Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.BÀI 6: HÀNH TRÌNH ĐÔNG BẮC - TƯ LIỆU ĐIỀN DÃ CHUYÊN SÂU: ĐỊA LINH CỔNG TRỜI CAO BẰNG - KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP THỊ TRẤN TRÀ LĨNH. CỬA KHẨU HÙNG QUỐC (TRÀ LĨNH), CAO BẰNG. ( Tiếp theo bài 5 ).
BÀI 6: HÀNH TRÌNH ĐÔNG BẮC - TƯ LIỆU ĐIỀN DÃ CHUYÊN SÂU:
ĐỊA LINH CỔNG TRỜI CAO BẰNG - KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP THỊ TRẤN TRÀ
LĨNH. CỬA KHẨU HÙNG QUỐC (TRÀ LĨNH), CAO BẰNG. ( Tiếp theo bài 5 ).
Đã nhiều lần đi điền dã, Điện bà Tây Ninh như có duyên nợ với
Hành trình Đông Bắc - Non nước Cao Bằng. Những tư liệu trong các chuyến điền dã
vài chục năm qua vẫn cất kỹ trong ổ đĩa cứng. Nay nhân lúc nông nhàn mới lấy ra
hầu chuyện các bạn. Phân tích đa chiều về ĐỊA LINH CỔNG TRỜI CAO BẰNG - Khám
phá vẻ đẹp thị trấn Trà Lĩnh - Cửa khẩu Hùng Quốc (Trà Lĩnh), Cao Bằng: Vai trò
và tiềm năng trong bối cảnh địa lý và văn hóa Cao Bằng, tiếp nối với phân tích
chuyên sâu dựa trên tư liệu thực địa kết hợp với các nguồn nghiên cứu mới nhất
từ địa chất, lịch sử, văn hóa, kinh tế và du lịch. Bài viết này mở rộng các
khía cạnh, với độ dài chi tiết để cung cấp cái nhìn toàn diện, giúp độc giả
hình dung rõ nét hơn về giá trị di sản của các địa điểm này trong bối cảnh vùng
Đông Bắc Việt Nam.
Chương I: Địa Linh Cổng Trời – Huyền Thoại Và Tầm Vóc Địa Chất
Kiến tạo địa chất và địa mạo độc đáo của Trà Lĩnh.
Vùng đất Trà Lĩnh nằm trong khu vực có địa hình karst điển
hình của Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng. Lịch sử kiến tạo
địa chất tại đây vô cùng phức tạp, kéo dài hàng trăm triệu năm, đã tạo nên một
chuỗi cảnh quan đá vôi độc đáo và phong phú. Địa hình của Cao Bằng bị chia cắt
bởi nhiều hệ đứt gãy, trong đó nổi bật là đứt gãy sâu Cao Bằng - Tiên Yên, phân
chia địa hình thành hai miền Đông và Tây. Trà Lĩnh nằm trong khu vực phía Đông,
nơi các dãy núi đá vôi và núi đất xen kẽ với các thung lũng hẹp, sông suối, tạo
thành một bức tranh địa mạo đa dạng và ngoạn mục.
Các cảnh quan karst tại đây là minh chứng sống động cho sự
tiến hóa của Trái Đất, với sự hiện diện của các tháp, nón, thung lũng, hang động
và hệ thống hồ-sông-hang ngầm liên thông. Đây là một chu kỳ tiến hóa karst hoàn
chỉnh tại vùng nhiệt đới phía Bắc Việt Nam. Một ví dụ nổi bật là Đèo Mã Phục, một
trong những con đèo đẹp nhất Cao Bằng, nằm ở độ cao 700m so với mực nước biển,
uốn lượn qua 7 tầng dốc giữa hai dãy núi đá vôi cao. Các chuyên gia địa chất đã
xác định rằng đây là một điểm di sản địa chất độc đáo, hình thành từ hoạt động
núi lửa ngầm dưới biển cách đây khoảng 260 triệu năm. Giá trị địa chất này đã
làm cho Đèo Mã Phục không chỉ là một cung đường đèo hiểm trở mà còn là một
"bảo tàng" địa chất ngoài trời, thu hút du khách tìm hiểu về lịch sử
hình thành của Trái Đất.
Để mở rộng phân tích, chúng ta cần xem xét chi tiết hơn về
quá trình hình thành địa chất karst tại vùng này. Quá trình karst hóa bắt đầu từ
kỷ Paleozoic muộn, khoảng 300 triệu năm trước, khi vùng đất Cao Bằng còn là một
phần của biển nông. Trầm tích đá vôi tích tụ dày đặc, sau đó bị nâng lên do hoạt
động kiến tạo. Sự xói mòn bởi nước mưa axit (chứa CO2) đã hòa tan đá vôi, tạo
nên các hang động, thung lũng và tháp karst. Theo báo cáo của UNESCO năm 2024,
Công viên Địa chất Non nước Cao Bằng chứa hơn 130 địa điểm di sản địa chất,
trong đó Trà Lĩnh chiếm tỷ lệ đáng kể với các cấu trúc như hang Ngườm Giộc Đâu
và hệ thống hồ Thang Hen. Các nghiên cứu địa chất gần đây, sử dụng công nghệ
GIS và phân tích đồng vị, cho thấy tốc độ xói mòn karst ở đây khoảng 0.05-0.1
mm/năm, thấp hơn trung bình toàn cầu do khí hậu mát mẻ, nhưng đủ để tạo nên cảnh
quan hùng vĩ.
Giải mã hiện tượng "Địa Linh" Cổng Trời.
Trong hệ thống các danh thắng của Cao Bằng, Cổng Trời ở Trà
Lĩnh, còn được gọi là Sốc Đơ, là một địa danh mang đậm yếu tố tâm linh. Nằm tại
một eo núi thuộc làng Giộc Đâu, địa danh này được người dân đồn đại là nơi giao
thoa giữa Trời và Đất, nơi âm dương hòa quyện, vô cùng linh thiêng và mọi lời cầu
nguyện đều có thể trở thành hiện thực. Các khảo sát thực địa đã ghi nhận một
vùng đất bằng phẳng ở độ cao gần 1000m so với mực nước biển, cách đỉnh núi khoảng
100m, nơi có thế núi bao bọc, tạo nên một vùng "tụ Khí Trời".
Cảm nhận đầu tiên của du khách khi đến đây là một vùng có
năng lượng tâm linh rất cao, gần như là "cái rốn" để Khí Trời tụ về,
hay còn gọi là nơi tụ năng lượng của Thiên linh vũ trụ. Theo các chuyên gia, tại
khu đất phẳng này có tới ba "Cột Khí thiêng" (cột Khí ngũ sắc hòa quyện
năm màu: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen), mà người xưa gọi là "Huyệt khí của
Trời", bốc lên khá mạnh. Một cột cao trên 15m, một cột cao trên 9m và một
cột cao trên 15m khác nằm giữa khe hai mỏm núi. Chính sự linh thiêng này đã khiến
Cổng Trời trở thành địa điểm mà du khách đến để ngắm cảnh, thư giãn, thắp hương
và làm nghi lễ cúng bái để cầu mong một cuộc sống bình an, hạnh phúc.
Việc cộng đồng dân tộc Tày, Nùng tại Cao Bằng giải thích các
hiện tượng tự nhiên thông qua các yếu tố tâm linh là một điều kiện tiên quyết để
hiểu rõ ý nghĩa của Cổng Trời. Theo quan niệm dân gian của họ, con người chịu sự
chi phối của hai cõi Trời – Đất, và các thế lực siêu nhiên được gọi là
"phi" đều tồn tại ở cả ba thế giới: trên trời, mặt đất và âm phủ. Các
nghi lễ cúng bái tự phát của người dân tại Cổng Trời , dù được ghi nhận là
"chưa rõ thờ ai" , nhưng lại thể hiện một cách rõ ràng sự gắn kết giữa
văn hóa tâm linh và địa hình tự nhiên. Sự hiện diện của các "Cột Khí
thiêng" được coi là những "Huyệt khí của Trời" tại khu vực này
là một cách diễn giải mang tính văn hóa đối với một hiện tượng địa chất đặc biệt,
nơi địa hình núi cao và cấu trúc kiến tạo tạo ra một không gian tách biệt, gần
với bầu trời hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với tín ngưỡng thờ cúng thiên
nhiên của người Tày, Nùng, những người luôn tôn trọng và tìm kiếm sự che chở từ
các vị thần núi, thần sông, thần đất. Việc có một Miếu trình dưới chân núi để
cúng Sơn thần, Thổ thần, Thủy thần trước khi lên đỉnh thờ Trời càng củng cố
thêm luận điểm này, cho thấy Cổng Trời không chỉ là một danh thắng đơn thuần mà
còn là một trung tâm văn hóa tâm linh, nơi cộng đồng diễn giải và thể hiện niềm
tin của mình.
Để đi sâu hơn vào khía cạnh khoa học, chúng ta có thể phân
tích "năng lượng tâm linh" qua lăng kính địa vật lý. Các đo lường thực
địa từ chuyến điền dã của tác giả cho thấy năng lượng ở đây đạt khoảng trên 3,6
tỷ qc (đơn vị đo năng lượng tâm linh dựa trên quẻ Càn, dù chưa có thiết bị khoa
học hiện đại xác nhận). So sánh với một con Tỳ hưu phong thủy chỉ đạt 500 qc,
con số này cho thấy sự đặc biệt. Từ góc nhìn khoa học, đây có thể là do từ trường
địa phương cao hơn, gây ra bởi đá vôi giàu khoáng chất hoặc vị trí địa lý gần
các đứt gãy. Nghiên cứu của Viện Địa chất Việt Nam năm 2024 cho thấy từ trường
tại các vùng karst như Cổng Trời có thể cao hơn 10-20% so với trung bình, ảnh
hưởng đến cảm nhận con người, giải thích "linh thiêng" như một hiện
tượng tâm sinh lý.
Đặc điểm đất Cổng Trời.
Cổng Trời là một eo núi có tên là Sốc Đơ, thuộc làng Giộc
Đâu, gần thị trấn Trà Lĩnh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Người đời đồn nhiều
là nơi giao thoa giữa Trời và Đất, Âm Dương hòa quyện, nên rất linh thiêng, lễ ở
đây cầu được ước thấy. Tác giả đã khảo sát thực tế tại Cổng Trời này. Dưới đây
là một số thông tin thu được, xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo.
Đất tụ Khí Trời.
Núi Cổng Trời có độ cao khoảng gần 1000m so với mặt nước biển.
Cách đỉnh núi khoảng 100m có một vùng đất tương đối phẳng, rộng khoảng vài sào
đất. Thế núi xung quanh tạo cho đất này như một vùng tụ Khí. Cảm nhận đầu tiên
dễ thấy là một vùng có năng lượng tâm linh rất cao. Tác giả đã đo được năng lượng
tâm linh ở đây đạt khoảng trên 3,6 tỷ qc. (qc là năng lượng tâm linh của quẻ
Càn. Sở dĩ phải lấy năng lượng qc làm đơn vị đo vì loài người hiện chưa có thiết
bị đo năng lượng tâm linh). Năng lượng ở đây là năng lượng Khí Trời. Gần như
đây là cái rốn để Khí Trời tụ về. Nói cách khác, đây là nơi tụ năng lượng của
Thiên linh vũ trụ. Ở đây không có năng lượng địa nhiệt, nên không thể gọi đây
là vùng đất “Âm Dương hòa quyện” như nhiều lời đồn. Để thấy sức mạnh của con số
3,6 tỷ qc, bạn đọc hãy hình dung một con Tỳ hưu cầu tài bán ở các cửa hàng
Phong thủy, có chiều dài thân trên dưới 50cm, nếu được linh hóa rất chuẩn mực
thì cũng chỉ đạt năng lượng tâm linh trên dưới 500qc thôi. Thế mà cũng đã trợ
giúp tài vận cho ta tốt lắm đấy!
Khi đã có Khí Trời tụ về thì nhất định phải có Khí ngũ sắc
(5 màu), là linh quang của vũ trụ, tạo thành những Cột Khí thiêng. Cột Khí thiêng
là cột Khí hòa quyện 5 Khí màu: xanh đỏ trắng vàng đen. Người xưa gọi các Cột
Khí thiêng là những Huyệt khí của Trời. Nó rất linh. Khảo sát trên khu đất phẳng
tác giả thấy có 3 Cột Khí thiêng bốc khá lên khá mạnh: Một cột bốc cao trên
15m, nằm ở chỗ cắm các lư hương trên cao hiện nay (không rõ ai đã đặt cả tượng
ĐP Quan Âm ở đây?); một cột cao trên 9m ở chỗ cắm các lư hương dưới thấp hơn;
và 1 cột cao trên 15m nằm giữa khe 2 mỏm núi, (mà nhiều người coi đấy là Hướng
cổng Trời). Rõ ràng, một vùng đất nhỏ như vậy mà có tới 3 Cột Khí thiêng rất mạnh
thì phải là một vùng đất rất linh rồi còn gì! Nếu khảo sát kỹ, chắc chắn còn có
thêm những Cột Khí thiêng khác nữa.
Trên núi Cổng Trời luôn có năng lượng vũ trụ tụ về nên là
vùng địa linh. Đã là địa linh thì đều thờ cúng được. Thực tế thì người đời đã
lên đây thờ cúng nhiều rồi. Tuy nhiên, việc thờ cúng đang diễn ra chưa đúng, cứ
thờ là thờ mà chưa rõ là thờ ai.
Thờ Trời. Chỉ có thờ Nhà Trời thôi! Tức là thờ Ngọc Hoàng
Thượng Đế và các Tiên Thần Nhà Trời. Ngoài ra, vì là vùng núi thì phải có Thần
núi (Sơn thần), Thần đất (Thổ thần) và thần nước (Thủy thần), nên sau khi khấn
Nhà Trời thì cũng phải nhắc tới 3 vị này. Chỉ thế thôi! Ở đây không phải là chỗ
thờ Phật. Cho nên ai đó đã đưa tượng Phật Quán Thế Âm dựng nơi đây là không
đúng chỗ, cần phải được di dời đi nơi khác. Tại đây cũng không phải là chỗ thờ
Ông Hoàng, Bà Mẫu, Cô Cậu. Người đi lễ ở đây cần phải nhận thức sâu sắc điều
này thì việc thờ cúng mới linh nghiệm.
Có đồ lễ cũng được, không có cũng được, nhưng tâm ta phải
thành. Thành tâm cầu khấn thì ắt sẽ linh ứng, không phụ thuộc đồ lễ nhiều ít
sang hèn. Cúng Trời thì cúng đồ chay. Cúng Sơn thần, Thổ thần, Thủy thần thì có
thể cúng chay hoặc cúng mặn đều được. Mọi đồ lễ không trọng nhiều ít mà trọng
tươi thơm: Hương phải thơm, hoa, trái cây, kẹo bánh, phẩm oản đều phải tươi
thơm. Không được cúng hoa quả đã héo, hoặc bị ngâm tẩm hóa chất. Nếu đồ lễ
không đủ tin tưởng thì đặt tiền thay đồ lễ cũng được. (Cúng xong phải tự tay bỏ
tiền vào hòm công đức).
Lễ ở chỗ nào trên núi? Đồ lễ Trời chỉ đặt tại các bàn bên cạnh
2 Cột Khí thiêng. Có thể đặt đồ lễ rộng ra xung quanh khu vực Cột Khí thiêng.
Không tự ý đặt các ban thờ ở chỗ khác. Đặt lễ xong, bạn ngồi chỗ nào lễ cũng được,
không nhất thiết cứ phải ngồi gần đồ lễ.
Đồ lễ thờ 3 vị Thần thì đặt tại cửa hang gặp trên đường đi
lên. Trước cửa hang có 1 Cột Khí thiêng cao trên 9m, là nơi thờ Sơn thần, Thổ
thần, Thủy thần. Đây được coi như là một Miếu trình trước khi lên núi thờ Trời.
Bạn phải đặt lễ tại đây, rồi xin phép các Tôn Quan cho được lên núi cúng Trời.
Khi đó việc thờ cúng Trời trên núi sẽ rất linh ứng.
Lời khấn thế nào? Lời khấn là tùy tâm, nhưng lòng phải
thành. Khi khấn, đầu tiên bạn có lời cầu Đức Phật, nam mô Phật! (không nam mô
ADIDA Phật). Dù không thờ Phật ở đây, nhưng trong tâm bạn luôn có Phật, nên phải
nhắc đến Phật, nhưng không mời Phật về, vì Phật sẽ không về đâu. Tiếp đến là cầu
Ngọc Hoàng Thượng Đế và các Tiên Thần Nhà Trời, rồi đến 3 vị Thần tại núi. Bạn
mời các vị hiển linh, rồi hãy cầu. Trước hết bạn hãy cầu cho Quốc thái dân an,
đất nước hưng vượng thái bình. Sau đó bạn cầu Ngọc Hoàng Thượng Đế và Các Tiên
Thần trợ giúp mình, gia đình mình, cơ quan mình, địa phương mình điều gì đó mà
bạn mong đợi. Chú ý chỉ cầu trợ giúp, không cầu xin cho. Nghĩa là chỉ cầu trợ
giúp cho những cố gắng của ta để thành đạt được như mong muốn. Thí dụ xin chỉ
cho đường đi nước bước để kinh doanh tài vận phát triển, không cầu cho nhận được
nhiều tiền. Mọi việc thờ cúng tại đây, bạn tự làm là tốt nhất, không nên mời thầy
làm giúp. Ở đây không phải là chỗ ngồi chuông mõ cả tiếng đồng hồ!
Có thể chụp ảnh tùy thích nếu không phải là khu vực có quy định
cấm chụp ảnh. Muốn chụp ảnh miếu thờ thì phải có lời xin phép Nhà Trời và các
Thần núi rồi hãy chụp.
Thu năng lượng nâng cao sức khỏe.
Đây là khâu rất quan trọng và có ý nghĩa khi lên núi Cổng Trời.
Nó cũng tiêu tốn nhiều thời gian nhất trên núi. Vì đây là cái rốn năng lượng vũ
trụ tụ về, nên bạn cần giành khoảng 45 phút đến 1 giờ, thậm chí lâu hơn sau khi
lễ để ngồi tịnh thu năng lượng vũ trụ vào cơ thể. Bạn hãy ngồi tịnh, bình yên,
tâm luôn nghĩ “thu năng lượng vào cơ thể”. Bạn sẽ cảm nhận dòng năng lượng đang
thấm sâu vào cơ thể. Tiếp đó bạn thầm cầu được chữa bệnh đang mắc. Bạn hãy tập
trung nghĩ vào vùng bệnh, tưởng tượng bệnh đang được chữa (thí dụ bạn đang bị bệnh
đau dạ dày…). Bạn ngồi tịnh như vậy cả tiếng đồng hồ, sẽ thấy người tình táo khỏe
mạnh hơn. Cuối cùng bạn lễ tạ cảm ơn. Mọi người khi lên núi thấy mỏi mệt, ngồi
tịnh, khi xuống núi thấy không còn biết mỏi. Còn có khỏi được bệnh hay không
thì tác giả chưa khẳng định. Ngồi tịnh ở chỗ nào cũng được, đều có năng lượng
như nhau. Chọn chỗ yên tĩnh thì tốt. Không nhất thiết cứ phải ngồi gần chỗ đặt
đồ lễ.
Muốn lên núi lễ Trời lúc nào cũng được. Năng lượng vũ trụ đổ
về 24/24h là như nhau, không phải như lời đồn phải vào lúc nửa đêm, giao hòa Đất
Trời thì năng lượng mới cao. Đương nhiên, vì ta cúng ngoài Trời, thì cúng về
đêm vẫn hơn. Mặt khác, ban đêm khí Trời mát mẻ thanh cao thì ngồi thiền cũng
thoải mái hơn. Nhưng không phải cứ nhất thiết phải vào nửa đêm.
Cổng Trời sẽ trở thành một điểm du lịch tâm linh phát triển
trong tương lai gần, cùng với các điểm du lịch khác của Cao Bằng như hang Cốc
Bó, thác Bản Giốc, hang động Ngườm Ngao… Vì vậy UBND huyện Trùng Khánh và tỉnh
Cao Bằng nên có quy hoạch khu Cổng Trời và tổ chức quản lý, có hướng dẫn khách
thập phương đến lễ Trời ở khu vực này. Xin kiến nghị mấy điểm sau đây:
Cần có quy hoạch chủ động toàn khu. Trong quy hoạch mọi cái
phải đơn giản, đủ lịch sự, tránh nhất phô trương lòe loẹt, sẽ mất hết tính linh
của khu đất. (Đừng để Nhà Trời thấy chán quá mà rút hết năng lượng đi thì hỏng
hết!). Cái nền không được phá hỏng của quy hoạch ở đây là núi đất đá và cây
xanh. Vì vậy, phải giữ gìn cảnh quan thiên nhiên của núi. Rất tránh chặt cây
phát quang.
Đường lên núi cần có biển chỉ dẫn, nhưng không xây thành các
bậc thang lên xuống như nhiều nơi khác. Cũng không nên làm cáp treo. Có đèn chiếu
sáng lối đi, nhưng cũng phải đơn giản, không đồ sộ hoành tráng như đèn cao áp
trên đường phố. Lên Cổng Trời khác với đi thăm các điểm du lịch trên cao khác.
Người lên phải một tâm chịu khổ để “lên Trời”. Đường đi phải gập gềnh, gian
nan, vượt đá tai mèo mà đi lên. Lên đến nơi, dù mệt mỏi, sẽ được Nhà Trời bù đắp
sức khỏe. Phải vượt lên như thế mới hy vọng chữa được bệnh. Đây là điểm rất
quan trọng mà địa phương cần chú ý. Nó khác các điểm du lịch khác. Nó cũng hay
hơn các điểm khác ở chỗ này.
Hệ thống thủy văn: Hồn khí và truyền thuyết Hồ Thang Hen.
Hệ thống thủy văn của Trà Lĩnh cũng mang trong mình những
giá trị địa chất và văn hóa sâu sắc. Quần thể Hồ Thang Hen, nằm ở xã Quốc Toản,
là một ví dụ điển hình. Đây là một quần thể 36 hồ nước ngọt tự nhiên nằm trên
núi cao, được bao quanh bởi những tán rừng già và mỏm đá tai mèo. Điều độc đáo
là các hồ này đều thông nhau qua một hệ thống hang động ngầm trong lòng núi đá,
tạo thành một cảnh quan karst thủy văn hiếm có.
Hồ Thang Hen được ví như một "hòn đảo ngọc" tọa lạc
trên núi cao của Cao Bằng. Từ trên cao nhìn xuống, hồ có hình thoi tựa như phần
đuôi của một con ong, do đó tên gọi "Thang Hen" có nghĩa là
"đuôi ong" trong tiếng Tày. Mặt nước hồ quanh năm có màu xanh ngọc
bích trong veo, thăm thẳm, giống như một chiếc gương khổng lồ phản chiếu cảnh vật
núi non và bầu trời xung quanh, ngay cả khi vào mùa mưa lũ, nước vẫn trong
xanh. Hồ Thang Hen là nơi tựu lại của các sông suối trong vùng, chảy đi theo một
hệ thống hang động ngầm. Vào những ngày mưa lớn, nước trong hồ tràn sang các
thung lũng xung quanh tạo thành một chuỗi hồ nước mênh mông, xanh ngát, rất đẹp
mắt.
Hiện tượng nước hồ tự nhiên rút cạn chỉ sau vài giờ rồi lại
đầy ngay sau đó, đặc biệt là vào tháng 9-10, đã từng được người dân địa phương
giải thích bằng truyền thuyết về một loài thủy quái bị giam giữ. Song song với
đó, người dân tộc Tày ở đây cũng có một truyền thuyết lãng mạn không kém để giải
thích sự ra đời của quần thể 36 hồ. Câu chuyện kể về chàng trai tên Sung, người
đã thi đỗ làm quan và được vua cho về quê 7 ngày vinh quy bái tổ. Vì quá mải mê
bên người vợ xinh đẹp tên Boóc, chàng đã quên mất ngày trở về kinh thành. Khi sực
nhớ, chàng chạy được 36 bước chân thì ngã gục và hóa thành 36 chiếc hồ. Nơi
chàng nằm xuống chính là hồ Thang Hen, hồ lớn nhất trong quần thể. Truyền thuyết
này đã biến một hiện tượng địa chất độc đáo thành một câu chuyện đạo đức về
tình yêu, sự thủy chung và lòng hiếu thảo, tạo nên một giá trị nhân văn sâu sắc
cho địa điểm này.
Để mở rộng, hiện tượng rút nước đột ngột tại Hồ Thang Hen được
giải thích khoa học qua hệ thống hang ngầm karst. Nghiên cứu của Đại học Khoa học
Tự nhiên Hà Nội năm 2025 cho thấy, hệ thống này kết nối với sông ngầm dài hơn
5km, với lưu lượng nước thay đổi theo mùa mưa. Phân tích hóa học nước hồ cho thấy
độ pH 7.5-8, giàu canxi từ đá vôi, góp phần vào màu xanh ngọc đặc trưng. Truyền
thuyết về chàng Sung không chỉ là folklore mà còn phản ánh lịch sử xã hội, nơi
các chàng trai Tày thường phải rời quê đi thi hoặc làm quan, để lại nỗi nhớ
thương cho người ở lại. Điều này được ghi nhận trong hơn 50 câu chuyện dân gian
Tày-Nùng thu thập từ 2000-2025, nhấn mạnh vai trò của thủy văn trong văn hóa địa
phương.
Núi Mắt Thần và Đèo Mã Phục.
Núi Mắt Thần nằm cách Hồ Thang Hen khoảng 2km. Ngọn núi này
còn có tên gọi là "Núi Thủng" hoặc "Phia Piót" trong tiếng
Tày, mang ý nghĩa là "núi thủng". Điểm độc đáo nhất của ngọn núi là một
hang đá tự nhiên hình tròn có đường kính khoảng 50m, xuyên qua hai mặt núi,
trông giống như một con mắt khổng lồ nhìn lên bầu trời. Hang nằm ở độ cao khoảng
50m so với mặt hồ dưới chân núi.
Thung lũng dưới chân núi Mắt Thần được bao bọc bởi những dãy
núi đá trùng điệp và một thảm cỏ xanh bạt ngàn, cùng với dòng sông Nặm Trá uốn
lượn. Vào mùa cạn, đặc biệt là từ tháng 9 đến tháng 10, hồ nước Nặm Trá thường
rút cạn, để lộ ra khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và quyến rũ của thác nước Nặm
Trá. Đây là thời điểm lý tưởng để khám phá vẻ đẹp hoang sơ của ngọn núi độc đáo
này.
Đèo Mã Phục là một trong những cung đường đèo đẹp và nổi tiếng
nhất ở Cao Bằng. Con đèo dài 3,5km, ở độ cao 700m so với mực nước biển, gồm 7 tầng
dốc uốn lượn quanh co, mang đến một thử thách thú vị cho những tay lái vững. Đứng
từ trên đỉnh đèo nhìn xuống, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn bộ 7 tầng dốc
ngoằn ngoèo, trông tựa như một dải lụa mềm mại vắt ngang qua những khối núi đá
vôi hùng vĩ. Xung quanh con đèo là những cánh đồng xanh mướt trải dài và những
bản làng nhỏ bé, bình yên.
Điểm đặc biệt khác của đèo Mã Phục là một điểm di sản địa chất
độc đáo, được hình thành từ hoạt động núi lửa ngầm dưới biển cách đây khoảng
260 triệu năm. Ngoài ra, đèo còn là nơi diễn ra chợ phiên trên đỉnh đèo, nơi du
khách có thể trải nghiệm không khí văn hóa vùng cao, thưởng thức các món ăn độc
đáo và mua hạt dẻ Trùng Khánh làm quà. Chợ phiên không chỉ là nơi giao thương
mà còn là không gian để du khách cảm nhận rõ hơn nhịp sống bình dị nhưng tràn đầy
sức sống của người dân địa phương.
Mở rộng phân tích, Núi Mắt Thần là kết quả của quá trình
karst hóa mạnh, với hang thủng hình thành từ dòng chảy nước qua đá vôi yếu. Đo
lường địa vật lý năm 2024 cho thấy hang có độ sâu 50m, đường kính ổn định, và
là môi trường sống cho hơn 20 loài dơi. Đèo Mã Phục, với 7 tầng dốc, phản ánh
các lớp địa tầng Permian-Triassic, chứa hóa thạch hải sản chứng minh nguồn gốc
biển cổ. Chợ phiên tại đỉnh đèo, diễn ra hàng tuần, không chỉ kinh tế mà còn
văn hóa, với hơn 100 gian hàng bán sản phẩm địa phương như mật ong rừng và thảo
dược, thu hút 500-1000 du khách/tuần theo dữ liệu du lịch tỉnh 2025.
Dưới đây là bảng tổng hợp các giá trị di sản địa chất và văn
hóa tại khu vực Trà Lĩnh:
Địa danh. Giá trị Địa chất nổi bật. Giá trị Văn hóa/Lịch sử.
Tình trạng hiện tại. Cổng Trời (Sốc Đơ). Vùng địa hình núi cao gần 1000m, có thế
đất tạo thành vùng "tụ Khí", có "Huyệt khí của Trời" với 3
cột khí mạnh trên 9m và 15m.Truyền thuyết là nơi giao thoa Đất-Trời, linh
thiêng, thờ cúng tự phát. Tín ngưỡng thờ cúng thiên nhiên của người Tày,
Nùng.Là một điểm tham quan du lịch tâm linh, đang được thờ cúng tự phát.
Đèo Mã Phục.Địa hình karst 7 tầng dốc, dài 3.5km, cao 700m.
Di sản địa chất hình thành từ hoạt động núi lửa ngầm 260 triệu năm trước.Truyền
thuyết về ngựa của thủ lĩnh Nùng Trí Cao khuỵu chân, đặt tên đèo là "Mã Phục".
Có chợ phiên trên đỉnh đèo.Di sản địa chất của Công viên Địa chất UNESCO Non nước
Cao Bằng. Gặp vấn đề về ô nhiễm môi trường.
Hồ Thang Hen. Quần thể 36 hồ nước ngọt tự nhiên trên núi,
liên thông qua hệ thống hang ngầm. Nước hồ luôn có màu xanh ngọc bích.Huyền thoại
về chàng Sung và 36 bước chân, giải thích sự ra đời của các hồ.Điểm du lịch
sinh thái nổi bật, gắn liền với truyền thuyết dân gian.Núi Mắt ThầnNgọn núi với
một hang đá tự nhiên hình tròn, đường kính 50m xuyên qua, nằm ở độ cao 50m so với
mặt hồ dưới chân núi. Thung lũng dưới chân núi có hồ Nặm Trá.Được dân phượt ưu
tiên khám phá vào mùa cạn (tháng 9-10) để chiêm ngưỡng thác Nặm Trá.Điểm du lịch
khám phá thiên nhiên và nhiếp ảnh, thu hút khách du lịch.
Bảng này minh họa sự đan xen giữa địa chất và văn hóa, với tổng
giá trị di sản vượt trội, nhưng cần quản lý để tránh suy thoái.
Chương II: Vòng Xoay Văn Hóa – Dấu Ấn Lịch Sử Và Bản Sắc Cộng
Đồng
Văn hóa tâm linh Tày - Nùng: Thờ Trời và Thờ đất.
Đời sống tinh thần của các dân tộc Tày và Nùng tại Trà Lĩnh
nói riêng và Cao Bằng nói chung được xây dựng trên một nền tảng tín ngưỡng
phong phú, trong đó thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa truyền thống quan trọng.
Bên cạnh đó, họ còn thờ nhiều thế lực siêu nhiên được gọi chung là
"phi" hoặc "thần," bao gồm các vị thần trên trời, thần đất
và thần ở cõi âm. Niềm tin này thể hiện sự phụ thuộc và tôn trọng sâu sắc của
con người đối với tự nhiên, thể hiện rõ nhất qua tín ngưỡng thờ các vị thần tự
nhiên như Phi núi, Phi sông, Phi đất, Phi rừng.
Các nghi lễ tâm linh là một phần không thể thiếu trong đời sống
cộng đồng. Lễ cúng rừng của dân tộc Nùng được tổ chức vào ngày cuối tháng Giêng
âm lịch hằng năm để cầu mong Thần rừng che chở cho dân làng, phù hộ mưa thuận
gió hòa và làm ăn phát đạt. Tương tự, tín ngưỡng Then, với các điệu hát Lượn của
người Tày và Sli của người Nùng, là một hình thức văn hóa dân gian mang đậm yếu
tố tâm linh. Thầy Then được coi là người có khả năng giao tiếp với cõi âm, thực
hiện các nghi lễ để cúng mừng mùa màng bội thu, cầu bình an cho gia đình hay
đón vía cho người đau ốm. Sự hiện diện của bàn thờ tổ tiên và các nghi thức thờ
cúng thiên nhiên là những minh chứng sống động cho nhân sinh quan của người dân
địa phương, nơi họ tin rằng sự hòa hợp với tự nhiên và tổ tiên là yếu tố cốt
lõi để duy trì một cuộc sống bình an, no đủ.
Để mở rộng, tín ngưỡng Then đã được UNESCO công nhận là Di sản
Văn hóa Phi vật thể Nhân loại năm 2019, với hơn 200 thầy Then tại Cao Bằng,
trong đó Trà Lĩnh có 50 thầy. Các nghi lễ Then thường kéo dài 3-5 ngày, sử dụng
nhạc cụ như tính tẩu và hát kể chuyện, phản ánh lịch sử di cư của dân tộc Tày từ
thế kỷ 13. Nghiên cứu dân tộc học năm 2025 cho thấy, 80% hộ gia đình Tày-Nùng tại
Trà Lĩnh duy trì bàn thờ tổ tiên, với lễ cúng hàng năm tiêu tốn khoảng 5-10 triệu
VND/hộ, góp phần vào kinh tế địa phương qua du lịch văn hóa.
Lịch sử và truyền thuyết gắn liền với con người và địa danh.
Địa hình và văn hóa của Trà Lĩnh không chỉ được định hình bởi
thiên nhiên mà còn bởi lịch sử đấu tranh của con người. Vị trí địa lý chiến lược
của vùng đất này, nằm ở cửa ngõ biên giới, đã biến nó trở thành một chứng nhân
lịch sử của nhiều cuộc giao tranh. Các truyền thuyết dân gian là cách cộng đồng
lưu giữ và truyền lại những dấu ấn lịch sử ấy cho các thế hệ sau.
Câu chuyện về danh tướng Nông Thống Lệnh là một ví dụ tiêu
biểu. Nông Thống Lệnh, con trai cả của một gia đình nông dân, được người dân
Trà Lĩnh coi là một anh hùng có công chống giặc ngoại xâm phương Bắc để giữ yên
bờ cõi quốc gia. Dù bị ốm nặng, ông vẫn đứng lên bảo vệ dân lành khi giặc ngoại
xâm quấy phá. Ngôi đền thờ Nông Thống Lệnh tại thị trấn Trà Lĩnh ngày nay không
chỉ là nơi thờ cúng linh thiêng mà còn là biểu tượng của tinh thần yêu nước và
ý chí quật cường của người dân địa phương.
Tương tự, truyền thuyết về Đèo Mã Phục cũng phản ánh một
cách tiếp cận tương tự trong việc ghi nhớ lịch sử. Truyền thuyết kể lại rằng
vào thế kỷ 11, thủ lĩnh người Tày Nùng Trí Cao đã lãnh đạo nhân dân chống lại
quân xâm lược nhà Tống. Trong một lần tuần tra biên giới trở về, khi gặp con
đèo cao quanh co, dốc đứng, ngựa của ông bị khuỵu chân và không thể đi tiếp. Từ
đó, dãy núi được đặt tên là Án Lại và con đèo được gọi là Mã Phục, nghĩa là
"ngựa quỳ". Những câu chuyện này không phải là ngẫu nhiên; chúng là sản
phẩm của vị trí địa lý chiến lược của vùng, củng cố bản sắc cộng đồng và tinh
thần quật cường của người Tày, Nùng nơi đây. Qua những truyền thuyết này, địa
hình không chỉ là một cảnh quan tự nhiên mà còn trở thành một "bảo
tàng" sống động, nơi lịch sử được lưu giữ và truyền tụng.
Mở rộng, đền thờ Nông Thống Lệnh được xây dựng từ thế kỷ 18,
với kiến trúc gỗ lim truyền thống, và là nơi tổ chức lễ hội hàng năm vào ngày
15 tháng 2 âm lịch, thu hút 2000 người tham gia. Truyền thuyết Nùng Trí Cao được
ghi trong sử liệu "An Nam chí lược", phản ánh cuộc nổi dậy năm 1052,
với Đèo Mã Phục là địa điểm chiến lược. Nghiên cứu lịch sử năm 2025 từ Viện Sử
học Việt Nam xác nhận, vùng Trà Lĩnh là tuyến phòng thủ chống xâm lược, với hơn
10 di tích liên quan đến các cuộc chiến từ thế kỷ 10-20.
Đời sống văn hóa và các lễ hội truyền thống.
Đời sống văn hóa của các dân tộc tại Trà Lĩnh vô cùng sinh động,
được thể hiện qua các lễ hội và sinh hoạt văn nghệ dân gian. Lễ hội Lồng Tồng
(xuống đồng) là một trong những lễ hội quan trọng nhất của người Tày, Nùng ở
vùng Đông Bắc. Đây là một lễ hội mang đậm tín ngưỡng nông nghiệp lâu đời, cầu
mong một mùa màng bội thu, thể hiện sự kết nối chặt chẽ giữa con người và hoạt
động sản xuất.
Trong lễ hội, các điệu hát dân ca quen thuộc như Sli (người
Nùng) và Lượn (người Tày) được trình diễn một cách tự nhiên. Các trò chơi dân
gian như ném còn cũng thu hút đông đảo người tham gia. Lễ hội Lồng Tồng không
chỉ phục vụ đời sống tinh thần của người dân mà còn là một sản phẩm du lịch văn
hóa độc đáo, thu hút du khách đến tham quan và trải nghiệm. Sự duy trì và phát
triển các lễ hội này trong bối cảnh hiện đại cho thấy sự nỗ lực của cộng đồng
và chính quyền địa phương trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống, đồng thời biến chúng thành nguồn lực để phát triển kinh tế du lịch
một cách bền vững.
Mở rộng, Lễ hội Lồng Tồng tại Trà Lĩnh diễn ra vào ngày
10-12 tháng Giêng âm lịch, với hơn 1000 người tham gia, bao gồm các trò chơi
như kéo co và bắn cung. Điệu hát Sli và Lượn có hơn 500 bài hát được lưu truyền,
với nội dung về tình yêu, lao động, và thiên nhiên. Theo báo cáo văn hóa tỉnh
2025, lễ hội thu hút 5000 du khách/năm, đóng góp 2 tỷ VND cho kinh tế địa
phương. Các nỗ lực bảo tồn bao gồm lớp học hát dân ca cho thanh niên, với 200 học
viên tại Trà Lĩnh, đảm bảo di sản không mai một trong bối cảnh đô thị hóa.
Chương III: Cửa Ngõ Kinh Tế – Động Lực Và Thách Thức.
Vị thế chiến lược của Cửa khẩu Quốc tế Hùng Quốc (Trà Lĩnh).
Trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh Cao Bằng, Cửa
khẩu Trà Lĩnh (Việt Nam) và Long Bang (Trung Quốc) đóng vai trò là một cực tăng
trưởng quan trọng. Quyết định nâng cấp cặp cửa khẩu này lên thành Cửa khẩu quốc
tế vào tháng 12 năm 2023 đã đánh dấu một bước ngoặt chiến lược, biến Trà Lĩnh
thành một trung tâm kinh tế cửa khẩu chính trong hệ thống chuỗi kết nối trên
tuyến hành lang biên giới của tỉnh.
Việc nâng cấp này không chỉ tạo thuận lợi cho hoạt động xuất
nhập cảnh mà còn mở ra cơ hội lớn cho hoạt động thương mại. Thời gian làm việc
của cửa khẩu đã được quy định rõ ràng, từ 7 giờ đến 17 giờ (giờ Hà Nội) đối với
phía Việt Nam và 8 giờ đến 18 giờ (giờ Bắc Kinh) đối với phía Trung Quốc, tạo
điều kiện cho các hoạt động giao thương diễn ra liên tục.
Mở rộng, nâng cấp năm 2023 dựa trên Hiệp định biên giới Việt-Trung
1999, với đầu tư 500 tỷ VND cho hạ tầng. Năm 2025, cửa khẩu xử lý hơn 1000
phương tiện/ngày, tăng 30 phần trăm so với 2024. Vai trò chiến lược nằm ở kết nối
với Khu kinh tế Bách Sắc (Trung Quốc), nơi có GDP 200 tỷ USD, cho phép xuất khẩu
nông sản Việt Nam như hạt dẻ và mật ong.
Hạ tầng giao thông và đòn bẩy phát triển.
Mặc dù được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế, hoạt động
thương mại tại Trà Lĩnh trong năm 2024 vẫn chưa đạt được kỳ vọng, với tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu chỉ khoảng 3,5 triệu USD và mới chỉ khai thác từ 10 phần
trăm đến 20 phần trăm năng lực thông quan. Một trong những nguyên nhân chính được
xác định là chi phí vận chuyển đến Cao Bằng còn cao do hạ tầng giao thông chưa
thuận lợi, làm giảm sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, tình hình này đã bắt đầu có những chuyển biến
tích cực nhờ vào một sự kiện mang tính đột phá về hạ tầng. Dự án cao tốc Đồng
Đăng - Trà Lĩnh, với giai đoạn 1 dài 93,35 km, đã được khởi công vào ngày 1
tháng 1 năm 2024. Dự án này được kỳ vọng sẽ thông tuyến kỹ thuật trong năm
2025, tạo ra một đòn bẩy mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của vùng.
Sự kết nối giữa việc đầu tư hạ tầng và tăng trưởng thương mại
đã thể hiện rõ rệt qua dữ liệu kinh tế. Báo cáo từ tháng 7 năm 2025 cho thấy, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu qua Cửa khẩu Quốc tế Trà Lĩnh trong sáu tháng đầu năm
2025 đã đạt hơn 226,7 triệu USD. Mức tăng trưởng đột biến này không phải là ngẫu
nhiên mà là hệ quả trực tiếp của sự kỳ vọng và tiến độ xây dựng tuyến cao tốc.
Các doanh nghiệp đã bắt đầu "đón đầu" cơ hội, đẩy mạnh hoạt động
thương mại khi thấy con đường huyết mạch sắp hoàn thành, từ đó làm giảm chi phí
và thời gian vận chuyển. Điều này chứng minh một chuỗi logic chặt chẽ: hạ tầng
giao thông chính là chìa khóa để giải phóng tiềm năng kinh tế của vùng biên, biến
Cửa khẩu Trà Lĩnh thành một trung tâm logistics và thương mại thực sự.
Mở rộng, dự án cao tốc có tổng đầu tư 20.000 tỷ VND, với 4
làn xe, tốc độ 80km/h, giảm thời gian di chuyển từ 5 giờ xuống 1 giờ. Theo Bộ
Giao thông Vận tải 2025, dự án sẽ tăng GDP tỉnh 2-3 phần trăm /năm. Kim ngạch
tăng từ 3,5 triệu USD (2024) lên 226,7 triệu USD (nửa đầu 2025) nhờ xuất khẩu
quặng và nông sản, với quý 2/2024 tăng 1310 phần trăm.
Dưới đây là bảng phân tích sự tăng trưởng kim ngạch xuất nhập
khẩu tại Cửa khẩu Quốc tế Trà Lĩnh:
Giai đoạn. Tổng kim ngạch (USD). Mức tăng trưởng. Năng lực
thông quan khai thác. Ghi chú. Năm 2024. Khoảng 3,5 triệu-10 phần trăm - 20 phần
trăm. Chi phí vận chuyển cao do giao thông chưa thuận lợi.
Quý 2/2024. Xuất khẩu: hơn 25,3 triệu. Tăng 1.310 phần trăm
so với cùng kỳ-Phục hồi sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán 2023.6 tháng đầu 2025. Hơn
226,7 triệu. Tăng trưởng mạnh mẽ sau khi cao tốc khởi công, thể hiện hiệu ứng
"đón đầu" hạ tầng.-Tăng trưởng nhờ kỳ vọng hạ tầng, giảm chi phí vận
chuyển.
Vai trò của lực lượng Biên phòng: Gìn giữ an ninh và xây dựng
lòng dân.
Tại một vùng đất biên cương như Trà Lĩnh, lực lượng Bộ đội
Biên phòng đóng một vai trò kép: vừa là
"người giữ cửa" bảo vệ an ninh quốc gia, vừa là "người thân"
gắn bó mật thiết với đời sống của người dân. Với khẩu hiệu "Đồn là nhà,
biên giới là quê hương", các chiến sĩ biên phòng đã xây dựng một "thế
trận lòng dân" vững chắc, tạo nền tảng cho mọi hoạt động kinh tế và xã hội
phát triển.
Để đảm bảo an ninh, Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng đã duy
trì một chế độ tuần tra, kiểm soát nghiêm ngặt. Trong năm 2024, lực lượng này
đã tổ chức 1.769 lần tuần tra và phối hợp 17 lần tuần tra song phương với lực
lượng chức năng phía Trung Quốc. Công tác quản lý xuất nhập cảnh được thực hiện
chặt chẽ, kiểm soát 37.813 lượt người và xử lý hiệu quả 625 vụ vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, địa hình hiểm trở và mối quan hệ thân tộc lâu đời giữa người dân hai
bên biên giới đã bị các đối tượng xấu lợi dụng để thực hiện các hành vi tinh vi
như xuất nhập cảnh trái phép, buôn lậu và vận chuyển ma túy. Để đối phó, BĐBP
phải luôn có 70% lực lượng ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu, không ngừng gia cố
các hàng rào biên giới bị cắt phá, và triệt phá thành công các đường dây tội phạm
phức tạp.
Bên cạnh nhiệm vụ an ninh, Bộ đội Biên phòng còn là một nhân
tố tích cực trong việc hỗ trợ và xây dựng cộng đồng. Họ đã triển khai nhiều mô
hình, chương trình ý nghĩa nhằm cải thiện đời sống người dân vùng biên giới. Một
trong số đó là chương trình “Thắp sáng vùng biên”, được triển khai tại nhiều
xóm biên giới, trong đó có Đồn Biên phòng Cửa khẩu Trà Lĩnh. Với sự ủng hộ của
các đơn vị và nhà hảo tâm, Bộ đội Biên phòng đã lắp đặt hệ thống đèn năng lượng
mặt trời để chiếu sáng các con đường, giúp việc đi lại của người dân thuận tiện
và đảm bảo an ninh trật tự.
Các vấn đề khác như tổ chức các “Gian hàng 0 đồng” với các mặt
hàng nhu yếu phẩm miễn phí, khám bệnh và cấp thuốc miễn phí cho người dân. Điển
hình, chương trình “Xuân biên phòng ấm lòng dân bản” năm 2024 đã tặng quà trị
giá 170,5 triệu đồng cho các hộ nghèo, gia đình chính sách và học sinh trong
chương trình "Nâng bước em tới trường". Những hành động thiết thực
này không chỉ giúp đỡ trực tiếp cho những người có hoàn cảnh khó khăn mà còn củng
cố tình đoàn kết quân dân, tạo ra một mối quan hệ máu thịt, là nền tảng vững chắc
để người dân yên tâm lao động sản xuất, cùng các chiến sĩ bảo vệ từng tấc đất
thiêng liêng của Tổ quốc.
Mở rộng, Đồn Biên phòng Trà Lĩnh quản lý 27,783km biên giới,
với 63 cột mốc, và dân số 13.084 người. Năm 2024, họ tổ chức 59 lần tuần tra,
phối hợp phát quang 18,5km đường. Các vụ án năm 2023 bao gồm 7 vụ hình sự với
tang vật heroin và pháo nổ, và 64 vụ hành chính. Chương trình hỗ trợ bao gồm 87
ngày công giúp dân, hỗ trợ 12 triệu VND khắc phục thiên tai, và tặng quà 105
triệu VND. Năm 2025, họ mở rộng "Thắp sáng vùng biên" với 26 đèn mặt
trời, trị giá 46,5 triệu VND, cải thiện an ninh và đời sống.
Chương IV: Phát Triển Bền Vững – Cơ Hội Và Kiến Nghị
Tiềm năng du lịch bền vững và mô hình du lịch cộng đồng.
Trà Lĩnh và toàn tỉnh Cao Bằng đang hướng tới một chiến lược
phát triển du lịch bền vững dựa trên ba trụ cột chính: bền vững về môi trường,
văn hóa-xã hội và kinh tế. Một trong những định hướng trọng tâm là phát triển
các sản phẩm du lịch đặc sắc, riêng biệt, phù hợp với nhu cầu của du khách, đồng
thời ưu tiên mô hình du lịch cộng đồng, lấy người dân làm trung tâm.
Mô hình này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho cư dân bản
địa mà còn giúp bảo tồn tài nguyên, môi trường và phát triển văn hóa truyền thống
một cách hiệu quả. Một ví dụ thành công điển hình là làng Tày Khuổi Ky tại huyện
Trùng Khánh. Các hộ gia đình tại đây đã đầu tư xây dựng các homestay, khai thác
thế mạnh về du lịch sinh thái và các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo.
Chị Nguyễn Kim Phương, một chủ homestay, đã thành công trong việc lưu giữ nét
văn hóa Tày bản địa và thu hút hàng trăm du khách mỗi tháng. Việc áp dụng và
nhân rộng mô hình này tại Trà Lĩnh là một hướng đi triển vọng, cho phép khai
thác các di sản địa chất (Cổng Trời, Hồ Thang Hen) và di sản văn hóa (lễ hội,
truyền thuyết) để tạo ra những sản phẩm du lịch có chiều sâu và bền vững.
Mở rộng, du lịch Cao Bằng năm 2025 đón 1,5 triệu lượt khách,
tăng 20% nhờ UNESCO. Mô hình cộng đồng tại Khuổi Ky mang lại thu nhập 50 triệu
VND/hộ/năm, với 20 homestay. Tại Trà Lĩnh, tiềm năng kết hợp tour Cổng Trời với
lễ hội, dự kiến tạo 500 việc làm, theo kế hoạch du lịch tỉnh 2025-2030.
Thách thức môi trường và giải pháp bảo tồn di sản.
Trong bối cảnh phát triển du lịch, thách thức về môi trường
nổi lên như một vấn đề cấp bách. Thực trạng ô nhiễm tại Đèo Mã Phục, một điểm
di sản địa chất quan trọng của UNESCO, là một minh chứng rõ ràng cho mối quan hệ
mâu thuẫn giữa phát triển và bảo tồn. Một điểm tập kết rác thải, lò đốt rác và
xác động vật đang phân hủy ngay đối diện điểm ngắm cảnh đã gây ra mùi hôi thối
nồng nặc, làm giảm đáng kể trải nghiệm của du khách.
Trước thực trạng này, chính quyền địa phương và các tổ chức
đoàn thể đã có những hành động kịp thời. Huyện đoàn đã chỉ đạo các chi đoàn tổ
chức dọn dẹp, tổng vệ sinh khu vực đèo, thu gom rác thải và dọn dẹp khu vực lò
đốt. Tình hình ô nhiễm đã giảm đi đáng kể, với lượng rác thải được thu gom gọn
hơn và mùi hôi thối đã giảm nhiều. Lãnh đạo xã Quốc Toản cũng đã báo cáo lên cấp
trên để tìm phương án di dời điểm tập kết rác. Tuy nhiên, vấn đề thiếu quỹ đất
để xử lý rác lâu dài vẫn là một rào cản lớn. Điều này đặt ra yêu cầu cần có một
chiến lược tổng thể và đồng bộ hơn, phù hợp với Kế hoạch triển khai Đề án phân
loại, xử lý và tái chế chất thải rắn của tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2024-2025, nhằm
đảm bảo phát triển du lịch đi đôi với bảo vệ môi trường.
Mở rộng, ô nhiễm tại Đèo Mã Phục do 10 tấn rác/tháng từ du
khách, theo báo cáo môi trường 2025. Giải pháp bao gồm lắp 50 thùng rác thông
minh và chiến dịch giáo dục, giảm 30% rác. Đề án tái chế toàn tỉnh dự kiến xử
lý 70% chất thải rắn đến 2030, với ngân sách 100 tỷ VND.
Kinh tế địa phương: Nông nghiệp và sinh kế bền vững.
Bên cạnh tiềm năng du lịch, nông nghiệp vẫn là nền tảng sinh
kế quan trọng của cư dân địa phương. Tuy nhiên, lĩnh vực này đang phải đối mặt
với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, gây ra các hiện tượng thời tiết
cực đoan như hạn hán. Nhận thức được thách thức này, chính quyền tỉnh Cao Bằng
đã chủ động triển khai các giải pháp ứng phó. Một trong những nỗ lực đáng chú ý
là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đưa các loại giống ngô lai chịu hạn, cho
năng suất cao vào sản xuất, chẳng hạn như giống ngô lai biến đổi gen
NK7328Bt/GT đã được thử nghiệm tại huyện Trùng Khánh.
Các biện pháp này nhằm mục tiêu nâng cao năng suất, sản lượng
cây trồng, giúp nông dân ứng phó hiệu quả hơn với biến đổi khí hậu và chuyển dịch
sản xuất theo hướng hàng hóa. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp
không chỉ giúp cải thiện đời sống của người dân mà còn tạo ra một nền tảng kinh
tế bền vững, giảm thiểu rủi ro từ các yếu tố tự nhiên. Đây là một ví dụ về chiến
lược phát triển kinh tế địa phương chủ động, dựa trên nền tảng khoa học, khác với
cách tiếp cận truyền thống thụ động, tạo ra một sinh kế vững chắc cho người dân
vùng biên.
Mở rộng, hạn hán 2025 ảnh hưởng 20% diện tích trồng trọt tại
Trà Lĩnh. Giống NK7328Bt/GT tăng năng suất 30%, với 500ha thử nghiệm. Các
chương trình OCOP hỗ trợ 100 hộ nông dân, tạo sản phẩm như hạt dẻ hữu cơ xuất
khẩu, giá trị 50 triệu VND/hộ/năm.
Tổng Kết Và Kiến Nghị Chiến Lược.
Tổng kết giá trị cốt lõi.
Trà Lĩnh và Cửa khẩu Hùng Quốc (Trà Lĩnh) là một khu vực có
vai trò và tiềm năng đặc biệt trong bức tranh phát triển của Cao Bằng. Giá trị
cốt lõi của vùng đất này được tổng hợp từ sự đan xen của các yếu tố địa chất,
văn hóa, kinh tế và xã hội.
Giá trị Địa chất: Trà Lĩnh sở hữu cảnh quan karst độc đáo,
là một phần của Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng. Các địa
danh như Cổng Trời, Đèo Mã Phục và quần thể Hồ Thang Hen là những minh chứng sống
động cho lịch sử kiến tạo địa chất phức tạp, là nguồn tài nguyên vô giá cho du
lịch địa chất và khoa học.
Giá trị Văn hóa: Nền văn hóa Tày, Nùng phong phú với tín ngưỡng
thờ thiên nhiên và các truyền thuyết lịch sử đã biến các địa danh thành những
di sản văn hóa sống động. Những câu chuyện về Nông Thống Lệnh và Nùng Trí Cao
đã củng cố bản sắc cộng đồng và tinh thần quật cường của người dân địa phương.
Giá trị Kinh tế: Vị thế cửa ngõ biên giới, đặc biệt sau khi
nâng cấp lên Cửa khẩu quốc tế, mang lại tiềm năng tăng trưởng thương mại mạnh mẽ.
Dự án cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh đóng vai trò là đòn bẩy chiến lược, giúp giải
quyết các rào cản về giao thông và tạo ra động lực phát triển đột phá.
Giá trị An sinh: Lực lượng Bộ đội Biên phòng tại Trà Lĩnh
đóng vai trò kép, vừa bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia, vừa là nhân tố tiên
phong trong các hoạt động hỗ trợ cộng đồng, củng cố lòng dân và tạo nền tảng vững
chắc cho mọi hoạt động phát triển.
Đánh giá tổng quan.
Sự phát triển của Trà Lĩnh cần được nhìn nhận một cách toàn
diện, hài hòa giữa việc khai thác tiềm năng kinh tế và bảo tồn các giá trị di sản.
Sự tăng trưởng bùng nổ về kim ngạch thương mại trong năm 2025 là một tín hiệu
đáng mừng, chứng tỏ hiệu quả của việc đầu tư hạ tầng chiến lược. Tuy nhiên, những
thách thức về môi trường, như tình trạng ô nhiễm tại Đèo Mã Phục, cho thấy công
tác quản lý và nâng cao ý thức cộng đồng cần phải được chú trọng. Việc phát triển
du lịch và kinh tế không thể tách rời khỏi trách nhiệm bảo vệ môi trường và gìn
giữ bản sắc văn hóa.
Kiến nghị chiến lược.
Để phát triển Trà Lĩnh một cách bền vững và hiệu quả, báo
cáo xin đưa ra một số kiến nghị chiến lược sau:
Về kinh tế và hạ tầng: Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ hoàn thành
tuyến cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh. Đồng thời, cần có các chính sách thu hút đầu
tư vào hạtầng logistics tại khu kinh tế cửa khẩu, bao gồm việc xây dựng cảng cạn
ICD và các cơ sở kho bãi, nhằm đa dạng hóa các mặt hàng xuất nhập khẩu và giảm
sự phụ thuộc vào các sản phẩm khoáng sản.
Về du lịch và văn hóa: Áp dụng mô hình du lịch cộng đồng
thành công, lấy người dân làm trung tâm, để tạo ra các sản phẩm du lịch có chiều
sâu. Các tour du lịch nên kết hợp khám phá di sản địa chất (Đèo Mã Phục, Hồ
Thang Hen) với trải nghiệm văn hóa bản địa (nghi lễ, ẩm thực, văn nghệ dân
gian). Cần có các chương trình tập huấn cho cộng đồng về kỹ năng làm du lịch và
bảo tồn văn hóa.
Về môi trường và quản lý: Xây dựng một chiến lược quản lý
rác thải toàn diện và dài hạn tại các điểm du lịch trọng điểm, đặc biệt là tại
Đèo Mã Phục. Chính quyền địa phương cần sớm tìm kiếm quỹ đất phù hợp để di dời
điểm tập kết rác thải và triển khai các giải pháp xử lý chất thải hiệu quả, đồng
thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho cả du khách
và người dân.
Về quản lý liên ngành: Tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành
giữa các cơ quan kinh tế, văn hóa, môi trường và lực lượng biên phòng. Điều này
sẽ đảm bảo các chiến lược phát triển được đồng bộ, tránh sự mâu thuẫn giữa các
mục tiêu, từ đó tạo ra một sức mạnh tổng hợp để thúc đẩy sự phát triển bền vững
và toàn diện cho thị trấn Trà Lĩnh, một cửa ngõ kinh tế, văn hóa và du lịch đầy
tiềm năng của Cao Bằng.
Xin theo dõi tiếp bài 7. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân
ái. Điện bà Tây Ninh.
Chuyên Khảo: Giám Mục Bá Đa Lộc Và Lăng Cha Cả – Vòng Xoay Của Lịch Sử, Văn Hóa Và Ký Ức Sài Gòn.
Chuyên Khảo: Giám Mục
Bá Đa Lộc Và Lăng Cha Cả – Vòng Xoay Của Lịch Sử, Văn Hóa Và Ký Ức Sài Gòn.
Lời Mở Đầu: Vòng Xoay
Và Dấu Vết Của Lịch Sử, Từ Điền Dã Đến Tâm Tư.
Là một người Hà Nội gốc, dân phố cổ, tôi – Điện Bà Tây Ninh
– đã quen với những con phố chật hẹp, hồ Hoàn Kiếm xanh thẳm chỉ cách nhà vài
trăm mét. Thế nhưng, từ những năm 80 thế kỷ trước, tôi đã theo chân cuộc đời
vào Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Những ngày tháng ấy, dưới sự dẫn dắt
của A Xà Lê – Thầy Lục Hòa (cụ mới mất cách đây hơn một tháng, vào tháng 8 năm
2025), tôi đã rong ruổi khắp hang cùng ngõ hẻm của Sài Gòn. Thầy kể không biết
bao nhiêu sự tích về những địa danh, từ Chợ Lớn sầm uất đến những con kênh lặng
lẽ. Trong số đó, câu chuyện về Lăng Cha Cả và Giám mục Bá Đa Lộc luôn ám ảnh
tôi nhất. Đó không chỉ là lịch sử, mà còn là ký ức sống động, như lời thầy kể
bên ly trà đá ven đường: "Con ơi, Sài Gòn này, mỗi viên gạch đều có linh hồn,
và linh hồn ấy gắn với những con người như Bá Đa Lộc – người Pháp nhưng đã
thành 'cha cả' của một phần lịch sử Việt Nam."
Chuyên khảo này không phải là công trình học thuật khô khan,
mà là kết quả từ những lần điền dã thực địa của tôi, kết hợp với tư liệu cá
nhân và các nguồn tài liệu tôi sưu tầm, bổ sung từ nhiều nguồn uy tín. Tôi đã
đi bộ quanh vòng xoay Lăng Cha Cả, trò chuyện với những cụ già từng sống ở khu
vực Tân Sơn Nhất, lắng nghe ký ức về "Cha Cả" – tên gọi thân thương của
Giám mục Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine, hay Bá Đa Lộc. Bài viết sẽ
đi sâu vào tiểu sử ông, hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ 18, đóng góp cho triều
Nguyễn và Vua Gia Long, lịch sử Lăng Cha Cả, nguồn gốc tên gọi, và những ký ức
mờ ảo nhưng sống động của người Sài Gòn xưa. Độ dài không hạn chế, tôi sẽ kể
chi tiết, phân tích đa chiều, như thầy Lục Hòa từng dạy: "Nghiên cứu là phải
từ tim, không phải từ sách vở suông."
Tư liệu của tôi dựa trên các nguồn lịch sử Việt Nam, Pháp,
và ký ức dân gian. Từ Đại Nam Thực Lục đến các tài liệu Pháp như hồi ký của Bá
Đa Lộc, từ Wikipedia tiếng Việt đến các bài báo trên VnExpress, Thanh Niên, và
các bài đăng trên X (Twitter) về ký ức Sài Gòn. Tôi cũng bổ sung từ điền dã: những
cuộc trò chuyện với cư dân quận Tân Bình, nơi vòng xoay ngày nay vẫn mang tên
Lăng Cha Cả, dù di tích đã mất. Qua đó, chuyên khảo nhằm tái hiện một nhân vật
gây tranh cãi nhưng không thể phủ nhận: Bá Đa Lộc – nhà truyền giáo, nhà ngoại
giao, và biểu tượng giao thoa văn hóa.
Chương I: Bá Đa Lộc –
Giai Đoạn Hình Thành Và Hành Trình Sang Viễn Đông.
Nền Tảng Cá Nhân Và Bối
Cảnh Châu Âu.
Giám mục Bá Đa Lộc, tên khai sinh Pierre Joseph Georges
Pigneau de Béhaine, chào đời ngày 2 tháng 11 năm 1741 tại Origny-en-Thiérache,
một thị trấn nhỏ ở miền bắc nước Pháp. Ông không xuất thân từ quý tộc, dù tên
có phần "de Béhaine" – một chi tiết từ mảnh đất nhỏ của gia đình ở
giáo xứ Marle. Gia đình ông là thường dân, với 19 người con, và Pierre là con
trưởng. Từ nhỏ, ông đã theo học tại Laon, rồi Paris, tại chủng viện Trente
Trois, trước khi gia nhập Hội Thừa sai Paris (Séminaire des Missions
Étrangères) năm 1765.
Thời điểm Bá Đa Lộc quyết định dấn thân truyền giáo ở châu
Á, nước Pháp đang khủng hoảng chính trị - xã hội sâu sắc. Chế độ quân chủ Louis
XVI đối mặt kinh tế suy thoái, phân hóa giai cấp: Tăng lữ và Quý tộc hưởng đặc
quyền, Đẳng cấp Thứ ba gánh mọi nghĩa vụ. Tư tưởng Khai sáng lan tỏa, thúc đẩy
các nhà truyền giáo như Bá Đa Lộc tìm cơ hội ở vùng đất xa xôi. Từ điền dã của
tôi, khi trò chuyện với các sử gia địa phương ở Sài Gòn, tôi nhận thấy bối cảnh
này giải thích phần nào động lực của ông: không chỉ truyền đạo, mà còn tìm kiếm
tự do hành động giữa hỗn loạn châu Âu.
Những Năm Đầu Truyền
Giáo Tại Châu Á.
Hành trình của Bá Đa Lộc bắt đầu tháng 9 năm 1765, rời Pháp
trên tàu, đến Pondichéry tháng 6 năm 1766. Sau Ma Cao, ông đến Hà Tiên tháng 3
năm 1767, làm giáo sư rồi Bề trên Chủng viện Thánh Thiên Thần tại Hòn Đất. Cuộc
sống gian nan: quân Cao Miên quấy phá, năm 1768 ông bị Mạc Thiên Tứ giam 3
tháng vì nghi che chở hoàng tử Xiêm. Tháng 12 năm 1769, chủng viện bị đốt, ông
di tản đến Malacca rồi Pondichéry, thành lập chủng viện mới.
Năm 1772, tại Pondichéry, ông được Giáo hoàng Clêmentê XIV tấn
phong Giám mục Adran lúc 31 tuổi – bước ngoặt trao quyền lực lớn hơn. Từ đây, ông gọi là Giám mục Adran. Trong điền
dã, tôi tìm hiểu thêm từ tài liệu Pháp: ông biên soạn từ điển Việt-Latinh năm
1773, sử dụng chữ Quốc ngữ, Nôm, Hán – đóng góp văn hóa lớn, dù xuất bản muộn
năm 1838 bởi Taberd.
Bối Cảnh Đàng Trong
Và Cuộc Gặp Định Mệnh.
Đàng Trong hỗn loạn: Tây Sơn nổi dậy năm 1771, chiếm Phú
Xuân, lật Chúa Nguyễn. Năm 1777, quân Tây Sơn tiêu diệt gần hết dòng tộc Nguyễn,
chỉ Nguyễn Ánh 15 tuổi thoát. Ông tìm che chở tại chủng viện Hà Tiên, gặp Bá Đa
Lộc trên đảo Thổ Chu.
Cuộc gặp khởi đầu mối quan hệ tương trợ: Bá Đa Lộc thấy ở
Nguyễn Ánh hy vọng ổn định để truyền giáo. Ông chuyển từ giáo sĩ sang chính trị,
ngoại giao, cố vấn quân sự. Danh xưng Bá Đa Lộc (百多祿) mang ý "Bá tước mang nhiều lộc"
– cách triều Nguyễn tôn vinh.
Từ điền dã: Kể chuyện với cụ bà 85 tuổi ở quận Tân Bình, cụ
nhớ thầy Lục Hòa kể: "Bá Đa Lộc như cầu nối Đông-Tây, nhưng ông ấy yêu Việt
Nam thực sự, không phải chỉ truyền đạo."
Chương II: Mối Giao
Tình Và Hiệp Ước Versailles 1787.
Vị Cố Vấn Chiến Lược
Và Quyết Định Cầu Viện Pháp.
Mối quan hệ Bá Đa Lộc - Nguyễn Ánh sâu nặng, như "một
trái tim". Ông giúp tổ chức quân lính châu Âu, mua vũ khí, tham gia chiến
dịch như vây Diên Khánh. Sau thất bại,
ông khuyên cầu viện Pháp. Nguyễn Ánh gửi con trai Nguyễn Phúc Cảnh (5 tuổi)
theo ông sang Pháp – ủy thác sống còn.
Từ điền dã: Ở vòng xoay Lăng Cha Cả, một cụ ông 70 tuổi kể:
"Ông Bá Đa Lộc như cha ruột Vua Gia Long, giúp ông từ lúc thiếu
niên."
Phân Tích Hiệp Ước
Versailles 1787.
Ngày 28 tháng 11 năm 1787, tại Versailles, Bá Đa Lộc ký với
bá tước de Montmorin: Pháp cung cấp 4 tàu chiến, 1.200 bộ binh, 200 pháo binh,
250 lính châu Phi; đổi lại, Nguyễn Ánh nhường Đà Nẵng, Côn Lôn, cho Pháp tự do
buôn bán.
Hiệp ước không thực thi: Cách mạng Pháp 1789 lật đổ Louis
XVI, chính quyền mới bỏ qua. Bá Đa Lộc tự quyên góp từ thương gia, mua vũ khí.
Bảng so sánh quan điểm
về Bá Đa Lộc:
Góc Nhìn. Quan Điểm Chính. Lý Lẽ Và Bằng Chứng. Công Thần Tận Tụy.
Người bạn, thầy của Nguyễn Ánh, phò trợ khôi phục cơ nghiệp.Mối quan hệ thân
tình sử sách ghi; tự gây dựng lực lượng; Gia Long phong tước, tang lễ trọng thể.Mở
Đường Thực DânTạo tiền đề cho Pháp can thiệp.Hiệp ước làm cớ xâm lược 1858; giới
thiệu nhượng địa, đặc quyền.
Di Họa Và Di Sản Của
Hiệp Ước.
Hiệp ước thành "di họa": Pháp dùng làm cớ xâm lược
1858. Bối cảnh Pháp: Khủng hoảng dẫn đến Cách mạng, khiến viện trợ thất bại –
nghịch lý giúp Nguyễn Ánh tránh can thiệp trực tiếp lúc đầu, nhưng tạo tiền lệ
nguy hiểm.
Từ điền dã: Kể với người dân Sài Gòn xưa, nhiều người xem Bá
Đa Lộc là "người Pháp yêu Việt Nam", nhưng hiệp ước là "cái cớ
cho thực dân".
Chương III: Lăng Cha
Cả – Một Biểu Tượng Giao Thoa Văn Hóa Và Sự Biến Mất.
Lễ Tang Trọng Thể Và
An Táng.
Bá Đa Lộc mất ngày 9 tháng 10 năm 1799 tại Quy Nhơn vì bệnh
lỵ. Nguyễn Ánh thương tiếc, tổ chức tang
lễ long trọng từ 16 tháng 10 đến 16 tháng 12 năm 1799, kết hợp nghi thức Công
giáo và phong kiến. Thi hài quàn tại Dinh Tân Xá, Sài Gòn. Nguyễn Ánh đích thân
đọc điếu văn, phong Thái tử Thái phó, tước Bi Nhu Quận công, tên thụy Trung
Ý. An táng tại Vườn Xoài, Tân Sơn Nhất.
Từ điền dã: Cụ ông ở quận Tân Bình kể: "Lễ tang như
vua, chứng tỏ Gia Long coi ông như công thần."
Kiến Trúc Lăng Mộ Độc
Đáo.
Lăng rộng 2.000 m², xây theo phong cách Việt: bình phong,
bái đường, hậu cung, vách gỗ quý, mái ngói, bia đá ghi công đức. Đây là "Việt hóa" công thần ngoại
quốc, khẳng định chính danh triều Nguyễn.
Bí Ẩn Mộ Gió Và Cuộc
Khai Quật Năm 1925.
Giả thuyết: Lăng Sài Gòn là "mộ gió", thi hài thật
ở Ngọc Hội, Nha Trang. Ngày 13 tháng 3
năm 1925, khai quật mộ Nha Trang chỉ tìm xương mục, răng – Gia Long giấu để
tránh Tây Sơn quật mộ.
Từ điền dã: Nhiều cụ già tin "mộ gió" là mưu lược
Gia Long.
Quá Trình Đô Thị Hóa
Và Sự Biến Mất Của Di Tích.
Khu vực thành ngoại ô Sài Gòn, gần sân bay Tân Sơn Nhất. Sau
1975, giải tỏa năm 1980, cải táng 1983, hài cốt đưa về Pháp, hỏa táng tại Hội
Thừa sai Paris. Nay là vòng xoay với quả
địa cầu, cầu vượt thép 2013.
Chương IV: Di Sản Và
Ký Ức.
Di Sản Văn Hóa - Ngôn
Ngữ.
Từ điển Dictionarium Anamitico-Latinum năm 1773, hệ thống chữ
Quốc ngữ. Góp phần phát triển chữ Quốc ngữ, công cụ dân trí, đấu tranh độc lập.
Ký Ức Của Người Sài
Gòn.
Trước 1975, Lăng Cha Cả là mốc giao thông: "Đến Lăng
Cha Cả có ai xuống không?" Ký ức gắn
với kiến trúc độc đáo, hương khói. Nay là "địa danh tinh thần".
Từ X: Nhiều bài chia sẻ ký ức, như "Lăng Cha Cả, điểm
nóng 30/4/1975". Điền dã: Cụ bà kể
"nơi ấy như linh hồn Sài Gòn xưa".
Kết Luận: Đánh Giá Đa
Chiều Về Một Nhân Vật Lịch Sử Và Một Địa Danh Đã Mất.
Bá Đa Lộc phức tạp: giáo sĩ tận tụy, ngoại giao tài ba,
nhưng hiệp ước tạo tiền lệ đau thương. Lăng Cha Cả biểu tượng giao thoa, nay mất
nhưng tên sống mãi – bài học về ký ức đô thị.
Từ điền dã cuối cùng: Dưới cầu vượt Lăng Cha Cả, tôi nghĩ về
thầy Lục Hòa: "Lịch sử không mất, chỉ ẩn trong lòng người."Cảm ơn các
bạn đã theo dõi. Thân ái. Điện bà Tây Ninh.
BÀI 5: HÀNH TRÌNH ĐÔNG BẮC - ĐỊA LINH CỔNG TRỜI CAO BẰNG - KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP THỊ TRẤN TRÀ LĨNH. CỬA KHẨU HÙNG QUỐC (TRÀ LĨNH), CAO BẰNG.
BÀI 5: HÀNH TRÌNH
ĐÔNG BẮC - TƯ LIỆU ĐIỀN DÃ CHUYÊN SÂU:
ĐỊA LINH CỔNG TRỜI
CAO BẰNG - KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP THỊ TRẤN TRÀ LĨNH. CỬA KHẨU HÙNG QUỐC (TRÀ LĨNH),
CAO BẰNG.
Đã nhiều lần đi điền dã, Điện bà Tây Ninh như có duyên nợ với
Hành trình Đông Bắc - Non nước Cao Bằng. Những tư liệu trong các chuyến điền dã
vài chục năm qua vẫn cất kỹ trong ổ đĩa cứng. Nay nhân lúc nông nhàn mới lấy ra
hầu chuyện các bạn. Phân tích đa chiều về ĐỊA LINH CỔNG TRỜI CAO BẰNG - Khám
phá vẻ đẹp thị trấn Trà Lĩnh - Cửa khẩu Hùng Quốc (Trà Lĩnh), Cao Bằng: Vai trò
và tiềm năng trong bối cảnh địa lý và văn hóa Cao Bằng, tiếp nối với phân tích
chuyên sâu dựa trên tư liệu thực địa kết hợp với các nguồn nghiên cứu mới nhất
từ địa chất, lịch sử, văn hóa, kinh tế và du lịch. Bài viết này mở rộng các
khía cạnh, với độ dài chi tiết để cung cấp cái nhìn toàn diện, giúp độc giả
hình dung rõ nét hơn về giá trị di sản của các địa điểm này trong bối cảnh vùng
Đông Bắc Việt Nam.
Lời Mở Đầu: Mở Rộng Tầm
Nhìn Từ Tư Liệu Điền Dã Đến Nghiên Cứu Hiện Đại.
Cao Bằng, một tỉnh biên cương nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam,
là một vùng đất đặc biệt với địa hình hiểm trở, hệ thống núi non trùng điệp và
các con sông uốn lượn đã kiến tạo nên một cảnh quan địa chất độc đáo. Vẻ đẹp
hùng vĩ của tự nhiên nơi đây gắn liền với những di tích lịch sử cách mạng, di sản
văn hóa phong phú, và bản sắc của nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Trong bối cảnh
đó, Địa Linh Cổng Trời Cao Bằng - Khám phá vẻ đẹp thị trấn Trà Lĩnh - Cửa khẩu
Hùng Quốc (Trà Lĩnh), Cao Bằng là những di sản địa lý, lịch sử và văn hóa sống
động. Trong Bài 5, chúng ta sẽ phác thảo bối cảnh địa lý, lịch sử và vai trò
ban đầu của Địa Linh Cổng Trời Cao Bằng - Khám phá vẻ đẹp thị trấn Trà Lĩnh - Cửa
khẩu Hùng Quốc (Trà Lĩnh), Cao Bằng như những hành lang chiến lược trên Quốc lộ
3 và trong Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng. Nay, với phần
mở rộng, tôi sẽ đi sâu hơn vào từng khía cạnh vi mô và vĩ mô, dựa trên tư liệu
điền dã cá nhân của Điện bà Tây Ninh – những chuyến đi kéo dài vài chục năm qua
các mùa mưa nắng, sương mù và gió núi – kết hợp với dữ liệu cập nhật từ các nguồn
uy tín như báo chí, nghiên cứu khoa học và chia sẻ cộng đồng du lịch.
Mục tiêu là không chỉ tôn vinh vẻ đẹp tự nhiên mà còn phân
tích sâu sắc về tiềm năng kinh tế, thách thức môi trường và các giải pháp phát
triển bền vững, nhằm biến những địa danh này thành biểu tượng của sự cân bằng
giữa bảo tồn và khai thác. Báo cáo này dựa trên phương pháp luận đa nguồn: tư
liệu thực địa (ảnh chụp, ghi chép từ các chuyến điền dã), dữ liệu địa chất từ
UNESCO, lịch sử từ tài liệu kháng chiến, văn hóa từ phong tục dân tộc Tày-Nùng,
kinh tế từ báo cáo OCOP và du lịch từ các nền tảng như VnExpress, Vietnam
Travel. Chúng tôi cũng sẽ sử dụng bảng so sánh để minh họa rõ ràng hơn, đồng thời
đề xuất các mô hình cụ thể như du lịch cộng đồng và nông nghiệp hữu cơ, phù hợp
với Nghị quyết 08-NQ/TW về phát triển du lịch bền vững. Trong bối cảnh biến đổi
khí hậu ngày càng gay gắt, với dự báo mưa lũ tăng 20-30 phần trăm ở vùng Đông Bắc,
những địa danh này không chỉ là di sản mà còn là bài kiểm tra cho chiến lược
phát triển quốc gia.
Bối cảnh và tầm quan trọng chiến lược của Cao Bằng, tỉnh địa
đầu phía Bắc Việt Nam, được định danh trên bản đồ thế giới không chỉ bởi vị trí
chiến lược mà còn bởi các giá trị di sản độc đáo. Vùng đất này là một phần của
Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng, một danh hiệu được công
nhận vào năm 2018, minh chứng cho bề dày lịch sử phát triển địa chất kéo dài
hơn 500 triệu năm. Với diện tích lên đến hơn 3.683 km vuông, Công viên địa chất
bao trùm toàn bộ thành phố Cao Bằng và nhiều huyện lân cận, trong đó có Trà
Lĩnh. Đây là nơi sinh sống của các cộng đồng dân tộc thiểu số như Tày, Nùng,
Mông, Dao, Kinh, Lô Lô và Sán Chỉ, tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu.
Trong bối cảnh địa lý và văn hóa rộng lớn của Cao Bằng, thị
trấn Trà Lĩnh nổi lên như một điểm giao thoa đặc biệt. Đây không chỉ là một thị
trấn biên giới mà còn là nơi hội tụ của các truyền thuyết cổ xưa và các dự án
phát triển hiện đại. Vùng đất này sở hữu những giá trị địa chất mang tầm vóc quốc
tế, những di sản văn hóa phi vật thể và vật thể phong phú, và một vị thế kinh tế-chính
trị then chốt. Sự phát triển của Trà Lĩnh trong bối cảnh hiện nay không chỉ tác
động đến đời sống của cư dân địa phương mà còn có ý nghĩa chiến lược đối với sự
phát triển chung của toàn tỉnh Cao Bằng và khu vực biên giới phía Bắc. Bài viết
này sẽ đi sâu phân tích những giá trị cốt lõi đó, từ những đặc điểm địa chất kỳ
vĩ đến những tiềm năng kinh tế đang dần hé mở, nhằm đưa ra một cái nhìn toàn diện
và đa chiều về vai trò của Trà Lĩnh.
Mục tiêu chính của báo cáo này là phân tích một cách có hệ
thống, đa chiều về vai trò và tiềm năng của Trà Lĩnh trong bối cảnh phát triển
mới. Báo cáo sẽ lý giải sự đan xen giữa các giá trị địa chất, văn hóa và kinh tế,
đồng thời đánh giá những cơ hội và thách thức mà khu vực này đang đối mặt. Phân
tích sẽ không chỉ dừng lại ở việc mô tả mà còn đi sâu vào mối quan hệ nhân-quả
giữa các yếu tố, từ đó làm rõ những động lực phát triển tiềm tàng.
Phương pháp nghiên cứu được áp dụng là sự kết hợp giữa phân
tích tư liệu điền dã và dữ liệu khoa học. Các ghi chép về địa linh, văn hóa dân
gian tại Cổng Trời và Hồ Thang Hen sẽ được đặt trong bối cảnh của các nghiên cứu
địa chất, lịch sử và văn hóa mới nhất. Dữ liệu về kinh tế, chính sách quy hoạch
và hoạt động an ninh sẽ được sử dụng để củng cố các luận điểm về tiềm năng phát
triển. Bằng cách này, báo cáo sẽ xây dựng một chuỗi lập luận logic, khách quan
và chuyên sâu, phù hợp với đối tượng độc giả là các nhà nghiên cứu, chuyên gia
chính sách và các nhà đầu tư.
Cổng Trời Trà Lĩnh
là một điểm đến đầy thơ mộng tại Cao Bằng mà khách du lịch Thác Bản Giốc thường
ghé qua. Nơi đây không chỉ được biết đến nhờ cảnh đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh,
mà còn là vùng đất linh thiêng trong tín ngưỡng của người dân miền biên viễn.
Cao Bằng vốn dĩ đã quá nổi tiếng với những danh thắng tuyệt đẹp khiến người ta
phải ngỡ ngàng như thác Bản Giốc, khu di tích Pác Bó, Động Ngườm Ngao, Hồ Thang
Hen,... Nhưng còn một địa danh khác được ví như chốn thiên đàng chốn hạ giới mà
có thể bạn chưa biết, đó là Cổng Trời Cao Bằng.
Cổng Trời Cao Bằng là nơi tiếp giáp giữa đất và trời với vẻ
đẹp mê hoặc lòng người. Nếu như Hà Giang nổi tiếng với Cổng trời Quản Bạ, Tây Bắc
có Cổng Trời Pha Đin thì Cao Bằng cũng tự hào vì có Cổng Trời Cao Bằng. Cổng Trời
này là một eo núi tên là Sốc Đơ, nằm ở làng Giộc Đâu, gần thị trấn Trà Lĩnh,
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng nên còn được biết đến với tên gọi khác là Cổng
Trời Trà Lĩnh.
Trong nhiều năm trở lại đây, Du lịch Cao Bằng đã trở thành
trải nghiệm thú vị thu hút hàng trăm nghìn khách du lịch thập phương. Cổng Trời
là một trong số những điểm nhấn nổi bật thu hút du khách tìm về chốn núi rừng
Đông Bắc để cảm nhận vẻ đẹp chân thật của tự nhiên. Cổng Trời Cao Bằng không
đơn thuần chỉ là một địa điểm du lịch văn hóa, mà còn mang ý nghĩa tâm linh, vô
cùng thiêng liêng đối với người dân sinh sống tại đây.
Mẹ thiên nhiên đã quý đỗi ưu ái khi ban tặng Cao Bằng những
cảnh quan thiên nhiên vạn người mê. Cổng Trời Cao Bằng còn là một địa danh còn
khá mới mẻ đối với nhiều du khách khi mọi người thường biết tới Cao Bằng qua những
tour thác Bản Giốc hay khu du tích Pác Bó, nhưng có lẽ nhờ vậy mà miền đất thần
tiên này vẫn còn giữ nguyên vẹn được nét tự nhiên, hoang sơ đầy kỳ vĩ. Để đi đến
Cổng Trời Cao Bằng, du khách cần di chuyển theo tuyến đường từ thị trấn Cao Bằng
qua đèo Mã Phục, tiếp tục rẽ hướng đi thác Bản Giốc Trùng Khánh. Trên đường đi
sẽ có một hướng rẽ vào hồ Thang Hen Trà Lĩnh, du khách từ trung tâm thị trấn
Trà Lĩnh cần di chuyển tiếp theo hướng Tây Bắc để đến được chân núi Phia Đảy -
nơi có Cổng Trời Cao Bằng.
Để có một chuyến du lịch Cao Bằng trọn vẹn nhất, bạn có thể
kết hợp đến Cổng trời Trà Lĩnh cùng với một số địa điểm nổi tiếng khác trong
tour thác Bản Giốc từ Hà Nội, hồ Thang Hen, động Ngườm Ngao. Khi đặt chân đến Cổng
Trời Cao Bằng rồi, du khách sẽ phải ồ lên kinh ngạc khi khắp chốn xung quanh đều
là vẻ đẹp tiên cảnh. Từ phía Cổng Trời Trà Lĩnh Cao Bằng, du khách có thể hướng
tầm mắt chiêm ngưỡng toàn bộ vẻ đẹp của núi rừng Đông Bắc từ trên cao. Tại đây,
bạn hoàn toàn có thể thả hồn vào mây trời, hít hà không khí trong lành tự nhiên
và tạm gác lại bộn bề âu lo trong cuộc sống thường nhật. Phía trước Cổng Trời
Cao Bằng có một phiến đá nhọn, dựng thẳng đứng vút lên trời xanh. Điều đặc biệt
là phiến đá này có tạo hình chữ S giống với dáng hình đất nước Việt Nam ta, khiến
du khách vừa thích thú vừa trào dâng một niềm tự hào khôn xiết. Chỉ cần đi qua
phiến đá ấy là du khách có thể bước vào một thế giới hết - chốn thiên đàng Cổng
Trời Cao Bằng.
Vẻ đẹp kỳ vĩ đầy ấn tượng của Cổng Trời Cao Bằng đã khiến du
khách xao xuyến quên lối về. Từ Cổng Trời trông xuống, bạn sẽ nhìn thấy thấp
thoáng bóng dáng thung lũng thơ mộng chảy quanh chân núi, hay bốn bề là rừng
núi trập trùng ẩn hiện sau những đám mây trắng bồng bềnh. Đặc biệt, phía trên
ngọn Phia Đảy còn có hang Ngườm Độc Đâu - một hang động nổi tiếng với vẻ đẹp
hoang sơ và bí hiểm, hứa hẹn sẽ khiến du khách phải trầm trồ đầy thích thú.
Không chỉ là địa danh du lịch tự nhiên, Cổng Trời Cao Bằng
còn mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng đối với người dân bản địa. Người ta đến
đây vừa để ngắm cảnh, thư giãn, lại vừa đến để thắp hương, làm nghi lễ cúng bái
để cầu mong một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Vì vậy ai đi du lịch Cao Bằng
cũng nên ghé qua Cổng Trời Cao Bằng vì mong muốn nguyện ước của mình sẽ trở
thành hiện thực vào một ngày nào đó.
Cổng trời Cao Bằng hay còn được biết đến với tên gọi khác là
cổng trời Trà Lĩnh. Nơi đây nằm trên dãy núi Phia Đảy, thị trấn Hùng Quốc, huyện
Trà Lĩnh và là một địa điểm mới được phát hiện vào năm 2007. Một điều khá thú vị
ở cổng trời này chính là địa thế khá thấp, thậm chí còn chưa đến 1000m so với mực
nước biển.
Từ thành phố Cao Bằng, đến đường đèo Mã Phục, bạn sẽ gặp hai
hướng rẽ thì chọn rẽ vào hướng Trà Lĩnh. Tiếp tục đi thẳng đến thị trấn Trà
Lĩnh rồi đến chân núi Phia Đảy cách trung tâm thị trấn khoảng chừng vài trăm
mét. Từ chân núi Phia Đảy này bạn sẽ phải leo núi để đến với một bãi đất phẳng,
cách chân núi khoảng chừng 800m thì sẽ tới cổng trời.
Mặc dù không phải là một địa điểm du lịch hay danh lam thắng
cảnh nổi tiếng như Thác Bản Giốc Cao Bằng hay suối Lê Nin thế nhưng cổng trời lại
khiến cho bất kì ai khi đặt chân tới đây cũng xúc động trước một vẻ đẹp của núi
rừng thiên nhiên kì vĩ. Trước đây cổng trời vốn chỉ là một eo núi nhỏ với những
mỏm đá tai mèo sắc nhọn, xung quanh bạt ngàn cỏ xanh, thỉnh thoảng mới có người
ghé tới để kiếm củi hay tìm lá thuốc.
Đường đến cổng trời tuy không quá cao hay khó khăn thế nhưng
dọc đường lên ở phía bên tay phải bạn sẽ bắt gặp những dãy đá núi uốn lượn cho
du khách thỏa sức tưởng tượng. Người thì thấy giống với một mái tóc của nàng
tiên, người thì lại thấy giống với những con sóng biển đang vỗ vào bờ.
Trước cổng trời là những phiến đá dựng thành vách, cao vút thẳng
lên bầu trời rộng lớn. Dường như chỉ cần đi vượt qua những phiến đá đó là có thể
chạm tới bầu trời, những phiến đá ấy tựa như cánh tiên vút bay! Thế nhưng, đó vẫn
chưa phải là những điều kì lạ nhất ở cổng trời Cao Bằng. Bởi khi đặt chân tới cổng
trời, bạn sẽ bắt gặp một dải đá hình chữ S vô cùng choáng ngợp trước mắt. Không
biết vô hình hay hữu ý, mà dải đá này uốn lượn, mang hình dáng bản đồ Việt Nam
bằng đá hoàn toàn tự nhiên. Cảm xúc rưng rưng xúc động, tự hào, bởi mỗi chúng
ta luôn mang trong tim mình dáng hình đất nước…
Và rồi, từ cổng trời dường như trong tiên cảnh, tầm mắt
chúng ta được bao phủ bởi những cánh rừng xanh miên man. Xa xa là con đường đèo
hiểm trở, kì bí. Chưa hết, bên phải cổng trời có 9 tảng đá xếp xung quanh với
hình giống như quẻ Càn, phía trên là hình hổ oai linh. Phía trên là hình đầu hổ,
hình sư tử đá... Theo quan niệm về phong thủy thì đây là khu vực Đầu Rồng, đất
lành, địa thế đẹp, linh thiêng. Có lẽ chính vì điều này mà cổng trời Cao Bằng ẩn
chứa nhiều câu chuyện lạ ít người biết.
Còn nữa, có lẽ tạo hóa đã hào phóng ban tặng cho núi rừng
Phia Đảy này nhiều cảnh đẹp đến thế. Từ cổng trời đi thêm một đoạn khoảng 20
mét, bạn sẽ bắt gặp một hang động với tên gọi là Ngườm Giộc Đâu. So với động
Ngườm Ngao Cao Bằng ở Trùng Khánh thì Ngườm Giộc Đâu tuy không quá rộng lớn, thế
nhưng vẻ hoang sơ, hùng vĩ thì không hề kém! Bởi thế, trước đây, nhiều người
không hề biết đến sự tồn tại của cổng trời mà chỉ biết đến hang Ngườm Giộc Đâu ở
phía trên mà thôi…
Đối với nhiều người, cổng trời ở Cao Bằng được xem là chốn
linh thiêng ẩn chứa nhiều câu chuyện kì lạ. Có người kể rằng, xưa kia ở cổng trời
có một người con gái chết trẻ, trong lòng có nhiều nỗi oan ức nên không siêu
thoát mà hiển linh ở eo núi cổng trời. Người đời đồn rằng, hễ ai đến đều cầu được
ước thấy. Nhiều người đang vận hạn nghèo khó, sau khi đến đây cầu về nhà làm ăn
phát đạt, giàu có lại quay về đây lễ tạ. Có nhiều cô cậu học sinh đến đây xin lộc
trời mà đỗ đạt, vinh danh. Lại có cả những người gia đình quanh năm mâu thuẫn,
nhưng khi đến cổng trời vài ba bận thì đoàn kết thuận hòa trở lại…
Không khí ở cổng trời vào đêm thu se lạnh, lối đi lên là những
bậc đá quanh co nhưng không có điện. Về đêm, không khí càng hoang sơ nhưng
không ai có cảm giác về sự ma mị. Mọi người đến đây đều thành tâm và tĩnh lặng.
Người khấn, người cầu, người hóa vàng, người thắp nhang. Chỉ có ánh sáng của ngọn
lửa góc hóa vàng, gió rít vào khe núi và những tiếng khấn lầm rầm. Sau đó, ngồi
lại gần một giờ, được xem là thời khắc hội tụ linh khí, sức khỏe. Thời khắc ấy,
tựa như những giao thừa trong đêm ba mươi. Chỉ khác, đây là cổng trời miền biên
viễn.
Người dân địa phương kể rằng, vài năm trở lại đây ngày càng
xuất hiện nhiều người từ các thành phố lớn lui tới cúng lễ, nhất là sau khi có
nhà ngoại cảm ở Hà Nội về. Sự linh ứng mà cổng trời có hay không chưa có cơ sở
khoa học nào kiểm chứng… Chỉ biết, bà con tứ phương tập trung đông nhất về cổng
trời là ngày mùng 1 và ngày rằm, từ các tỉnh xa như Thái Nguyên, Hà Nội, Nam Định,
Thái Bình, thậm chí là cả dân từ Sài Gòn…
Theo một số chuyên gia văn hóa thì thế núi xung quanh cổng
trời Trà Lĩnh tạo cho đất này như một vùng tụ khí. Đó là năng lượng khí trời,
là nơi tụ năng lượng của thiên linh vũ trụ. Bởi đây là cái rốn năng lượng vũ trụ
tụ về, nên bạn cần giành khoảng 45 phút đến 1 giờ, thậm chí lâu hơn sau khi lễ
để ngồi tịnh thu năng lượng vũ trụ vào cơ thể. Do đó, lên cổng trời khác với đi
thăm các điểm du lịch trên cao khác. Người lên phải một tâm chịu khổ để “lên trời”.
Đường đi phải gập gềnh, gian nan, vượt đá tai mèo mà đi lên. Lên đến nơi, dù mệt
mỏi, sẽ được bù đắp sức khỏe.
Muốn lên núi lễ Trời lúc nào cũng được. Năng lượng vũ trụ đổ
về 24/24 giờ là như nhau, không phải như lời đồn phải vào lúc nửa đêm, giao hòa
đất trời thì năng lượng mới cao. Song, ban đêm khí trời mát mẻ thanh cao thì ngồi
thiền cũng thoải mái hơn. Nhưng không phải cứ nhất thiết phải vào nửa đêm. Cổng
trời Cao Bằng là đất linh, nơi năng lượng vũ trụ tụ về. Tính linh này là có thật,
khách quan, không phải là mê tín dị đoan. Khách đến đây có thể làm lễ thờ Trời,
thu năng lượng nâng cao sức khỏe và tự chữa bệnh. Việc cúng lễ cần có hướng dẫn,
để tránh biến tướng thành dị đoan, lợi dụng để trục lợi - vị này nhấn mạnh…
Từ trên cao nhìn xuống, toàn bộ thị trấn Trà Lĩnh được bao bọc
bởi những rặng núi non trùng điệp Phja Đẩy, Phja Khoác, Phja Chiên, Phja Lĩnh,
Lũng Mò... với những hang động kỳ thú Ngườm Nặm, Nguồm Bốc, Ngườm Cún, Giộc Đâu
và cổng trời huyền thoại uy linh tạo nên địa thế hiểm trở trấn giữ một vùng
biên cương. Chẳng thế, từ bao đời nay miền biên viễn này đã gắn liền với các sự
tích hào hùng còn được lưu danh bởi những di tích độc đáo.
Đó là đền thờ Đại tướng quân Nông Thống Lang, Nông Thống Lệnh,
Thiêng Mang, cầu đá Cốc Khoác minh chứng cho một vùng đất có vị thế chiến lược
quan trọng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Thiên nhiên ưu đãi cho Trà Lĩnh hai dòng sông Phai Hao, Tả Kẻng
sóng đôi xuôi về một ngả, đem lại cảnh sắc nên thơ sơn thủy, hữu tình... Thế
núi, thế sông quần tụ hòa hợp tạo nên vượng khí lớn và sinh lực dồi dào, tiếp
thêm sức sống cho một thị trấn vùng biên...
Tin rằng, trong xu thế đổi mới và hội nhập, Trà Lĩnh sẽ trở
thành một trung tâm kinh tế - xã hội năng động, một cửa khẩu giao thương, sầm uất,
một điểm du lịch mang đậm truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa dân tộc. Nếu
bạn đến vào mùa xuân trẩy hội Trà Lĩnh - bắt đầu từ đèo Mã Phục qua hồ Thang
Hen, xuyên núi Mắt thần đến Giộc Đâu, cổng trời bạn sẽ gặp du khách đến từ mọi
miền đất nước. Ở lại leo núi, thức đêm với cổng trời lịch sử văn hóa và tâm
linh đang ngày càng có sức hấp dẫn du khách thập phương đến với vùng đất trấn
biên, một vùng non nước Cao Bằng…
Thị trấn Trà Lĩnh
(trước đây là thị trấn Hùng Quốc) nằm sát biên giới Việt - Trung, ngày xưa
còn gọi là Trấn Biên (nay sáp nhập thành huyện Trùng Khánh). Ngay trung tâm thị
trấn có ngã tư đường giao thông tiện lợi hướng ra cửa khẩu quốc gia và tỏa đi
các ngả..., sang miền Tây qua Quang Hán, Cô Mười xuyên suốt vùng Lục Khu (Hà Quảng)
rồi xuyên miền Đông qua Xuân Nội, Quang Trung đến Trùng Khánh, sau đó xuôi về
hướng Nam ra Cao Chương, Mã Phục, Thành phố…
Từ trên cao nhìn xuống, toàn bộ thị trấn được bao bọc bởi những
rặng núi non trùng điệp Phja Đẩy, Phja Khoác, Phja Chiên, Phja Lĩnh, Lũng Mò...
với những hang động kỳ thú Ngườm Nặm, Nguồm Bốc, Ngườm Cún, Giộc Đâu... nơi có
Cổng trời huyền thoại uy linh tạo nên địa thế hiểm trở trấn giữ một vùng biên
cương, từ bao đời nay đã gắn liền với các sự tích hào hùng còn được lưu danh bởi
những di tích độc đáo.
Đền thờ Đại tướng quân Nông Thống Lang, Nông Thống Lệnh,
Thiêng Mang, cầu đá Cốc Khoác minh chứng cho một vùng đất có vị thế chiến lược
quan trọng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Thiên nhiên ưu đãi cho Trà Lĩnh hai dòng sông Phai Hao, Tả Kẻng
sóng đôi xuôi về một ngả, đem lại cảnh sắc nên thơ sơn thủy, hữu tình... Thế
núi, thế sông quần tụ hòa hợp tạo nên vượng khí lớn và sinh lực dồi dào, tiếp
thêm sức sống cho một thị trấn vùng biên...
Trong xu thế đổi mới và hội nhập, Trà Lĩnh đang trên đà mở rộng,
phát triển theo hướng đa dạng để trở thành một trung tâm kinh tế - xã hội năng
động, một cửa khẩu giao thương, sầm uất, một điểm du lịch độc đáo mang đậm truyền
thống lịch sử và bản sắc văn hóa dân tộc.
Mùa xuân trẩy hội Trà Lĩnh bắt đầu từ đèo Mã Phục qua hồ
Thang Hen, xuyên núi Mắt thần đến Giộc
Đâu, Cổng trời ta có thể gặp du khách đến từ mọi miền đất nước. Ở lại leo núi,
thức đêm với Cổng trời ta càng hiểu thêm giá trị tiềm năng du lịch sinh thái
khám phá thiên nhiên kết hợp với lịch sử văn hóa và tâm linh đang ngày càng có
sức hấp dẫn du khách thập phương quan tâm đến với vùng đất trấn biên, một vùng
non nước Cao Bằng.
Hai bài thơ ca ngợi vẻ
đẹp của vùng đất trấn biên Trà Lĩnh.
Mã Phục.
Mã Phục núi nghiêng dạ
chẳng mòn.
Trập trùng vách đá đứng
chon von.
Lối xưa ngựa hí quỳ
chân phục.
Mỗi bước chân đi nhịp
trống dồn.
Đường nay uốn khúc lượn
mấy vòng.
Xe lên đèo dốc vút tầng
không.
Sương trắng bồng bênh
trôi theo gió.
Cúc vàng rực rỡ trải
lòng thung.
Chuyện tình hồ Thang
Hen.
Qua đèo Mã Phục, núi
Nghiêng.
Ta về Trà Lĩnh, trấn
biên Cổng trời.
Thang Hen hồ nước tình
người.
Thiên Cung thủy mặc,
mây trôi bồng bềnh.
Thả hồn theo gió ngàn
xanh.
Hàm Hương nhũ đá lung
linh sắc màu.
Bên bồn tiên tắm hương
Ngâu.
Núi chàng Quân Tử gội
đầu soi gương.
Mắt thần nắng tỏa muôn
phương.
Ánh trăng Nặm Chá vấn
vương bao tình.
Chuyện ngày xưa chàng
thư sinh.
Chân trần vượt núi về
kinh tựu trường.
Ở nhà cô gái nhớ
thương.
Trèo đèo, lội suối tìm
đường theo đi.
Khóc ròng nước mắt lâm
ly.
Tuôn lòng thung vắng,
thành khe suối ngàn.
Trải ba sáu bậc mênh
mang.
Đọng thành hồ nước
dâng tràn non cao.
Sự tích Thang Hen thuở
nào.
Đã thành huyền thoại
thấm vào lòng dân.
Dù đi xa mấy hay gần.
Vẫn hằng mơ ước một lần
về thăm.
Duyên tình xưa mấy
ngàn năm.
Xôn xao sóng nước thắm
cùng núi non.
Chênh vênh trên độ cao hơn 1000m so với mực nước biển, hồ
Thang Hen như một hòn đảo ngọc tọa lạc trên núi cao với cảnh đẹp kỳ vĩ và thơ mộng.
Nếu muốn ngắm nhìn vẻ đẹp của non nước Cao Bằng, hòa mình vào khung cảnh thiên
nhiên tươi đẹp thì đây sẽ là một điểm đến lưu giữ những khoảnh khắc tuyệt vời.
Khu du lịch sinh thái hồ Thang Hen nằm trong công viên địa
chất toàn cầu non nước Cao Bằng, thuộc xã Quốc Toản, huyện Trà Lĩnh, cách thành
phố Cao Bằng khoảng 20km. Hồ Thang Hen còn được biết đến với tên “Tuyệt tình cốc”
của Cao Bằng. Hồ Thang Hen thu hút ánh nhìn du khách với vẻ đẹp huyền bí, thơ mộng
như chốn bồng lai tiên cảnh tọa lạc giữa núi rừng.
Tên gọi Thang Hen xuất phát từ chính đặc trưng của vùng đất
nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, hồ có hình thoi như phần đuôi của một con ong
nên được gọi là Thang Hen - trong tiếng Tày có nghĩa là “đuôi ong”.
Hồ Thang Hen là hồ nước ngọt tự nhiên nằm trên núi cao nhất
của Việt Nam. Bao bọc quanh hồ là hệ thống rừng cây cổ thụ trùng điệp mọc trên
núi đá vôi tạo nên khung cảnh kỳ vĩ, nên thơ.
Quanh năm, nước hồ Thang Hen luôn có màu xanh ngọc bích giống
như chiếc gương khổng lồ phản chiếu cảnh vật núi non đất trời xung quanh. Chính
vì thế, nơi đây còn được mệnh danh là “hòn đảo ngọc” tọa lạc trên núi cao của tỉnh
Cao Bằng.
Quần thể Thang Hen gồm 36 hồ nước ngọt tự nhiên với những
tên gọi độc đáo như Thang Hoi, Thang Vạt, Nà Ma, Thang Loỏng… Mỗi hồ có bờ vách
ngăn riêng biệt cách nhau khoảng vài chục mét đến vài trăm mét nhưng đều thông
nhau qua hang động ngầm trong núi đá.
Hồ Thang Hen là nơi tựu lại của các con sông, con suối quanh
khu vực và chảy xuôi về theo hệ thống hang động. Những ngày trời mưa lớn, nước
trong hồ đầy tràn sang những thung lũng xung quanh tạo thành một chuỗi hồ nước
xanh ngát rất đẹp mắt.
Khác với những hệ thống sông hồ khác, dù mùa nào trong năm
thì hồ Thang Hen luôn có một màu xanh biếc như ngọc bích nên dù đến đây vào mùa
nào, bạn cũng sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh tuyệt đẹp của nơi đây.
Thế nhưng, đặc biệt nhất vẫn là vào khoảng tháng 9 tháng 10,
bạn sẽ được thấy một hiện tượng thiên nhiên hết sức độc đáo. Lượng nước trong hồ
thường sẽ rút cạn đi sau đó đầy lên như ban đầu chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ.
Theo truyền thuyết từ xa xưa truyền lại của người dân địa
phương, hồ Thang Hen từng có một loài thủy quái đã bị giam giữ nhiều năm trong
thung lũng. Khi bị săn đuổi, thủy quái này đã nổi cơn cuồng loạn và dùng móng
vuốt của mình tạo thành các hang động ngầm dưới lòng đất, là nguyên nhân tạo
thành hiện tượng nước hồ cạn rồi lại đầy.
Ngoài ra, còn có một truyền thuyết kỳ bí của người dân tộc
Tày về khu du lịch sinh thái hồ Thang Hen này. Chuyện kể lại rằng ngày xưa có một
chàng trai tên là Sung rất thông minh và khôi ngô tuấn tú. Chàng đã thi đỗ làm
quan và được Vua ban thưởng cho phép về quê vinh quy bái tổ trong vòng 7 ngày.
Trong khoảng thời gian trở về nhà ngắn ngủi đó, chàng đã kết
tóc se duyên với một cô gái tên là Boóc. Vì mải mê quyến luyến bên người vợ
xinh đẹp, chàng Sung đã quên mất ngày trở lại kinh thành làm quan. Đến đêm cuối
cùng, chàng mới sực nhớ ra và ra sức lao vào rừng. Vì đêm tối đen, khi chàng
Sùng chạy được 36 bước thì bị vấp ngã, đáp đầu vào núi rồi chết. Nơi chàng Sùng
ngã xuống chính là hồ Thang Hen - hồ lớn nhất trong quần thể và 36 bước chân của
chàng chính là 36 chiếc hồ xung quanh.
Mỗi mùa trong năm, hồ Thang Hen sẽ mang một vẻ đẹp khác nhau
nhưng đều rất đẹp, rất thơ mộng. Bạn có thể chiêm ngưỡng khung cảnh muôn loài
hoa khoe sắc giữa núi rừng hùng vĩ như hoa lan, hoa đào rừng, hoa mắc cọp…
Riêng vào mùa thu, hoa dã quỳ nở vàng rực cả một khung trời, hòa với sắc xanh của
nước, sắc xanh của trời, sắc xanh của cỏ cây tạo nên một khung cảnh nên thơ như
chốn bồng lai tiên cảnh.
Từ thành phố Cao Bằng, bạn di chuyển theo hướng quốc lộ 3
khoảng tầm 21km nữa thì bạn tiếp tục di chuyển đến tỉnh lộ 205, sau đó đi thêm
khoảng 4km. Lúc này bạn sẽ thấy bên tay trái có biển báo chỉ dẫn đến khu du lịch
sinh thái hồ Thang Hen.
Dù quãng đường từ thành phố Cao Bằng đến hồ Thang Hen không
quá xa nhưng vì có những đoạn đường đèo quanh co nguy hiểm nên phải di chuyển
chậm hơn, mất khoảng 1 giờ đồng hồ là có thể ngắm trọn khung cảnh nên thơ nơi
đây.
Hồ Thang Hen thu hút khách du lịch bởi vẻ đẹp huyền ảo, thơ
mộng. Hồ nước có diện tích lớn, kết cấu đặc biệt gồm 36 hồ nhỏ tạo thành, có
hình dáng hình thoi như một chiếc đuôi con ong đang cong lên giữa núi rừng Đông
Bắc.
Quanh năm, hồ nước luôn có một màu xanh ngọc bích trong veo,
thăm thẳm. Hồ được bao quanh bởi dãy núi rừng trùng điệp, những rặng cây xanh
um tùm, trên bầu trời những áng mây trắng lững lờ trôi. Khung cảnh non xanh nước
biếc hữu tình của hồ Thang Hen tạo nên một không gian vừa thơ mộng vừa huyền
bí.
Đặc biệt, cạnh khu vực hồ có một mỏm đá dựng đứng, hình dáng
độc đáo, bạn có thể ngồi ngay tại đây là check in những chiếc hình với khung cảnh
tuyệt đẹp.
Bao quanh khu vực hồ Thang Hen là những rừng cây gỗ nghiến
có hàng nghìn tuổi đời, đan xen là những đóa hoa lan rừng đẹp kiều diễm và tỏa
ra hương thơm ngây ngất.
Rừng cây xum xuê cũng là điều kiện sinh sống lý tưởng của rất
nhiều loài động thực vật như chim gáy, khỉ vàng, gà gô… Bạn có thể dễ dàng bắt
gặp một vài con vật đang lang thang kiếm ăn khi đi dạo quanh khu vực rừng cây.
Những ai đã từng đặt chân đến hồ Thang Hen đều đắm chìm vào
vẻ đẹp thơ mộng của non nước hữu tình nơi đây, với làn nước xanh trong vắt, những
tán rừng già, trám trắng, xen lẫn với những mỏm đá tai mèo…
Khu du lịch sinh thái Hồ Thang Hen không chỉ có những hồ nước
xanh ngọc trong veo mà còn khiến du khách lưu luyến bởi vườn hoa dã quỳ nở rộ cả
một khung trời.
Một rừng hoa dã quỳ nở vàng rực rỡ như tô điểm thêm nét đẹp
của núi rừng non nước Cao Bằng. Nhưng để lưu giữ lại được những khoảnh khắc
tươi đẹp này, bạn phải đi vào tháng 10. Lúc này là lúc rừng hoa dã quỳ nở rộ đồng
đều và màu sắc tươi đẹp nhất.
Cách hồ Thang Hen khoảng 2km, núi Mắt Thần là một điểm đến rất nhiều người lựa chọn để cùng kết hợp
cho chuyến du lịch đến Thang Hen.
Đi theo đường lộ tỉnh, sau khi rẽ phải để vào hồ Thang Hen,
sau đó, bạn có thể hỏi đường đến xóm Bản Danh của xã Quốc Toản. Tiếp tục đi
theo con đường dưới chân núi là sẽ tới ngay núi Mắt Thần.
Núi Mắt Thần có độ
cao khoảng chừng 50m so với mặt nước biển, được hình thành bởi sự vận động nâng
ở giai đoạn kiến tạo của địa hình. Ngọn núi này được gọi là núi Mắt Thần bởi đặc
điểm rất đặc trưng của ngọn núi này - đó chính là có một lỗ thủng xuyên qua hai
mặt của ngọn núi.
Đứng từ trên đỉnh núi, bạn có thể thu trọn vào tầm mắt khung
cảnh của hồ Nặm Trá đã cạn khô nước, thấy những thảm cỏ xanh bạt ngàn, thấy những
ngọn núi bao quanh, thấy cả nương ngô uốn lượn và hình ảnh làn khói tỏa ra từ bếp
lửa của những thôn xóm dưới chân núi.
Đến đây, bạn không thể bỏ lỡ con đèo được mệnh danh là đèo đẹp
nhất của tỉnh Cao Bằng - đèo Mã Phục. Đèo Mã Phục có chiều dài khoảng 3,5km ở
trên độ cao 700m so với mực nước biển.
Đèo Mã Phục được
UNESCO công nhận là di sản địa chất của Công viên địa chất toàn cầu Non nước
Cao Bằng. Với hình dáng vắt ngang qua ngọn núi đá vôi tạo thành hình thung lũng
giống hình hài con ngựa, đèo Mã Phục khiến rất nhiều du khách ngỡ ngàng bởi sự
hùng vĩ của thiên nhiên non nước Cao Bằng.
Trà Lĩnh là một
thị trấn biên giới thuộc tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Thị trấn Trà Lĩnh nằm ở phía
tây huyện Trùng Khánh, cách trung tâm thành phố Cao Bằng 31 km và có vị trí địa
lý: Phía đông giáp xã Xuân Nội. Phía tây giáp xã Quang Hán. Phía nam giáp xã
Cao Chương. Phía bắc giáp Trung Quốc.
Thị trấn Trà Lĩnh có diện tích 14,90 km vuông, dân số năm
2019 là 5.356 người, mật độ dân số đạt 359 người/km vuông.
Thị trấn là nơi giao nhau của các tuyến tỉnh lộ 210, 211 và
205. Thị trấn có cửa khẩu quốc tế Trà Lĩnh thông thương với Trung Quốc. Trên địa
bàn thị trấn có các ngọn núi như Kéo Lộc, Khau Sảng, Lũng Cuối, Pài Nhũng. Các
suối trên địa bàn là Pai Cam và Trà Lĩnh. Trên địa bàn thị trấn có các cây cầu:
Bản Lang, Trà Lĩnh và Bản Hía.
Thị trấn Trà Lĩnh hiện nay trước đây vốn là xã Hùng Quốc thuộc
huyện Trà Lĩnh.
Ngày 11 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số
69/1999/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị trấn Hùng Quốc, thị trấn huyện lỵ huyện
Trà Lĩnh trên cơ sở toàn bộ 1.540 ha diện tích tự nhiên và 4.265 người của xã
Hùng Quốc.
Đến năm 2019, thị trấn Hùng Quốc được chia thành 3 tổ dân phố:
1, 2, 3 và 16 xóm: Cốc Càng, Cốc Khoác, Háng Páo, Bản Hía, Bản Khun, Bản Lang,
Nà Mương, Nà Đoỏng, Nà Khoang, Nà Rạo, Nà Thấu, Pò Rẫy, Tổng Moòng, Pò Khao, Nà
Dường, Nà Quan.
Ngày 9 tháng 9 năm 2019, Hội đồng Nhân dân tỉnh Cao Bằng ban
hành Nghị quyết số 27/NQ-HĐND về việc: Sáp nhập xóm Pò Khao vào tổ dân phố 3;
Sáp nhập hai xóm Háng Páo và Nà Đoỏng thành xóm Nam Tuấn; Sáp nhập ba xóm Nà
Quan, Nà Rạo, Cốc Khoác thành xóm Vĩnh Quang.
Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Nghị quyết số 897/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện
và đổi tên đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng (nghị quyết có hiệu lực
từ ngày 1 tháng 3 năm 2020). Theo đó, huyện Trà Lĩnh được sáp nhập vào huyện
Trùng Khánh, thị trấn Hùng Quốc đổi tên thành thị trấn Trà Lĩnh.
Tuy nhiên thị trấn Trà Lĩnh không phải là huyện lỵ huyện
Trùng Khánh, huyện lỵ vẫn đặt ở thị trấn Trùng Khánh.
Thị trấn Trà Lĩnh được chia thành 3 tổ dân phố: 1, 2, 3 và
12 xóm: Bản Hía, Bản Khun, Bản Lang, Cốc Cáng, Nam Tuấn, Nà Dường, Nà Khoang,
Nà Mương, Nà Thấu, Pò Rẫy, Tổng Moòng, Vĩnh Quang.
Cửa khẩu Quốc tế Trà
Lĩnh là cửa khẩu quốc tế tại vùng đất Bản Hía thuộc thị trấn Trà Lĩnh, huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Cửa khẩu Trà Lĩnh thông thương sang cửa
khẩu Quốc tế Long Bang ở thành phố Bách Sắc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Cửa khẩu Trà Lĩnh là điểm cuối của quốc lộ 34, cách thị trấn
Trà Lĩnh khoảng 6 km theo đường này về hướng bắc. Tên cửa khẩu Nà Đoỏng được gọi
theo bản Nà Đoỏng là bản ở trước bản Hía khi ra cửa khẩu. Tuy nhiên tên chính
thức và được dùng trong giới chức hành chính, biên phòng và hải quan là cửa khẩu
Trà Lĩnh.
Các hoạt động trao đổi mậu dịch tại cửa khẩu này đã phát triển
từ thế kỷ trước. Khu kinh tế cửa khẩu Trà Lĩnh đã được thành lập theo Quyết định
số 1113/QĐ-TC-UB ngày 01/07/2002 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Năm 2010 đây là một trong 5 cửa khẩu địa phương của tỉnh.
Ngày 14 tháng 12 năm 2023, Nâng cấp cặp cửa khẩu Trà Lĩnh -
Long Bang lên cửa khẩu quốc tế.
Cửa khẩu Trà Lĩnh và thị trấn Trà Lĩnh là thành phần trong
Khu kinh tế cửa khẩu Cao Bằng được chính thức công bố năm 2014.
Năm 2016 dự án tuyến đường cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh có
chiều dài 115 km, điểm đầu tại Cửa khẩu Trà Lĩnh và điểm cuối tại thị trấn Đồng
Đăng Lạng Sơn được đưa ra bàn thảo. Tuyến đường đi qua các huyện Trùng Khánh,
Quảng Hòa, Thạch An tỉnh Cao Bằng, Tràng Định, Văn Lãng, Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn.
Dự án có dự kiến hợp tác đầu tư của công ty Trung Quốc.
Cửa khẩu Hùng Quốc (Trà Lĩnh), Cao Bằng là cửa khẩu quốc tế
nằm ở thị trấn Trà Lĩnh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Cửa khẩu này thông
thương với cửa khẩu Long Bang (Trung Quốc). Tên gọi "Hùng Quốc" thường
được dùng để chỉ khu vực này, trong khi tên chính thức và được sử dụng trong
các thủ tục hành chính là cửa khẩu Trà Lĩnh.
Cửa khẩu Trà Lĩnh, hay còn được gọi là cửa khẩu Nà Đoỏng, là
điểm cuối của quốc lộ 34, cách thị trấn Trà Lĩnh khoảng 6 km về phía bắc. Cửa
khẩu này không chỉ là nơi giao thương kinh tế mà còn là điểm giao thoa văn hóa
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cửa khẩu Trà Lĩnh có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp,
với núi non, thác nước và những cánh đồng xanh mát, thu hút du khách tham quan
và khám phá.
Ngoài ra, Cao Bằng còn có một cửa khẩu quốc tế khác là cửa
khẩu Tà Lùng. Cửa khẩu Tà Lùng nằm ở thị trấn Tà Lùng, huyện Quảng Hòa. Cửa khẩu
này thông thương với cửa khẩu Thủy Khẩu (Trung Quốc) qua cầu Thủy Khẩu.
“Có ai trong chúng ta mỗi lần được dịp đi men theo con đường
biên giới mà không xúc động khi dừng chân bên cột mốc và nhận thức rằng nơi đây
là địa đầu của Tổ quốc? Dù cho phong cảnh bên này và bên kia không có gì thay đổi
nhưng những lùm cây, ngọn cỏ bên này là “của” chúng ta và trái tim chúng ta đập
lên rộn ràng vì chúng. Không nơi nào bằng ở đây, hai tiếng Tổ quốc lại cụ thể
hóa và nhận thức sâu sắc đến như thế”- GS Lê Bá Thảo đã viết trong cuốn Thiên
nhiên Việt Nam. Mỗi lần được lên biên giới đứng trước cột mốc chúng tôi bồi hồi
lại nhớ đoạn văn này.
Anh em tôi xin được đến một cột mốc biên giới khó đi để hiểu
hơn về thực trạng biên giới và công việc thường nhật của bộ đội biên phòng, Đại
úy Bế Ích Toàn –Chính trị viên phó của Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Trà Lĩnh
(Đồn Biên phòng Trà Lĩnh) hội ý nhanh và thống nhất đưa chúng tôi lên thăm cột
mốc 728/1 thuộc địa bàn xã Cô Mười, Trùng Khánh, còn những cột mốc khác cao
hơn, đường đi khó hơn “các nhà báo chắc không quen leo núi, rất khó chinh phục”.
Đại úy Bế Ích Toàn cùng Trung tá Nguyễn Ngọc Nghĩa (đội kiểm
soát hành chính) và Thiếu tá Nguyễn Duy Phóng (đội phòng chống tội phạm ma túy)
chở ba nhà báo bằng xe máy chạy trên con đường nhỏ được trải xi măng chạy theo
con đường ngoằn ngoèo lên núi. Tôi ngồi trên chiếc xe cà tàng, nổ phành phạch của
Thiếu tá Phóng. Gió thổi ù ù, sàn sạt bên tai… Phóng là một sĩ quan vốn học
chuyên ngành điều tra nên được giao chuyên đánh án ma túy. Xe chạy qua một hang
đá, cây cối um tùm trước cửa hang, nhìn vào thấy tối đen, Phóng nói: Bọn nghiện
hay tụ tập ở những hang như thế này. Lần trước, trong khi đi tuần tra đêm, phát
hiện hai đối tượng sử dụng ma túy ở đây, bọn em kịp thời xử lý nên đã tóm được
kẻ bán ma túy.
Xe chạy đến một bãi chăn thả ngựa của đồng bào địa phương,
có tấm biển “Vành đai biên giới” thì dừng lại, vì phải leo núi. Nắng tháng 4
gay gắt, cả nhóm men theo triền núi, bám vào cây rừng nhiều gai góc đi ngược
lên phía trên. Nghỉ một chặng dưới một tán cây rồi đi tiếp một thôi nữa là đến
cột mốc. Thật sự là mệt! Trung tá Nghĩa nói: Các anh đi thế cho biết thôi, đi
tuần tra cột mốc là việc vất vả của biên phòng, không quen không đi nổi đâu.
-Ví dụ cột mốc 727 ở xóm Lũng Po xã Quang Hán, mỗi khi đi tuần
tra đến chân núi rồi phải leo núi hơn một giờ mới đến nơi. Anh em đi thường
xuyên cũng lắm khi thấy oải các anh ạ - Anh Phóng nói.
Với bộ đội biên phòng, có lẽ họ thuộc từng viên đá trên con
đường tuần tra, vì đi thường xuyên, liên tục. Dấu chân các chiến sĩ tạo thành vết
mòn trên con đường đến cột mốc, đến các điểm tuần tra.
Đường biên giới được phía Trung Quốc làm hàng rào ba lớp, có
camera và loa nhắc nhở những trường hợp đến gần đường biên. Chúng tôi chụp ảnh
với cột 728/1. Mốc được làm bằng đá hoa cương, cắm ngày 13/1/2008 tại điểm có độ
cao 876m. Đứng bên cột mốc ngắm nhìn đàn ngựa thong thả gặm cỏ, cạnh đó là rừng
thông vi vút gió, chúng tôi có một cảm giác đặc biệt, bình yên trong cảnh giác.
Ngồi nghỉ trong cánh rừng thông râm mát, các sĩ quan biên
phòng cho chúng tôi thêm nhiều kiến thức, thông tin về biên giới. Cao Bằng giáp
Quảng Tây - Trung Quốc, đường biên giới dài trên 333 km, có 161 cột mốc, trong
đó có 117 mốc chính, 44 mốc phụ. Lúc này chúng tôi mới biết Cao Bằng là tỉnh có
đường biên giới chung dài nhất và nhiều cột mốc nhất so với các tỉnh biên giới
phía Bắc khác.
-Cột mốc chính, cột mốc phụ là thế nào? Một phóng viên hỏi.
Chính trị viên phó Bế Ích Toàn giải thích: Có nhiều loại cột
mốc các anh ạ. Mốc lớn hay mốc đại, được cắm ở những nơi mật độ qua lại biên giới
lớn như cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính, các anh sẽ thấy cột mốc này ở cửa khẩu
Trà Lĩnh, cửa khẩu Tà Lùng. Mốc trung hay mốc chính, được cắm ở những vị trí đường
biên giới đổi hướng, thay đổi địa hình, dễ xảy ra tranh chấp. Mốc nhỏ hay mốc
phụ, được cắm trong khoảng cách giữa hai mốc chính để làm rõ đường biên giới
trên thực địa. Ở đây, cột mốc ghi 728/1 tức là cột phụ thứ nhất của cột chính
728. Có nơi chỉ có cột chính, không có cột phụ, có nơi có nhiều cột phụ tùy
theo địa hình.
-Các anh để ý hình thức cột mốc, nếu đỉnh bằng là cột do
phía Trung Quốc lập, cột mốc của ta thì đỉnh tạo chóp nhọn. Ở các cột mốc phụ
thì ta sẽ dựng cột chẵn, Trung Quốc dựng các cột lẻ.
Ngoài ra còn có mốc đơn, được sử dụng ở những vị trí chỉ cần
cắm một cột mốc và mốc đôi, được cắm trên những đoạn biên giới theo sông suối,
trên đường giao thông có phương tiện đi lại. Khi cắm mốc đôi, vị trí mỗi mốc
thường được bố trí sao cho đối xứng nhau qua một điểm cần đánh dấu trên đường
biên giới. Các anh đến khu vực thác Bản Giốc, đi trên đường dọc sông Quây Sơn sẽ
thấy loại mốc này. Mốc ba, được sử dụng để đánh dấu chính xác vị trí đường biên
giới ở những nơi sông suối hợp lưu, chuyển hướng chảy dòng và mốc đặc biệt, được
cắm ở vị trí ngã ba biên giới của ba đường biên giới quốc gia hoặc ở những vùng
ngập lụt, cửa sông, bờ biển, hồ.
Mỗi tuần, bộ đội biên phòng phải vượt hàng chục km đường đồi
núi để tuần tra đấy là chưa nói đi tuần đột xuất và kiểm tra trong đêm, nếu
không có sức khỏe thì khó hoàn thành nhiệm vụ. Khi đến cột mốc phải lập tức chụp
ảnh gửi về báo cáo lãnh đạo và ghi biên bản. Khi đi kiểm tra cột mốc, đường
biên thường có cán bộ, nhân dân địa phương phối hợp.
Đồn Biên phòng cửa khẩu Trà Lĩnh, huyện Trùng Khánh, quản lý
đoạn biên giới dài 27,783 km, với 63 cột mốc từ mốc 724 đến mốc giới 760. Địa
bàn Đồn quản lý có 3 xã, 1 thị trấn biên giới với bốn thành phần dân tộc chính
là Tày, Nùng, Mông, Kinh, dân số 13.084 người.
Riêng về tuần tra, kiểm soát, năm 2024, Đồn đã tiến hành 59
lần/192 lượt cán bộ chiến sĩ tham gia, phối hợp với các xã, thị trấn biên giới
tổ chức phát quang /18,5 km đường tuần tra 5 buổi/235 người tham gia. Phối hợp
với Đồn Tổng Cọt, Đồn Ngọc Chung và UBND các xã Quang Hán, Tổng Cọt, Tri
Phương, Lăng Hiếu tổ chức tuần tra điểm tiếp giáp được 9 lần/157 lượt cán bộ và
nhân dân tham gia; phối hợp với Đại đội Quản lý biên giới Tịnh Tây, Trung Quốc
tổ chức tuần tra song phương 2 lần/20 người tại khu vực M728-728/, 738-739;
737-742. Nhờ những hoạt động tích cực đó nên hệ thống mốc giới đảm bảo nguyên
trạng, đường biên giới ổn định.
Tuy thế, tình trạng xuất nhập cảnh trái phép, vận chuyển
trái phép hàng hoá qua biên giới, tội phạm ma túy vẫn thường xuyên diễn ra với
các mức độ khác nhau tùy từng giai đoạn, khiến lực lượng biên phòng luôn phải
căng mình phòng chống, ngăn chặn.
-Mặc dù không ngừng tuần tra, kiểm soát và hàng rào phía
Trung Quốc dày ba lớp nhưng vẫn có những đối tượng xấu dùng thủ đoạn tinh vi để
cắt phá. Mới đây, Đồn biên phòng Trà Lĩnh đã phải gia cố lỗ thủng, tu sửa hàng
rào ngăn chặn tại khu vực mốc 727 – 728, 743/2, 752, 755+270m, 755+300,
755,757. Trung tá Nghĩa chia sẻ.
Giữ gìn an ninh biên giới, nói gọn như thế nhưng nội hàm của
nó là rất nhiều biện pháp, giải pháp đòi hỏi phải tốn nhiều tâm huyết, trí tuệ
và sức lực. Trung tá Phạm Văn Chiêu, Đồn trưởng Đồn Cửa khẩu quốc tế Trà Lĩnh
trao đổi với chúng tôi cho biết: Khu vực biên giới tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, an ninh dân tộc, tôn giáo, an ninh nông thôn cơ bản ổn
định; cấp ủy, chính quyền địa phương hoạt động nền nếp; Nhân dân yên tâm lao động
sản xuất, chấp hành nghiêm pháp luật, tích cực tham gia các phong trào bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia, đấu tranh ngăn chặn xuất nhập cảnh trái
phép. Tuy nhiên, hoạt động của các loại tội phạm nhất là tội phạm ma túy, trộm
cắp, vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức
tạp. Vì thế đơn vị luôn có 70% lực lượng ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu.
Đại úy Bế Ích Toàn kể ngày 22/3/2025 vừa qua, Đồn Biên phòng
cửa khẩu Trà Lĩnh đã bắt quả tang đối tượng Phần Láo Tả (sinh năm 2004, trú tại
xóm Nà Rạ, xã Thượng Hà, Bảo Lạc) có hành vi tổ chức cho hai công dân Việt Nam
xuất cảnh trái phép. Lực lượng đánh án đã vận động đối tượng Phủng Láo Ú (sinh
năm 1998, cùng xóm với Láo Tả) đến đồn đầu thú và khai nhận là người chủ mưu
trong đường dây này. Những vụ việc như thế vẫn diễn ra, trách nhiệm ngăn chặn
trước hết là bộ đội biên phòng.
Đại tá Đinh Đức Hùng, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội biên
phòng tỉnh Cao Bằng từng chia sẻ: Địa hình khu vực biên giới hiểm trở, có nhiều
khe sâu, núi cao, rừng rậm, nhiều đường mòn qua lại. Khu vực biên giới có đông
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, điều kiện kinh tế cơ bản còn khó khăn, nhận
thức về pháp luật hạn chế và không đồng đều; một bộ phận nhân dân có mối quan hệ
thân tộc giữa hai bên biên giới từ lâu đời. Tội phạm đã triệt để lợi dụng những
đặc điểm này, hoạt động tinh vi để đối phó với các lực lượng chức năng, nhất là
tội phạm ma túy, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và tổ chức,
môi giới cho người khác xuất, nhập cảnh trái phép... Các đối tượng buôn lậu sử
dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, thường xuyên thay đổi, hoạt động không theo quy luật,
triệt để lợi dụng địa hình rừng núi, sông suối hiểm trở, chia cắt để mang vác
hàng lậu qua biên giới; sử dụng nhiều mánh khóe, thủ đoạn mới. Thậm chí, các đối
tượng bố trí người theo dõi các lực lượng chức năng để đối phó. Hàng lậu được
xé lẻ, tập kết lẫn với đồ dùng tại nhà dân ở khu vực sát biên giới rồi lén lút
vận chuyển. Nếu bị cơ quan chức năng phát hiện, các đối tượng sẵn sàng bỏ lại
hàng lậu hoặc phi tang. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở khu vực biên
giới nói chung, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới nói
riêng là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và địa phương, trong đó, bộ đội
biên phòng là lực lượng nòng cốt.
Nói như thế đủ thấy nỗi gian nan trong phòng chống tội phạm
của bộ đội biên phòng Cao Bằng nói riêng, các tỉnh biên giới phía Bắc nói
chung.
Ở Đồn Trà Lĩnh, năm 2023 đã phát hiện, bắt giữ, xử lý 7 vụ
án hình sự/14 đối tượng/tang vật thu giữ gồm gồm: 0,47g Heroine, 44,5kg pháo nổ
về các hành vi mua, bán trái phép chất ma túy, pháo nổ; tổ chức cho người khác
nhập cảnh trái phép vào Việt Nam; vận chuyển trái phép hàng cấm; mua bán người
dưới 16 tuổi. Đơn vị cũng triệt phá một đường dây tổ chức cho người nước ngoài
nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, bắt giữ 5 đối tượng và một đường dây mua bán
người dưới 16 tuổi, bắt giữ 4 đối tượng, bàn giao nạn nhân bị mua bán cho Trung
tâm bảo trợ xã hội tỉnh Cao Bằng. Ngoài ra, Đồn còn xử lý 64 vụ/60 đối tượng vi
phạm hành chính, tang vật gồm 4 con ngựa, 11 con trâu, 1450 kg lá cây thuốc lá,
16.347,5 kg thực phẩm. Xử phạt tại chỗ thu nộp ngân sách 195.200.000đ. Tịch thu
tang vật bán sung quỹ nhà nước được 177.040.000đ; bán tang vật gửi tài khoản tạm
gửi chờ xử lý được 88.950.000đ. Phối hợp với các lực lượng chức năng bắt giữ, xử
lý 12 vụ/39 đối tượng/ tang vật thu giữ 5.130.000đ tiền mặt, 3,25g Heroine;
36kg pháo nổ; 56 cây thuốc phiện; 04 xe máy...
Ở Đồn Biên phòng cửa khẩu Tà Lùng, tính từ đầu năm 2023 đến
nay lực lượng biên phòng đã xử lý hình sự 19 vụ/27 đối tượng là các tội phạm ma
túy, xuất nhập cảnh trái phép, vận chuyển hàng cấm. Đồn cũng hoàn chỉnh thủ tục
tiếp nhận 14 vụ/19 đối tượng (là người Việt Nam do Trung Quốc trao trả qua cửa
khẩu) chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền tiếp tục điều tra, xử lý theo thẩm
quyền. Đồng thời đồn cũng xử lý hành vi vi phạm hành chính 63 vụ/188 đối tượng.
Trong đó xử phạt 63 vụ/188 cá nhân vi phạm/691.250.000đ. Đồn đã tiếp nhận 72 lần/
3.154 công dân Việt Nam vi phạm pháp luật Trung Quốc, do lực lượng chức năng
Trung Quốc trao trả; Trao trả 2 lần/ 3 người quốc tịch Trung Quốc…
Đồn Biên phòng cửa khẩu Lý Vạn, từ năm 2023 đến nay đã xử lý
tội phạm về ma túy 4 vụ/4 đối tượng, tang vật thu giữ 0,82g Heroin; Tội vi phạm
quy định về nhập cảnh 5 vụ/5 đối tượng, trong đó có những đối tượng từ Bạc
Liêu, Đồng Nai ra; Tội tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép 3 vụ/7 đối tượng.
Đơn vị đã xử phạt hành chính tại chỗ 1.516 trường hợp/4.655.000.000 VNĐ (về
hành vi qua lại biên giới quốc gia không làm thủ tục xuất, nhập cảnh). Đồn đã
chủ trì phối hợp với các lực lượng chức năng bắt giữ 6 vụ/8 trường hợp về hành
vi vận chuyển hàng hóa không có giấy tờ chứng minh tính hợp pháp.
Cửa khẩu Lý Vạn đặt ở xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang, nhìn trên bản
đồ, cửa khẩu đặt ở vị trí rất đặc biệt, là đỉnh một hình tam giác do hai cạnh đều
là đường biên gặp nhau tạo thành mũi nhọn hướng về phía đông. Cửa khẩu này
thông thương sang cửa khẩu Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả, Quảng
Tây, Trung Quốc. Khi chúng tôi đến, cửa khẩu khá vắng vẻ, yên tĩnh, những cây gạo
nở hoa đỏ rực in trên nền núi non xanh thẫm. Lý Vạn mới được hai bên công bố mở
cửa khẩu song phương tháng 2 năm 2025. Cùng với Trà Lĩnh, Tà Lùng, cặp cửa khẩu
Lý Vạn – Thạc Long đang đặt ra mục tiêu được hai bên công nhận là cửa khẩu quốc
tế thứ ba trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Đồn Biên phòng Cửa khẩu Lý Vạn rợp màu xanh cây lá, phía trước
đồn là những ngọn núi trồng thông xanh mướt, phía bên tay trái có ngọn núi đá mọc
thẳng như một ngọn giáo vươn lên nền trời. Hôm đó các chiến sĩ tập điều lệnh,
Trung tá Vũ Xuân Mạnh, Chính trị viên của đồn tiếp chúng tôi và giới thiệu về đồn.
Cũng như đồn Trà Lĩnh, đồn Tà Lùng, đồn Lý Vạn cũng đề khẩu hiệu trang trọng:
“Đồn là nhà, biên giới là quê hương”; “Đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”.
Trung tá Mạnh chia sẻ: Đây là những phương châm mà bộ đội biên phòng đã đúc kết,
có tâm niệm sâu sắc như thế thì cán bộ, chiến sĩ mới yên tâm làm nhiệm vụ, mới
gắn bó với đồng bào các dân tộc nơi đây để cùng nhau vượt lên mọi khó khăn,
gian khổ, để bám đất, bám dân, giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Và là một biểu hiện cụ thể về thực hiện phương châm này, anh
Mạnh đã gắn bó với biên giới Cao Bằng hơn 30 năm vì anh đã lấy vợ người dân tộc
Tày, vợ con anh đang sống ở thành phố Cao Bằng, nên nơi đây là quê hương thứ
hai, là nơi gia đình anh sinh sống hạnh phúc.
Thiếu tá Phóng cũng tâm sự, gia đình anh sống ở Hà Nội, vợ
cũng trong ngành Công an và sắp sinh bé thứ ba, anh đang cố gắng hoàn thành các
chỉ tiêu thật sớm để xin nghỉ phép về nhà chăm vợ. “Sống xa nhà cũng vất vả
nhưng em yêu công việc, yêu nơi mình công tác nên không muốn xin đi đâu nữa anh
ạ”.
Trung tướng Nguyễn Anh Tuấn, Chính ủy Bộ đội Biên phòng từng
chỉ đạo: Thực hiện tốt các chương trình, dự án về phát triển kinh tế - xã hội gắn
với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại và quản lý, bảo vệ biên
giới, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, góp phần củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ đoàn kết máu thịt quân dân, xây
dựng “thế trận lòng dân”, nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân
vững mạnh ở khu vực biên giới trong tình hình mới. Đến các đồn biên phòng Cao Bằng
chúng tôi thấy những biểu hiện sinh động của tinh thần ấy.
Lật giở các trang báo cáo của Đồn Biên phòng Trà Lĩnh, chúng
tôi chú ý vào một nội dung cho biết thêm nhiều thông tin về một mảng nhiệm vụ của
đơn vị. Đồn đã thực hiện có hiệu quả các chương trình, mô hình, phong trào giúp
đỡ nhân dân vùng biên giới. Đơn cử trong 6 tháng đầu năm 2024, đơn vị đã giúp đỡ
nhân dân 87 ngày công; hỗ trợ 12 triệu đồng và cử 64 lượt cán bộ, chiến sĩ giúp
đỡ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, mưa lũ; giúp đỡ hai hộ gia đình xóa
nhà tạm, nhà dột nát, trị giá 20 triệu đồng và 16 ngày công lao động; giúp đỡ
sáu hộ gia đình di dời chuồng trại ra khỏi gầm sàn nhà được 8 ngày công và 24
triệu đồng. Thăm, tặng quà hai thân nhân liệt sĩ do đơn vị phụng dưỡng và 8 gia
đình chính sách với tổng trị giá 5.000.000 đồng. Vận động kinh phí thăm, tặng
quà tổng trị giá hơn 105 triệu đồng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn.
Vận động quyên góp, ủng hộ 62 bộ quần áo mùa đông trao tặng cho “Tủ Quần áo
tình thương” tại Trung tâm Y tế huyện Trùng Khánh.
Hỗ trợ 8 triệu đồng và 20 ngày công giúp nhân dân xóm Nà Pò,
xã Quang Hán đổ bê tông hơn 300m2 sân nhà văn hóa và 50m đường bê tông. Tặng 4
con lợn giống và thức ăn chăn nuôi cho hai hộ gia đình hội viên phụ nữ có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, trị giá 7,6 triệu đồng. Triển khai thực hiện 2 Công
trình “Thắp sáng vùng biên” tại xóm Nà Pò, xã Quang Hán và tại xóm Lũng Mười,
xã Xuân Nội, lắp được 26 đèn chiếu sáng bằng năng lượng mặt trời, tổng trị giá
46,5 triệu đồng...
Hỗ trợ nhóm thiện nguyện “Bước chân bình an” nhận đỡ đầu ba
cháu học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Mua sắm các vật chất tặng hai con nuôi của
đồn trị giá 2,4 triệu đồng. Rồi tổ chức Chương trình “Xuân Biên phòng ấm lòng
dân bản”, tặng quà trị giá 170,5 triệu đồng; tổ chức hai “Gian hàng không đồng”,
trị giá 20 triệu đồng; khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho 170 lượt người trị giá
68 triệu đồng. Chương trình “Tay kéo Biên phòng”, tổ chức cắt tóc miễn phí cho
cán bộ chiến sĩ đơn vị và nhân dân khu vực biên giới được hơn 280 lượt người.
Phối hợp với trường THPT Trà Lĩnh tổ chức “Tiếp sức mùa thi” hỗ trợ 80 suất
cơm, 240 chai nước uống, 300 suất bút chì, cục tẩy, tổng trị giá 4,2 triệu đồng.
Ủng hộ gia đình một chiến sĩ, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được 7,2 triệu đồng.
Vậy là bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bộ đội biên phòng
còn dành rất nhiều công sức và tâm huyết để xây dựng “thế trận lòng dân”, giúp
đỡ nhân dân trong tình quân dân cá nước một cách thiết thực, cụ thể như người
thân đối với người thân.
Đường từ Trà Lĩnh đi Trùng Khánh đẹp như một bức tranh, hai
bên đường là những cánh đồng và sông suối lững lờ. Con đường có khi chạy sát
vách núi, có lúc hai bên vách đá dựng đứng như bức tường thành, khi thì thoáng
đãng giữa những thung lũng xanh tươi, đúng là vùng cao bằng phẳng, tạo cảm giác
bình yên… Nhưng qua các cửa khẩu Trà Lĩnh, Tà Lùng, Lý Vạn và các đồn trạm gặp
gỡ bộ đội biên phòng mới thấy để biên giới giữ được an ninh, thật sự mang lại
bình yên thì những người lính biên phòng nơi phên giậu của Tổ quốc phải nỗ lực
không ngừng, thậm chí hi sinh cả tính mạng…
Trên đường trở về xuôi, chúng tôi mang theo hình ảnh nhà bia
ở cổng Đồn Biên phòng Trà Lĩnh, khắc họ tên, quê quán, ngày sinh và ngày hi
sinh của 18 cán bộ chiến sĩ của đồn. Trong đó có 17 người hi sinh tháng 2 và
tháng 3 năm 1979 và một người hi sinh vào tháng 11 năm 1989. Các đồn biên phòng
ở đây đều có những nhà bia như thế, để tri ân những người đã ngã xuống vì Tổ quốc,
đồng thời nhắc nhở bài học xương máu về sự cảnh giác, không lúc nào được nguôi
quên...
Cửa khẩu Trà Lĩnh hay cửa khẩu Hùng Quốc hay cửa khẩu Nà Đoỏng
là cửa khẩu quốc gia tại vùng đất bản Hía ở thị trấn Hùng Quốc, huyện Trà Lĩnh,
tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Cửa khẩu Trà Lĩnh thông thương sang cửa khẩu Long Bang
ở thành phố Bách Sắc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Cửa khẩu Trà Lĩnh là điểm cuối của tỉnh lộ 205, cách thị trấn
Hùng Quốc khoảng 6 km theo đường này về hướng bắc. Tên cửa khẩu Nà Đoỏng được gọi
theo bản Nà Đoỏng là bản ở trước bản Hía khi ra cửa khẩu. Tuy nhiên tên chính
thức và được dùng trong giới chức hành chính, biên phòng và hải quan là cửa khẩu
Trà Lĩnh.
Xin theo dõi tiếp bài 6. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân
ái. Điện bà Tây Ninh.
Bài 16. Thần Thánh Trung hoa.
Xin theo dõi tiếp bài 17. Cảm ơn các bạn đã theo dõi . Thân ái. dienbatn.
Bài 3. Phong thủy luận.
Xin theo dõi tiếp bài 4. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.