PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 30.

9/27/2021 |

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 30. 


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

PHẦN V. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN THẠCH HÀ.

PHẦN VI. MỘT SỐ DI TÍCH DANH NHÂN KHÁC
I. MỘ VÀ ĐỀN THỜ TRẦN TỊNH .
II. MỘ VÀ ĐỀN THỜ BÙI CẦM HỔ.
III. MỘ VÀ ĐỀN THỜ PHAN KÍNH.
IV. ĐẶNG TỘC THIÊN LỘC.

Dòng họ Đặng ở Nghi Xuân có nguồn gốc từ Thiên Lộc - Can Lộc nhưng vốn phát tích từ xã Chúc Sơn, huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên, Hà Tây. Tiên tổ của dòng họ đến Nghi Xuân ẩn cư từ khoảng cuối năm 1413 đầu năm 1414. Trải qua lịch sử khoảng 592 năm với 23 đời, đến nay con cháu của dòng họ Đặng đã có mặt ở hầu hết các Xã và Thị trấn trong Huyện, đông nhất là ở Thị trấn Nghi Xuân, Thị trấn Xuân An, Tiên Điền, Xuân Giang, Xuân Đan, Xuân Trường, Xuân Hội, Xuân Hoa, Xuân Viên, Xuân Hồng, Xuân Lam Ngoài ra, hậu duệ của dòng họ còn sinh sống ở các Huyện khác trong tỉnh Hà Tĩnh như Can Lộc, Hương Sơn, Hương Khê, Thạch Hà, Hồng Lĩnh, Đức Thọ hay các tinh khác như Nghệ An , Thanh Hóa, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Huế, Bình Định . Dòng họ Đặng ở Nghi Xuân đã cống hiến cho quê hơng những ngời con anh kiệt, góp nhiều công nghiệp trong an dân giữ nước, góp phần phát triển kinh tế văn hóa xứ Hồng Lam.

I/Đặng Tộc Đại Tông Phả.

Đặng Tộc Đại Tông Phả” do Yên Quận công Đặng Đình Thự biên tập, Tiến sĩ Quốc lão Đặng Đình Tướng tục biên, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn tục biên, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam Nguyễn Văn Thành biên khảo và giới thiệu.

Đền thờ Hàn Lâm Viện Hiệu Thảo Đặng Chủng (1376 - ?), con trai thứ hai của Quốc Công Đặng Tất, em ruột của Tể Tướng Đặng Dung. Đền thờ đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa.

PHẢ CHI TRƯỞNG HỌ ĐẶNG

BÀI TỰA

QUYỂN PHẢ CHI TRƯỞNG HỌ ĐẶNG

Vì sao phải lập phả? (Vì rằng) mọi vật sinh thành đều có gốc ở trời, con người sinh ra có một cội nguồn từ tổ tiên. Các đời tổ tiên xa dần, xa dần thì con người dễ quên. Cổ lễ đặt ra tôn tổ, kính tông là để (con cháu) nhớ họ hàng vậy. Các đời truyền xa dần, sự tích mờ nhạt (vậy) ai biết được công đức của tổ tông? Mỗi nhà lẽ nào lại không có phả riêng để ghi lại sao?

Tôi sợ cuốn phả cũ của gia tiên không được tu bổ thì nề nếp tốt đẹp của tổ tông không được kế thừa thì nào ai biết được cội nguồn của gốc nhân nền nghĩa? Điều đáng sợ chính là sự phóng đãng, lãng quên không biết noi theo đức hạnh của tổ tiên. Ta không muốn tiêng tăm của gia đình như ngọc lành mang vết, cho nên trình bày khái lược công đức to lớn của các cụ thủy tổ tiếp đến công nghiệp của liệt tổ là để làm gương cho con cháu muôn đời. Bèn ghi đầy đủ vào phả này.

Tống trấn trọng thần của triều Lê, phong Yên Quận công Quản đốc bốn vệ quân Thần Võ Phong Nam quân Đô đốc Đặng Đình Thự kính cẩn làm bài tựa.

BÀI TỰA

PHẢ CHI TRƯỞNG HỌ ĐẶNG

Đặng tộc đại tông phả là phả chi trưởng họ Đặng vậy. Họ ta vốn là người huyện Thiên Lộc lưu lạc ở ấp ta đến nay đã sáu, bảy đời. Xưa kia đã có gia phả ghi chép từ cụ Tị tổ là Cao Nghĩa Thần triều Trần do (Đặng) Đình Thự biên tập. Trên từ cụ Cao Nghĩa Thần, dưới đến hiển khảo, nguồn gốc từ đâu đến, sinh ra từ chi nhánh nào, phần mộ, ngày giỗ phần nhiều ghi thiếu hoặc vì khi nhà Trần mất nước, do nạn binh Minh, giặc Mạc mà mất, hoặc ghi chép thiếu sót.

Chi trưởng ta từ cụ Đình Nghi đến cụ Đình Huấn từ trước đến nay mới sáu, bảy đời, tuy nghèo nhưng khoa hoạn theo nhau kết nối. Đời trước gây dựng, đời sau kế thừa còn có chỗ tham khảo, hiệu đính. Tổ tông tích đức hàng trăm năm nay mới nảy nở.

Bắt đầu từ cụ Đình Huấn lập riêng Ngành đại tông thế thứ trước sau, niên đại xa gần, phần mộ, ngày giỗ thường ngày phả cũ đã ghi chép lại thì đã rõ. Những điều phả cũ còn chưa ghi chép thì phụ thêm vào, tất cả đều kính cẩn biên chép. Ngỏ hầu con cháu hàng ngàn năm sau còn ngợi ca công lao vất vả cũng như khí tiết giản dị, cương nghị của tổ tiên. Những vị thành đạt có thể chiêm ngưỡng mà noi theo; Những người hư hỏng cũng biết mà lấy làm răn, vậy nhân đây bày tỏ lời nói này.

Cháu Đặng Đình Tướng, tiến sĩ triều Lê, vâng mệnh sang sứ phương Bắc, Lại Bộ Thượng thư Tả Tị lang phong Nam tước, đổi làm Tả Đô đốc ra trấn Tây Nam, thăng Tá Lý Công Thần Tiền Hòa doanh Thái phó làm bài tựa.

PHẢ HỆ HỌ ĐẶNG

Nam quân Đô đốc, Tống trấn trọng thần Yên Quận công Đặng Đình Thự biên tập.

Lại Bộ Thượng thư, đi sứ Phương Bắc, Tá Lý Thái phó Đặng Đình Tướng tục biên.

Kính xét: Trên từ cụ Tị tổ Cao Nghĩa Thần xuống đến tiên tổ là cụ Đình Huấn thế thứ rõ ràng cho nên tất cả đều ghi theo phả cũ.

Duy từ cụ Đình Nghi thì bắt đầu phân chi và là tổ của chi họ ta.

Cho nên cụ tổ đầu tiên của chi ta tính cụ Đình Nghi là đời thứ nhất và trở thành một chi trưởng riêng.

Mùa thu năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683).

Đặng Đình Thự biên tập.

Ngày tốt mùa xuân năm Bính Dần niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1686) Đặng Đình Tướng tục biên.

ĐỜI THỨ 1

Tị tổ Đặng Tảo sinh năm Giáp Dần ngày 10 tháng 5 thời vua Lý Cao Tông niên hiệu Trịnh Phù thứ 20. Ông đỗ Thái học sinh, làm quan tới Thừa hiến, Thăng Phó Đô đốc Nhập thị nội các Tu soạn Kinh Diên kiêm Đông các Đại học sĩ cáo thụ Vân ý Vinh lộc đại phu phong tặng Cao Nghĩa Thần. Ngày giỗ không truyền lại. Mộ táng tại Quận Sơn.

Tỷ tổ (cụ bà) họ Cù, hàng thứ 3, hiệu Từ Huệ sinh năm Giáp Dần (1194, niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ 9) thời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 20, được phong tặng Chính phẩm phu nhân. Phần mộ và ngày kị không ghi được.

Tị Tổ Đặng Diễn húy Sinh là em cụ Đặng Tảo, sinh năm Tân Mùi (1211) thời vua Lý Huệ Tông, hiệu Kiến Gia. Đến khoa Nhâm Thìn (1232) triều Trần ông thi đậu Thái học sinh, làm quan tới Thừa hiến thăng Lại Bộ Tả Thị lang cáo thụ Gia nghị Đại phu.

Ngày kị và mộ không thấy truyền.

Tị tổ Đặng Ma La là em Đặng Diễn. Ông sinh năm Giáp Ngọ thời Trần Thái Tông niên hiệu Kiến Trung năm thứ 10. Ông đậu Thám hoa khoa Đinh Mùi (1247) lúc 13 tuổi. Ông làm quan tới Nhập thị nội các Tu soạn Kinh Diên thăng Thị giảng Vũ hiển Đại học sĩ cáo thụ Vinh lộc Đại phu. Sau khi làm quan, ông về lập doanh ấp ở xã Chúc Sơn, huyện Chúc Đức, trấn SơnNam. Họ Đặng phát tích ở Chúc Sơn.

ĐỜI THỨ 2

Tiên tổ họ Đặng húy Hữu Điểm là con trưởng của Đặng Ma La. Ông làm quan Đại phu triều Trần. Ông phụng mệnh vua đi sứ Nguyên trước để nạp cống lễ, sau để do thám. Trong kháng chiến chống Nguyên Mông, ông bày mưu giúp việc nước, hết lòng vì việc dân cho đến thắng lợi hoàn toàn.

Tiên tổ tỉ (bà) họ Nguyễn, hiệu Thiện Tâm sinh 2 con Đặng Nhữ LâmĐặng Tảo.

ĐỜI THỨ 3

Tiên tổ họ Đặng húy Nhữ Lâm là con trưởng của ông Đặng Hữu Điểm. Ông sinh năm Tân Tỵ đời vua Trần Nhân Tông (1281) niên hiệu Thiệu Bảo (1279- 1282), làm quan đến Đại phu, vâng mệnh đi sứ Bắc nộp cống lễ, sau lập mưu vào thành Uyển Cung lấy sách cấm (sách dạy làm lịch). Việc không thành, sau hai năm ông trở về nước. Ông tham gia chống Nguyên Mông có công lớn. Ông mất năm Ất Sửu niên hiệu Thiệu Phong đời Trần Dụ Tông.

ĐỜI THỨ 4

Tiên tổ họ Đặng húy Lộ là con trưởng ông Đặng Nhữ Lâm, triều Trần ông giữ chức Lệnh ở Thái sử cục, kiêm soạn Hiệp lịch đã được nhà vua chuẩn y. Ông đước sắc phong Mậu Lâm Lang. Khi ông 60 tuổi, xây dựng từ đường họ Đặng tại trang Lương Xá. Từ Đường có câu đối:

Thập bát quận công tam tể tướng

Bách dư tiens sĩ, cửu công hầu”.

Nghĩa là:

“Mười tám quận công, ba tể tướng

Hơn trăm tiến sĩ, chín công hầu”.

Mộ ông táng tại xứ Cửa Chùa xã Trúc Sơn.

Tiên tổ tỉ (bà) họ Cù hàng thứ 2, hiệu Từ Đức, được phong tặng Tòng lục phẩm An Nhân.

Tiên tổ họ Đặng húy Du là con ông Đặng Lộ, ông được nhận sắc phong làm Hiệu Lực, Tả Hiệu úy.

Tiên tổ họ Đặng húy Long là em ông Đăng Du, được sắc phong hiệu lực Hữu Hiệu úy.

ĐỜI THỨ 5

Tiên tổ họ Đặng húy Bá Kiển là con trai ông Đặng Lộ. Ông vốn ở tại Chương Đức sau vào Nam Hồng Lĩnh thuộc thôn Đông Rạng, xã Tả Thiên Lộc, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, phủ Đức Quang, lộ Nghệ An.

Thật là: 

Hồng lĩnh triệu cơ

Lam giang khải vũ”.

  Nghĩa là:

Dựng nền đất Hồng Lĩnh

Xây đê tại Lam Giang”.

Vì ông là người có địa vị, con cháu làm quan to được phong đến Thái Bảo ở đất Hồng Lĩnh địa linh nhân kiệt, tám chín đời quyền cao chức trọng nên họ Đặng phát tích từ đó.

Hồng Lĩnh Lam Giang tân địa quyết

Sơn Vi Chương Đức cựu môn phong”.

Nghĩa là:

Đỉnh Hồng, sông Lam vùng đất mới

Sơn Vị, Chương Đúc nếp nhà xưa”.

Ông mất ngày 10 tháng Giêng, mộ táng tại xứ Thung Sơn.

Tị tổ (bà) họ Nguyễn, hiệu Từ Thiện.

Bà sinh Đặng Bá Tĩnh, Đặng Ái, Đặng Khang.

ĐỜI THỨ 6

Tiên tổ họ Đặng, húy Bá Tĩnh là con trưởng ông Đặng Bá Kiển. Ông được trời cho thông minh, cao kiến, cầm bút thành văn, xuất khẩu thành thơ. Triều Trần tuyển nhân tài, ông đến kinh đô dự tuyển. Ông làm văn như kình nghê trương vây, như phượng hoàng tung cánh, bút phê “văn bài rất tuyệt, chữ viết như rồng bay, như hổ chạy, lời văn như đại bàng bay chín tầng mâ ”. Ông đỗ Thám hoa. Nhân dân thời đó tặng ông bảy chữ:

Diễn cảnh sự nghiệp kiến tùng thi

Nghĩa là:

Sự nghiệp canh tác sánh thơ tùng

Ông làm quan đến Hành khiển chuyển vận sứ thăng Thượng thư Bộ Lại, tặng phong Tuấn sĩ Hầu. Mộ táng tại xứ Quát Hương.

Phu nhân là Trần Thị Ngọc Diệp.

Tiên tổ họ Đặng húy Ái  là em ông Đặng Bá Tĩnh sinh ông Đặng Chí.

Tiên tổ họ Đặng húy Khang, ông là em ông Đặng Ái, ông sinh ra Đặng Diệu, Đặng Cung.

ĐỜI THỨ 7.

Tiên tổ họ Đặng húy Đình Dực là con trưởng ông Đặng Bá Tĩnh. Ông là nho sinh trường Quốc Tử Giám, là bậc tài hoa ở đất Thăng Long. Ông làm quan Tri châu châu Quỳ Hợp, lộ Nghệ An.

Tiên tổ tỉ (bà) là Chính thất phu nhân hiệu Từ Huệ, sinh ra Đặng Tất, Đặng Đức và Đặng Quý.

Tiên tổ họ Đặng húy Lâm là con thứ ông Đặng Bá Tĩnh.

Tiên tổ họ Đặng húy Kỳ là em ông Đặng Lâm.

Tiên tổ họ Đặng húy Phi em ông Đặng Kỳ.

Tiên tổ họ Đặng húy Chí là con ông Đặng Ái.

Ông Đặng Chí thi đậu Hương cống làm quan tới Tham chín xứ Quảng Yên.

Tiên tổ họ Đặng húy Diệu là con cả ông Đng Khang. Ông thi đậu Hương cống làm quan tới Tham chính xứ Hải Dương.

Tiên tổ họ Đặng húy Cung là em ông Đặng Diệu.

ĐỜI THỨ 8.

Tiên tổ họ Đặng húy Tất là con trưởng ông Đặng Đình Dực. Ông sinh ở thời Trần, lúc nhỏ thông minh, trí tuệ, thi Hương trúng Cống sinh, thi hội trúng Tam trường, thi Đình trúng Thám hoa. Ông tài kiêm văn võ, chiến thuật chiến lược tinh thông, làm quân đến Tri châu Thăng Hoa, thăng Đại Tri châu Hóa Châu. Tháng 5 năm Đinh Hơi (1407) vua Giản Định khởi binh tại Thiên Trường. Đặng Tất đem 10 vạn binh là quân bản bộ cộng với binh mới mộ theo Giản Định Đế. Giản Định phong ông là Quốc công. Con gái ông Đặng TấtĐặng Thúy Hạnh vào làm Hậu phi Giản Định Đế. Đặng Tất đại thắng quân Minh ở Bô Cô. Đặng Tất chỉ huy quân sỹ đánh quân Minh diệt hơn 4 vạn tên cùng các tướng lĩnh. Mộc Thạnh trốn chạy vào thành Cổ Lộng, nhà Trần có cơ xây dựng lại được nhưng sau vì những bọn Nguyễn Quỹ, Nguyễn Mộng Trang xúi giục nhà vua giết ông vào tháng 2 năm Kỷ Sửu (1409) niên hiệu Trùng Quang thứ 1.

Vua Lê Thái Tổ tặng bốn chữ đại tự : “Tiết liệt cương trung ”, truy phong Đại Quốc công, Kiệt tiết tuyên lực, Dực vận tán trị công thần, phong Thượng đẳng phúc thần.

Tổ tỉ ( bà) Chính thất phu nhân là Phạm Thị Kim Chi sinh 4 nam 1 nữ và 2 con nuôi.

Đặng Dung cư tại (Thiên Lộc), Đặng Chủng (cư ở tại Tiên Điền, huyện Nghi Xuân), Đặng Liên (cư tại Hoa Lư, Ninh Bình), Đặng Thát (cư ở Hương Sơn, Nam Đường).

Đặng Thúy Hạnh.

Con nuôi: Đặng A Thiết, Đặng A Noãn

Tiên tổ họ Đặng húy Đức là em ông Đặng Tất là tướng hầu cận vua Giản Định Đế, con cháu ở cùng nhau tại Hóa Châu, Thăng Hoa.

Tiên tổ họ Đặng húy Quý là em ông Đặng Đức. Ông quyền trấn trị Hóa Châu. Con cháu về sau tụ tập tại Tân Bình (Quảng Bình), Thuận Hóa (Quảng Trị, Thừa Thiên).

CHI GIÁP NGÀNH TRƯỞNG.

ĐỜI THỨ 9.

Tiên tổ họ Đặng húy Dung là con trưởng của ông Đặng Tất. Ông sinh năm Quý Sửu (1373) niên hiệu Long Khánh thời trần Duệ Tông (1373-1376), ông là người văn võ toàn tài, thao lược tinh thông. Giận vì cha chết oan, ông cùng Cảnh Dị và các em Đặng Chủng, Đặng Liên, Đặng Thát lập vua Trùng Quang tiến đánh quân Minh. Vua Trùng Quang phong ông làm Bình chương Quốc sự, ông đánh nhau với quân Minh hơn trăm trận. Quân Minh thua to ở Bình Than, Hàm Tử, Chí Linh, Chi La. Sau trận Sài Gia, bị quân Minh truy bức, ông cùng vua Trùng Quang bị bắt. Giặc Minh dùng thuyền biển giải ông về Yên Kinh. Ông đâm đầu xuồng nước tuẫn tiết, đó là vào tháng chạp.

Ông được vua ban sắc phong là Đôn Túc Văn Lâm Lang - Trung nghĩa thần, truy phong Cao Sơn Hầu.

Sinh thời ông có bài thơ “Cảm hoài”:

Thế sự du du nãi lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vẵn thiên hà

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma” .

Dich thơ:

Việc đời man mác tuổi già thôi

Đất rộng trời cao chén ngầm ngùi

Gặp gỡ thời cơ may những kẻ

Tan tành thế sự luống cây ai

Phò vua bụng những mong xoay đất

Gột giáp sông kia khó vạch trời

Đầu bạc giang sơn thù chưa trả

Long tuyền mấy độ bóng trăng soi

Vua Lê Thái Tổ tặng 4 chữ đại tự “Trung thần hiếu tử ” ở nhà thờ có đối liễn:

Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ

Anh hùng vô nhị, nhị anh hùng

Nghĩa là:

Quốc sĩ không (có) hai, nhà (có) hai quốc sĩ

Anh hùng chỉ ( có ) một, nhà (có) hai anh hùng

Tỷ tổ (bà) phu nhân Lê Thị Ngọc Hoa, sinh 4 nam, chia làm 4 chi, mỗi chi một phương .

Con cả: Đặng Nghi - Phúc Thắng hầu.

Con thứ: Đặng Địch Qủa - Tham chính.

Con thứ: Đặng Di - Hoàng giáp.

Con thứ: Đặng Công Thiếp -Tiến sĩ.

ĐỜI THỨ 10.

Tiên tổ họ Đặng húy Nghi là con trưởng ông Đặng Dung. Ông sinh 20 tháng 10 năm Tân Mùi (1391) đời Trần Thuận Tông niên hiệu Quang Khải (theo sử là Quang Thái ) năm thứ 2 (1389).

Ông sinh ra gặp thời loạn lạc, gia đình ly tán, hiển tổ là Đặng Tất chết oan. Ông thắp đèn 7 tuần (báo hiếu), được đội ơn ban chức Thị dưỡng  dưỡng được truy phong Phúc Thắng hầu, hưởng thượng thọ, giỗ mồng 2 tháng 3. Mộ táng xã Chúc Sơn, huyện Chương Đức tại nơi có tên là núi Hỏa Tinh, tục gọi là núi Nấm Chiêng, hình thế của ngọn núi là nhô lên, uốn lượn quanh co. Bên phải nhìn xuống là sông Ninh, như ôm lấy, xưa nay người lên chiêm ngưỡng đều coi là nơi danh thắng. Tương truyền mộ tổ họ Đặng phát tích từ vùng đất địa linh nhân kiệt này. Về lý quả là như vậy.

Ngạn ngữ có câu khắc tại bia:

Bao giờ núi Chúc hết cây

Sông Ninh hết nước, họ này hết quan .

Tức là đất này vậy.

Bà Chính thất họ Nguyễn hiệu Từ Hậu được phong Tòng lục phẩm An nhân, sinh con trai Đăng Khoan, giỗ 3 thang 6, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Bà thứ thất họ Nguyễn hiệu Từ Tâm được phong Thất phẩm An nhân, sinh Đặng Lâm, giỗ 23 tháng 8, mộ táng xứ Cửa Chùa chùa xã Chúc Sơn.

 ĐỜI THỨ 11

Tiên tổ họ Đặng húy Khoan là con trưởng ông Đặng Nghi sinh năm Kỷ Sửu (1409 ) niên hiệu Trùng Quang. Năm đầu thời đó, đất nước loạn lạc, quân Minh tàn phá, nhân dân đói rét, gia đình bị tiêu hủy, cha mẹ ly tán. Ông giỗ ngày 15 tháng 8 mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn, được truy phong Thiện Khánh hầu.

Tổ bà họ Nguyễn hiệu Từ Liêm được phong tặng lục phẩm An nhân, giỗ ngày 6 tháng 10 mộ táng Cửa Chùa.

Tiên tổ họ Đặng húy Lâm là em ông Đặng Khoan, sinh ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1412 ) niên hiệu Trùng Quang năm thứ 4. Ông giỗ ngày 7 tháng 11 mộ táng xã Mỹ Lương, huyện Từ Thủy được truy phong Cao Sơn hầu.

Bà Chính thất họ Nguyễn hiệu Trang Tính, giỗ ngày mồng 7 tháng 3, mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

ĐỜI THỨ 12.

Tiên tổ họ Đặng húy Tuyên  sinh ngày 20 tháng10 năm Đinh Mùi. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng chăm học, thi đậu Hương cống, làm quan Tá lang Cẩn sự, được tăng Lương Mỹ hầu, giỗ ngày 26 tháng 6, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Tổ bà là Nguyễn Thị Hạnh hiệu Lưu Ngọc, phong tăng Lục phẩm An nhân, giỗ ngày 4 tháng 8 mộ hợp táng với ông Đặng Tuyên.

Tiên tổ họ Đặng húy Lội, lúc còn nhỏ tên là An, sinh năm Canh Tuất (1430) đời Lê Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên thứ 3. Ông tính khoan hòa, cần mẫn, được phong Thắng Phúc hầu, thọ 68 tuổi, giỗ ngày mồng 6 tháng 4, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Tổ bà hiệu là Từ Nhân, thọ 70 tuổi, giỗ ngày 20 tháng 10, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Minh sinh năm Canh Tuất (đáng lẽ ra là Canh Tý) đời Lê Thái Tổ niên hiệu Tuận Thiên năm thứ 3 (1430) được tặng Lương Thiệu hầu.

Tiên tổ họ Đặng húy Hoàn sinh năm Nhâm Tý. Ông thông minh nhân hậu, được phong tặng Đô đốc Khánh Hoàn hầu.

ĐỜI THỨ 13.

Tiên tổ họ Đặng húy Túc sinh ngày 20 tháng 8 năm Ất Mão, niên Thái Hòa đời vua Lê Nhân Tông (1442- 1453 ) tặng Nghiêm Túc hầu, gia tặng Đô đốc đồng trị, tả Đô đốc Thiếu bảo Nghiêm Quận công. Ông thọ 73 tuổi. Giỗ ngày 18 tháng 6, mộ tại xứ Ngọc Giả xã Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Phúc Sĩ  sinh ngày 15 tháng 3 năm Kỷ Mùi (Tỵ ?) đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (1449).

Tiên tổ họ Đặng húy Doãn sinh ngày 16 tháng 6 năm Đinh Tỵ (?) đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 5 (1447). Ông học thông minh nhưng thi không đậu.

Tiên tổ họ Đặng húy Chí sinh ngày 15 tháng 3 năm Tân Mùi niên hiệu Thái Hòa thứ 9 (1451), thi Hương trúng Cống sĩ, làm quan đến Tả Thị lang, phong tặng Khánh Thiện Hầu. Giỗ ngày 25 tháng Giêng, hưởng thọ 72 tuổi, mộ táng xứ Cửa Chùa, xã Chúc Sơn, sau cải táng tại xứ Ngọc Giả.

Tiên tổ tỷ (bà) Chính thất phu nhân hiệu Đoan Trang.

Giỗ ngày mồng 8 tháng 6, hưởng thọ 74 tuổi mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Khánh sinh ngày 18 tháng 4 năm Canh Ngọ đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 11 (1452), phong tặng Khánh Phúc hầu.

ĐỜI THỨ 14.

Tiên tổ họ Đặng húy Nghị lúc bé tên Luận, sinh năm Tân Tỵ, đời vua Lê Nhân Tông, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 10 (1479). Lúc nhỏ, ông thông minh khác thường, nhà nghèo nhưng hiếu học. Ông tu luyện võ nghệ, sức mạnh có thừa. Gặp thời loạn lạc, ông giúp nước an dân, được phong Thống lính quân Hải Quận công, sau vận mệnh (vua ) đến xứ Nghệ đánh giặc bắt tướng giặc Phạm Giang trước trận tại thôn Nghĩa Liệt ở Lam Thành, được phong sắc, trong sắc có câu (dịch nghĩa ):

Có công được phong bách hộ. Nay sắc

Giỗ mồng 10 tháng 10 mộ táng xứ Ngọc Giả xã Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Điện sinh ngày 12 tháng 2 năm Canh Thìn đời vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ 11 (1480), phong Điện Dụ hầu, sau đổi là Nghiêm Dụ hầu, phong Đô đốc chỉ huy Thiêm sự.

Giỗ mồng 9 tháng 12, mộ táng tại Thịnh Phúc.

Tiên tổ họ Đặng húy Minh,  sinh ngày 22 tháng 6 năm Quý Mùi đời vua Lê Thanh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) phong tặng Minh sơn hầu, gia tặng Đô đốc Đồng tri.

ĐỜI THỨ 15.

Tiên tổ họ Đặng húy Huấn  sinh ngày 23 tháng 6 năm Kỷ Mão đời vua Lê Chiêu Tông năm Quang Triệu thứ 4 (1519). Năm ông 4 tuổi, thân phụ ông tử trận tại Nghệ An. Năm ông 9 tuổi, thân mẫu tạ thế. Ông được cụ Nghiêm Dụ công nuôi dưỡng. Ông tính thông minh luôn cố gắng hết mình để kế tục sự nghiệp tiền nhân. Ông là võ tướng tài hoa, phù Lê, diệt Mạc, làm quan đến chứ Hữu Đô đốc, tước Nghĩa Quận công, Tiên phong Vân nghĩa Vinh lộc đại phu, trung thành với chúa, coi sóc trong nội cung, quản đốc Thị hậu nội kiêm Quốc chính, Đô súy, gia phong Vũ Nghi tướng quân, trung hưng công thần đệ nhất.

Ông được truy phong Thái úy Nghĩa Quốc công, Hậu Trạch công Thượng đẳng Đại vương. Sử thời Hậu Lê có ghi: “ Con cháu ông Đặng Huấn đời đời vinh hoa phồn thịnh ”.

Ông mất ngày 18 tháng 6 năm Canh Dần đời vua Lê Thế Tông niên hiêu Quang Hưng thứ 13 (1590), hưởng thọ 72 tuổi. Mộ táng tại thôn Thịnh Phúc.

Phủ từ đường tại Mạc Xá nay đổi là Lương Xá phụng cúng tiên tổ Đặng Huấn, Đặng Tiến Vinh, Đặng Thế Tài.

Tiên tổ tỷ (bà) họ Lê húy Lư tự là Ngọc Huyền. Bà là con gái quan Thái tể Đôn Thuận Quận công Lê Bá Đễ, cháu gái quan Thượng tễ Diễn Quốc công Lê Bá Ly. Bà sinh năm Mậu Tuất (1538), mất ngày tháng 7 năm Đinh Mùi (1670), thọ 70 tuổi.

Tiên tổ họ Đặng húy Khiêm, lúc nhỏ là Khang. Ông là người có tư chất thông minh, dáng người đẹp đẽ, chỉ sống được 20 tuổi.

Tiên tổ họ Đặng húy Toàn, tự là Minh Châu, tặng là Toàn Phúc hầu, mất năm 14 tuổi, giỗ ngày 15 tháng 7. Mộ táng tại của chùa Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Tiến, sinh ngày 20 tháng 5 năm Quý Mùi niên hiệu Thống Nguyên đời vua Lê Cung Hoàng (523), phong tặng Thành Tín hầu, gia tặng Đô đốc Đông tri chỉ huy Thiêm sự Tả Đô đốc Thành Quận công.

ĐỜI THỨ 16.

Tiên tổ họ Đặng húy Vinh sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhăm Tuất (1562) đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Thiên Hựu. Ông được phong Bảo vệ Vương Thái bảo Hà Quận công, gia phong Thái úy Thái phó Tả Tư không Thượng trật, truy phong Thượng đẳng Đại vương. Ông mất ngày mồng 6 tháng 7 năm Ất Sửu (1625), hưởng thọ 64 tuổi.

 Tiên tổ tỷ (bà) họ Đỗ phong Nhị phẩm đoan nhân. Giỗ ngày 28 tháng 3. Mộ ông bà hợp táng xứ Đồng Quý.

Tiên tổ họ Đặng húy Ký sinh ngày 20 tháng 10 năm Bính Dần (1566) đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Thiên Hựu. Ông được phong Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu Thụy là Nhân Hậu, lại thụy là Thuần Tín.

ĐỜI THỨ 17.

Tiên tổ họ Đặng húy Thế Tài sinh năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng (1592). Ông có công phù Lê được phong Doanh Quận công, Dực Vận Công thần, truy phong Thái tễ Thượng đẳng Đại vương

Giỗ ngày 18 tháng Giêng

Phần mộ tại Núi Non Dài, Ngọc Giả, Chúc Sơn, Chương Đức.

Tiên tổ tỷ (bà) Trịnh Thị Ngọc Thạc phong Nhất phẩm phu nhân, Đoan trang công chúa.

Giỗ mồng 6 tháng 6.

Mộ táng xứ Cửa Chùa.

Tiên tổ họ Đặng húy Thế Khoa là con thứ ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Qúy Tỵ niên hiệu Quang Hưng (1593). Ông làm quan được phong tước Dực Vận, Tán trị Công thần, Tham Trung (Tụng ?), Binh Bộ Thượng thư, Liêm Quận công, truy phong Thái bảo Thượng trụ quốc Đại vương.

Giỗ ngày mồng 3 tháng 2, mộ thất truyền.

Tiên tổ Đặng Thế Khanh là con thứ ba của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng (1595). Ông làm quan đến Đô đốc triều Lê, truy phong Thái tể Khâm Quận công.

Tiên tổ Đặng Thế Trụ là con thứ tư của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Giáp Thìn (1604) niên hiệu Hoằng Định. Ông làm Đô đốc triều Lê tước Điện Lộc hầu, truy phong Đốc Bật trợ uy Điện Quận công. Giỗ ngày mồng 7 tháng 7.

Tiên tổ Đặng Thế Năng là con thứ năm của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Đinh Tỵ (1617) niên hiệu Hoàng Định. Ông được phong Hiệu Thắng hầu.

Tiên tổ Đặng Đình Phụng là con thứ sáu của ông Đặng Tiến Vinh, ông làm quan tới Quản lãnh tứ thành trấn thủ Sơn Tây, truy phong Nghĩa Hiệp Quận công.

Hoàng triều Cảnh Hưng vạn vạn năm ngày 15 tháng giêng năm Ất Sửu (1745).

Từ đây trở lên, cháu là Tổng trấn Nghệ An, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn kính căn phụng sao.

Từ đây trở xuống do Đặng Sĩ Hàn biên tập.

Nhân nơi bờ liễu gặp lúc thanh nhàn

Cửa son nghĩa tới cội nguồn, ngẫm kỹ công đức tổ tiên như núi Thái Sơn bàn thạch, nghìn vạn năm tích đức, tích thiện để lại cho con cháu đời đời.

Đó là quả phúc lớn.

Kính cẩn biên tập danh hiệu, công tích, sự nghiệp tổ tiên, lưu muôn đời cho con cháu để cho con cháu trông lên mà không vong ơn.

Ngày 15 tháng Giêng năm Ất Sửu ( 1745 ) triều vua Cảnh Hưng.

Cháu đời sau là Tổng trấn Nghệ An, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn biên tập.

ĐỜI THỨ 18.

Tiên tổ Đặng Đình Thự sinh năm Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631) đến năm Ất Mùi (1655) niên hiệu Thịnh Đức thứ 4 ông phò giá vua Thịnh Đức (Thần Tông  Lê Duy Kỳ ) nam chinh.

Đến năm Bính Thân (1656) niên hiệu Thịnh Đức 4, ông được làm phó tướng. Đến năm Đinh Dậu (1657), ông được thăng Đô đốc Thiêm sự. Tháng 9 năm đó ông đem quân dẹp giặc Mạc tại Cao Bằng, bắt sống được tướng Mạc là Luận Quận công Dương Đình Lý.

Triều đình luận công thăng ông lên hai bậc làm Nam quân Đô đốc Đồng tri.

Năm Chính Hòa thứ nhất (1680) đời vua Lê Hy Tông có sắc chỉ sai các quan trong triều trước bài vị Hậu Trạch Công vào thái miếu thờ phối hưởng.

Năm Qúy Hợi (1683) ông được thăng Thiếu phó.

Năm Ất Sửu (1685) ông được phong Thái bảo.

Như thế, ba năm liền ông được phong chức trọng quyền cao.

Ông sai con là Đặng Đình Tướng tục biên “Đặng tộc đại tông phả”. Chú họ là Đặng Tiến Bá trùng tu phủ từ đường thờ tiên tổ.

Ông làm trấn tủ Nghệ An 24 năm, để lại cho nhân dân Nghệ An và con cháu họ Đặng ngàn vạn ân đức.

Nhân dân thôn Triều Sơn, xã Nguyệt Áo, huyện Thiên Lộc lập đền thờ ông.

Có bài minh trên bia ghi rõ:

Hữu công tất bảo

Tích thiện dư khương

Quỳnh cư vĩnh hảo

Lam thủy lưu hương

Ức niên phần bật

Vạn đại diễn hương

Thử công thử đức

Địa cửa thiên trường”.

Tạm dịch:

Có công tất được báo

Tích thiện ắt có phúc lành

Như ngọc cần phải giữ

Để ngát hương sông Lam

Ngàn năm giúp quê hương

Danh tiếng lưu muôn đời

Ngàn năm công đức ấy

Mãi mãi cùng đất trời”.

Ông mất ngày 23 tháng Giêng năm Mậu Dần (1698), hưởng thọ 68 tuổi.

Tiên tổ tỷ ( bà ) là phu nhân Nguyễn Thị Điển, người xã Thượng Lâm huyện Mỹ Đức.

ĐỜI THỨ 19.

Tiên tổ Đặng Đình Tướng, ông là thứ ba của ông Đặng Tiến Thự. Ông sinh năm Kỷ Mùi niên hiệu Khánh Đức thứ nhất (1649) đời vua Lê Thần Tông.

Năm Cảnh Trị thứ 8 đời vua Lê Huyền Tông, khoa Canh Tuất (1670), ông đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, xuất thân, phụng mệnh đi sứ Bắc, ông làm quan đến Tả Thị lang, Thượng thư, thăng Đại Tư mã chưởng phủ sự.

Sau khi mất, truy phong Đại Tư không, Ứng Quận công, phong Phúc thần.

Ông mất ngày 15 tháng 5 năm Ất Mão (1735) niên hiệu Vĩnh Hựu Nguyên Niên.

Chánh thất phu nhân: Bùi Thị Khang thọ 61 tuổi.

Thứ nhất phu nhân: Phạm Thị Đằng sinh 3 con trai.

Đặng Đình Gián – Bảo Huân Quận công.

Đặng Đình Đế - Tổng binh Đồng tri Nhuận Phái hầu.

Đặng Đình Thức – Hình thuyên Câu kê Thái bộc Tự khanh.

CHI GIÁP - GIÁP NHỊ.

ĐỜI THỨ 10.

 Đặng Đình Quả là con thứ 2 của Bình chương Quốc sự Đặng Dung. Ông là giám sinh Quốc Tử Giám, làm quan tới chức Tham nghị ty thừa chính sứ Quảng Yên, phong tước Quảng Nhân (Nam ) hầu. Về sau khi thân phụ bị giặc Minh bắt, ông tị nạn hồi cư về Tả Thiên Lộc. Mộ táng tại xứ Đồng Thắng.

 Tiên tổ tỷ: Phu nhân người họ Hà, sinh Đặng Đôn PhụcĐặng Ngũ Khánh.

ĐỜI THỨ 11.

Con trưởng Đặng Đôn Phục di cư tại xã Kim Bằng, huyện Thạch Hà. Ông thi đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn (1580) làm quan đến Hiến sát sứ xứ Thanh Hoa tước Thọ Lộc hầu. Sau khi ông mất, mộ táng tại xứ Ao Đồng Cồn.

Chính thất phu nhân Nguyễn Thị Kim Bằng.

Con thứ là Đặng Ngũ Khánh ở tại thôn Đông Rạng, xã Tả Thiên Lộc. Ông làm giám sinh Quốc Tử Giám, làm quan tới tước Vĩnh KhánhNam.

Chính thất phu nhân: Nguyễn Thị Nhậm, sinh Đặng Ngũ Quế.

 ĐỜI THỨ 12.

Đặng Ngũ Quế là con trưởng ông Đặng Ngũ Khánh. Ông có tên tự là Đức Nhuận, hiệu Hải Lĩnh tiên sinh. Ông làm quan giám sinh Quốc Tử Giám, thi trúng Tam trường, làm quan đến Tổng binh sứ Đồng tri ty Đô Tổng binh trấn Quốc Đại tướng quân, đạc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu tước Thọ Lượng tử.

Chính thất phu nhân là Nguyễn Thị Định là con gái quan Thái tể tướng Nguyên Văn Giai.

Thứ nhất phu nhân là Đỗ Thị Phương sinh 2 con trai: Đặng Ngũ SáchĐặng Ngũ Dượng.

Á thất phu nhân là Vũ Thị Cẩn, sinh 7 con trai, 2 con gái:

Con trưởng: Đặng Ngũ Vinh làm quan Viên Tử.

Con trai thứ 2: Đặng Ngũ Tĩnh .

Con trai thứ 3: Đặng Ngũ Thạnh làm Tri phủ Diễn Châu.

Con trai thứ 4: Đặng Ngũ Chưởng là Tri huyện

Con trai thứ 5: Đặng Văn Chung.

Con trai thứ 6: Đặng Văn Trung làm Vệ úy.

Con trai út: Đặng Văn Cẩm làm Vệ úy.

Con gái: Đặng Thị LýĐặng Thị Cung.

CHI GIÁP - GIÁP TAM.

ĐỜI THỨ 10.

Đặng Di được phong Cao Sơn hầu. Ông là con thứ 3 của tổ Đặng Dung, lập nghiệp ở Sơn Vi, Mạo Phổ (nay là Phú Thọ).

ĐỜI THỨ 11.

Đặng Thiếp là con trai ông Đặng Di, ông đậu Hoàng giáp khoa Quý Dậu niên hiệu Thái Hòa 11 (1453) đời vua Lê Nhân Tông, làm quan đến Chánh sứ ty Tham nghị Hóa Châu.

Ông có làm sớ tâu lên vua 5 việc lớn:

1. Tăng cường phòng thủ hải khẩu Thu Dung (nay là Thuận An).

2. Lập hải khẩu Thuận An.

3. Bãi miễn chức dịch thuế vì vô tác dụng, tiêu tốn công quỹ.

4. Khai thông hải khẩu Liên Từ ở Lệ Thủy- Tân Bình.

5. Lập dân lưu vong hồi cư tại châu Bố Chánh khai khẩn ruộng hoang.

Có việc được vua phê chuẩn, có việc được nhân dân, sĩ phu ca ngời.

ĐỜI THỨ 12.

Đặng Công Hoàn (Đặng Tòng Củ), con trưởng ông Đặng Thiếp, đậu Hoàng giáp, làm quan đến Thượng thư bộ Lễ.

Đặng Minh Khiêm, con trai thứ 2 Đặng Thiếp, khoa Đinh Mùi (1487) cùng em là Đặng Tán đậu Tiến sĩ cùng khoa, làm quan đến Hoàng Lâm Viện, Ông phụng mệnh vua đi sứ Bác, làm quan đến Tả Thị lang bộ Lại, thăng Thượng thư bộ Lễ kiêm Thái phó, Tổng tài Quốc sử quán. Thời vua Lê Chiêu Tông vâng mệnh vua tu sủa, hoàn chỉnh bộ Đại việt sử ký. Họ Mạc thoán vị nhà Lê, ông bỏ quan đi ở ẩn. Tác phẩm của ông còn lại 30 bộ “Việt giám vịnh sử thi tập” và 2 tác phẩm “Thi lục”, “Thi tuyển”.

Đặng Công Tán là con trai thứ 3 ông Đặng Công Thiếp.  Khoa Đinh Mùi (1487) triều vua Lê Thánh Tông, ông đậu Tiến sĩ, vâng mệnh đi sứ Bắc, làm quan đến chức Hữu Thị lang.

ĐỜI THỨ 13.

Đặng Minh Cát là con trai trưởng ông Đăng Minh Khiêm. Triều vua Lê Thống Nguyên, ông làm quan Tham nghị xứ Hải Dương. Họ Mạc cướp ngôi nhà Lê, ông ở ăn tại thôn Phú Nghĩa huyện Cẩm Giàng. Về sau, con cháu (có chi) di cư đến Mỹ Lộc phủ Thiên Trường. Ông Đặng Hữu Tương lập ra 5 trang trại : ở Mỹ Lộc lập 4 trang trại và ở Thanh Hóa 1 trang trại.

Không kể xứ nào, con cháu cũng phát huy gia phong, gia tộc.

Tiết nghĩa tại Thiên Lộc

Khoa Danh tại Sơn Vị

Cư sĩ tại Cẩm Giàng

Tôn Hoàng giáp kế thừa sư bảo

Tự Hồng Sơn kiến tạo tinh anh

Dịch:

Khí tiết tại Thiên Lộc

Đỗ đạt tại Sơn Vị

Đi ở ẩn tại Cẩn Giàng

Chúa Hoàng giáp kế thừa sư bảo

Từ Hồng Sơn tạo dựng tinh anh

Tổ tiên, con cháu, anh em một nhà tiết nghĩa khoa danh.

Sau con cháu không hợp tác với giạc Mạc. Đến đời Lê trung hưng mới ra làm quan, khi đi thi đỗ đạt thì đã nhiều tuổi như các ông.

Đặng Thuần Trung 54 tuổi.

Đặng Thuần Nhân 54 tuổi.

Đặng Kính Chi 64 tuổi.

Đặng Duy Minh 64 tuổi.

Đặng Duy Mậu 65 tuổi.

GIÁP CHI TỨ.

ĐỚI THỨ 10.

Đặng Công Thiếp là con trai thứ 4 Đặng Dung, Giặc Minh bắt mất cha. Ông di cư đến Sơn Đồng huyện Lập Thach tạo dựng cơ nghiệp.

Tiên tổ Đặng Công Thiếp thi đậu Hoàng giáp triều Lê Thánh Tông, con cháu tiếp tục khoa danh, cư trú nhiều nơi.

Tiên tổ Đặng Công Hòa thi đậu Hoàng giáp triều Lê Thánh Tông, làm quan đến Hiến sát sứ.

Tiên tổ Đặng Công Thận đậu Hoàng giáp triều Lê Thánh Tông làm quan đến Hiến sát sứ, thăng Tả Thị lang bộ Lễ.

Tiên tổ Đặng Công Điểm đậu Tiến sĩ triều Lê Thánh Tông. làm quan đến Hiến sát sứ.

Tiển tổ Đặng Công Lễ, tước Bảo Quận công.

Tiên tổ Đặng Công Lĩnh làm quan thái giám, tước Mộc Liêm niên hiệu Đức Nguyên năm thứ 2 (1675).

Tiên tổ Đặng Công Toàn làm quan Tham nghị xứ Quảng Yên.

Tiên tổ Đặng Công Di sinh năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức, làm quan Thị lang kiêm Tổng tài Quốc sử quán.

Tiên tổ Đặng Công Liễu sinh năm Quý Tỵ niên hiệu Thịnh Đức làm quan Hành Khiển Chánh sứ Quảng Nam.

Tiên tổ Đặng Công Điển làm quan ở ty Tham chính Lạng Sơn.

Hậu duệ các vị tiên tổ di tán nhiều nơi ở Thanh Hóa, Hải Dương, Quảng Nam, Sơn Na, Thái Bình, Bắc Giang, Vĩnh Long, Gia Định.

TRƯỞNG CHI ẤT.

ĐỜI THỨ 9.

Tiên tổ họ Đặng húy Chủng, ông là con thứ 2 của Quốc công Đặng Tất, đi thi trúng khoa Hoành từ, làm quan Hàn Lâm Viện Hiệu thảo. Ông cùng anh Đặng Dung phò tá vua Trùng Quang. Sau vì ông Đặng Dung bị giặc Minh bắt, ông về ẩn ở chùa Hương Tích, làm Thiền sư. Sau thấy không được yên ổn, ông quay về ẩn dật tại Vô Điền, lập nghiệp khai hoang, xây dựng nhà cửa, mở trường dạy học ở địa phương.

Tác phẩm văn học của ông còn lại:

Bài văn trên chuông chùa Sùng Quang.

Bài minh trên chuông chùa Hương Tích.

Đặng Chủng và phu nhân sinh 4 nam:

Con trưởng: Đặng Viên.

Cơn thứ 2: Đặng Nhàn.

Con thứ 3: Đặng Khiêm.

Con thứ 4: Đặng Bá.

CHI ẤT NHỊ.

ĐỜI THỨ 9.

Tiên tổ Đặng Nhàn, tự là Trọng Quang, con thứ 2 Hàn Lâm Viên Đặng Chủng. Ông có công đánh giặc được phong Phúc An hầu, sau di cư đến thôn Trung Lá xã Bạch Đường, huyện Nam Đường, xứ Nghệ An. Ông có hai con trai, hai con gái:

Con Trưởng: Đặng Trọng Tuân.

Con thứ: Đặng Trọng Trân.

Con gái: Đặng Thị Quê và Đặng Thị Anh.

Đặng Trọng Tuân di cư Hải Dương.

Đặng Trọng Tuân sinh Đăng Minh Bách và con gái là Đặng Thị Lam.

Đăng Minh Bích đậu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn triều Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484), làm quan đến Thượng thư bộ Hộ. Ông còn để lại 22 bài thơ ghi trong “Việt Thi lục”. Sau khi mất, ông được truy phong Đoan túc, Dực bảo trung hưng lĩnh phù tôn thần, gia phong Trung đẳng thần.

Chính thất phu nhân là Thái Thị Thường.

Thứ nhất phu nhân là Nguyễn Thị Lương.

Trắc thất phu nhân là Nguyễn Thị Thạc.

Thắc thất phu nhân là Hoàng Thị Tuấn.

Bốn bà sinh 9 nam 5 nữ.

Con trưởng:  Đặng Minh Ngọc.

Con thứ 2: Đăng Minh Châu.

Con thứ 3: Đặng Minh Tấn.

Con thứ 4: Đăng Minh Hoàn.

Con thứ 5: Đặng Minh Điển.

Con thứ 6: Đặng Minh Định.

Con thứ 7: Đặng Minh Ngoạn.

Con thứ 8: Đặng Minh Hiền.

Con trai út: Đặng Minh Triết.

Cả 9 con đều là Hiệu sinh trong làng, sau di cư đi nhiều nơi, cha con khoa hoạn, một nhà hiển vinh.

Con trai thứ 2 là Đặng Minh Châu, đậu Hương tiến khoa Mậu Dầu triệu Lề Thần tông hiệu Dương Hòa (?) (1638) làm quan Tả Thị lang,

Phu nhân là Nguyễn Thị Tùy, sinh 2 con trai:

Con trưởng Đặng Trọng Minh, con cháu ở phân tán tại: Thanh Chương, Long Sơn, Long Thái, Thái Sơn, Đặng Sơn.

Con thứ Đặng Trọng Chí, con cháu phân tán tại Trao Thanh, Nho Lâm, Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Nam Hà, Tiên Cầu, Lộc Sơn.

CHI ẤT TAM.

ĐỜI THỨ 9.

Đặng Kiêm là hậu duệ của Đô đốc Đặng Tướng Công, con cháu về sau di cư tới xã An Lạc, huyện Nghi Xuân.

CHI ẤT TỨ.

ĐỜI THỨ 9.

Đặng Bá Nam là con ông Đặng Minh Trí, tước Nghĩa Liệt hầu, sau phong tặng Hạc Quận công, đổi phong Hồng Quận Công, di cư Hoa Viên, Nghi Xuân.

Huyện Tam Kỳ, tỉnh Vĩnh Long, ngày tốt năm Canh Ngọ niên hiệu Gia Long thứ 10 (1811) triều vua nhà Nguyễn, cư sĩ, Cử nhân Đặng Tố Nga kính cẩn phụng sao.

Ngày tốt năm Minh mệnh Nguyên niên (1820 ), tri huyện Tam Kỳ tỉnh Vĩnh Long là Cử nhân Đặng Đình Huệ kính cẩn phụng sao.

BÀI TỰA.

PHẢ CHI TRƯỞNG HỌ ĐẶNG.

Đặng tộc đại tông phả là phả chi trưởng họ Đặng vậy. Họ ta vốn là người huyện Thiên Lộc (nguyên quán huyện Thiên Lộc, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa, Thiên Lộc nay là Hậu Lộc) lưu lạc ở ấp ta đến nay đã sáu, bảy đời. Xưa kia đã có gia phả ghi chép từ cụ Tị tổ là Cao Nghĩa Thần triều Trần do (Đặng) Đình Thự biên tập. Trên từ cụ Cao Nghĩa Thần, dưới đến hiển khảo, nguồn gốc từ đâu đến, sinh ra từ chi nhánh nào, phần mộ, ngày giỗ phần nhiều ghi thiếu hoặc vì khi nhà Trần mất nước, do nạn binh Minh, giặc Mạc mà mất, hoặc ghi chép thiếu sót.

 Chi trưởng ta từ cụ Đình Nghi đến cụ Đình Huấn từ trước đến nay mới sáu, bảy đời, tuy nghèo nhưng khoa hoạn theo nhau kế nối. Đời trước gây dựng, đời sau kế thừa, còn có chỗ tham khảo, hiệu đính. Tổ tông tích đức hàng trăm năm nay mới nảy nở.

Bắt đầu từ cụ Đình Huấn lập riêng phả chi trưởng, thế thứ trước sau, niên đại xa gần, phần mộ, ngày giỗ thường ngày phả cũ đã ghi chép lại thì đã rõ. Những điều phả cũ còn chưa ghi chép thì phụ thêm vào, tất cả đều kính cẩn biên chép. Ngỏ hầu con cháu hàng ngàn năm sau còn ngợi ca công lao vất vả cũng như khí tiết giản dị, cương nghị của tổ tiên. Những vị thành đạt đã có thê chiêm ngưỡng mà noi theo; những người hư hỏng cũng biết lấy làm răn, vậy nhân đây bày tổ lời nói này.

Cháu Đặng Đình Tướng, Tiến sĩ triều Lê, vậng mệnh sang sứ phương Bắc, Lại Bộ Thương thư Tả Thị lang phong Nam tước, đổi làm Tả Đô đốc ra trấn Tây Nam, thăng Tá Lý Công Thần Tiền Hòa doanh Thái phó làm bài tựa.

PHẢ HỆ HỌ ĐẶNG.

  Kính cẩn viết: Trên từ vị tổ đầu tiên Cao Nghĩa Thần, dưới đến tiên tổ là ông Đình Huấn thế thứ khá rõ ràng nên không chép lại mà tất cả ghi theo phả cũ.

Riêng từ ông Đình Nghi, chi ta bắt đầu từ ông sinh ra nên hệ cũ lấy ông là tiên tổ, tức khởi đầu từ ông Đình Nghi, ông là thế hệ thứ nhất của riêng chi trưởng.

Mùa thu nămQúy Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683).

Nam quân Đô đốc Tổng trọng thần Yên Quận công Đặng Đình Thự biên tập.

Ngày Dần tháng Giêng mùa Xuân năm Bính Dần niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1686). Đi sứ Bắc, Lại Bộ Thượng thư Tá Lý Thái phó Đặng Đình Tướng tục biên.

CHI TRƯỞNG.

TẠI MẠC XÁ - CHƯƠNG ĐỨC.

NAY ĐỔI LÀ LƯƠNG XÁ - CHÚC SƠN.

ĐỜI THỨ 1.

Tiên tổ họ Đặng húy Nghi là con trưởng ông Đặng Dung. Ông sinh 20 tháng 10 năm Tân Mùi (1391) đời Trần Thuận Tông niên hiệu Quang Khải (theo sử là Quang Thái ) năm thứ 2 (1389).

Ông sinh ra gặp thời loạn lạc, gia đình ly tán, hiển tổ là Đặng Tất chết oan. Ông thắp đèn 7 tuần (báo hiếu), được đội ơn ban chức Thị dưỡng  dưỡng được truy phong Phúc Thắng hầu, hưởng thượng thọ, giỗ mồng 2 tháng 3. Mộ táng xã Chúc Sơn, huyện Chương Đức tại nơi có tên là núi Hỏa Tinh, tục gọi là núi Nấm Chiêng, hình thế của ngọn núi là nhô lên, uốn lượn quanh co. Bên phải nhìn xuống là sông Ninh, như ôm lấy, xưa nay người lên chiêm ngưỡng đều coi là nơi danh thắng. Tương truyền mộ tổ họ Đặng phát tích từ vùng đất địa linh nhân kiệt này. Về lý quả là như vậy.

Ngạn ngữ có câu khắc tại bia:

Bao giờ núi Chúc hết cây

Sông Ninh hết nước, họ này hết quan .

Tức là đất này vậy.

Bà Chính thất họ Nguyễn hiệu Từ Hậu được phong Tòng lục phẩm An nhân, sinh con trai Đăng Khoan, giỗ 3 thang 6, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Bà thứ thất họ Nguyễn hiệu Từ Tâm được phong Thất phẩm An nhân, sinh Đặng Lâm, giỗ 23 tháng 8, mộ táng xứ Cửa Chùa chùa xã Chúc Sơn.

 ĐỜI THỨ 2.

Tiên tổ họ Đặng húy Khoan là con trưởng ông Đặng Nghi sinh năm Kỷ Sửu (1409 ) niên hiệu Trùng Quang. Năm đầu thời đó, đất nước loạn lạc, quân Minh tàn phá, nhân dân đói rét, gia đình bị tiêu hủy, cha mẹ ly tán. Ông giỗ ngày 15 tháng 8 mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn, được truy phong Thiện Khánh hầu.

Tổ bà họ Nguyễn hiệu Từ Liêm được phong tặng lục phẩm An nhân, giỗ ngày 6 tháng 10 mộ táng Cửa Chùa.

Tiên tổ họ Đặng húy Lâm là em ông Đặng Khoan, sinh ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1412 ) niên hiệu Trùng Quang năm thứ 4. Ông giỗ ngày 7 tháng 11 mộ táng xã Mỹ Lương, huyện Từ Thủy được truy phong Cao Sơn hầu.

Bà Chính thất họ Nguyễn hiệu Trang Tính, giỗ ngày mồng 7 tháng 3, mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

ĐỜI THỨ 3.

Tiên tổ họ Đặng húy Tuyên  sinh ngày 20 tháng10 năm Đinh Mùi. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng chăm học, thi đậu Hương cống, làm quan Tá lang Cẩn sự, được tăng Lương Mỹ hầu, giỗ ngày 26 tháng 6, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Tổ bà là Nguyễn Thị Hạnh hiệu Lưu Ngọc, phong tăng Lục phẩm An nhân, giỗ ngày 4 tháng 8 mộ hợp táng với ông Đặng Tuyên.

Tiên tổ họ Đặng húy Lội, lúc còn nhỏ tên là An, sinh năm Canh Tuất (1430) đời Lê Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên thứ 3. Ông tính khoan hòa, cần mẫn, được phong Thắng Phúc hầu, thọ 68 tuổi, giỗ ngày mồng 6 tháng 4, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Tổ bà hiệu là Từ Nhân, thọ 70 tuổi, giỗ ngày 20 tháng 10, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Minh sinh năm Canh Tuất (đáng lẽ ra là Canh Tý) đời Lê Thái Tổ niên hiệu Tuận Thiên năm thứ 3 (1430) được tặng Lương Thiệu hầu.

Tiên tổ họ Đặng húy Hoàn sinh năm Nhâm Tý. Ông thông minh nhân hậu, được phong tặng Đô đốc Khánh Hoàn hầu.

ĐỜI THỨ 4.

Tiên tổ họ Đặng húy Túc sinh ngày 20 tháng 8 năm Ất Mão, niên Thái Hòa đời vua Lê Nhân Tông (1442- 1453 ) tặng Nghiêm Túc hầu, gia tặng Đô đốc đồng trị, tả Đô đốc Thiếu bảo Nghiêm Quận công. Ông thọ 73 tuổi. Giỗ ngày 18 tháng 6, mộ tại xứ Ngọc Giả xã Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Phúc Sĩ  sinh ngày 15 tháng 3 năm Kỷ Mùi (Tỵ ?) đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (1449).

Tiên tổ họ Đặng húy Doãn sinh ngày 16 tháng 6 năm Đinh Tỵ (?) đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 5 (1447). Ông học thông minh nhưng thi không đậu.

Tiên tổ họ Đặng húy Chí sinh ngày 15 tháng 3 năm Tân Mùi niên hiệu Thái Hòa thứ 9 (1451), thi Hương trúng Cống sĩ, làm quan đến Tả Thị lang, phong tặng Khánh Thiện Hầu. Giỗ ngày 25 tháng Giêng, hưởng thọ 72 tuổi, mộ táng xứ Cửa Chùa, xã Chúc Sơn, sau cải táng tại xứ Ngọc Giả.

Tiên tổ tỷ (bà) Chính thất phu nhân hiệu Đoan Trang.

Giỗ ngày mồng 8 tháng 6, hưởng thọ 74 tuổi mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Khánh sinh ngày 18 tháng 4 năm Canh Ngọ đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 11 (1452), phong tặng Khánh Phúc hầu.

ĐỜI THỨ 5.

Tiên tổ họ Đặng húy Nghị lúc bé tên Luận, sinh năm Tân Tỵ, đời vua Lê Nhân Tông, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 10 (1479). Lúc nhỏ, ông thông minh khác thường, nhà nghèo nhưng hiếu học. Ông tu luyện võ nghệ, sức mạnh có thừa. Gặp thời loạn lạc, ông giúp nước an dân, được phong Thống lính quân Hải Quận công, sau vận mệnh (vua ) đến xứ Nghệ đánh giặc bắt tướng giặc Phạm Giang trước trận tại thôn Nghĩa Liệt ở Lam Thành, được phong sắc, trong sắc có câu (dịch nghĩa ):

Có công được phong bách hộ. Nay sắc

Giỗ mồng 10 tháng 10 mộ táng xứ Ngọc Giả xã Chúc Sơn.

Tiên tổ họ Đặng húy Điện sinh ngày 12 tháng 2 năm Canh Thìn đời vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ 11 (1480), phong Điện Dụ hầu, sau đổi là Nghiêm Dụ hầu, phong Đô đốc chỉ huy Thiêm sự.

Giỗ mồng 9 tháng 12, mộ táng tại Thịnh Phúc.

Tiên tổ họ Đặng húy Minh,  sinh ngày 22 tháng 6 năm Quý Mùi đời vua Lê Thanh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) phong tặng Minh sơn hầu, gia tặng Đô đốc Đồng tri.

ĐỜI THỨ 6.

Tiên tổ họ Đặng húy Huấn  sinh ngày 23 tháng 6 năm Kỷ Mão đời vua Lê Chiêu Tông năm Quang Triệu thứ 4 (1519). Năm ông 4 tuổi, thân phụ ông tử trận tại Nghệ An. Năm ông 9 tuổi, thân mẫu tạ thế. Ông được cụ Nghiêm Dụ công nuôi dưỡng. Ông tính thông minh luôn cố gắng hết mình để kế tục sự nghiệp tiền nhân. Ông là võ tướng tài hoa, phù Lê, diệt Mạc, làm quan đến chứ Hữu Đô đốc, tước Nghĩa Quận công, Tiên phong Vân nghĩa Vinh lộc đại phu, trung thành với chúa, coi sóc trong nội cung, quản đốc Thị hậu nội kiêm Quốc chính, Đô súy, gia phong Vũ Nghi tướng quân, trung hưng công thần đệ nhất.

Ông được truy phong Thái úy Nghĩa Quốc công, Hậu Trạch công Thượng đẳng Đại vương. Sử thời Hậu Lê có ghi: “ Con cháu ông Đặng Huấn đời đời vinh hoa phồn thịnh ”.

Ông mất ngày 18 tháng 6 năm Canh Dần đời vua Lê Thế Tông niên hiêu Quang Hưng thứ 13 (1590), hưởng thọ 72 tuổi. Mộ táng tại thôn Thịnh Phúc.

Phủ từ đường tại Mạc Xá nay đổi là Lương Xá phụng cúng tiên tổ Đặng Huấn, Đặng Tiến Vinh, Đặng Thế Tài.

Tiên tổ tỷ (bà) họ Lê húy Lư tự là Ngọc Huyền. Bà là con gái quan Thái tể Đôn Thuận Quận công Lê Bá Đễ, cháu gái quan Thượng tễ Diễn Quốc công Lê Bá Ly. Bà sinh năm Mậu Tuất (1538), mất ngày tháng 7 năm Đinh Mùi (1670), thọ 70 tuổi.

Tiên tổ họ Đặng húy Khiêm, lúc nhỏ là Khang. Ông là người có tư chất thông minh, dáng người đẹp đẽ, chỉ sống được 20 tuổi.

Tiên tổ họ Đặng húy Toàn, tự là Minh Châu, tặng là Toàn Phúc hầu, mất năm 14 tuổi, giỗ ngày 15 tháng 7. Mộ táng tại của chùa Chúc Sơn

Tiên tổ họ Đặng húy Tiến, sinh ngày 20 tháng 5 năm Quý Mùi niên hiệu Thống Nguyên đời vua Lê Cung Hoàng (523), phong tặng Thành Tín hầu, gia tặng Đô đốc Đông tri chỉ huy Thiêm sự Tả Đô đốc Thành Quận công.

ĐỜI THỨ 7.

Tiên tổ họ Đặng húy Vinh sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhăm Tuất (1562) đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Thiên Hựu. Ông được phong Bảo vệ Vương Thái bảo Hà Quận công, gia phong Thái úy Thái phó Tả Tư không Thượng trật, truy phong Thượng đẳng Đại vương. Ông mất ngày mồng 6 tháng 7 năm Ất Sửu (1625), hưởng thọ 64 tuổi.

 Tiên tổ tỷ (bà) họ Đỗ phong Nhị phẩm đoan nhân. Giỗ ngày 28 tháng 3. Mộ ông bà hợp táng xứ Đồng Quý.

Tiên tổ họ Đặng húy Ký sinh ngày 20 tháng 10 năm Bính Dần (1566) đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Thiên Hựu. Ông được phong Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu Thụy là Nhân Hậu, lại thụy là Thuần Tín.

ĐỜI THỨ 8.

Tiên tổ họ Đặng húy Thế Tài sinh năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng (1592). Ông có công phù Lê được phong Doanh Quận công, Dực Vận Công thần, truy phong Thái tễ Thượng đẳng Đại vương

Giỗ ngày 18 tháng Giêng

Phần mộ tại Núi Non Dài, Ngọc Giả, Chúc Sơn, Chương Đức.

Tiên tổ tỷ (bà) Trịnh Thị Ngọc Thạc phong Nhất phẩm phu nhân, Đoan trang công chúa.

Giỗ mồng 6 tháng 6.

Mộ táng xứ Cửa Chùa.

Tiên tổ họ Đặng húy Thế Khoa là con thứ ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Qúy Tỵ niên hiệu Quang Hưng (1593). Ông làm quan được phong tước Dực Vận, Tán trị Công thần, Tham Trung (Tụng ?), Binh Bộ Thượng thư, Liêm Quận công, truy phong Thái bảo Thượng trụ quốc Đại vương.

Giỗ ngày mồng 3 tháng 2, mộ thất truyền.

Tiên tổ Đặng Thế Khanh là con thứ ba của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng (1595). Ông làm quan đến Đô đốc triều Lê, truy phong Thái tể Khâm Quận công.

Tiên tổ Đặng Thế Trụ là con thứ tư của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Giáp Thìn (1604) niên hiệu Hoằng Định. Ông làm Đô đốc triều Lê tước Điện Lộc hầu, truy phong Đốc Bật trợ uy Điện Quận công. Giỗ ngày mồng 7 tháng 7.

Tiên tổ Đặng Thế Năng là con thứ năm của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Đinh Tỵ (1617) niên hiệu Hoàng Định. Ông được phong Hiệu Thắng hầu.

Tiên tổ Đặng Đình Phụng là con thứ sáu của ông Đặng Tiến Vinh, ông làm quan tới Quản lãnh tứ thành trấn thủ Sơn Tây, truy phong Nghĩa Hiệp Quận công.

Hoàng triều Cảnh Hưng vạn vạn năm ngày 15 tháng giêng năm Ất Sửu (1745).

Từ đây trở lên, cháu là Tổng trấn Nghệ An, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn kính căn phụng sao.

Từ đây trở xuống do Đặng Sĩ Hàn biên tập.

Nhân nơi bờ liễu gặp lúc thanh nhàn

Cửa son nghĩa tới cội nguồn, ngẫm kỹ công đức tổ tiên như núi Thái Sơn bàn thạch, nghìn vạn năm tích đức, tích thiện để lại cho con cháu đời đời.

Đó là quả phúc lớn.

Kính cẩn biên tập danh hiệu, công tích, sự nghiệp tổ tiên, lưu muôn đời cho con cháu để cho con cháu trông lên mà không vong ơn.

Ngày 15 tháng Giêng năm Ất Sửu (1745) triều vua Cảnh Hưng.

Cháu đời sau là Tổng trấn Nghệ An, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn biên tập.

ĐỜI THỨ 18.

Tiên tổ Đặng Đình Thự sinh năm Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631) đến năm Ất Mùi (1655) niên hiệu Thịnh Đức thứ 4 ông phò giá vua Thịnh Đức (Thần Tông  Lê Duy Kỳ ) nam chinh.

Đến năm Bính Thân (1656) niên hiệu Thịnh Đức 4, ông được làm phó tướng. Đến năm Đinh Dậu (1657), ông được thăng Đô đốc Thiêm sự. Tháng 9 năm đó ông đem quân dẹp giặc Mạc tại Cao Bằng, bắt sống được tướng Mạc là Luận Quận công Dương Đình Lý.

Triều đình luận công thăng ông lên hai bậc làm Nam quân Đô đốc Đồng tri.

Năm Chính Hòa thứ nhất (1680) đời vua Lê Hy Tông có sắc chỉ sai các quan trong triều trước bài vị Hậu Trạch Công vào thái miếu thờ phối hưởng.

Năm Qúy Hợi (1683) ông được thăng Thiếu phó.

Năm Ất Sửu (1685) ông được phong Thái bảo.

Như thế, ba năm liền ông được phong chức trọng quyền cao.

Ông sai con là Đặng Đình Tướng tục biên “Đặng tộc đại tông phả”. Chú họ là Đặng Tiến Bá trùng tu phủ từ đường thờ tiên tổ.

Ông làm trấn tủ Nghệ An 24 năm, để lại cho nhân dân Nghệ An và con cháu họ Đặng ngàn vạn ân đức.

Nhân dân thôn Triều Sơn, xã Nguyệt Áo, huyện Thiên Lộc lập đền thờ ông.

Có bài minh trên bia ghi rõ:

“Hữu công tất bảo

Tích thiện dư khương

Quỳnh cư vĩnh hảo

Lam thủy lưu hương

Ức niên phần bật

Vạn đại diễn hương

Thử công thử đức

Địa cửa thiên trường”.

Tạm dịch:

“Có công tất được báo

Tích thiện ắt có phúc lành

Như ngọc cần phải giữ

Để ngát hương sông Lam

Ngàn năm giúp quê hương

Danh tiếng lưu muôn đời

Ngàn năm công đức ấy

Mãi mãi cùng đất trời”.

Ông mất ngày 23 tháng Giêng năm Mậu Dần (1698), hưởng thọ 68 tuổi.

Tiên tổ tỷ ( bà ) là phu nhân Nguyễn Thị Điển, người xã Thượng Lâm huyện Mỹ Đức.

ĐỜI THỨ 19.

Tiên tổ Đặng Đình Tướng, ông là thứ ba của ông Đặng Tiến Thự. Ông sinh năm Kỷ Mùi niên hiệu Khánh Đức thứ nhất (1649) đời vua Lê Thần Tông.

Năm Cảnh Trị thứ 8 đời vua Lê Huyền Tông, khoa Canh Tuất (1670), ông đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, xuất thân, phụng mệnh đi sứ Bắc, ông làm quan đến Tả Thị lang, Thượng thư, thăng Đại Tư mã chưởng phủ sự.

Sau khi mất, truy phong Đại Tư không, Ứng Quận công, phong Phúc thần.

Ông mất ngày 15 tháng 5 năm Ất Mão (1735) niên hiệu Vĩnh Hựu Nguyên Niên.

Chánh thất phu nhân: Bùi Thị Khang thọ 61 tuổi.

Thứ nhất phu nhân: Phạm Thị Đằng sinh 3 con trai.

Đặng Đình Gián – Bảo Huân Quận công.

Đặng Đình Đế - Tổng binh Đồng tri Nhuận Phái hầu.

Đặng Đình Thức – Hình thuyên Câu kê Thái bộc Tự khanh.

Ngày lành mùa xuân năm Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Hưng 45 (1785).

(Người) Chi Giáp nhất, Thắng Vũ, Thắng Thiên Hùng Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông (Giản) kính cẩn phụng sao.

  Ngày nay đổi Đặng tộc phả hệ thành Đặng gia phả hệ toán chính thực lục quyển chi nhất thành bộ phả gồmg 6 quyển nhan đề: Đặng gia phả hệ toản chính thực lục.

Quyển I : Từ tiên tổ họ Đặng húy Nghi đến tiên tổ họ Đặng húy Nghị - Hải Quận công.

Quyển II: Hậu Trạch Nghĩa Quốc công Đặng Đình Huấn.

Quyển III: Hà Quận công Đặng Tiến Vinh.

Quyển IV: Doanh Quận công Đặng Thế Tài.

Quyển V: Yên Quận công Đặng Đình Thự.

Quyển VI: Dận Quận công Đặng Đình Miên.

Người chi giáp nhất là Thắng Vũ, Thắng Thiên Hùng Đô đốc, Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông (có người đọc là Giản) kính cẩn biên tập.

Huyện Tam Kỳ, tỉnh Vĩnh Long, ngày tốt năm Canh Ngọ niên hiệu Gia Long thứ 10 (1811) triều vua nhà Nguyễn, cư sĩ, Cử nhân Đặng Tố Nga kính cẩn phụng sao.

Ngày tốt năm Minh mệnh Nguyên niên (1820 ), tri huyện Tam Kỳ tỉnh Vĩnh Long là Cử nhân Đặng Đình Huệ kính cẩn phụng sao.

(Gia Tộc Họ Đặng).

 
Mộ Đặng Tất ở xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế.

Đặng Tất (1357-1409)

Tác giả: Lê Thí .

Đặng Tất (1357-1409) là danh tướng nước ta thời nhà Trần, sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc ở làng Tả Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc, châu Nghệ An (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Theo gia phả tộc Đặng thì tổ tiên 4 đời của Đặng Tất vốn cư ngụ tại Thăng Long sau đó mới di cư vào Nghệ An. Ông nội là Thám hoa Đặng Bá Tĩnh làm quan đến chức Hành khiển dưới triều nhà Trần. Đặng Tất thi đậu Thái học sinh thời nhà Trần và được cử làm quan trong triều, được Hồ Quý Ly tin dùng.

     Năm 1391, ông được bổ làm tri phủ Hóa Châu nay là vùng Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Năm 1402,  sau khi nhà Hồ đánh chiếm phần phía Nam của châu Hóa lập ra 4 phủ Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, Nguyễn Cảnh Chân được cử làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa còn Đặng Tất được bổ làm Đại tri châu Thăng Hoa nay thuộc vùng Thăng Bình, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Theo sử sách, hai nhà họ Đặng và Nguyễn có thân nhau từ trước nên từ đó Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân càng thân thiết và có uy tín lớn trong vùng.

     Nhân lúc nhà Hồ chưa ổn định, Chiêm Thành quấy rối phía nam. Hồ Quý Ly sai Hoàng Hối Khanh làm Tuyên úy sứ trấn thủ cả vùng Thăng Hoa. Đến Thăng Hoa, Hối Khanh chọn Đặng Tất, Phạm Thế Căng và Nguyễn Lỗ giúp việc cho mình.

     Năm Đinh Hợi (1407), nhà Minh xâm lăng nước ta. Cuộc kháng chiến chống quân Minh của hai cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương thất bại do không nắm được lòng dân, cả hai bị bắt đưa về Tàu. Quân Chiêm được sự hỗ trợ của nhà Minh nổi dậy đánh chiếm lại lộ Thăng Hoa (Nam Quảng Nam) uy hiếp Hóa Châu. Các di dân chạy tan cả ra phía Bắc. Hoàng Hối Khanh chạy về Hóa Châu. Đặng Tất, Nguyễn Lỗ cũng dẫn quân thủy bộ từ Thăng Hoa chạy ra lại Hóa Châu. Đặng Tất đi đường thủy về trước, Nguyễn Lỗ đi đường bộ về sau. Đến Hóa Châu, Trấn thủ Nguyễn Phong và Nguyễn Lỗ liên kết với nhau cự tuyệt không cho Đặng Tất vào thành. Ông giết Nguyễn Phong rồi đánh nhau với Nguyễn Lỗ. Lỗ thua đem cả gia quyến chạy trở lại vào Thăng Hoa đầu hàng quân Chiêm Thành. Cũng trong thời gian này ở phía Bắc, quân Minh âm mưu tiến quân vào Hóa Châu nhằm thống trị vùng đất này.

     Trước hoàn cảnh “lưỡng đầu thọ địch”, Đặng Tất phải dùng kế sách “trá hàng” quân Minh để củng cố lực lượng, đối phó với quân Chiêm ở phía Nam. Đặng Tất được tướng nhà Minh là Trương Phụ giao giữ chức Đại tri châu Hóa Châu. Ông cùng với quân dân Hóa Châu đã đẩy lùi được cuộc tấn công của quân Chiêm, ổn định được biên giới phía Nam và bắt đầu chăm lo xây dựng lực lượng với mưu đồ khởi nghĩa chống lại quân Minh.

     Cuối năm Đinh Hợi (1407)  tôn thất nhà Trần là Trần Ngỗi (con Trần Nghệ Tông) được lực lượng của Trần Triệu Cơ tôn làm minh chủ, dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh ở Mộ Độ (nay là xã Yên Mô, thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) xưng làm Giản Định Đế, lập ra nhà Hậu Trần. Sau khi khởi nghĩa, quân Giản Định Đế giải phóng được một số vùng ở Ninh Bình nhưng sau đó bị quân Minh tấn công  phải kéo về Nghệ An. Nghe tin, Đặng Tất liền giết hết quân Minh ở Hoá Châu rồi đem quân ra Nghệ An hợp với Giản Định Đế mưu sự khôi phục nhà Trần. Đặng Tất được Giản Định Đế phong làm Quốc Công.  Ông cũng đã gả con gái út của mình là Đặng Thu Hạnh cho Giản Định Đế để khẳng định sự liên kết và xây dựng niềm tin cho lực lượng kháng chiến. Sau sự kết hợp này, nhiều tướng lĩnh đem quân hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, trong đó có Nguyễn Cảnh Chân, là một tướng tài, nhiều mưu kế lại là bạn tâm phúc của Đặng Tất.

     Năm Mậu Tý (1408), Đặng Tất dẫn nghĩa quân tiến đánh Diễn Châu, Nghệ An giết chết ngụy quan Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu, Nghệ An được giải phóng. Tháng 7/1408, Đặng Tất dẫn quân vào Tân Bình (Quảng Bình), đánh tan quân Minh bắt Phạm Thế Căng, Phạm Đống Cao đưa về Nghệ An xử chém. Sau đó, nghĩa quân tiến ra giải phóng Thanh Hóa. Nghĩa quân đã làm chủ một vùng rộng lớn kéo dài từ Hóa Châu (Huế) ra đến tận Thanh Hóa. Nhân thế thắng, Giản Định Đế ra lệnh cho Đặng Tất mở cuộc tấn công ra Bắc nhằm tiêu diệt giặc Minh, giải phóng Thăng Long. Nghĩa quân kéo đến Tràng An (Ninh Bình), hào kiệt các vùng kéo đến rất đông, lực lượng nghĩa quân ngày càng mạnh. Đặng Tất cho quân tấn công vào Bình Than, Hàm Tử, Tam Giang, đánh phá vào ngoại vi Đông Quan.

     Nhà Minh nghe tin nghĩa quân Giản Định Đế có sự phò tá của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân rất lớn mạnh, giải phóng nhiều vùng rộng lớn nên vội vàng sai Tổng binh Kiểm Quốc công Mộc Thạnh, Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn mang 5 vạn quân sang chi viện, hợp cùng 5 vạn quân do Lưu Nghị và Lưu Dục đang trấn đóng ở Đông Đô thành một đạo quân hùng hổ hơn 10 vạn, quyết bóp nát lực lượng khởi nghĩa của nhà Hậu Trần, bắt sống Giản Định Đế và Đặng Tất. Ngày 14 tháng Chạp năm Mậu Tý (30/12/1408) quân thủy bộ hai bên chạm nhau tại bến đò Bô Cô trên sông Đáy (nay thuộc xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Đặng Tất sai Đặng Dung chỉ huy thủy quân, đóng cọc nhọn dưới lòng sông rồi dùng thuyền nhẹ, lợi dụng nước triều lên cao, gió lớn, đánh cho thủy quân Minh tan tác. Còn quân bộ do đích thân Đặng Tất chỉ huy, dựa vào chiến lũy hai bên bờ sông, lợi dụng lau sậy bạt ngàn chung quanh, quân ta mai phục rồi theo trống lệnh của Giản Định Đế xông ra đánh với khí thế dũng mãnh. Từ giờ Tỵ (9-11g) đến giờ Dậu (17-19 giờ) ngày hôm đó, nghĩa quân đã chiến đấu mưu lược, anh dũng tiêu diệt toàn bộ binh lực của giặc Minh, các tướng tài của Minh như Lữ Nghị, Lưu Tuấn, Lưu Dục, Liễu Tông đều bị giết. Mộc Thạnh may mắn thoát chết, dốc tàn quân chạy trốn vào thành Cổ Lộng, sau nhờ có viện binh tiếp cứu, mới kéo được về thành Đông Đô để cố thủ. Chiến thắng vang dội ở Bô Cô cho thấy tài thao lược quân sự và lòng dũng cảm của Đặng Tất.

     Sau đại thắng Bô Cô, Giản Định Đế định thừa thắng tiến lên đánh chiếm lấy Đông Đô, trái lại Đặng Tất cho rằng lực lượng ta chưa đủ mạnh để đè bẹp được quân Minh do vậy cần có thời gian để dưỡng binh và củng cố lực lượng, cũng như để truy bắt cho hết bọn giặc Minh và tay sai. Do bất đồng  về chiến pháp giữa Giản Định Đế và Đặng Tất đã làm hỏng thời cơ chiến thắng, gây tổn thất lớn cho cuộc khởi nghĩa. Trong khi vua tôi còn đang dùng dằng thì quân Minh đưa viện binh đến cứu thành Cổ Lộng và đón tàn quân về cố thủ ở Đông Quan, củng cố lại lực lượng chuẩn bị phản công. Trước tình thế như vậy, lòng ngờ vực của Giản Định Đế trỗi dậy, bọn hoạn quan là nội thị Nguyễn Phần, hiệu sinh Nguyễn Mộng Trang lại ghen ghét, gièm pha: “Tất và Cảnh Chân chuyên quyền, bổ quan người này cất chức người kia, nếu không tính sớm đi sau này khó long kiềm chế” (1) nên Giản Định Đế đã tìm cách ám hại Đặng Tất  và Nguyễn Cảnh Chân. Tháng 3/1409, khi thuyền Giản Định Đế đóng trên sông Hoàng Giang (Ninh Binh), Giản Định Đế cho gọi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đến để bàn việc quân. Hai ông hoàn toàn không hay biết âm mưu của Giản Định Đế, Đặng Tất bị Giản Định Đế cho quân bóp cổ chết tại chỗ, quẳng xác xuống sông, Nguyễn Cảnh Chân chạy trốn lên bờ cũng bị đuổi theo chém chết.  Sau cái chết của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, con trai hai ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bỏ Giản Định Đế, đưa quân về Thanh Hóa, tôn Trần Quí Khoách lên ngôi vua đặt niên hiệu là Trùng Quang Đế, tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Minh.

     Sử thần Ngô Sĩ Liên đã nhận định về cái chết của Đặng Tất: “Vua may thoát nguy hiểm cầu người giúp nạn nước được cha con Đặng Tất có tài làm tướng, cha con Cảnh Chân có mưu lược, đủ lập được công khôi phục, dựng nghiệp trung hưng, trận Bô Cô, thế nước lại đầy, thế mà nghe lời dèm của kẻ hoạn quan, một lúc giết hai người bề tôi phò tá, tự mình chặt bỏ chân tay vây cánh, thì làm sao nên việc được”(2).

     Cái chết oan nghiệt của Đặng Tất đã dẫn đến sự tan rã, phân hóa trong toàn bộ nghĩa quân. Năm 1409, Giản Định Đế bị quân Minh bắt, Trùng Quang Đế lui về về giữ Nghệ An, đánh nhau với  quân Minh được vài năm. Năm 1413, quân Minh đánh vào Nghệ An, Trùng Quang Đế chạy về Hóa Châu. Mộc Thạnh cùng Trương Phụ hợp cùng các tướng tấn công Hóa Châu. Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị và vua Trùng Quang cùng bị bắt. Nhà Hậu Trần chấm dứt.

     Đặng Tất là tướng giỏi nhất của nhà Hậu Trần. Thực tế chiến sự cho thấy sau khi ông mất không có ai xứng đáng thay thế. Các tướng Đặng Dung con ông, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, Nguyễn Biểu đều có thừa lòng dũng cảm và trung nghĩa, nhưng tài năng chưa sánh được với ông. Từ chỗ bị từ chối không cho vào thành, Đặng Tất đã lật ngược thế cờ giết Nguyễn Phong, đuổi Nguyễn Lỗ chạy trốn. Từ chỗ quân Hậu Trần chỉ có một nhóm nhỏ bị dồn vào Hóa Châu, nhờ một tay Đặng Tất chỉ trong 1 năm đã giết chết các tên Việt gian Phạm Thế Căng, Trần Thúc Giao, Trần Nhật Chiêu, đánh như chẻ tre ra bắc, áp sát Đông Quan, một trận Bô Cô mà giết chết cả bốn tướng tài của nhà Minh như Lưu Tuấn, Lưu Dục, Lữ Nghị, Liễu Tông.  Sau khi ông mất quân Hậu Trần bị thua mãi, bị dồn trở lại  Hóa Châu và đi đến diệt vong, bản thân Giản Định Đế cũng phải trả giá đắt.

     Đặng Tất có hai người em  là Đặng Đức, và Đặng Quý  từng làm Trấn thủ Hóa Châu, các con ông là Đặng Dung, Đặng Chủng, Đặng Liên, Đặng Thát, Đặng A Thiết, Đặng A Noãn, Đặng Thu Hạnh tất cả đều tham gia giúp nhà Hậu Trần.

     Sau khi chết, thi hài của Đặng Tất được các con ông mang về chôn ở làng Thế Vinh, huyện Sĩ Vang, ngoại thành Hóa Châu. Mộ ông hiện nay vẫn còn, nằm ven bờ nam sông Hương, cách bến đò Sình khoảng 3 km thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Dân trong vùng tôn ông làm Thành Hoàng.

     Năm 1428, Lê Lợi sau khi đánh xong quân Minh, ban chiếu cho hai cha con ông (con ông là Đặng Dung) biển vàng tám chữ: "Tiết liệt cương trung - Trung thần hiếu tử", truy phong Đặng Tất làm Đại quốc công, Khuông quốc đại vương Thượng đẳng tôn thần; cho lập đền thờ tại quê hương Tả Thiên Lộc, cấp 200 mẫu ruộng lộc điền, giao cho huyện xã hằng năm cúng tế.

     Vua Lê Thánh Tông ban chiếu tặng cha con ông hai câu đối:

     Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ

     Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng

     Dương Văn An (3) trong Ô Châu cận lục đã không tiếc lời ca ngợi hai cha con Đặng Tất, Đặng Dung:

     "Bởi cớ cha con Đặng Tất đương lúc vận nhà Trần sắp hết mà hai người đều tận tâm kiệt lực đánh giặc cứu quốc, nâng vận nước khi sắp hết, chống nhà lớn lúc đã xiêu. Hai vua Giản Định và Quý Khoách vì thế mà trung hưng được một thời gian ngắn, chính là nhờ sức của nhà họ Đặng vậy" (4).

     Danh sĩ Bùi Dương Lịch (5) thời Lê mạt viết về ông trong sách Nghệ An ký như sau:

     “Nhà Trần đã mất mà khôi phục được tông thống trong 7 năm, sự nghiệp oanh liệt của... ông cùng trời đất bất hủ"(6)

     Ngoài nhà thờ ở huyện Can Lộc, quê hương ông, được Nhà nước công nhận là Di tích Văn hóa - lịch sử cấp quốc gia, nhiều nơi trên cả nước cũng xây dựng đền để thờ ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Q Thắng trong tác phẩm Quảng Nam - Đất nước và Nhân vật (7) cho biết trước đây ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam có đền thờ hai cha con Đặng Tất, Đặng Dung. Hiện nay nhiều thành phố lớn trên cả nước có biển đường mang tên hai cha con Đặng Tất, Đặng Dung.

Chú thích:

    (1) Đặng Huy Phúc, Giản Yếu sử Việt Nam, Nxb Thời Đại, Sài Gòn 2010, trang 244.

         (2) Đại Việt Sử ký Toàn thư, bản dịch của Đào Duy Anh, Nxb Hồng Bàng, năm 2012, trang 464.

    (3) Dương Văn An (1514-1591) quê Tuy Lộc, xã Lộc Thủy, huyện lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Thi đỗ tiến sĩ năm Đinh Mùi (1547), từng làm Thượng thư bộ Lại.Tác giả Ô Châu cận lục.

     (4) Bản dịch của Bùi Lương, Nxb Văn Hóa Á châu, Sài Gòn 1961, trang 86

     (5)Bùi Dương Lịch (1757-1828) quê làng Yên Đồng, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Thi đỗ Cử nhân, từng làm Đốc học Nghệ An, Phó Tế tửu Quốc tử giám dưới thời Gia Long.

     (6) Đặng Huy Phúc, Danh nhân Đặng Tất, Đặng Dung, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005, các trang 53,55.

     (7) Nxb Văn hóa Thông tin năm 2008.

Lăng mộ Hậu Phi Đặng Thị Thúy Hạnh, con gái út của Quốc Công Đặng Tất, Hậu Phi của Giản Định Đế.

Đặng Dung (1373?-1414)*

Tác giả: Lê Thí .

Đặng Dung (1373-1414) là danh tướng dưới thời Hậu Trần, quê làng Tả Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc, châu Nghệ An nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Theo gia phả tộc Đặng thì tổ tiên 5 đời của Đặng Dung vốn cư ngụ tại Thăng Long sau đó mới di cư vào Nghệ An. Ông sinh năm Quý Sửu, 1373, trong một gia đình đại quý tộc. Ông cố là Thám hoa Đặng Bá Tĩnh làm quan đến chức Hành khiển dưới triều nhà Trần. Cha là Đặng Tất thi đậu Thái học sinh thời nhà Trần và được cử làm Đại tri châu Hóa Châu (Thừa Thiên - Quảng Trị) rồi Thăng Hoa (nam Quảng Nam), sau này được Giản Định Đế phong làm Quốc công, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh, giành độc lập.

     Dưới thời nhà Trần, Đặng Dung giúp cha cai quản vùng Hóa Châu. Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần và đánh chiếm vùng Nam châu Hóa của người Chiêm lập bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, ông theo cha vào cai quản vùng đất mới Thăng Hoa. Khi nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung lại cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi tức Giản Định Đế.

     Cuối năm 1408, Đặng Dung được cha phân công chỉ huy thủy quân đánh tan thủy quân nhà Minh trong trận Bô Cô trên sông Đáy (nay là xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Ông dùng cọc nhọn đóng xuống dòng sông, lợi dụng khi nước triều xuống thấp, dụ quân địch vào, sau đó cho quân lính dùng thuyền nhẹ tấn công. Quân địch bị vướng cọc nhọn thiệt hại nặng nề. Sau khi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân bị Giản Định Đế giết hại một cách oan ức, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị (con Nguyễn Cảnh Chân) bỏ Giản Định Đế đem quân bản bộ về Thanh Hóa, tìm Trần Quý Khoáng (Trần Quý Khoách) con thứ của Mẫn vương Trần Ngạc, cháu của vua Trần Nghệ Tông, rước vào Chi La, Nghệ An (nay là Đức Thọ, Hà Tĩnh), tôn lên làm vua, lấy hiệu là Trùng Quang Đế, cầm đầu cuộc kháng chiến chống quân Minh. Trùng Quang Đế phong cho Đặng Dung làm Đồng Bình chương sự (Tể tướng), Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, thống lĩnh toàn bộ lực lượng kháng chiến. Lực lượng kháng chiến lớn mạnh nhanh chóng. Đặng Dung đem quân giải phóng nhiều nơi như Nghệ An, Quảng Bình, Thuận Hóa. Trong khi lực lượng của Trùng Quang Đế lớn mạnh và thu được nhiều thắng lợi thì lực lượng của Giản Định Đế lại suy yếu bị quân Minh truy đánh phải lui về giữ thành Ngự Thiên (nay là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Nhằm thống nhất lực lượng kháng chiến, Đặng Dung, gạt thù riêng bàn với Trùng Quang Đế cho Nguyễn Súy đánh úp thành Ngự Thiên, rước Giản Định Đế về Chi La, tôn làm Thái Thượng hoàng.

     Năm 1409, Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị và Trùng Quang Đế chỉ huy một cánh quân tiến ra giải phóng vùng Bình Than (Hải Dương, Quảng Ninh); cánh quân khác do Giản Định Đế và Nguyễn Súy chỉ huy tiến đánh  Hải Dương. Đặng Dung đưa quân chiếm giữ Hàm Tử, uy hiếp Đông Quan. Mộc Thạnh đánh không nổi, phải cầu cứu. Trương Phụ lại đem viện binh sang. Tháng 8/1409 Giản Định Đế bị bắt ở Nho Quan (Ninh Bình), bị đưa về Kim Lăng và giết chết. Tháng 9, Trương Phụ vây đánh Đặng Dung ở Hàm Tử. Vì thiếu lương thực nên Đặng Dung phải lui quân về Thanh Hóa. Quân Trương Phụ lại tấn công, Đặng Dung phải lui về Nghệ An. Đầu năm 1410, Đặng Dung lại tiến quân ra Thanh Hóa rồi hợp cùng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy giải phóng vùng Đồng bằng Bắc Bộ (Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định).

     Năm 1411, Trương Phụ đem quân đánh Thanh Hóa, Đặng Dung đánh không lại phải lui về Nghệ An. Tháng 8/1413, Trương Phụ đem quân đánh vào Nhật Lệ (Quảng Bình) rồi tiến đánh Thuận Châu (Quảng Trị). Đặng Dung cho quân dùng thuyền nhỏ bất ngờ đánh thẳng vào thuyền trại của Trương Phụ đang đậu trên sông Ái Tử (Quảng Trị), đánh chìm và đốt cháy nhiều thuyền giặc. Đặng Dung cầm gươm nhảy lên thuyền Trương Phụ định bắt sống y nhưng vì trời tối nhận không ra, Trương  Phụ đã lẻn xuống thuyền nhỏ chạy trốn. Hôm sau giặc phản công Đặng Dung không cầm cự được phải chạy vào vùng rừng núi để cố thủ. Sau đó vào cuối năm 1413 (tháng 12) cả Đặng Dung lẫn Trùng Quang Đế, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy cùng bị bắt. Tháng 4/1414, Đặng Dung cùng Trùng Quang Đế và Nguyễn Súy bị giải sang Kim Lăng. Dọc đường tất cả đều nhảy xuống sông tuẫn tiết.

     Nhận định về cái chết của Đặng Dung, sử gia Trần Trọng Kim đã viết “Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc,tỉnh  Hà Tĩnh...” (1)

     Gần đây, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần, trong sách “Danh tướng Việt Nam” có viết: “Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung Đặng Dung đã vượt lên trên tất cả, trước sau vẫn giữ vững phẩm cách đường đường của một vị tướng” (2).

     Năm 1428, Lê Lợi sau khi đánh xong quân Minh, ban chiếu cho Đặng Dung và cha là Đặng Tất tấm biển vàng có tám chữ: "Tiết liệt cương trung - Trung thần hiếu tử", và cho lập đền tại quê hương hai ông ở Tả Thiên Lộc (Hà Tĩnh) để thờ, cấp 200 mẫu ruộng lộc điền, giao cho huyện xã hằng năm cúng tế. Ngôi đền này hiện nay được Nhà nước công nhận là Di tích Văn hóa - Lịch sử cấp quốc gia.

     Vua Lê Thánh Tông ban chiếu tặng cha con ông hai câu đối:

     Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ

     Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng

     Nhiều nơi cũng lập đền thờ hai cha con ông và có đặt bảng đường mang tên Đặng Dung. Nhà nghiên cứu Nguyễn Q Thắng trong tác phẩm “Quảng Nam: Đất nước & Nhân vật” (3) cho biết trước đây ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam có đền thờ hai cha con Đặng Tất và Đặng Dung.

     Không những là vị tướng với những chiến công lừng lẫy, người anh hùng đã “vị quốc vong thân”,  Đặng Dung còn là một nhà thơ với bài “Cảm hoài” nổi tiếng, được truyền tụng qua nhiều thế hệ (4). Tuy chỉ bài thơ duy nhất nhưng với bài thơ Cảm hoài, tên tuổi của Đặng Dung đã có chỗ đứng trong lịch sử văn học và trong lòng người đời sau. Đây là bài thơ tự sự, ông viết theo thể thất ngôn bát cú:

     Nguyên tác:

     感懷

     世事悠悠奈老何

     無窮天地入酣歌

     時來屠釣成功易

     運去英雄飲恨多

     致主有懷扶地軸

     洗兵無路挽天河

     國讎未報頭先白

     幾度龍泉戴月磨

     Phiên âm Hán - Việt:

     Cảm hoài.

     Thế sự du du nại lão hà?

     Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.

     Thời lai đồ điếu thành công dị,

     Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

     Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

     Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

     Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

     Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

     Nhà thơ Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu dịch:

     Việc đời man mác, tuổi già thôi!

     Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.

     Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,

     Tan tành sự thế luống cay ai!

     Phò vua bụng những mong xoay đất,

     Gột giáp sông kia khó vạch trời!

     Đầu bạc giang san thù chửa trả,

     Long Tuyền mấy độ bóng trăng soi.

 Nhận định về bài thơ “Cảm  hoài” của Đặng Dung, Tiến sĩ Lý Tử Tấn,  Phó Nguyên soái Tao Đàn dưới thời Lê Thánh Tông, bạn đồng khoa với Nguyễn Trãi đã viết:"Phi hào kiệt chi sĩ bất năng!" (Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi bài thơ này!)

     Ngày nay, “Từ điển văn học” (bộ mới) (5), đã nhận định về bài Cảm hoài:“Tuy là thơ của một người... ôm hận vì bất lực trước thời thế, người đọc vẫn thấy toát lên ở đây tình cảm cao cả tràn khắp đất trời, đó là lòng yêu nước thiết tha của một tráng sĩ vì nước bôn ba, là niềm tin và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc qua hình tượng rất đẹp, rất thơ:“Mấy phen mang gươm Long Tuyền mài dưới trăng”.

     Đặng Dung có 4 người con trai là: Đặng Nghi, Giám sinh Quốc tử giám Đặng Địch Quả, Đặng Di, Hoàng giáp Đặng Công Thiếp.

     Hậu duệ của Đặng Dung sau này có nhiều người nổi tiếng như: Tiến sĩ Đặng Minh Khiêm (1457-?) Hoàng giáp Đặng Chiêm (1428-?), Thái Úy Đặng Huấn (?-1583),Tiến sĩ Đặng Đình Tướng (1649-1735), Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai (1902-1984), Tổng bí thư Trường Chinh (Đặng Xuân Khu, 1908-1988),Tiến sĩ Đặng Lương Mô(1930-…), Tiến sĩ toán học Đặng Đình Áng (1926-…).

Chú thích:

    * Phần lớn tài liệu không thấy đề cập đến năm sinh của Đặng Dung. Chúng tôi dựa vào “Địa dư chí Thừa Thiên-Huế”. Tài liệu này cho rằng ông sinh năm 1373, như vậy khi sinh ông Đặng Tất mới có 16 tuổi (Đặng Tất sinh 1357).

     (1) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 214

     (2) Tập IV, Nxb Giáo Dục, 2006, trang 236

     (3) Nxb VHTT, năm 2001.

     (4) Bài thơ này được chép trong tập Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1784)

     (5) Nxb Thế Giới năm 2005.

Nhà thờ Đặng Dung ở xã Yên Trị, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.(Tương truyền là đền được nhân dân xây dựng khi Đặng Dung còn sống để nhớ ơn ông đã đến đây phát chẩn cứu đói và cho quân sĩ tôn cao đê giúp nhân dân chống lụt).

Đền thờ Thiếu bảo Liêu Quận Công Đặng Sĩ Vinh (1685-?), hậu duệ của Quốc Công Đặng Tất.


Đền thờ ngài Thái Nhạc Quận Công Đặng Sĩ Hàn (1727-?).

Nhà thờ họ Đặng ở Nghi Xuân - Hà Tĩnh.

Nam Phương Linh Từ – Nhà Thờ Họ Đặng Ở Đồng Tháp như một “biệt phủ” được nhiều người gọi là “cố đô Huế” giữa Tây Nam Bộ với khung cảnh khiến nhiều người choáng ngợp khi ghé thăm.

Quần thể Nam Phương Linh Từ được khởi công xây dựng từ ngày 30/10/2009 trên diện tích 5 hecta, tọa lạc tại xã Long Hưng A, H.Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, với tổng kinh phí hơn 300 tỷ đồng, do doanh nhân Đặng Phước Thành (Chủ tịch HĐQT Vinasun Corp) phát tâm xây dựng.

 





Tượng Thủy tổ họ Đặng phía trong điện thờ .

Xin theo dõi tiếp BÀI 31. Thân ái, dienbatn.

Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 29.

9/26/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 29.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

PHẦN V. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN THẠCH HÀ.

PHẦN VI. MỘT SỐ DI TÍCH DANH NHÂN KHÁC
I. MỘ VÀ ĐỀN THỜ TRẦN TỊNH .
II. MỘ VÀ ĐỀN THỜ BÙI CẦM HỔ.
III. MỘ VÀ ĐỀN THỜ PHAN KÍNH.


Phan Kính (1715-1761), tự là Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, đỗ Thám hoa và làm quan dưới thời vua Lê Hiển Tông thuộc vương triều Nhà Lê Trung Hưng. Ông từng đi sứ Nhà Thanh và được hoàng đế Càn Long trọng tài đức và phong là "Lưỡng quốc đình nguyên Thám hoa". Ông sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng, cha ông là Phan Quán làm quan đến chức Đông Các Đại Học Sĩ.

Năm ất Mão 1735, Phan Kính đậu cử nhân tại Trường thi Nghệ An.

Năm 1744, ông thi Hội đỗ Tiến sĩ và thi Đình đứng thứ nhất. Năm đó không lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn nên ông được vua phê chuẩn: Đình nguyên Thám hoa.

Năm 1745, ông được bổ nhiệm đi kinh lý Nghệ An với chức vụ Tuyên uý phó sứ.

Năm 1748 ông lại được cử đi làm chức Hiệp đồng trấn Sơn Tây.

Năm 1759, ông được chúa Trịnh Doanh cử lên làm Đốc đồng Tuyên Quang.

Vào khoảng những năm 1759, 1760 vua nhà Thanh biết tài của Phan Kính, nên đã phong cho ông là "Lưỡng quốc đình nguyên Thám Hoa" ban tặng ông một áo gấm màu vàng (cẩm bào) và một bức trướng ghi dòng chữ: "Thiên triều đặc tứ, Bắc đầu dị nam, nhất nhân nhi dĩ" (Thiên triều đặc ban, phía nam bắc đầu, chỉ một người thôi).

Ngày 7 tháng 7 năm 1761, ông lâm bệnh nặng và qua đời tại quân doanh Hưng Hóa.

Năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783) Vua Lê Hiển Tông phong sắc cho ông là "Thành hoàng hiệu Anh Nghị Đại Vương" để ghi nhớ công lao nội trị và ngoại giao của Thám hoa Phan Kính.

Đền thờ Phan Kính tại xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia (quyết định của Bộ Văn hóa Thông tin số 776 ngày 23-6-1992).

Tác phẩm

Kinh truyện tự sự

Dĩ trực thi tập

Vịnh cổ thái lão

Vĩnh gia Thám hoa Phan Kính truyện

Phan Kính hội đình thi văn.

Cuộc đời Đình nguyên Thám hoa Phan Kính đã để lại nhiều giai thoại đẹp đẽ và kỳ bí. Nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày mất của danh nhân ( 06/12/2015), xin cung cấp cho đọc giả một vài mẩu chuyện được lưu lại trong gia phả cũng như dưới dạng truyền ngôn của bà con trong làng và trong dòng họ. Phan Kính – Wikipedia tiếng Việthttps://vi.wikipedia.org)

GIAI THOẠI VỀ THÁM HOA PHAN KÍNH.

   Phan Kính ( 1715- 1761) tự là Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 06/12/1715, quê làng Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Sơn ( nay là xã Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh). Với tài cao học rộng, Cụ  thi đỗ Đình nguyên Thám hoa năm 1743, từng đảm nhận nhiều trọng trách của triều đình đương thời, để lại nhiều dấu ấn trên con đường võ công cũng như văn nghiệp. Vua Càn Long mến phục tài năng của cụ Phan nên đã gia phong danh vị “ Lưỡng quốc đình nguyên Thám hoa" tặng áo cẩm bào và  bức trướng, có ghi dòng chữ “ Thiên triều đặc tứ Bắc Đẩu dĩ Nam nhất nhân nhi dĩ” (về phía Nam sao Bắc Đẩu chỉ có một người mà thôi). Sau khi Cụ mất, vua Lê Hiển Tông và Minh đô vương Trịnh Doanh đã tự tay đề bức trướng phúng viếng: " Lưỡng đồ văn hữu vũ - Vạn lý hiểm vy di" (Hai đường văn lẫn võ – Vạn dặm hiểm lại bình), ban sắc truy phong chức Hữu thị lang Bộ hình, tước Quỳ dương bá, thụy Trung hiển. Năm 1783,  vua Lê Hiển Tông phong sắc tôn cụ là Thành hoàng, gia phong  là “Anh nghị đại vương”.Sắc phong mỹ tự của vua Cảnh Hưng năm 1783 đã viết: “…Tướng công văn tài đứng hàng đầu nho sĩ, võ lược xếp vào loại tướng giỏi, được trong triều ngoài quận kính trọng, là người có danh vọng cao như sao Bắc Đẩu trong số các bậc sĩ phu ở trời Nam. Chốn miếu đường cũng như nơi chiến địa đều lẫy lừng tiếng thơm, một miền biên thùy phía Bắc đều khen tài lạ. Từng được ban khen vinh hiển. Sống vẻ vang chết cũng vẻ vang nên cho được hưởng lộc đời đời…”. Năm 1992, nhà thờ Phan kính được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia.

 Cuộc đời Thám hoa Phan Kính đã để lại nhiều giai thoại đẹp đẽ và kỳ bí. Nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày mất của danh nhân ( 06/12/2015),  xin cung cấp cho đọc giả một vài mẩu chuyện được lưu lại trong gia phả cũng như dưới dạng truyền ngôn của bà con trong làng và trong dòng họ:

1. Thần đồng Lai Thạch.

Năm Nhâm Dần (1722) trong xã Lai thạch có kỳ thi sát hạch, năm ấy cụ Phan Kính mới lên 8 tuổi, biết mình chưa đủ tuổi nên cụ đã bí mật xin ghi tên dự thi. Đề thi là một bài thơ thất ngôn và một bài văn sách. Sau khi công bố kết quả, người cậu ruột là Nguyễn Quỳnh (Giám sinh Quốc Tử giám) biết chuyện, tìm đến huấn đạo xem bài thi của cháu, thấy bài thơ thất ngôn ca ngợi thời Đường ngu có câu:

Đệ nhất hoa huân thâm hoán tưởng

Khả tam sự nghiệp đốc tư duy….”

Nghĩa là:

Nhất lập huân công lòng nổi dậy

Ba kỳ sự nghiệp chí vươn lên

Người cậu rất ngạc nhiên và tự hào, và cảm ơn vị huấn đạo rồi nói: “Rất xứng đáng”.

2. Đối đáp khi thi Hương

Năm Giáp Thìn ( (1724), Phan Kính mới 10 tuổi đi dự kỳ thi hương trường huyện La Giang. Quan giám khảo là người Đức Quang (Đức Thọ) thấy Phan quá bé nhỏ, nhưng bài vở lại đạt loại ưu nên ra thêm một vế câu đối: “La Sơn, Lai Thạch thằng bé lách chách vào hạch trường Hương”. Sau vài giây duy nghĩ, Phan đối đáp luôn: “Nghệ An, Đức Quang, võng lọng nghênh ngang làm quan giám khảo”.

Thấy Phan nhỏ tuổi mà thông minh, có khẩu khí tốt, đối đáp chặt chẽ nên quan giám khảo lấy đỗ hàng đầu.

3. Qua đò ném dao “thề”.

Khoa thi Hội năm Quý Hợi (1743), sau nhiều phen lận đận nơi trường ốc, Phan Kính ra Thăng Long dự thi, khi qua bến đò Phù Trạch,  ra đến giữa sông Lam, Phan đã ném một con dao xuống sông thề rằng: “Thi hội, thi đình lần này không đỗ, ta quyết không trở về qua đây nữa”. Kết quả thi lần này, Cụ đã Đỗ Đình nguyên Thám hoa và được triều đình ban cấp ngựa tiền về quê vinh quy bái tổ.

Sắc phong của vua Cảnh Hưng “Cho đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh" năm 1743

4. Anh này thế nào cũng đỗ.

Năm Quý Hợi (1743), Phan Kính đi thi, trên đường đi gặp một ông phú hộ, biết tiếng cụ Kính là người hay chữ xin giúp một bài văn tế, biết phận nhà nghèo nên cụ giúp ngay, kiếm thêm chi phí đi đường.

Do vui chuyện cùng ông phú hộ mà đến trường thi bị trễ, sáng mai vào thi rồi mà chiều tối nay mới tới nơi, không kịp làm thủ tục, cổng trường đã đóng chặt. Phan Kính buồn chán tính đợi khoa sau.

Bất ngờ đêm ấy bỗng mưa to gió lớn, lều chõng của các sĩ tử bị đổ hết, ban giám khảo phải xin phép hoãn lại hôm sau. Nhà vua lệnh cho hoãn và cho xem xét các trường hợp đến chậm được vào thi. Khi xét cụ thể chỉ còn một sĩ tử duy nhất được xét đó là Phan Kính, chúa Trịnh nói: “Anh này thế nào cũng đỗ”. Quả nhiên Phan Kính đã đỗ Đình nguyên Thám hoa.

5. Người con gái cụ Thám.

Phan Kính có một người con gái tên là Phan Thị Toản. Sống trong một gia đình khoa bảng bên nội, bên ngoại đều quen với đèn sách văn chương, cô Toản cũng giữ được gia thanh, có tiếng tài sắc vẹn toàn. Nhiều chàng trai đã rắp ranh giương cung bắn sẻ, trong đó có cả chàng trai Nghi Lộc đã nổi danh thông minh linh hoạt ở đất Nghệ An đó là Nguyễn Hữu Chỉnh, sau là Bằng Quận công, có vai trò quan trọng ở thời đại Lê Trịnh – Tây Sơn cuối thế kỷ thứ XVIII.

Chuyện kể rằng: Nguyễn Hữu Chỉnh tìm đến gia đình cụ Phan Kính ở Vĩnh Gia để xem mặt cô Toản và tìm cách ướm lời. Cô Toản cũng được phép tiếp chuyện với các nhà danh sĩ lui tới để tìm ý trung nhân.

Vào một buổi hoàng hôn, trên trời đã xuất hiện nhiều ngôi sao lấp lánh. Nhìn cái hồ bán nguyệt có bậc tam cấp, cô Toản nảy ra ý tứ, đọc cho Nguyễn Hữu Chỉnh một vế đối:

Tây trúc trì trung, ba động bán thiên ngư đẩu.

(Rửa chân trong sao, lay động nửa trời tinh tú).

Nguyễn Hữu Chỉnh nghĩ mãi chưa ra, chợt nhìn vào tường nhà có treo một bức bản đồ trang trí nên ứng khẩu đáp lại:

Họa đồ bích thượng, tận thâu tứ hải sơn hà.

(Vẽ đồ trên vách, thu hết bốn bể non sông).

Cô Toản khâm phục tài năng của Chỉnh, khẩu khí đó chứng tỏ con người này có thể làm nên đại sự, có thể gửi phận trao duyên. Cô Toản kể lại với cậu ruột là Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử). Cậu nói với cháu: “Câu ra của cháu rất hay, mà câu đối lại cũng rất chỉnh, ý tứ văn chương đều xuất sắc cả, chỉ có điều … bản đồ thu hết sơn hà chẳng qua chỉ là một tờ giấy mà thôi”.

Cô Toản lẳng lặng ghi nhớ lời của cậu. Ít lâu sau, Nguyễn Hữu Chỉnh cho người sang xin ý kiến để chuẩn bị chạm ngõ vấn danh, nhưng cô Toản đã lựa lời từ chối.

Đền thờ Thành hoàng Anh nghị đại vương Phan Kính được xây dựng tại thôn Vĩnh Gia, xã Song Lộc.  Nghe kể, sau ngày lễ tế yết hoàn thành lăng, đền cụ Thám, từ đó cứ đến tối ba mươi rạng ngày mồng một và tối mười bốn rạng ngày rằm hàng tháng, hoặc tối của ngày giỗ Cụ, người dân vùng này thường trông thấy trên bầu trời xuất hiện một làn ánh sáng dài  vài mét, như một dải lụa, bay từ núi Bụt, hoặc từ núi Hồng Lĩnh về tới lăng một lúc, sau đó lại bay  lên đền cụ Thám, hạ xuống đền khá lâu, tiếp tục bay về từ đường họ Phan “Vĩnh Gia” rồi biến mất.

 Đền cụ Thám có cái giếng đổi màu, nhìn vào đó, dân làng có thể đoán được nhiều điều may rủi sẽ xẩy ra. Mỗi lần ở phía Nam giếng tự nhiên đục ngầu thì mấy hôm sau có chí sĩ phía đó từ trần, hoặc nửa giếng phía Bắc đục thì sau đó dân chúng phía ấy thấy có người chết.... Vì thế, chẳng ai bảo ai, khi đi qua đền đều tự bỏ mũ nón xuống để tỏ lòng tôn kính và biết ơn ngài. Nhân dân địa phương thường truyền khẩu câu ca dao, nhắc nhở nhau là:“Ai ơi cất nón qua đền -Nghiêm thờ quan Thám bình yên mọi nhà”.

Cảm phục trước tài năng và công lao sự nghiệp của một bậc danh nhân của quê hương, kẻ hậu học là  Phan Duy Kha có làm bài thơ ca ngợi như sau:

ĐÌNH NGUYÊN THÁM HOA PHAN KÍNH.

Qúy Hợi vinh quy , rạng biển cờ (1)

Chí lớn công thành thỏa ước mơ.

“Trà Sạc thiên thu chung tú khí,

Lam Hồng vạn cổ tráng long cơ”. (2)

Voi Mẹp nắng mưa, bền dấu tích,(3)

Từ đường bằng sắc chẳng phai mờ

Bảng vàng , bia đá , ngời tên tuổi

“Tinh Lạc” còn truyền chuyện thuở xưa.(4)

Ông thuở làm quan trải gian truân,

Tuyên Quang, Hưng Hóa chẳng dừng chân.

Phất cờ tiễu phỉ, yên biên giới,

Vun gốc nhân hòa, giữ lòng dân.

Chính trị  – Tâm công nêu đức lớn,

Ngoại giao –  Lưỡng quốc rạng công huân.

Một giải bên thùy im tiếng súng

Bình yên chim hót, tiếng ca ngân .

( Phan Duy Kha.)

Chú thích : 1. Phan Kính đỗ khoa Quý Hợi (1743)

2. Đôi câu đối ở từ đường Song Lộc, nghĩa là: Trà Sơn, Sạc Lĩnh nghìn năm chung đúc khí tốt, Sông Lam núi Hồng vạn cổ cơ đồ hưng thịnh 

3. Voi Mẹp: Trước đền thờ có 2 con voi phục, tiếng địa phương gọi là voi mẹp

4.Tinh lạc: Dân địa phương truyền rằng vào ngày giỗ Phan Kính thường có  luồng ánh sáng bay về đậu trên đền thờ, gọi là Tinh lạc.

Ảnh: Bằng sắc vua ban cho Đình nguyên Thám hoa Phan Kính


Đôi câu đối ở từ đường Song Lộc, nghĩa là: Trà Sơn, Sạc Lĩnh nghìn năm chung đúc khí tốt, Sông Lam núi Hồng vạn cổ cơ đồ hưng thịnh (Trà Sơn là Núi Xanh, Sạc Lĩnh là Núi Cài, hai ngọn núi gần quê Phan Kính)

Khu di tích lịch sử cấp quốc gia Đền thờ Phan Kinh ở Song Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh).

Từ con nhà nghèo, không có giấy mực, phải học chữ trên lá chuối tươi, Thám hoa Phan Kính đã cố gắng không ngừng nghỉ, trở thành danh tướng thời Lê. Ông là người góp phần dựng lại cột mốc biên giới, được phong là Lưỡng quốc đình nguyên Thám hoa. Trong nhiều tài liệu ở đền thờ Phan Kính (thôn Vĩnh Gia, Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh) lưu truyền nhiều câu chuyện kỳ lạ, bí ẩn quanh cuộc đời của vị tướng toàn tài.

Thần đồng đất Lam Kiều.

Về mảnh đất Lam Kiều (nay là Can Lộc, Hà Tĩnh), hỏi về danh nhân Phan Kính, người dân ở đây tự hào cho biết: “Cụ là danh tướng nổi tiếng lập nhiều chiến công cho đất nước nên ở đây người dân lập đền thờ, đặt tên trường học, đường mang tên cụ”.

Gia đình ông Phan Tân đang lưu giữ nhiều sách vở nói về cuộc đời sự nghiệp Phan Kính và cả cuốn gia phả của dòng họ. Theo tài liệu của dòng tộc họ Phan ghi lại, Phan Kính sinh năm Ất Mùi (6/12/1715) tại thôn Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An ( nay là xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). 

Lên ba, bốn tuổi, Phan Kính đã thuộc nhiều ca dao tục ngữ, phân biệt được nhiều loại cây, con thú trong vườn. Lên sáu tuổi, bố thấy con thông minh, nhanh nhẹn nên cho học chữ, chẳng bao lâu đã thuộc lòng và chép ám tả được cả quyển “Thiên Gia Thi” không sai sót. Lên 7 tuổi, 8 tuổi đã tập làm thơ phú. Năm Nhâm Dần (1722), trong xã Lai Thạch có kỳ thi sát hạch, năm ấy Phan Kính mới 8 tuổi chưa đủ tuổi dự thi nhưng đã bí mật xin ghi tên dự thi.

Đề thi năm đó là một bài thơ thất ngôn và một bài văn sách. Sau khi công bố kết quả, mọi người bất ngờ trước bài dự thi của Phan Kính, bài thơ được Giám sinh Quốc Tự Giám Nguyễn Quỳnh đánh giá cao, ông không phạt mà còn khen Phan Kính lớn lên sẽ thành bậc anh tài. 

Thời gian này gia cảnh nhà Phan Kính gặp nhiều khó khăn hơn, phải chật vật lắm gia đình mới cho Kính đi học được. Thấu hiểu nỗi băn khoăn, vất vả của cha mẹ, Phan Kính dốc sức học hành. Không có giấy, cậu tìm giấy đã viết chữ lộn mặt trái mà viết, nhiều lần phải viết tập trên lá chuối tươi, đêm đêm đem sách ra đọc dưới ánh trăng.

Khi Kính lên 13, 14 tuổi thì đã là lao động chính của gia đình. Bao nhiêu điều vất vả cực nhọc trong công việc đồng áng không có điều nào mà chưa nếm trải. Ngày thì lo việc đồng áng, đêm miệt mài kinh sử không chút nghỉ ngơi. Dân làng ai cũng quý trọng, mến phục là người hiếu hạnh.

Mùa đông năm Canh Tuất 1730, sĩ tử ghi tên trình văn ở Quốc Tử Giám lên tới bốn năm trăm người mỗi kì thế mà cả hai kì năm đó, Phan Kính đều được đứng đầu nên được suy tôn là người đứng đầu “Nghệ An Ngũ Tuyệt” thời kì ở Thăng Long. Ai cũng thán phục: “Thầy Cống Lai Thạch nhà nghèo mà học rộng đến thế”!

Dù nhà nghèo, Phan Kính bàn với vợ dùng toàn bộ của hồi môn (dùng để xây nhà cho 2 vợ chồng) đem cứu giúp bà con trong làng thoát cảnh giáp hạt.

Tết Quý Hợi( 1743), Phan Kính ra Thăng Long dự thi, với một nung nấu một quyết tâm: “Quyết chí thành đạt, không thành đạt không trở về nữa”. Trên đường đi, Kính giúp một gia đình phú hộ viết điếu văn cho người quá cố và không may bị trễ giờ. Sáng vào thi mà chiều tối mới tới nơi, không kịp làm thủ tục, cổng trường đã đóng chặt. 

Bất ngờ tối hôm ấy mưa to gió lớn, lều chõng của các sĩ tử bị đổ hết, ban giám khảo phải xin phép hoãn lại hôm sau. Nhà vua lệnh cho hoãn và xem xét các trường hợp tới chậm để vào thi. Khi xét cụ thể chỉ còn một sĩ tử duy nhất được xét đó là Phan Kính, chúa Trịnh nói “anh này không thi cũng đỗ”.

Năm đó, vua Lê Cảnh Hưng đích thân ra đề thi chế sách gồm 10 mục, 100 câu hỏi. Ngay tối hôm ấy, trên sân rồng đèn đuốc sáng trưng, vua Cảnh Hưng chủ trì cùng các quan phụng khảo bắt tay ngay vào việc kiểm bài. Quyển thi của Phan Kính được nhà vua dùng bút son ngự phê “Cho đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh” (tức đỗ đầu khoa thi với danh vị Thám Hoa- vì nhà vua yêu cầu không lấy Trạng Nguyên, Bảng Nhãn).

Từ năm 1744, Phan Kính từng đảm nhiệm nhiều chức vụ: Giám sinh ở Quốc Tử Giám, Đốc đồng trấn Sơn Tây, Đốc đồng xứ Thanh Hóa, Thư đốc thị Nghệ An, Đốc đồng xứ Tuyên Quang, Kinh lược sứ, Tham mưu nhung vũ.

Trong những năm 1758 – 1761 Phan Kính với cương vị Đốc đồng xứ Tuyên Quang kiêm tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa đồng thời là phái bộ vua Lê, đem quân lên trấn giữ vùng biên giới phía Bắc. Ông đã nhiều lần thương thuyết với quan chức nhà Thanh, dựng lại cột mốc biên giới, tiêu diệt thổ phỉ, giữ cuộc sống yên bình cho người dân.

Vua Càn Long nhà Thanh trọng tài đức của Phan Kính đã gia phong cho ông là “Lưỡng quốc đình nguyên Thám hoa” ban tặng ông một cái áo cẩm bào vương triều, một bức trướng có ghi dòng chữ: ”Thiên triều đặc tứ, Bắc Đẩu dị nam, Nhất nhân nhi dĩ” (thiên triều đặc cách, phía nam Bắc Đẩu, chỉ một người thôi).

Theo tài liệu được gia tộc họ Phan lưu truyền thì Phan Kính sau khi đã cùng phía nhà Thanh hoàn thành thắng lợi việc diệt giặc cỏ, xác định dường biên giới, phía nhà Thanh đã tổ chức liên hoan mừng thắng lợi tại lễ đường bên hồ Động Đình. Được triều Lê cử, Thám Hoa Phan Kính tham dự buổi mừng công này của nhà Thanh. Chiều ngày mồng 7 – 6 năm Tân Tỵ, cụ Kính đã có mặt tại lễ đường, sức khỏe vẫn tốt. Nhưng tối đi dự tiệc về tới nhà bên hồ Động Đình thì đột tử đúng giờ Dậu (7-7-1761) lúc 41 tuổi khi tài hoa đang nở rộ.

Áo cẩm bào vua Càn Long Trung Quốc ban tặng Lưỡng Quốc Thám hoa Phan Kính và sắc phong.

Nhà thờ họ Phan lưu giữ áo Cẩm bào, kiếm vàng.

Trong khu nhà thờ dòng họ Phan, có nhà tưởng niệm Thám Hoa Phan Kính, ở đây lưu giữ những sách vở tài liệu về cuộc đời, sự nghiệp của vị danh tướng toàn tài và tài liệu về dòng họ Phan. Trong khu vực nhà thờ, có chiếc hộp sắt lớn, được ông Phan Xuân Noạn (82 tuổi) - người trực tiếp canh giữ nhà thờ họ Phan khóa cẩn thận, cất riêng. “Đây là báu vật lớn của dòng họ, tổ tiên để lại. Giám đốc sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Tĩnh giao cho tôi trong giữ”, ông Noạn nói.

Tuổi già, nhưng ông Noạn luôn khúm núm, quỳ gối trước hòm khi mở khóa. Qua nhiều lớp khóa, chiếc hòm được mở, bên trong hòm là một chiếc áo Cẩm bào có niên đại hơn 300 năm, những ống tre, nựa đựng những sắc phong, lệnh vua ban bằng chứ Hán.

Ông Noạn chỉ tai vào chiếc áo cẩm bào tiếc nuối nói, “theo tài liệu ghi lại chiếc áo này Thám hoa Phan Kính được vua Càn Long đích thân trao tặng vì khâm phục tài năng của Thám hoa nước Việt. Tất cả các cúc áo, khuy áo đều được làm bằng vàng rồng. Nhưng sau thời gian dài thất lạc, những trang sức quý báu trên áo đã bị mất. Chiếc kiếm vàng được vua ban cũng đang bị thất lạc”.

Sau khi Phan Kính mất, ghi nhận những công lao to lớn của ông cho đất nước, Năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783), vua Lê Hiển Tông phong sắc cho ông là “Thành hoàng”, hiệu “Anh Nghị Đại Vương”, lập đền thờ ở làng Lai Thạch (nay là Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh).

Ngày trước quần thể di tích này hết sức uy nghi, đồ sộ, song đáng tiếc hiện nay do thời gian, chiến tranh, con người đã tàn phá hoàn toàn ngôi đền thờ. Năm 1992, Bộ Văn hóa thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho đền thờ Phan Kính.

Ông Phan Xuân Noạn (82 tuổi) người trực tiếp canh giữ nhà thờ họ Phan gần 40 năm nay bên cạnh chiếc hòm quý đựng áo cẩm bào, sắc phong của Phan Kính.

Tưởng nhớ công ơn của Thám hoa Phan Kính, Hội đồng Phan tộc Việt Nam đã quyết định thành lập quỹ học bổng mang tên ông trên cả nước dành cho những người con họ Phan ưu tú có nhiều đóng góp cho Tổ quốc. Trong ảnh PGS.TS, NGND Phan Hòa trao phần thưởng khuyến học cho con cháu có thành tích xuất sắc trong học tập.

Hiện Đền đã được tỉnh Hà Tĩnh duyệt dự án để tôn tạo, nâng cấp cho người dân hương khói. Nhưng mấy năm nay, việc nâng cấp, sửa tôn tạo đền vẫn chưa được triển khai. Nhiều người dân ở đây lo sợ, nếu không có sự quản lý chặt của cơ quan chức năng, nguồn vốn để tôn tạo, sửa chữa thì một ngày không xa “khu di tích lịch sử cấp quốc gia này có nguy cơ trở thành phế tích”.

“Phan Kính là người học rộng tài cao. Ông văn, võ, chính trị, kinh tế, ngoại giao toàn tài, một tri thức tài hoa, một quan thanh liêm mẫn cán luôn hoàn thành trách nhiệm một cách xuất sắc. Cuộc đời và sự nghiệp của Phan Kính là tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau học tập về tài học, chí học và đức tính quan liêm.” - Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nguyễn Duy Quý đã khái quát về cuộc đời của Phan Kính.

“Ghi nhận công lao to lớn của Phan Kính với đất nước, Hội đồng Phan tộc Việt Nam đã quyết định thành lập quỹ học bổng mang tên ông trên cả nước dành cho những người con họ Phan ưu tú có nhiều đóng góp cho Tổ quốc, dòng họ. Ngoài ra dòng họ Phan Kính vẫn tổ chức khuyến học khuyến tài hàng năm cho con cháu có thành tích trong học tập, nghiên cứu” - Ông Phan Bình, Chủ tịch Hội đồng Phan tộc Việt Nam.( Phan Quang Lộc )

Chuyện đời vị thám hoa được vua Càn Long tặng 18 cỗ quan tài.

Trong số những vị thám hoa của sử Việt, Phan Kính được người phương Bắc nể phục nhất. Ông từng được vua Càn Long phong là Lưỡng quốc đình nguyên thám hoa, được tặng áo cẩm bào. Khi qua đời, ông được vua Thanh cho đóng 18 cỗ quan tài khâm liệm.

Xung quanh vị thám hoa tài ba này, nhiều câu chuyện bí ẩn về cuộc và sự nghiệp của ông còn được lưu truyền.

Viết lên lá chuối xanh để học.

Phan Kính (1715-1761) tự là Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, quê làng Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh ngày nay). Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng học giỏi, hơn ba tuổi đã thuộc nhiều ca dao, tục ngữ.

Thấy ông thông minh, nhanh nhẹn, bố Phan Kính cho học chữ khi con 6 tuổi. Ông nhanh chóng thuộc lòng nhiều sử sách đương thời, lên bảy tuổi đã biết làm thơ phú.

Năm Nhâm Dần (1722), trong kỳ sát hạch ở xã Lai Thạch, bài văn của Phan Kính được xếp hạng nhất, dù lúc đó ông mới chỉ hơn 7 tuổi. Khi thi vào trường Quốc Tử Giám, Phan Kính tiếp tục là người đỗ đầu.

Biết gia cảnh khăn, Phan Kính dốc sức học hành. Ông lấy giấy đã viết lộn mặt trái để viết tiếp, nhiều lần phải viết tập trên lá chuối tươi. Ngày lo làm lụng vất vả, ban đêm, cậu trò nghèo lại mang sách ra đọc dưới ánh trăng.

Vượt qua rất nhiều khó khăn, vất vả trong cuộc sống, năm Quý Hợi (1743), Phan Kính ra Thăng Long dự thi với suy nghĩ “không thành đạt không trở về”.

Trong kỳ thi này, vượt qua hơn 3.000 sĩ tử, ông thi đỗ thám hoa. Vì khoa thi này không lấy trạng nguyên và bảng nhãn, ông trở thành người đỗ cao nhất .

Phan Kính đã vượt qua đề thi chế sách gồm 10 mục, 100 câu hỏi do đích thân vua Lê Hiển Tông ra đề. Quyển thi của Phan Kính được vua dùng bút son ngự phê: “Cho đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh”.

Sau khi đỗ đạt cao, ông được vua cho về quê vinh quy bái tổ, nghỉ ngơi ba tháng ba, thu xếp việc nhà. Tháng 6.1744, Phan Kính ra Thăng Long nhậm chức. Ban đầu, ông được vua sắc phong giữ chức Hàn lâm viện đãi chế, chuyên việc cung phụng từ lệnh ở bên vua.

Ông từng trải qua nhiều chức vụ quan trọng, để lại những dấu ấn sâu sắc. Cụ thể, ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ như Giám sinh ở Quốc Tử Giám, Đốc đồng trấn Sơn Tây, Đốc đồng xứ Thanh Hóa, Thư đốc thị Nghệ An, Đốc đồng xứ Tuyên Quang, Kinh lược sứ, Tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa…

Vị thám hoa khiến nhà Thanh nể trọng

Trong những năm 1758-1761, với cương vị Đốc đồng xứ Tuyên Quang kiêm tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa (gồm các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu và một phần Sơn La ngày nay), phái bộ vua Lê đem quân lên trấn giữ vùng biên giới phía Bắc, Phan Kính đã nhiều lần thương thuyết với quan chức nhà Thanh, dựng lại cột mốc biên giới, tiêu diệt thổ phỉ, giữ cuộc sống yên bình cho người dân.

Theo sách Đại Nam nhất thống chí, trong thời gian từ 1759 đến 1760, Phan Kính được triều đình cử đi sứ sang kinh đô Yên Kinh của nhà Thanh để ký kết văn kiện chính thức về biên giới.

Với kiến thức sâu rộng, uyên bác, khéo léo trong ngoại giao, có nhiều công lao giúp nhà Thanh và Đại Việt phân định và ổn định cương giới, Phan Kính được vua Càn Long mến phục tài trí. Vua Thanh đã gia phong cho ông danh vị “Lưỡng quốc đình nguyên thám hoa", tặng chiếc áo cẩm bào và hai bức trướng, ghi hai dòng chữ: “Thiên triều đặc tứ Bắc Đẩu dĩ Nam nhất nhân nhi dĩ”. Nghĩa là "Thiên triều đặc cách, phía Nam Bắc Đẩu, chỉ một người thôi".

Xin theo dõi tiếp BÀI 30. Thân ái, dienbatn.
Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 28.

9/25/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 28.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.

PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

PHẦN V. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN THẠCH HÀ.

PHẦN VI. MỘT SỐ DI TÍCH DANH NHÂN KHÁC
I. MỘ VÀ ĐỀN THỜ TRẦN TỊNH .
II. MỘ VÀ ĐỀN THỜ BÙI CẦM HỔ.


Bùi Cầm Hổ sinh năm 1390 mất năm 1483 Quê xã Đậu Liêu, huyện Thiên Lộc nay là xã Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân từ một người chăn trâu nghèo khổ, lớn lên ra Thăng Long học. Khi đứng ra làm minh chứng cho vụ án “Canh lươn” được nhân dân cho là người có tài, tuy chưa đi thi nhưng triều đình đặc cách trọng dụng. Ông đã từng giữ các chức vụ: Ngự sử Trung thừa, An Vũ sứ Lạng Sơn, thăng Tham tri chính sự, chức Á tướng thờ ba triều vua Lê sơ là: Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông.

Thời Lê Thái Tổ, Bùi Cẩm Hổ được xem là một trong hai vị khai quốc công thần và đã được cử làm thái sư dạy học cho con trưởng của Lê Lợi là vua Lê Thái Tông; con gái Bùi Cẩm Hổ cũng được tiến cung trở thành Bùi Quý Phi, vợ của vua Lê Thái Tông, sinh ra cung vương Lê Khắc Xương.

Sau khi Lê Thái Tổ mất, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính cho vua Lê Thái Tông lúc đó mới 11 tuổi, cậy quyền làm nhiều điều trái phép, những ai không hợp ý tìm cách hãm hại. Lê Sát đã cố tiến cử với vua Thái Tông các gian thần như: Trình Hoàng Bá, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư.(Những nhân vật này từ thời Lê Thái Tông đã có công về phe với Lê Sát để vu cáo Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn nhưng vua Thái Tổ đã có lệnh cấm những người đó tham dự triều chính). Lúc đó Bùi Cấm Hổ và Nguyễn Thiên Tích đã thẳng thắn can vua Thái Tông nên theo lời di huấn của cha. Vua Thái Tông nghe theo, cương quyết giữ phép tắc của Lê Thái Tổ, không phục chức cho mấy người đó.

Vì vậy Lê Sát ghét Bùi Cấm Hổ. Ông bị đổi ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn. Thủ đoạn trù dập của Lê Sát là thế ông vẫn không vì thế lấy đó làm điều. Khi Lê Sát phạm tội chuyên quyền, nhà vua ra lệnh chém bêu đầu, ông được triệu về kinh đô làm Ngự sử trung thừa và ông đã can vua không nên áp dụng hình phạt đó đối với một đại thần từng là phụ chính vốn là khai quốc công thần.

Trong việc chọn cộng sự ông cất nhắc trước hết những người trung trực kiên quyết dám nói sự thực bảo vệ lẽ phải. Tiêu biểu là việc tâu xin nhà vua đề bạt Trần Hiển làm Thị Ngự Sử bởi ông nhận thấy thái độ cương trực thẳng thắn của Trần Hiển đã dám dâng sớ tố cáo Lê Hiệu là viên Tổng quản cậy mình có uy quyền cho lấp đoạn sông mà thuyền bè thường qua lại thuận tiện để làm của riêng.

Mùa đông năm 1438, Bùi Cầm Hổ được sung chức Phó sứ sang nhà Minh.

Khi nghỉ về quê ông vẫn chăm lo đồng điền như một lão nông, ông đã cùng dân làng xây một con đập bằng đá chặn dòng khe Vẹt dẫn nước từ núi xuống đủ tưới hàng trăm mẫu ruộng của làng xưa nay vốn bị hạn hán. Ông đã trở thành một trong những vị “tổ sư” ở vùng Nghệ Tĩnh về đắp đào kênh dẫn nước tưới ruộng. Khi ông mất triều đình ghi công và phong Bỉnh quân đại vương, Thượng đẳng phúc thần, đền thờ ông được xây cất ở Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, ngay bên hữu ngạn ngọn khe Vẹt trước chân núi Bạch Tỵ trong dãy núi Hồng nhân dân cả vùng quen gọi là đền Đô Đài: “Tháng Giêng Đô Đài, tháng hai Hương Tích”. Đền thờ hiện nay đã được Bộ Văn hoá - Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Bùi Cầm Hổ với toàn bộ sự nghiệp nhân cách đức độ và phong tiết của ông đã tạo nên tấm gương sáng ngời về đạo lý truyền thống tốt đẹp bằng dấu ấn lịch sử hết sức sâu đậm để lại hậu thế dài lâu không thể phai mờ.

Sử sách không chép ông mất vào năm nào, sau khi mất, các triều đều phong phúc thần. Ông được thờ ở Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Đền thờ hiện nay đã được Bộ Văn hoá - Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Theo Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục: Hồi Lê sơ, vì sau khi loạn lạc, nho sĩ thưa thớt.

Người đem thân chầu chực trong triều như Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ, phần nhiều bộc lộ chí khí sáng suốt, có những lời nói quả cảm.

Những câu thơ ca tụng:

Cũng hàng quan lại, cũng triều ban

Hổ hét ra oai hồi mẹ đẻ

Cháo lươn giải oán cho người oan

Ngọn cờ phía bắc còn bia tạc

Khe núi phía nam bởi đá hàn

Cũng hàng quan lại, cũng triều ban

Hổ hét ra oai thời mẹ đẻ

Cháo lươn giải oán cho người oan

Ngọn cờ phía bắc còn bia tạc

Khe núi phía nam bởi đá hàn.

Đền Đô Đài hay đền Bùi Ngự Sử.  

Đền Đô Đài hay đền Bùi Ngự Sử, thuộc xã Đậu Liêu, huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Di tích nằm cách thị trấn Hồng Lĩnh 3km về phía Nam, cách đường quốc lộ 1A về phía Đông 300m, ở chân núi Bạch Tỵ Sơn là một trong 99 ngọn núi của dãy Hồng Lĩnh.

Di tích Đền Đô Đài gắn liền với một nhân vật lịch sử trung thần Bùi Cầm Hổ - Đây là nơi ông sinh ra và lớn lên, khi hưu quan 1459 Bùi Cầm Hổ cũng sống và mất tại nơi này. Bùi Cầm Hổ sinh năm 1380, tên của ông gắn với sự tích người họ Bùi bắt được hổ. Lúc thiếu thời Bùi Cầm Hổ là cậu bé thông minh tuấn tú, gia đình và nhân dân trong vùng kỳ vọng sau này Bùi Cầm Hổ sẽ có tên trong bảng vàng làm thơm danh cho quê hương dòng tộc.

Đền Đô Đài nằm trong khu vực có nhiều di tích nổi tiếng, cách Đậu Liêu không xa là núi Ngọc Sơn nơi có đền thờ hai ông Trạng mà nhân dân địa phương còn gọi là Song Trạng Nguyên đó là: Trạng cha: Sử Hy Nhan ông đậu trạng nguyên khoa Quý mão 1363. Trạng con là Sử Đức Huy đậu trạng nguyên khoa Tân Dậu 1381. Gần đó còn có nhà thờ Hồ Bình Quốc đậu nhị giáp đồng chế khoa (1577). Ngoài ra còn có nhà thờ họ Phan, thờ Phan Cảo đậu Hoàng Giáp (1631).

Cho đến ngày nay, đền Đô Đài vẫn giữ được những nét cổ kính, phía trước là những bậc thềm đá rêu phong phủ kín. Ngoài cùng có hai cột nanh cao 2.5m, tiếp đó có hai nhà tả hữu chứa hai con voi chầu. Bước hai bậc nữa ta thấy hai cột nanh sừng sững, mỗi cột cao 4m, trên hai đỉnh cột có hai con nghê chầu. Hai bên cửa có hai vị tướng cầm gươm hình dáng dữ tợn cao 1.8m. Nhìn bao quát từ ngoài đền Đô Đài có kiến trúc hình “chữ Tam”, mái lợp ngói vảy, từ đó chúng ta mới thấy hết dáng vẻ đường bệ uy nghi cổ kính của đền.

Đi dọc theo sân ta bước vào nhà Bái đường, bước tiếp qua một khoảng sân lát gạch chúng ta vào Trung điện. Nhà có ba gian hai hồi, chiều dài 9,2m cao 3,97m rộng 6,24m . Nhà có 12 cột lim, cột lớn có chu vi 0,89m, cột nhỏ 0,67m. Trung điện có kiến trúc phức tạp hơn Hạ điện, văng và xà có hoa văn chạm trổ hình hoa lá, trang trí nội thất gồm có: 2 con hạc, có đao, bát xà mâu, giữa nhà có hai gương vuông chạm rồng phượng, phía trong có hương án chạm trổ tứ linh kỳ công và có giá trị nghệ thuật cao. Qua một sân nhỏ lát gạch là vào nhà Thượng điện – là ngôi nhà gỗ lim 3 gian, 2 đốc, có 8 cột lớn chu vi cột lớn 0,97m, chiều dài thượng điện 7,29m, rộng 5,94m. Trang trí nội thất ở chính giữa đặt trang trọng Long Cung, Long Đình, Long Mai thờ bài vị, viết công đức thành tích của Bùi Cầm Hổ. Tất cả đều sơn son thiếp vàng trông cổ kính đẹp đẽ một cách trang trọng. Ngoài ra đền còn có 12 sắc phong của các triều đại phong kiến phong cho Bùi Ngự Sử, các trang phục, áo mũ, đai vòng…là hiện vật quý hiếm để chúng ta có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu về trang phục quan lại thời xưa.

Hàng năm, đền Đô Đài có hai lần lễ hội lớn. Lễ hội báo ân tổ chức ngày 12/1 âm lịch - lễ hội chính được tổ chức rất trang trọng để ghi nhớ công ơn của Bùi Cầm Hổ. Lễ hội thứ hai được tổ chức ngày 20/9 âm lịch là ngày mất của ông. Thông qua các cuộc lễ hội nhằm giáo dục truyền thống đối với đông đảo quần chúng địa phương. Đó cũng là những hoạt động thiết thực góp phần làm phong phú thêm di tích đền Đô Đài.

Đền Đô Đài không chỉ là một di tích gắn liền với một danh nhân Bùi Cầm Hổ nổi tiếng đương thời, mà còn là di tích quan trọng trong tiến trình lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta kể từ ngày có Đảng. Ngoài ra đền Đô Đài còn mang kiến trúc nghệ thuật cao. Với ý nghĩa lịch sử và nghệ thuật kiến trúc, năm 1992 đền Đô Đài được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.

Gia Phả Họ Bùi ghi, năm 1459, khi 70 tuổi, Bùi Cầm Hổ từ quan, về quê phường Đậu Liêu (thị xã Hồng Lĩnh ngày nay) sinh sống. Vùng đất này thời tiết khắc nghiệt, nắng thì khô hạn, mưa thì ngập lụt, đời sống nhân dân đói kém do thiếu nước làm ruộng.

Nhận thấy nước mưa từ núi Hồng Lĩnh thường chảy ra huyện Nghi Xuân rồi đổ ra biển, Bùi Cầm Hổ chỉ đạo dân làng đắp một bờ đá chắn dòng, xẻ núi đào khe Nhà Trò để dẫn nước mưa từ trên núi về cánh đồng ở Hồng Lĩnh. Từ đó, nơi đây có công trình thủy lợi, hàng nghìn mẫu ruộng đầy ắp nước, hoa màu tốt tươi, người dân khai khẩn thêm đất hoang, đời sống cải thiện vì được mùa liên tiếp.

Bùi Cầm Hổ mất năm 1483, thọ 93 tuổi, được triều đình phong là Thượng đẳng phúc thần. Đền thờ ông ở dưới chân núi Bạch Tỵ (phường Đậu Liêu) do người dân lập, từng bị hư hỏng bởi chiến tranh, nay được phục dựng. Năm 1992, đền được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, được cho là chốn tôn nghiêm và linh thiêng, nơi nhiều người dân đến thắp hương, chiêm bái.

“Hồng -Lam chung tú Bùi tướng công, thiên cổ vĩ nhân (Thơ vịnh Đền Đô Đài của tiến sĩ Nguyễn Văn Trình quê Kiệt Thạch - Can Lộc: 3 bài chữ Hán, tác giả tự dịch Nôm theo thể ca trù.)











Ông Bùi Văn Vượng - Người trông coi Đền thờ giới thiệu cho PV áo, mũ, cân đai ngày xưa Đô Đài Bùi Cầm Hổ sử dụng.



Gia phả dòng họ Bùi Việt Nam cũng có ghi chép Về Bùi Cầm Hổ nhưng theo dienbatn tư liệu đó chưa xác đáng.
Xin theo dõi tiếp BÀI 29. Thân ái, dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *