đức (năm 1864), người ta đúc thêm 1 quả chuông đồng nặng 51kg và tậu sắm thêm nhiều tự khí.

   Trên bảy Thế kỷ chùa Ân Quang (chùa Ghềnh) vẫn được bảo vệ, được tôn tạo ngày càng to lớn hơn. Nhân dân xã Đức Vĩnh nói chung, nhân dân thôn Vĩnh Đại nói riêng luôn luôn tự hào về thiền viện này:

Ai vô Hà Tĩnh coi voi,

Ai về Phù Thạch mà coi chùa Ghềnh." (St).

4/ PHONG THỦY YÊN HỒ - ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH.


Yên Hồ là một xã thuộc huyện Đức Thọ, Tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.

“Xã Yên Hồ đời Trần gọi là Bà Hồ, sang đời Lê gọi là Bình Hồ. Tên Yên Hồ có từ đời Tây Sơn khi Quang Trung lên ngôi (1789) để tránh tên húy của Người, nên đổi Bình Hồ thành Yên Hồ. Xưa xã Yên Hồ  có 9 thôn: Diên Hoà, Tiền Tiến, Trung Hậu, Quy Vượng, Tiến Lộc,, Phúc Thọ, Trung Thượng Đình, Nam Hồng và  Văn Minh.

    Xã Yên Hồ: Bắc giáp xã Đức Vịnh ngăn cách bởi con sông La ; Đông giáp các xã Đức Thuận và Trung Lương bởi con sông Minh, Nam giáp các xã Đức Nhân, Đức Thịnh, Đức Thuỷ; Tây giáp các xã Đức La, Đức Quang. Diện tích tự nhiên: 703,36 ha, có dân số: 5.250 người.

     Một thầy địa lí người Trung Quốc cho rằng Yên Hồ có thế đất Điểu linh (Con chim linh thiêng) hai cánh là hai làng Nội Diên và Yên Phúc, Diên Vượng là cái đầu đang uống nước sông La. Con sông La trong xanh vòng quanh nối với sông Minh thơ mộng, ôm hai làng Nội Diên và Yên Phúc phía trong, cùng xóm Đồng Dâu phía ngoài lại tạo nên thế chữ TÂM, đây là cái thế bền vững muôn đời.

    Đất đai do phù sa hai con sông này bồi đắp nên nông nghiệp Yên Hồ ngày càng phát triển, làng xóm trù phú, cuộc sống nhân dân ngày càng ấm no hạnh phúc. Cùng với nghề nông, Yên Hồ xưa còn là làng rèn lâu đời. Khác với làng nghề Trung Lương, thợ rèn Yên Hồ chủ yếu đi làm nghề ở các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Nam Đàn, Yên Thành và một số địa phương khác. Yên Hồ nổi tiếng về nghề dệt vải, trồng dâu, nuôi tằm. Do nghề nghiệp, con gái Yên Hồ rất đẹp. Những câu “Muốn ăn xôi nếp độ chà - Muốn xem gái đẹp thì ra Yên Hồ”, hoặc “ Trai Đông Thái, gái Yên Hồ”. Nhiều câu chuyện còn lưu truyền nói về sự đoan trang, chung thuỷ, đảm đang của các cô gái Yên Hồ.

      Ngoài tuyến đường sông La, sông Minh Giang, ngày trước, Yên Hồ nằm trên trục đường số 8 (quốc lộ 8 A) - Con đường từ Phù Thạch - Vịnh Đại lên Ngã tư Trổ, nay là tỉnh lộ 19. Đê La Giang, đường 8A, tỉnh lộ 19 hiện được dự án nâng cấp của nhà nước đang thi công.

Yên Hồ là đất học.

   Từ Thế kỷ XIV đã có Đào Tiêu đậu Trạng nguyên năm Ất Hợi (1275) đời Trần Thánh Tông. Ông là người khai khoa cho đất Nam Châu Hoan suốt 200 năm vắng bóng người đậu đại khoa kể từ khoa thi Tam trường đầu tiên dưới triều vua Lý Nhân Tông ( 1075). Đoàn Xuân Lôi đậu Khôi nguyên năm Giáp Tý (1384), đời Trần Phế Đế. Tiếp đến có Nguyễn Biểu đậu Thái học sinh vào cuối thế kỷ XIV.( Nhà thờ đã được công nhận Di tích lịch sử Quốc gia 2001) Thời Lê - Nguyễn, Yên Hồ lại có nhiều người đậu đại khoa Tiến sỹ như Nguyễn Tắc Trung ( ? ) Phạm Nại (1427- ?), Tiến sỹ Nguyễn Phong (1559-?);  Tiến sỹ Lê Đắc Toàn (1621- ?).

   Thời tân học, Yên Hồ cũng có nhiều người đi học sớm và nhiều người thành đạt, trong đó có các giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908- 1996), Hoàng Xuân Nhị (1914- 1990), Hoàng Xuân Chinh, Võ Quý, Trần Văn Bính, Trần Đức Thiệp, Trần Đức Lịch, Nguyễn Văn Đính, Hoàng Quốc Kỷ, Võ Thanh Sơn…là những trí thức tiêu biểu.

  Thế hệ đây con em trẻ Yên Hồ cũng nối tiếp được truyền thống của các thế hệ cha anh đi trước. Lãnh đạo trường ĐH Hà Tĩnh cả HT và PHTđều là con em Yên Hồ. Trong 12 Bí thư Huyện uỷ của Hà Tĩnh hiện nay có 2 con em quê Yên Hồ. Có nhiều em thi đại học 29 điểm trở lên như Trần Quốc Minh, Lương Xuân Tiến. Em Nguyễn Thành Lợi liên tục đạt giải nhất môn toán 10,11 cấp Tỉnh. Em Trần Đức Khôi đạt giải toán qua mạng cấp Quốc gia và là thủ khoa vào năng khiếu Tỉnh. Em Trần Minh Đức Huy chượng vàng giải toán bằng máy tính miền Trung; Em Trần Như ý huy chương vàng cờ vua mở rộng miền Trung tại Thừa Thiên Huế ( 2011). Em Bùi Thanh Phong giải Nhất sinh viên thanh lịch ĐH khoa học tự nhiên. Em Võ Quang Phát ( ĐH điện lực) giải nhất Rung chuông vàng chung kết Sinh viên toàn Quốc...

    Yên Hồ là xã thanh toán nạn mù chữ sớm và các ngành học, cấp học đều phát triển. Năm 1949, trường Trung học Liên Việt mở tại Yên Hồ, sau này trường cấp 2 Yên Hồ, THCS Nguyễn Biểu. Toàn xã Yên Hồ hiện có trên 70 Giáo sư, phó Giáo sư, Tiến sỹ, Thạc sỹ; nhiều nhiều người là nhà lãnh đạo, doanh nhân, nhà khoa học có tên tuổi. Trường THCS Nguyễn Biểu vừa kỉ niệm 60 năm ngày thành lập (1949-2009) và đón nhận Huân chương lao động hạng Ba của Chủ tịch nước.

 Yên Hồ đất lành chim đậu.

    Một thời Bình Hồ ( 1409-1413) là Thủ đô kháng chiến thời Hậu Trần, phủ lị Đức Thọ (1865) đóng tại đây. Những năm 1949 cơ quan cấp tỉnh trú tại đây một thời gian.Rồi trường Liên Việt Hà Tĩnh ra đời (1949) trong chiến tranh các đơn vị bộ đội, kho vũ khí, hậu cần, trạm trung chuyển, kho nông sản, đơn vị xăng dầu đều đóng nơi đây. Đại hội điểm Yên Hồ là 1 trong 11 xã được TW chọn tổ chức đại hội trên toàn quốc. Yên Hồ cũng là 1/5 xã được chỉ định xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 của Huyện Đức Thọ.

    Gia đình Tổng bí thư Lê Duẩn chọn Yên Hồ là chổ thông gia, nguyên Tổng thanh tra Nguyễn Kì Cẩm và nhiều nhà khoa học, trí thức chọn đất Yên Hồ làm con rể.

   Nhiều người con quê hương Yên Hồ qua bao năm công tác xa quê nay thiết tha muốn về quê để an dưỡng những ngày cuối đời, để sống với biết bao kỉ niệm một thời.

Nhà thờ Nguyễn Biểu đã được công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia 1991.

( Hiện đã được đại trùng tu sắp khánh thành với kinh phí 7,6 tỉ VND).

Nhà thờ Đào Tiêu đã được công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh 2007.

Nhà thờ họ Hoàng Xuân đã được công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh 2011.

Nhà thờ Tiến sỹ Phạm Nại được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh 2011.

Nhà thờ TS Lê Đắc Toàn được công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh 2010.

 Yên Hồ là vùng đất lịch sử.

    Yên Hồ từng là nơi vua Trùng Quang lên ngôi xây dựng căn cứ Bình Hồ để chống giặc Minh xâm lược, tính đến nay là 600 năm (1409-2009). Ngoài đền, chùa ở đây còn có nhiều dấu tích về cuộc kháng chiến của Vua Trùng Quang đời Hậu Trần với luỹ đất, các dấu tích địa danh như: Làng Dài, Cồn Án, Bến Xưỏng, Cồn Kho, Dăm Đồng Ràng, dăm Sát, ghi dấu một thời bi hùng  của dân tộc. Các nhà khoa học cần tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu về một thời nơi đây chính là Thủ đô kháng chiến của thời Hậu Trần.

    Các tên gọi, di chỉ như: Đăm Đục, Cồn Trong; Dăm Lành, Dăm Ác; Dăm Bút, Đài Nghiên, cùng với sự tích Ruộng tiền đò … là biểu tượng cho tinh thần hiếu học và sống có nghĩa tình của người dân Yên Hồ.

( Trần Quốc Thường - biên soạn) @yenhoductho

Xưa kia, làng Yên Hồ nổi tiếng trong tổng, trong huyện với 2 biểu tượng Dăm Bút và Dăm Nghiên. Mặc dù ngày nay không còn nữa nhưng theo sử sách chép lại thì Dăm Bút dài 90m, hai đầu nhọn hình bút lông, ở giữa phình ra rộng 6m, phía trước Dăm Bút là Dăm Nghiên hình lòng chảo, mỗi khi trời mưa, nước đọng ở giữa, trông như cái nghiên mực. Đây chính là biểu tượng cho tinh thần hiếu học của người dân Yên Hồ, nơi học hành, thi cử đỗ đạt bậc nhất châu Hoan xưa.

Kể từ đời nhà Trần, việc học hành ở La Sơn bắt đầu khởi sắc, Yên Hồ với truyền thống học hành cũng có nhiều người đỗ đạt. Đời Trần Thánh Tông có Đào Tiêu đậu Trạng nguyên năm Ất Hợi (1275), đời Trần Phế Đế có Đoàn Xuân Lôi đậu Khôi nguyên năm Giáp Tý (1384). Tiếp đến có Nguyễn Biểu đậu Thái học sinh vào cuối Thế kỷ XIV. Thời Lê - Nguyễn, Yên Hồ lại có nhiều người đậu đại khoa Tiến sỹ như Nguyễn Tắc Trung, Phạm Nại, Tiến sỹ Nguyễn Phong, Nguyễn Doãn Huy, Lê Đắc Toàn… Thời tân học, Yên Hồ cũng có nhiều người đi học sớm và nhiều người thành đạt, trong đó, có các giáo sư: Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), Hoàng Xuân Nhị (1914-1990), Hoàng Xuân Chinh, Võ Quý, Trần Văn Bính, Trần Đức Thiệp, Trần Đức Lịch, Nguyễn Văn Đính, Hoàng Quốc Kỷ, Võ Thanh Sơn… là những trí thức tiêu biểu. Thế hệ trẻ Yên Hồ cũng tiếp nối truyền thống cha anh đi trước với những thành tích đáng nể: trên 80 giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ... qua các thời kỳ.

Làm rạng danh quê hương Yên Hồ nhất trong lịch sử phải kể đến Nghĩa vương Nguyễn Biểu. Nguyễn Biểu quê ở làng Bình Hồ, đỗ Thái học sinh (Tiến sỹ) thời Trần, phò vua Trần Trùng Quang chống giặc Minh, từng làm quan Điện tiền Thái Sử (Ngự sử ). Ông là người cương trực, gặp việc không ngại can gián. Trong tình thế đất nước nguy cấp, vì việc nước, ông lĩnh mệnh vua đi sứ sang đại bản doanh của quân Minh do Trương Phụ chỉ huy để thực hiện kế cầu phong. Biết vào nơi hang hùm, nọc rắn, đi dễ khó về, nhưng ông không từ nan.

Để uy hiếp ông, Tướng Trương Phụ bày “bữa tiệc đầu người” nhưng ông không hề run sợ mà bình tĩnh ngồi vào bàn móc đôi mắt ăn. Thu phục không được, chúng bèn ra tay sát hại ông. Sau khi ông mất, nhà sư chùa Yên Quốc có làm bài cầu siêu, vua Trần Trùng Quang làm bài văn dụ để tỏ lòng thương tiếc người sứ thần anh dũng không làm nhục quân mệnh và biết làm rạng danh Quốc thể. Nhân dân lập miếu thờ, suy tôn ông là Nghĩa vương. Các triều đại sau cũng đều truy phong ông làm Phúc Thần. Vua Lê Thái Tổ sau khi chiến thắng quân Minh đã cho lập đền thờ ông ở Nội Diên, phong là Nghĩa Liệt Hiển ứng Uy linh Trợ thuận đại vương (tức Nghĩa sỹ Đại Vương). Năm 2001, đền được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2011, được đầu tư 7,5 tỷ đồng trùng tu, tôn tạo nhiều hạng mục, công trình. Đến nay, đền thờ Nguyễn Biểu là một công trình kiến trúc độc đáo của xã Yên Hồ và cứ đến ngày 1/7 âm lịch hàng năm, chính quyền, ngành văn hóa, dòng tộc và nhân dân làm lễ tưởng niệm, rước kiệu.( Anh Hoài).

Đền thờ Nguyễn Biểu - công trình kiến trúc độc đáo tưởng nhớ công ơn người anh hùng cứu nước, một trong những địa chỉ giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.

Tại đây có một dòng họ nổi danh nhiều đời. Đó là họ Hoàng tại Bình Lỗ.

5/ HỌ HOÀNG BÌNH LỖ - YÊN HỒ - ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH.

" Bình Lỗ là tên đời Lê của đơn vị cư dân - hành chính Ba Lỗ đời Trần, tục gọi Kẻ Trổ (Blỗ), kề với Bà Hồ - Bình Hồ, phía Đông Bắc huyện Chi La La Giang - La Sơn Phủ Đức Giang. Đời Nguyễn, Bình Lỗ chia làm hai thôn Yên Thọ, Nhân Thọ; Bình Lỗ đổi thành xã Yên Hồ, cũng có hai thôn, Nội Diên, Yên Phúc, đều thuộc tổng Yên Hồ, Huyện La Sơn Phủ Đức Thọ, nay là các xã Đức Nhân và Yên Hồ, Huyện Đức Thọ, Tỉnh Hà Tĩnh.

Theo “Bình Lỗ Hoàng tộc phố” (Gia phố họ Hoàng Kẻ Trổ) - “Hoàng Xuân Hãn toát yếu” (bản chép tay) thì vị tố đầu tiên Hoàng Viết Nghiêu từng dự Tú lâm cục vốn người Thanh Hoa và là con trưởng gia đình, thấy đất Kẻ Trộ thuộc Chi La có thể đẹp nên đã chuyển cư về đây vào cuối đời Trần (trước 1400).

Vị tổ đời thứ hai, không chép tên, “là người khảng khái hiếu nghĩa, mắng thẳng quân Minh, lòng muốn giữ nhà Trần” nên bị chúng giết hại. Con trai ông, tổ đời thứ ba, cũng không chép tên, phải bỏ làng chạy vào núi trốn tránh cho đến lúc quân Minh bị đánh đuổi khỏi đất nước ta. Có thể ông là lớp bày vai với nghĩa sĩ Nguyễn Biểu (?-1413) ở xã Yên Hồ. Như vậy, từ nhiều đời, họ Hoàng đã là một dòng họ thư hương.

Đời thứ tư có Hoàng Kỳ Giang, đỗ Hương cống, thi Hội vào tam trường, Hoàng Trừng, tên tự Nhất Thanh, hiệu Lỗ Hiên, tổ đời thứ năm, là cháu ngoại Thái học sinh Nguyễn Biểu. Ông học giỏi nổi tiếng văn hay, ở Thăng Long có câu truyền “Bánh dẻo như văn Hoàng Trừng”. Khoa Kỷ Mùi năm Cảnh Thống thứ 2 đời Lê Hiến Tông (1499), ông đỗ Nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp), làm quan đến Đông các, Lễ bộ Tả thị lang, rồi xin về nghỉ ở quê nhà, phụng dưỡng mẹ già. Là một người có văn tài, nhưng nay tác phẩm của ông chỉ còn hai bài thơ “Đề Nghĩa sĩ từ đường”, “Trí thức thứ thuật ý, tăng hữu nhân” chép trong sách “Hoàng Việt thi tuyển” (Hoàng giáp Bùi Huy Bích biên soạn) và “Nghĩa sĩ truyện” (Truyện Nghĩa sĩ Nguyễn Biểu), một bài văn có giá trị lịch sử cao, mà những bài viết về Nguyễn Biểu sau đó đều lấy làm tài liệu gốc.

Họ Hoàng chỉ có Hoàng Trừng đỗ đại khoa nhưng rất nhiều người đỗ Hương khoa. Ngoài Hoàng Kỳ Giang (đời thứ 4) đã nói trên, còn có Hoàng Hậu Đức (đời thứ 9) đỗ đầu thi Hương, trung tam trường thi Hội nhiều lần, làm quan phủ chúa Trịnh, “tiến kế hoạch lạ tuyệt nên được ban ơn cực hậu”. Hoàng Thủy Hạo (đời thứ 10) đỗ Tam trường thi Hội lại đỗ khoa Hoành từ. Hoàng Dư Dụ tức Hoành Dệt (đời thứ 11) cũng đỗ tam trường thi Hội rồi đỗ khoa Hoành từ, làm Tri huyện Thanh Giang (Thanh Chương, Nghệ An). Tính tình phóng khoáng, ông từ quan về ẩn tại làng Bào Khê, huyện Thiên Lộc (sau là làng Gia Hanh, nay là xã Nhân Lộc, huyện Can Lộc) mở trại ở núi Canh Sơn, “dạy học trò có trăm người, nhiều người thành tựu” (“La Sơn phu tử” - NXB Minh Tân, Paris). Ông hay chữ, “sách gì cũng đọc, thuật gì cũng hay” (SĐD). Lúc thi Hoành từ, có bài phú “Hoa điểu tranh kỳ” nổi tiếng, được lấy đỗ đầu. Lúc về ở ẩn lại có bài phú “Sơn cư tự tự” hay “Tịch cư ninh thể”. Tiếc rằng tác phẩm của ông đều thất truyền. Về sau, khoảng năm Ất Sửu (1745) La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp qua sơn trại của ông có bài thơ hoài cảm với câu kết:

“Khả liên Thành viên kinh tàn hậu,

Đa thiểu tài hoa lão cức trường”

(Thương thay, sau khi Thánh khuất, sách tàn,

Bao bậc tài hoa chết già trong đám gai gốc).

Ngoài ra còn có Hoàng Nhân Xuyên (đời thứ 10), Hoàng Viết Thụy (đời thứ 12) đỗ thi hương, và Hoàng Minh Động (đời thứ 11) thi hương vào tâm trường.

Đời Nguyễn, họ Hoàng có hai người đỗ cử nhân: “Hoàng Xuân Phong (Đời thứ 16) đỗ khoa Mậu ngọ, năm Tự Đức thứ 11 (1858) làm Tri phủ Kiến Thụy, thắng Án sát rồi Tuần phủ”.

Hoàng Xuân Viên (các sách đều phiên là Hoàng Xuân Quyên) đỗ khoa Ất Mão, năm Duy Tân thứ 9 (1915) tại trường Bình Định, lúc 22 tuổi, bổ Bát phẩm ở Nghệ An, thăng đến Bố chánh. Sau cách mạng tháng tám 1945, ông tham gia kháng chiến, được cử làm ủy viên UBHC huyện Đức Thọ, Ủy viên UBHC tỉnh Hà Tĩnh.

Bên những nhà khoa bảng, dưới triều Lê-Trịnh, họ Hoàng còn có nhiều võ tướng. Người mở đầu võ nghiệp là Hoàng Xuân Phái (đời thứ 7). Ông ứng nghĩa đầu quân, theo Nguyễn Kim phò Lê Trang Tông đánh nhà Mạc.

Con trai thứ hai ông Phái là Hoàng Thiên Phúc có tài bắn giỏi, được phong Thụ quốc thượng tướng quân. Con trai Thiện Phúc là Hoàng Hậu Đức, theo nghiệp văn, làm quan phủ chúa Trịnh, sau sang võ ban, được cử giữ chức Tổng binh thiêm sự ở ty Đô tổng binh Nghệ An.

Làm thuốc và dạy học cũng là những nghề mà họ Hoàng có nhiều người giỏi. Hoàng Nhân Xuyên, làm Huấn đạo, xin từ chức về hầu mẹ già, làm thuốc. Ông còn thích cả nghề phù thủy, âm nhạc. Nhà giáo nổi tiếng có Hoàng Dư Du, tức Hoàng Dật (đời thứ 11). Đời thứ 11 còn có Hoàng Minh Động, nhiều lần trung tam trường thi hương, chuyên làm thuốc. Con trai ông, Hoàng Viết Thụy, đỗ thi hương, ở nhà dạy học và làm thuốc, nổi tiếng trong vùng. Hoàng Tiến hiệu Khoan Nha (đời thứ 13, chi C) học nho, làm Huyện thặng (thường gọi Huyền thừa) cũng xin nghỉ và làm thuốc, Đời thứ 18 còn có Cử nhân Hoàng Xuân Viên, lúc về hưu, trở thành thầy thuốc có tiếng ở Thành phố Vinh,

Trên đây là những con người tiêu biểu của họ Hoàng từ khởi thủy đến cuối đời Hán học (TK XV - đầu TK XX).

Cuối Thế kỷ XIX và đầu Thế kỷ XX thời Hán học chỉ Yên Hồ có hai Cử nhân (Hoàng Xuân Phong, Hoàng Xuân Viên) và một tú tài (Hoàng Xuân Úc).

Từ thế hệ thứ XVIII trở xuống, chuyển sang Tây học, tân học, chi họ này càng nhiều người thành đạt, có nhiều người nổi tiếng trong, ngoài nước. Đặc biệt, phần lớn trí thức trong chi họ này đều là nhà khoa học: Về y học, hóa học có GSTS y khoa Hoàng Xuân Mãn, giám đốc chuyên môn bệnh viện nhãn khoa hàng đầu của Pháp ở Paris. Ông cũng là Chủ tịch đầu tiên của Hội Việt kiều ở Pháp (1946). Các lớp sau có nhiều giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ khác. Về văn hóa, giáo dục có: GS. Hoàng Xuân Nhị (1914-1990) tốt nghiệp Đại học Sorbonne và khoa Trung Văn, Viện ngôn ngữ và văn minh phương Đông, Paris, về nước năm 1946, làm Giám đốc Viện Văn hóa kháng chiến và Sở Giáo dục Nam bộ, Ủy viên UBKC - HC Nam bộ; sau 1954 dạy tại Trường Đại học tổng hợp Hà Nội. Ông để lại nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn về văn học cổ kim Việt Nam, lịch sử văn học Nga, Liên Xô và nhiều giáo trình văn học); PGS Hoàng Xuân Chinh (Tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội, và khoa Khảo cổ học Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc, làm Phó Viện trưởng rồi quyền Viện trưởng Viện khảo cổ học Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ học) vv... Và tiêu biểu nhất là nhà bác học, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908-1996). Du học Pháp, học ở các Trường Lớn (Grandes Ecoles), ông đỗ kỹ sự cầu cống và Thạc sĩ toán học. Năm 1936 ông về nước, dạy Toán học ở Trường Bưởi và dạy Cơ học tại Đại học khoa học Hà Nội; năm 1945 tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim, làm Bộ trưởng Giáo dục - Mỹ thuật; năm 1946 là thành viên của Chính phủ VNDCCH, tham dự hội nghị Đà Lạt. Năm 1951, ông trở sang Pháp học tiếp và lại tốt nghiệp kỹ sư năng lượng nguyên tử tại Học viện Quốc gia khoa học và kỹ thuật hạt nhân Pháp rồi định cư ở đây cho đến lúc mất. Bà Hoàng Xuân Hãn, nhũ danh Nguyễn Thị Bính, tốt nghiệp dược sĩ ở Pháp về mở hiệu thuốc ở phố Tràng Tiền, là nơi đi lại của cán bộ kháng chiến. Là Nhà giáo dục, nhà văn hóa lớn, Hoàng Xuân Hãn để lại một khối lượng công trình nghiên cứu đồ sộ, trong đó có bộ “Danh từ khoa học” (bắt đầu soạn từ khi còn học ở Pháp, xuất bản 1942), “Lý Thường Kiệt” (1949), “La Sơn phu tử” (1952), “Chinh phụ ngâm bị khảo” (1953-1955), “Lịch Đà Lịch Việt Nam”... và rất nhiều công trình khảo cứu khoa học, lịch sử, văn học khác. “Phương pháp mới dạy chữ Quốc ngữ” (lúc tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ - 1936-1939) và “Chương trình Trung học” (lúc làm Bộ trưởng GD-MT, 1945) cũng như “Danh từ khoa học”, là những sáng tạo mà lịch sử Văn hóa - Giáo dục nước nhà phải ghi nhận. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Độc lập." ( Theo cuốn Hà Tĩnh đất văn vật Hồng Lam - Thái Kim Đỉnh ).

Xin theo dõi tiếp BÀI 12. Thân ái, dienbatn.

Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 10.

9/06/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 10.


PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH.

Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.
XIN Ý KIẾN : Một số bạn phản ánh để font chữ màu xanh nhìn chói mắt. dienbatn để đen trắng như bài này để kiểm tra. Thân ái. dienbatn.

PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. ( Tiếp theo bài 9 ).

2. LONG MẠCH VÀ DANH NHÂN HUYỆN ĐỨC THỌ. ( Thuộc Giai đoạn 4 ).

1/PHONG THỦY XÃ ĐỨC VỊNH – ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH.

Tại Huyện Đức Thọ còn một khu vực khác nữa kết phát Long Huyệt với tình thể rất lớn.

Đức Vịnh, Bắc giáp xã Hưng Khánh; Đông giáp xã Xuân Lam, xã Trung Lương; Tây giáp xã Đức Quang; Nam giáp xã Yên Hồ.Đức Vịnh chia thành 3 thôn: Vịnh Đại, Vịnh Hòa, Vịnh Phúc. Diện tích tự nhiên: 380,72 ha; dân số: 1,652 người.

Là một xã cả 3 phía là sông, phần sông Lam qua Đức Vịnh dài khoảng 1.000 m, phần nhánh sông La dài 2.000 m, sông Nghè vừa là nguồn nước tứoi, vừa là nguồn lợi thủy sản.Người dân xưa nay làm nghề nông. Cây trồng chính là lúa, màu, cây trồng công nghiệp. Hiện nay, toàn xã có gần 200 con trâu, trên 3.000 con bò và nhiều lợn, gà, vịt…

Thời Hán học, việc học ở các làng xã vùng này không có gì đặc biệt. Đời Nguyễn có Phạm Đinh Điện ở Vịnh Đại đỗ cử nhân và Phạm Danh Đề đỗ tú tài.

Dưới Pháp thuộc, Đức Vịnh được coi là nơi có nhiều người học giỏi. Một số trong đó về sau trở thành nhà văn, nhà thơ có tiếng như Hà Xuân Trường, Hà Học Trạc, Nguyễn Đức Nghinh,…

Phong trào giáo dục Đức Vịnh càng phát triển mạnh từ sau tháng 8- 1945. Toàn xã đã có trên 500 người tốt nghiệp cao đẳng và đại học, trong đó có 7 người có học hàm, học vị tiến sỹ, giáo sư.

Các thôn đều có đình, đền làng như Đền Nghè, đền Lãng, đền Ông Đại, lớn nhất có đền Chiêu Trưng Vương, đền Thánh Quan và đền mẫu họ Lâm.

Đây là một khu vực ven bờ sông La ( Ở phía ngoài đê chính - Ở ngoài có một con đê phụ ) . Con sông La và một nhánh của nó ôm vòng lấy một cánh đồng rất rộng - Trong đó có khu địa Huyệt . Con sông La và nhánh của nó chảy tới đây lững lờ như quyến luyến không muốn đi . Nhánh của sông La chảy nghịch Thủy , tạo thêm sinh khí rất mạnh cho toàn khu vực . Tại khu vực này là một vùng có Long khí rất mạnh , nơi phát tích nhiều đời Vua , Quan thuộc loại Tứ trụ Triều đình . Trở lại vùng Địa Huyệt đang xét , ta nhận thấy đây là một bày Long rất lớn có dạng như một bày Quy ( Rùa ) . Cách bờ sông chừng 500 m là cả một bày Quy có dáng như vừa bò từ dưới sông lên . Tại khu vực Địa Huyệt là một con Quy rất lớn đang đẻ trứng , đầu Quy hướng về phía cung Khôn , đuôi Quy về cung Cấn . Ổ Trứng Quy nằm trong cung Quý . Toàn bộ 4 ngôi mộ Tổ dòng họ Hà được đặt trong ổ trứng này . Chỉ tiếc là tại hướng Chấn - Phía Đông có mấy lò gạch đã đào đất làm gạch rất sâu , phá mất Long mạch tại chi Thứ ( Thường là những vùng có Long mạch , đất kết thành loại đất sét rất tốt cho làm gạch ) . Do vậy Long mạch này chỉ phát được chi Trưởng , làm đến chức Tam công mà chi Thứ lại vẫn yếu hèn . Đằng trước Long Huyệt có những gò đất nổi lên hình cái Trống , cái Bảng , lá cờ. Do vậy mà con cháu những người táng tại khu vực này học rất giỏi và thành tài ở khắp nơi trong và ngoài nước. Khu vực Long Huyệt này nằm tại làng Vĩnh Đại - Xã Đức Vinh - Huyện Đức Thọ - Tỉnh HÀ TĨNH .

Đức Vịnh - Đức Thọ - Hà Tĩnh.



Mộ cụ Hà Văn Đô.






Một số ngôi mộ khác dienbatn thực hiện cùng chỗ.





 dienbatn đã tham khảo khảo sát và nghiên cứu rất kỹ hình thế ở khu vực này làm lời mời của con cháu họ Hà (Trong đó có anh Hà Thạch - Hiện là Phó Chủ tịch Tỉnh Hà Tĩnh). Lò gạch phá hủy Long mạch tại cung Chấn, làm toàn bộ các chi thứ của dòng họ không phát lên được, không thể sử dụng phương pháp Hoàn Long như bình thường. Qua khảo sát, dienbatn biết rằng, trong trang có nghĩa là có mộ của cụ Hà Văn Đô là cụ đời thứ 5 của dòng họ, chưa được xây dựng, hiện tại chỉ có một con mộ đất thấp. Những người trong họ biết tên, năm sinh, năm mất của cụ Hà Văn Đô để dienbatn làm lễ. Trong suốt 3 ngày liền làm lễ, vong hồn của cụ Đô không có chứng chỉ và biểu hiện gì cả. Tức quá , dienbatn điện về hỏi chị Mai tại Thái Bình . Qua điện thoại , chị Mai cho biết là người nhà đã cung cấp sai năm sinh , năm mất của cụ , nên cụ tự ái không về . dienbatn liền nhờ các cụ lớn tuổi trong dòng họ Hà xem lại và quả đúng như chị Mai nói , các số liệu về năm sinh của cụ Đô lần trước là không chính xác . Lần thứ tư làm lễ , thỉnh vong của cụ Đô về là cụ về liền . Lần này cụ còn hăng hái chỉ vẽ cho cách làm , kiểu dáng của mộ cụ như thế nào . Khi dienbatn ngồi tịnh trong Đàn tràng , hình thế mộ của cụ Đô thấy thật rõ nét và cứ như là một hình ảnh 3D vậy . Ngày hôm sau , cứ nguyên mẫu mộ do cụ Đô chỉ , dienbatn vẽ kiểu cho thợ làm . Kết quả là nấm mộ của cụ Hà văn Đô như hình các bạn thấy ở trên . Cũng trong lần làm mộ cụ Đô , dienbatn tiến hành lập BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN , di chuyển cung Chấn về phương vị khác . Kết quả thật khả quan , chỉ 100 ngày sau , các chi thứ đã bắt đầu có những tiến bộ đáng kể trong quan trường . Đây cũng là một kỷ niệm khó quên tại Hà Tĩnh của dienbatn .

dienbatn và anh Hà Thạch - PCT tỉnh Hà Tĩnh ) .



Một kỷ niệm với chị Mai Thái Bình và các bạn hữu trên trang Tuvilyso.



Xin theo dõi tiếp BÀI 11. dienbatn.
Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 9.

9/05/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 9.


PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH.

Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.
XIN Ý KIẾN : Một số bạn phản ánh để font chữ màu xanh nhìn chói mắt. dienbatn để đen trắng như bài này để kiểm tra. Thân ái. dienbatn.

PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. ( Tiếp theo bài 8 ).

2. LONG MẠCH VÀ DANH NHÂN HUYỆN ĐỨC THỌ. ( Thuộc Giai đoạn 4 ).

PHONG THỦY XÃ ĐỨC HÒA – ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH.



Địa bàn xã Hòa Lạc hiện nay trước đây vốn là hai Xã Đức Hòa và Đức Lạc thuộc Huyện Đức Thọ.

Trước khi sáp nhập, xã Đức Hòa có diện tích 8,44 km², dân số là 2.542 người, mật độ dân số đạt 301 người/km². Xã Đức Lạc có diện tích 7,87 km², dân số là 3.121 người, mật độ dân số đạt 397 người/km².

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của hai xã Đức Hòa và Đức Lạc thành xã Hòa Lạc.

Xã Đức Hòa thuộc vùng bán sơn địa, đất biên hoà pha đá sỏi, vùng ven sông Ngàn sâu là đất cát pha. Xã Đức Hoà Đông giáp với xã Đức Long; Tây giáp với xã Ân Phú (huyện Vũ Quang), Nam giáp với xã Đức Lạc, Bắc giáp với xã Tùng Ảnh.

Diện tích tự nhiên có 879,04 ha, trong đó đất nông nghiệp có 409,17 ha đất lâm nghịêp 102,40 ha; núi đồi 102,07 ha; ao hồ 8,6 ha. Dân số toàn xã có 3.241 người (nam 1.403, nữ 1.838). Sản phẩm chủ yếu của địa phương là lúa,lạc, đậu, vườn đồi có chè và các cây ăn quả. Xưa thợ mộc ở Phụng Công và Huệ Ốc có tay nghề khá, đã xây dựng phần lớn chùa, đền, đình trong xã. Có vài gia đình chuyên trồng dâu nuôi tằm, dệt vải lụa, là sản phẩm được mọi người ưa chuộng. Đức Hoà là vùng có nhiều vùng khoáng sản: ở khu vực Bãi Bằng có vàng non, sắt măng gan, đá ong, than bùn, cao lanh. Từ lâu,đá ong được dân địa phương khai thác xây dựng. Các mỏ than bùn, cao lanh cũng đã được khai thác bước đầu.

Một khu vực nữa của Huyện Đức Thọ cũng có nhiều Huyệt kết lớn là Xã Đức Hòa – Đức Thọ.

 Vị trí quan trọng nhất về Phong thủy tại Đức Hòa – Đức Thọ chính là nơi đặt Chùa Am.



Chùa Am có tên chữ là Diên Quang Tự, nằm trên sườn núi Am. Núi này thuộc xã Phụng Công, tổng Đồng Công trước kia, nay thuộc xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Danh thắng này cách trung tâm thành phố Hà Tĩnh 54 km; cách thành phố Vinh 42 km; cách thị xã Hồng Lĩnh 20 km. Phía Đông chùa giáp xã Đức Long, phía Tây giáp xã Ân Phú và Sơn Long, phía Nam giáp xã Đức Lạc, phía Bắc giáp xã Đức Long và Tùng Ảnh. Có lẽ, xưa kia trên núi này có một cái Am thiêng nên gọi là Am Sơn. Núi được phủ kín bởi một rừng thông, lại có rất nhiều cây cổ thụ rợp bóng mát, trải rộng ra phía sau đến chân đồi Phượng Thành.

Đứng trên đỉnh núi Am nhìn quanh một vòng tròn có thể thấy khắp núi sông, đường sá, xóm làng... của huyện Đức Thọ.

Chùa Am tọa lạc ở lưng chừng núi phía Nam, mặt quay về hướng Nam chếch Đông 15 độ, lưng tựa vào vách núi.

Bên trái có hai ngọn khe nước đổ vào hồ Đông (Khe Chùa) và hồ Tây (trước vịnh), có con hói Cốc chảy về hói Bượm như rồng lượn, mặt là một thung lũng ruộng vườn, làng xóm trù phú của nhiều xã, có con sông Ngàn Sâu chảy qua và xa hơn là dãy Trường Sơn xanh ngắt, quanh năm mây phủ, nhân dân trong vùng gọi là dãy Giăng Màn. Đây là nơi trấn giữ về Phong thủy vùng đất này từ ngày xa xưa.



Trong nhiều trăm năm, những thày Địa lý người nước ngoài đã đang và sẽ dùng học thuật của mình để trấn yểm nhiều Địa Huyệt quan trọng của vùng Địa linh này. Các Thày Địa lý người Việt cũng rất nhiều lần phá ếm tại vùng đất này, cố gắng giữ vững một vùng Địa Huyệt của Đất nước bằng cách dựng những ngôi chùa trấn giữ các Địa Huyệt. Tuy nhiên gần đây, các thế hệ người Hà Tĩnh đã phá hủy rất nhiều vùng Địa Huyệt quan trọng của vùng này, ảnh hưởng nghiêm trọng đến Linh khí của các Địa Huyệt.Các vùng núi của các xã Đức Hòa, Đức An , Đức Lập và Tân Hương hiện nay đang bị tàn phá nặng nề bởi việc xẻ núi lấy đất. Hệ thống 99 ngọn Hồng Lĩnh như Núi Voi, Núi Mụ Tra, Núi Dấu, Núi Rờm, Tượng Lĩnh, Phượng Hoàng đang bị tàn phá, băm nát cả hệ thống Long mạch kết tụ ngàn đời. Núi Am và các đoạn núi Trà Sơn hiện đang bị băm nát, thậm chí người ta còn dùng một đoạn Trà Sơn gần Núi Am làm nơi tập kết rác thải. Sự tàn phá khu vực này vô cùng khủng khiếp, dẫn đến nhiều Long mạch bị tàn phá, nhiều Địa Huyệt quan trọng bị xâm phạm.


Trong khu vực này là nơi tụ nhiều Huyệt Khí quan trọng. Phía trước Chùa Âm, có một khu đất có nhiều Huyệt kết , gần đây nhất là khu mộ nhà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và khu mộ của dòng họ Võ nhà Thượng tướng Võ Trọng Việt.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (còn gọi là Tư Sang), sinh vào ngày 21 tháng 1 năm 1949 tại xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Trương Tấn Sang là hậu duệ đời thứ 6 của họ Trương tại xã Hòa Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Hiện nay, người ta mới tìm được khu mộ Tổ của dòng họ Trương đặt trên một đầu con Long cực lớn tại khu vực này. dienbatn đã đi khảo sát và thấy thế đất ở đây rất hùng hậu. Chỉ tiếc rằng, những người xây khu mộ này không có kiến thức về Địa lý làm chưa đúng cách và tệ nhất đã bịt mất đường Thông Thiên để nhận Thiên Khí của mộ nên đã triết giảm rất nhiều. Khu mộ Tổ dòng họ Trương ở gần Chùa Am ( ảnh do dienbatn thực hiện ).








Đầu con Long của khu mộ.





Huyền Vũ của khu mộ với Khí lực oai hùng.



Bên dòng sông La huyền thoại, chiếc cầu Linh Cảm nối liền hai huyện Hương Sơn và Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trên quốc lộ 8A. Phía thượng nguồn là làng Hạ, xã Đức Hòa, nơi họ Vô sinh những người con làm rạng danh quê hương, đó là Thượng tướng Võ Trọng Việt, Ủy viên Quân ủy Trung ương 2011-2016, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội; Đại tá Võ Trọng Hùng - Phó Giám đốc Công an tỉnh Hà Tĩnh; Đại tá Võ Trọng Hài - Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh: Võ Anh Đức (con ông Võ Ngọc Sơn, Chủ tịch HĐTV – Giám đốc Công ty Đăng kiêm Phương tiện GTVT Hà Tĩnh) cháu trai trong dòng tộc họ Võ, là “cậu bé vàng Hà Tình”, người đạt huy chương Vàng Olympic Toán quốc tế năm 2013...

Còn Võ Anh Đức, con ông Võ Ngọc Sơn, Chủ tịch HĐTV – Giám đốc Công ty Đăng kiểm Phương tiện GTVT Hà Tĩnh, cháu trai trong dòng tộc họ Võ, hiện đang là một trong những sinh viên xuất sắc của Đại học Quốc gia Singapore. Sang Singapore hơn một năm nhưng những điểm đẹp nhất ở quốc đảo sự tử, Đức vẫn chưa đặt chân tới. Những đam mê cá nhân như âm nhạc, thể thao... cũng đành gác lại. Học bổng đầu tiên đến với Đức là học bổng ASEAN toàn phần mà Chính phủ Singapore dành tặng. Sau hơn một năm, Võ Anh Đức khẳng định việc lựa chọn Đại học Quốc gia Singapore là quyết định đúng đắn, đây là trường thuộc tốp đầu châu Á, nơi tập trung những sinh viên xuất sắc đến từ các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ... Tập hợp nhiều nhà khoa học và các giáo sư nổi tiếng từ nhiều nước trên thế giới.

Ngoài việc chăm chỉ học tập, Đức còn là thành viên tích cực của CLB Toán học - Đại học Quốc gia Singapore với mục tiêu trong một vài năm tới sẽ tham gia các dự án nghiên cứu khoa học cùng các giáo sư ở Singapore và trong tương lai gần, sẽ cố gắng làm nghiên cứu sinh ở Mỹ.

( Bài và ảnh: Trần Đông Tạp chí Thương Gia Thị Trường.)

Võ Trọng Việt sinh ngày 10 tháng 9 năm 1957 trong một gia đình nông dân ở cửa sông làng Trung Hoà, Đức Hòa, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông là anh cả của 6 đứa em: Võ Trọng Hùng (Đại tá, nguyên Phó giám đốc Công an tỉnh Hà Tĩnh), Võ Ngọc Sơn (Giám đốc Công ty Đăng kiểm xe cơ giới Hà Tĩnh), Võ Trọng Hải (Thiếu tướng, Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An, Nguyên Giám đốc công an tỉnh Hà Tĩnh, Nguyên Trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy Hà Tĩnh, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh), Võ Thị Hà (em gái, doanh nhân), Võ Thị Hiền (em gái, công tác tại Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Tĩnh), và Võ Thị Hòa (em gái, công tác trong ngành Bưu điện tỉnh Hà Tĩnh)

Chiều 16/4, tại kỳ họp thứ 20, Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh lấy ý kiến các đại biểu và thông qua Nghị quyết miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2016-2021 đối với ông Trần Tiến Hưng do chuyển công tác ra Trung ương; tiến hành bầu ông Võ Trọng Hải, Phó Bí thư Tỉnh ủy giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2016-2021 với số phiếu 47/47 đồng ý.




Khu mộ nhà Tướng Võ Trọng Việt. Ngày trước gia đình chỉ phát về võ. Gần đây bắt đầu từ cháu Võ Anh Đức, con ông Võ Ngọc Sơn em ruột Tướng Võ Trọng Việt, là “cậu bé vàng Hà Tình”, người đạt huy chương Vàng Olympic Toán quốc tế năm 2013 Ngoài việc chăm chỉ học tập, Đức còn là thành viên tích cực của CLB Toán học - Đại học Quốc gia Singapore với mục tiêu trong một vài năm tới sẽ tham gia các dự án nghiên cứu khoa học cùng các giáo sư ở Singapore và trong tương lai gần, sẽ cố gắng làm nghiên cứu sinh ở Mỹ.








Khu mộ dienbatn thực hiện ngay cạnh khu mộ của gia đình Tướng Võ Trọng Việt.

Xin theo dõi tiếp BÀI 10. Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *