NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM . BÀI 6.

4/08/2011 |
NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM
NHỮNG ĐỆ TỬ CỦA PHẬT THÀY TÂY AN.  
Phật Thày Tây An có nhiều đệ tử giỏi như Đức Cố Quản (Trần Văn Thành), Tăng Chủ (Bùi Đình Thân), Đạo Xuyến (Nguyễn Văn Xuyến), Đạo Lập (Phạm Thái Chung), Đạo Thắng (Nguyễn Văn Thắng),v.v...Những người này đã cùng với Phật Thày Tây An dựng nên một Đạo Giáo mới ở Việt Nam có hàng triệu tín đồ vào cuối thế kỷ 19 và để lại nhiều dấu ấn trong lòng người dân Việt Nam. Chúng ta lần lượt điểm qua về cuộc đời và thân thế những vị tiền bối này.
1/ Đức Cố Quản (Trần Văn Thành).
Tượng đài Trần Văn Thành tại Châu Phú, An Giang
Trần Văn Thành (?  - 1873) còn được gọi là Trần Vạn Thành, Quản Cơ Thành (khi được thăng chức Chánh Quản cơ), Đức Cố Quản (tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương gọi tôn). Ông là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 - 1873) trong lịch sử Việt Nam.
Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông ở ấp Bình Phú (Cồn nhỏ), làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, quận Châu Phú Hạ, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang).
 Làm võ quan nhà NguyễnNăm 1840, Trần Văn Thành gia nhập quân đội nhà Nguyễn giữa lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên, nhờ có Xiêm La giúp sức, đã khởi quân chống lại cuộc bảo hộ của Việt Nam.
Nhờ có sức khỏe, giỏi võ nghệ, khá thông thạo chữ nghĩa, nên ông được cử làm suất đội (chỉ huy khoảng 50 lính), từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia). Năm 1845, sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam.
Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục nhà Nguyễn. ông xin giải ngũ về quê nhà. Năm 1949, Trần Văn Thành gia nhập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Đoàn Minh Huyên sáng lập.
Nghe lời thầy Đoàn Minh Huyên, ông cùng gia đình và một số tín đồ đến khai khẩn trại ruộng Bửu Hương Các (Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú).
Tháng 2 năm 1961, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, sau đó quân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vua Tự Đức liền ra lời kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp tác chống ngăn quân xâm lược. Hưởng ứng lệnh vua, Trần Văn Thành trở lại đội ngũ.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, một đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng, tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867.
Để cứu nguy nước nhà, Trần Văn Thành mang quân qua phía Rạch Giá, hỗ trợ cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Lập tức, Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng bào Núi Sập tiếp tay) đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp.
Cuộc cản phá thất bại, Nguyễn Trung Trực bị đánh thua rút quân ra Hòn Chông, còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh - Bảy Thưa dựng trại, khai hoang, luyện quân và rèn đúc vũ khí…để chuẩn bị làm cuộc đánh đuổi ngoại xâm.
 Tổ chức kháng Pháp ở Láng Linh - Bảy Thưa
 Khởi nghĩa Bảy Thưa

Cây bảy thưa, chỉ còn lại vài bụi nhỏ tại Dinh Sơn Trung

Láng Linh - Bảy Thưa là hai cánh đồng rộng nằm liền kề. Xưa kia, nơi đây có nhiều đầm lầy, đế sậy và vô số cây bảy thưa (vì thế mà thành tên cuộc khởi nghĩa), lại ít có kênh rạch thông vào...Căn cứ chính của Trần Văn Thành có tên là Hưng Trung doanh, đặt tại trung tâm rừng Bảy Thưa (xưa thuộc phủ Tân Thành, huyện Vĩnh An; nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú), xung quanh thiết lập các đồn làm tuyến ngăn cản đối phương, như: Đồn Cái Môn ở Cái Dầu, đồn Giồng Nghệ ở Mặc Cần Dưng (Châu Thành), trạm canh Ông Tà ở Tri Tôn, đồn Hờ ở xã Vĩnh Thạnh Trung (Châu Phú), đồn Hàng Tràm ở xã Phú Bình (Phú Tân)...Mỗi đồn đều được trang bị súng thần công, súng điểu thương, hỏa hổ,...với khoảng 150 nghĩa quân phòng thủ.
Theo sử liệu, thì lúc bấy giờ lực lượng của ông có khoảng 1.200 nghĩa quân, bao gồm một số quân triều và nghĩa dân (trong đó phần đông là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương). Để củng cố thêm thế lực, Trần Văn Thành cho người đến liên hệ với Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp ở Campuchia, nhưng vì ông này cũng đang gặp khó khăn nên việc liên kết không mấy hiệu quả. Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm La và Cao Miên để mua súng đạn, nhưng không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào việc Nam Kỳ e mất lòng Pháp.
Cuối năm 1868, các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần hết, lực lượng Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã, treo giải thưởng cao. Mặc dù vậy, Trần Văn Thành vẫn cương quyết đánh, dù đối phương đã mấy lần ra lời chiêu dụ.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất cờ chống Pháp, lấy hiệu là Binh Gia Nghị. Kể từ đó, ông thường tổ chức đánh phá các đồn Pháp, và làm cản trở việc lưu thông của đối phương ở quanh vùng.
Bị tấn công
Tranh mô tả Trần Văn Thành đang đánh trận, hiện trưng bày tại đền thờ ông
Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào Bảy Thưa, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích.
Sang năm 1872, nhờ lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được, thực dân quyết định mở cuộc càn quét lớn vào Bảy Thưa. Tuy nhiên mãi cho đến năm sau, họ mới phát lệnh hành quân.
Tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp chia quân ra làm hai cánh. Cánh quân thứ nhất, từ Châu Đốc tiến dọc sông Hậu đánh chiếm đồn Hàng Tràm, đồn Hờ, rồi tiến vào Hưng Trung doanh. Cánh quân thứ hai, từ Long Xuyên theo rạch Mặc Cần Dưng tiến vào bắn phá Sơn Trung rồi đánh thẳng vào bản doanh trên. Đây là cánh quân mạnh nhất do Tri phủ Trần Bá Tường (em ruột Trần Bá Lộc) chỉ huy, có Phó quản Hiếm (trước kia là quân Bảy Thưa) cầm đầu một toán quân nhỏ theo hỗ trợ. Nhưng thực ra, viên chủ tỉnh Pếch mới là người chỉ huy chính, có đại úy Guyon làm trợ lý.
Tuy biết mình đang bị bao vây tứ phía, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu, nhưng Trần Văn Thành và nghĩa quân vẫn cương quyết đối phó.
Khoảng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873, quân Pháp bắt đầu xung phong chiếm Hưng Trung doanh. Báo Le Courrier de Saigon tường thuật:
Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"...
Dinh Hưng Trung ngày nay
Nhà văn Sơn Nam kể:

Ông Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất. Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ. Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ...Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Thành mặc áo màu đo sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên ạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng...
Tuy nhiên, trước hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, dù cố gắng chống trả nhưng chỉ vài giờ sau thì quân Bảy Thưa cũng bị đánh tan. Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này, bên nghĩa quân có 10 người chết (trong đó có Trần Văn Thành và đội Văn), 5 người bị thương (trong đó có Trần Văn Chái, con thứ ông Thành), 15 người bị bắt sống. Ngoài ra, họ còn bị đối phương chiếm đoạt 16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo cùng ghe xuồng, một số giấy tờ cho thấy ông Thành từng ở Rạch Giá với Nguyễn Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh Vĩnh Long) ở Vũng Liêm.

Xong trận, quân Pháp nổi lửa đốt tất cả dinh trại, phá hủy hết các lò đúc vũ khí, rồi mang xác ông Thành và Đề đốc Văn về chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú) để thị uy, để ngăn chận những tin đồn cho rằng ông còn sống, chỉ tạm thời đi lánh mặt và sẽ tiếp tục kháng chiến .
Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành
(Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành (gọi tắt là Đền Quản cơ Thành), còn có tên Bửu Hương tự, chùa Láng Linh (gọi tắt là chùa Láng); thuộc ấp Long Châu I, xã Thạch Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang; nằm giữa đồng lúa Láng linh[1], bên bờ kênh xáng Vịnh Tre (kênh Tri Tôn), cách thành phố Long Xuyên khoảng 50 km, là một di tích lịch sử cấp Quốc gia Việt Nam )
 Nhận xétNhà văn Sơn Nam viết về Trần Văn Thành và cuộc khởi nghĩa của ông như sau:
Trần Văn Thành từng tham gia những trận chống quân xâm lược Xiêm, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức, thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên, bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến...
Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ngay sau khi An Giang mất, ông đưa nghĩa dân và nghĩa quân qua phía Rạch Giá, tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, và ông trở thành nhân vật mà thực dân Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng. Sau đó, ông rút lui về Láng Linh để khẩn hoang. Có thể nói, ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc canh tác ở vùng trũng phèn này. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873, mật khu lần hồi thành hình...Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông người yêu nước từ các tỉnh.
Khi đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh giá cao, vì:
-Việc tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu “ống lói”.
-Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân.
-Thủ lĩnh (Trần Văn Thành) thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra “bất chiến tự nhiên thành”. Thái độ của thủ lĩnh và nghĩa quân là “chiến đấu không thỏa hiệp”.
 Tưởng nhớTrần Văn Thành hy sinh tại trận ngày 21 tháng 2 năm Quý Dậu (19 tháng 3 năm 1874). Nho sĩ Cao Văn Cảo, người cùng thời, có làm bài thơ chữ Hán tưởng niệm ông. Vô danh dịch như sau:

“ Non sông Hồng Lạc, giặc xâm lăng
Thẳng thắng, Trần công cố sức ngăn.
Trời đất biết cho lòng sốt sắng,
Kiếp đời ghi mãi chí thù hằn.
Đền thờ tỏ dấu dân trong nước,
Thơ vịnh nêu tình khách viết văn.
Những đứa phản thần qua đến cửa,
Gục đầu, run mật, cặp mày nhăn. ”

Năm 1909, một tu sĩ trong giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tên là Vương Thông có viết tập văn Nôm “Trần Quản Cơ dữ Gia Nghị Binh”. Tập sách này kể về cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, trong đó có nhiều câu nói đến lòng quả cảm và tiết tháo của ông, trích 2 câu:
Thà thua xuống láng xuống bưng,
Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần.
Trần Văn Thành được tôn thờ ở nhiều nơi, như: Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành, Dinh Hưng Trung, Dinh Sơn Trung...Ngoài ra, tên ông còn dùng để đặt tên cho trường học và đường phố trong tỉnh An Giang.

Dinh Sơn Trung ngày nay
 Vợ, conVợ ông tên Nguyễn Thị Thạnh (1825 - 1899), là người ở rạch Sa Nhiên, Sa Đéc. Bà là người vợ nhân hậu, đảm đang, văn võ đều khá giỏi. Trong công cuộc kháng Pháp của chồng, bà và người con gái thứ năm tên Trần Thị Nên, đã giúp đắc lực, nhất là về việc hậu cần , an ủi và động viên binh sĩ.
Ông Thành và bà có tất cả 6 người con: ba trai, ba gái. Trừ trai út tên Trạng mất năm 7 tuổi, hai trai còn lại đều khá danh tiếng:
Một là, Trần Văn Nhu (1847 - 1914), còn gọi là Cậu hai nhà Láng (người miền Nam gọi con đầu lòng là thứ hai), người lập ra Bửu Hương tự (tức chùa Láng) và cũng là người kế truyền mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương khi cha mất. Khi cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa bị đánh dẹp, mẹ ông, ông và những người thân tín khác, bị Pháp truy nã rất gắt nên phải lẩn trốn nhiều nơi. Năm 1897, ông Nhu trở về căn cứ cũ lập Bửu Hương tự (nay là Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành), phát “lòng phái” để thu nhận tín đồ. Ông Nhu mất tại Trà Bang (Rạch Giá) ngày 25 tháng 3 âm lịch năm 1914.

Mộ Trần Văn Nhu.
Hai là, Trần Văn Chái (1855 - 1873), bị thương rồi bị Pháp bắt khi cùng chiến đấu với cha tại bản doanh Hưng Trung. Nghe tin con bị thực dân dụ hàng, bà vợ Quản Cơ Thành liền nhét một con dao, kèm theo một bức thư giấu bên trong đòn bánh tét, ý khuyên con phải cố giữ khí tiết. Năm ngày sau khi nhận thư, người con tự tử trong nhà ngục Châu Đốc, bỏ lại người yêu vừa mới hứa hôn, năm ấy Trần Văn Chái mới 18 tuổi.
Không rõ Trần Văn Thành và Trần Văn Chái được chôn cất ở đâu. Trong khu mộ của dòng họ Trần ở gần chùa Bửu Hương tự thuộc xã Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), không có phần mộ của hai người....
....Sau khi Khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 - 1873) thất bại, bà Nguyễn Thị Thạnh (vợ Trần Văn Thành) cùng các con về trú ngụ trên nền một trại ruộng xưa (Bửu Hương các) của Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) tại Long Châu.
Năm 1897 , bà và con trai trưởng là Trần Văn Nhu (còn gọi là ông Hai Nhà Láng), cho xây dựng tại đây một ngôi chùa, đến năm 1903, thì hoàn thành và chính thức đặt tên là Bửu Hương tự , để tưởng nhớ cha và những quân dân đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa...
Trước đây, Trần Văn Nhu là người có công lớn trong việc giúp cha điều hành cuộc khởi nghĩa , nay ông tiếp tục hốt thuốc trị bệnh, tổ chức trồng dâu nuôi tằm và phát triển mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Ngày 21-22 tháng 2 âm lịch năm 1913, trong lúc tín đồ cùng nhân dân đang làm lễ tưởng niệm Quản cơ Thành và các nghĩa binh Gia Nghị, thì quân Pháp từ Châu Đốc kéo vào Bửu Hương tự vây ráp, bắt người và đốt chùa, vì họ sợ sẽ nổ ra một cuộc khởi nghĩa mới. Trần Văn Nhu, nhờ người con nuôi là Trần Văn Chánh, cõng chạy thoát.
Sau đó, thực dân Pháp lập tòa tiểu hình tại Châu Đốc, gán 56 người bị bắt vào tội tham gia Hội kín Nam Kỳ, trong số đó có 20 người bị kết án đày ra Côn Đảo
Mộ Trần Văn Nhu.Bị truy nã gắt, Trần Văn Nhu phải lẩn trốn nhiều nơi và mất tại Trà Bang (Rạch Giá) ngày 25 tháng 3 âm lịch năm 1914.
Năm 1942, Trần Văn Tịnh, một đệ tử của ông Nhu, đã đứng ra vận động để xây dựng lại đền thờ tại nền cũ, lợp ngói, xây tường gạch, cột gỗ, nền lát gạch rất khang trang và rộng rãi.
Năm 1947, lực lượng kháng Pháp từ chùa kéo ra tiêu diệt một đồn Pháp tại xã. Năm sau (1948), quân Pháp kéo đến khủng bố và đốt đền một lần nữa.
Năm 1952, nhân dân quanh vùng chung góp tiền của, công sức xây dựng lại đền khang trang như ngày hôm nay.
Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành, kiến trúc dạng chữ “tam”, kiểu cổ lầu, mái hai cấp lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe và bê tông, tường gạch, nền lát gạch bông. Về nghệ thuật thì khá đơn giản so với các đình chùa ở trong vùng.
Ở nơi thờ này, hàng năm có nhiều lễ giỗ, nhưng quan trọng nhất là lễ giỗ ông Trần Văn Thành, được tổ chức trọng thể vào các ngày 21-22 tháng 2 âm lịch. Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành được Bộ Văn Hóa - Thông Tin xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 6 tháng 12 năm 1989.

Khởi nghĩa Bảy ThưaKhởi nghĩa Bảy Thưa (1867 - 1873) là một cuộc kháng Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành làm thủ lĩnh, đã xảy ra trên địa bàn của tỉnh An Giang, thuộc Việt Nam.
Hoàn cảnh lịch sử

Một con rạch chảy qua Bảy Thưa ngày nay
Tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, sau đó quân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vua Tự Đức liền ra lời kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp tác chống ngăn quân xâm lược. Hưởng ứng lệnh vua, Trần Văn Thành (năm 1845 làm Chánh quản cơ), trở lại đội ngũ.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, một đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng, tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867.
Lập tức nhiều binh sĩ và người dân ở tỉnh này chống lại, hình thành nên hai cuộc khởi nghĩa đáng chú ý, đó là cuộc khởi nghĩa của Chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và Phó vệ thủy Lê Văn Sanh ở Châu Đốc, và cuộc khởi nghĩa của Quản cơ Trần Văn Thành ở Láng Linh - Bảy Thưa.
 Diễn biến
 Tham gia khởi nghĩa Nguyễn Trung TrựcĐể cứu nguy nước nhà, Trần Văn Thành mang quân qua phía Rạch Giá, tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Lập tức, Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng bào Núi Sập tiếp tay) đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp.
Cuộc cản phá thất bại, Nguyễn Trung Trực bị đánh thua rút quân ra Hòn Chông, còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh - Bảy Thưa dựng trại, khai hoang, luyện quân và rèn đúc vũ khí…để chuẩn bị làm cuộc đánh đuổi ngoại xâm.
 
Tổ chức kháng Pháp ở Láng Linh - Bảy Thưa


Bản đồ Bảy Thưa - Láng Linh
Láng Linh - Bảy Thưa là hai cánh đồng rộng nằm liền kề, ít có kênh rạch thông vào. Phía bắc giáp núi Sam, phía đông giáp sông Hậu, phía tây dựa vào Thất Sơn, phía nam giáp rừng Bảy Thưa... Xưa kia, cả vùng rộng lớn này, đến mùa nước nổi là một biển nước mênh mông; còn vào mùa khô, nước không cạn hẳn mà biến thành những ao đìa, đầm lầy với vô số cá tôm, đĩa vắt và rắn độc. Đặc biệt nơi đây có nhiều đế sậy mọc rậm rạp, và vô số cây bảy thưa (vì vậy mà thành tên cuộc khởi nghĩa) .
Căn cứ chính của Trần Văn Thành có tên là Hưng Trung doanh, đặt tại trung tâm rừng Bảy Thưa (xưa thuộc phủ Tân Thành, huyện Vĩnh An; nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú), xung quanh thiết lập các đồn làm tuyến ngăn cản đối phương, như: Đồn Cái Môn ở Cái Dầu, đồn Giồng Nghệ ở Mặc Cần Dưng (Châu Thành), trạm canh Ông Tà ở Tri Tôn, đồn Hờ ở xã Vĩnh Thạnh Trung (Châu Phú), đồn Hàng Tràm ở xã Phú Bình (Phú Tân)...Mỗi đồn đều được trang bị súng thần công, súng điểu thương, hỏa hổ,...với khoảng 150 nghĩa quân phòng thủ.
Theo sử liệu, thì lúc bấy giờ lực lượng của ông có khoảng 1.200 nghĩa quân, bao gồm một số quân triều và nghĩa dân (trong đó phần đông là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương). Để củng cố thêm thế lực, Trần Văn Thành cho người đến liên hệ với Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp ở Campuchia, nhưng vì ông này cũng đang gặp khó khăn nên việc liên kết không mấy hiệu quả. Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm La và Cao Miên để mua súng đạn, nhưng không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào việc Nam Kỳ e mất lòng Pháp .
Cuối năm 1868, các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần hết, lực lượng Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã, treo giải thưởng cao. Mặc dù vậy, Trần Văn Thành vẫn cương quyết đánh, dù đối phương đã mấy lần ra lời chiêu dụ.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất cờ chống Pháp, lấy hiệu là Binh Gia Nghị. Kể từ đó, ông thường tổ chức đánh phá các đồn Pháp, và làm cản trở việc lưu thông của đối phương ở quanh vùng.
 Trận Hưng Trung Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào Bảy Thưa, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích.
Sang năm 1872, nhờ lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được, thực dân quyết định mở cuộc càn quét lớn vào Bảy Thưa. Tuy nhiên mãi cho đến năm sau, họ mới phát lệnh hành quân.
Lúc bấy giờ chủ tỉnh Long Xuyên tên Pếch (Emile Puech) đã có trong 60 lính Mã tà , nhưng để chắc ăn, ông còn xin chi viện 40 lính Mã tà từ Cần Thơ lên tăng cường, đồng thời thông báo cho chủ tỉnh Châu Đốc, tùy khả năng mà phối hợp.
Tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp chia quân ra làm hai cánh. Cánh quân thứ nhất, từ Châu Đốc tiến dọc sông Hậu đánh chiếm đồn Hàng Tràm, đồn Hờ, rồi tiến vào Hưng Trung doanh. Cánh quân thứ hai, từ Long Xuyên theo rạch Mặc Cần Dưng tiến vào bắn phá Sơn Trung rồi đánh thẳng vào bản doanh trên. Đây là cánh quân mạnh nhất do Tri phủ Trần Bá Tường (em ruột Trần Bá Lộc) chỉ huy, có Phó quản Hiếm (trước kia là quân Bảy Thưa) cầm đầu một toán quân nhỏ theo hỗ trợ. Nhưng thực ra, viên chủ tỉnh Pếch mới là người chỉ huy chính, có đại úy Guyon làm trợ lý.
Tuy biết mình đang bị bao vây tứ phía, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu, nhưng Trần Văn Thành và nghĩa quân (khoảng 400 đến 500 quân, theo ước lượng của chủ tỉnh Pếch) vẫn cương quyết đối phó.
Khoảng sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873, quân Pháp xung phong chiếm Hưng Trung doanh. Báo Le Courrier de Saigon tường thuật:
Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"...
Nhà văn Sơn Nam kể:
Ông Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất. Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ. Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ...Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Thành mặc áo màu đo sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên ạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng...
Tuy nhiên, trước hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, dù cố gắng chống trả nhưng chỉ vài giờ sau thì quân Bảy Thưa cũng bị đánh tan. Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này, bên nghĩa quân có 10 người chết (trong đó có Trần Văn Thành và đội Văn), 5 người bị thương (trong đó có Trần Văn Chái, con thứ ông Thành), 15 người bị bắt sống. Ngoài ra, họ còn bị đối phương chiếm đoạt 16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo cùng ghe xuồng, một số giấy tờ cho thấy ông Thành từng ở Rạch Giá với Nguyễn Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh Vĩnh Long) ở Vũng Liêm  .
Xong trận, quân Pháp nổi lửa đốt tất cả dinh trại, phá hủy hết các lò đúc vũ khí, rồi mang xác ông Thành và Đề đốc Văn về chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú) để thị uy, để ngăn chận những tin đồn cho rằng ông còn sống, chỉ tạm thời đi lánh mặt và sẽ tiếp tục kháng chiến .
Trần Văn Thành hy sinh, cuộc khởi nghĩa mà ông và các đồng đội đã dày công gầy dựng kết thúc (tháng 3 năm 1873).
 Nhận xét


Súng của nghĩa quân Bảy Thưa, hiện trưng bày tại Bảo tàng An Giang
Nhà văn Sơn Nam viết về Trần Văn Thành và cuộc khởi nghĩa của ông như sau:
Trần Văn Thành từng tham gia những trận chống quân xâm lược Xiêm, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức, thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên, bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến...
Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ngay sau khi An Giang mất, ông đưa nghĩa dân và nghĩa quân qua phía Rạch Giá, tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, và ông trở thành nhân vật mà thực dân Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng. Sau đó, ông rút lui về Láng Linh để khẩn hoang. Có thể nói, ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc canh tác ở vùng trũng phèn này. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873, mật khu lần hồi thành hình...Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông người yêu nước từ các tỉnh.
Khi đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh giá cao, vì:
-Việc tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu “ống lói”.
-Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân.
-Thủ lĩnh (Trần Văn Thành) thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra “bất chiến tự nhiên thành”. Thái độ của thủ lĩnh và nghĩa quân là “chiến đấu không thỏa hiệp”.
Sau trận đánh, theo Sơn Nam, viên chủ tỉnh Pếch cũng đã nhận xét rằng cai tổng Lý Mun và phủ Trần Bá Tường, từng tham gia đánh nhiều lần, nhưng trong trận này, quả là mất tinh thần. Quân Bảy Thưa gan lỳ khi bị bao vây, hứng chịu hỏa lực mạnh, chứng tỏ uy tín của Trần Văn Thành khá lớn. Pếch cũng thú nhận là không chiến thắng hoàn toàn vì phần lớn nghĩa quân rút lui an toàn. Cánh quân do chủ tỉnh Châu Đốc hẹn hợp đồng không đến kịp để chận nút

(http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_V%C4%83n_Th%C3%A0nh)
ĐỨC CỐ QUẢN.
Ông tên tộc là Trần Văn Thành, hồi trào vua Thiệu Trị và Tự Đức làm đến chứng chánh quản cơ. Có lẽ người đời gọi ông Trần Văn Nhu trưởng nam của Ngài bằng cậu, nên vì kính trọng mà gọi Ngài là Đức Cố. Ngài quê quán ở cù lao Nhỏ thuộc xã Bình Thạnh Đông. Tổng An lương, tỉnh Châu đốc. Trên bước đường võ nghiệp, Ngài đã lập nhiều chiến công hiển hách. Ngài đã cầm quyền đánh tan giặc Miên nhiễu hại biên thùy và đã thu phục được hai tướng Miên là Ông Bướm và ông Vôi.
Khi Đức Phật Thầy Tây An giáng lâm ở Xẻo môn rạch Ông chưởng, tỉnh Long Xuyên, cứu dân độ thế, Đức Cố Quản thân đến ra mắt, nhưng vì bịnh nhơn đông đảo nên Ngài phải ở đợi trong ba hôm mới được Đức Phật Thầy Tây An cho mời vào và được Đức Phật Thầy tiếp đón và đàm đạo rất tâm đắc.
Ngài trở về Bình Thạnh Đông cùng khuyên gia quyến quy y. Khi Đức Phật Thầy Tây An về ở Núi Sam. Ngài phế cả sự nghiệp mà theo Thầy, đem gia cư về núi Doi, phá rừng dựng lên làng Hưng Thới. Ngài được Đức Phật Thầy giao phó trọng trách đi cắm 4 cây thẻ tại vùng Thất Sơn và giữ trại ruộng Bửu Hương Các ở Láng Linh.
Ngài là một trong Thập nhị HIền thủ được Đức Phật Thầy truyền nhiều bí pháp. Có thể nói Ngài là một đệ tử bậc nhứt của giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương đã hành sử và thực thi đạo Tứ Ân trong công cuộc phục vụ chánh nghĩa quốc gia.
Gặp hồi nhà nghiêng nước đổ, quân Pháp đến xâm chiếm Việt Nam, các nơi nhiều vị anh hùng như Trương Công Định ở miền Đông, Thiên hộ Võ Duy Dương ở Đồng Tháp dấy binh khởi nghĩa Cần vương, Đức Cố Quản chiêu mộ nghĩa binh kháng địch.
Ông Vương Thông, có tả tình hình nước nhà lúc bấy giờ trong những câu:
Bây giờ đến lúc gập ghình.
Giặc thời lấy nước lánh mình đi đâu.
Các quan ẩn ánh san đầu.
Chiêu binh ra đánh giải sầu một phen.
Nam Kỳ có tướng qua Thiên.(Thiên hộ Dương)
Cùng quan lớn Định (Trương Công Định) cầm quyền đánh Tây.
An Giang có một ông đây (Đức Cố Quản)
Chữ dạ nghe Thầy ái quốc trú quân..
Nghe theo lời Thầy dạy phải tận trung báo quốc, Đức Cố Quản rút về rừng Bảy thưa ở khoảng Thất Sơn Núi Sập, lập đồn lũy, huấn luyện quân binh chờ ngày đánh Pháp. Ngài đánh nhau với Pháp trong hai trận.
Trận thứ nhất là trận quân Pháp hãm đồn Hưng Trung cũng gọi Sơn Trung. Trong trận này vì quân ta bị tấn công thình lình nên bị đánh bại. Dầu vậy, quân Pháp không chiếm đồn, vì địa thế hiểm yếu sợ bị phản công nên rút lui.
Về trận này, ông Vương Thông có viết:
Sơn trung quan mới đặt bày.
Khen ai khéo mách Tây hay kéo vào.
Anh hùng một trận đề đao,
Ngay vua sống thác quản bao thân này.
Dốc làm một trận với Tây.
Sống thời làm tướng thác nay thành Thần.
Rồi thì:
Giặc vô bốn phía phủ này.
Rập bô nó bắn gẫy cây hư đồn.
Đội cai thất vía kinh hồn.
Đâm đầu mà chạy lũy đồn tan hoang.
Sau trận thất bại này, Đức Cố Quản về ẩn ánh ở Láng Linh lo việc tu hành, khai kinh mở đất, sống một cuộc đời vô cùng vất vả.
Thời Trời còn khiến nhơn dân.
Nghe Ngài về đórần rần đến thăm.
Chịu bề khổ hạnh mấy năm
Khai kinh mở ruộng nhứt tâm tu hành.
Thân Ngài chẳng quản rách lành.
Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời.
Nhưng đến năm Nhâm Thân (1872) Cố được sắc lịnh của triều đình mưu việc cần vương khởi nghĩa. Cố lại dựng cờ ở Bảy Thưa lập lên quân đội, mạng danh là “Binh Gia Nghị”, lo việc tích trữ quân lương rèn luyện võ khí, đợi ngày hưng binh phạt địch. Songchưa kịp khởi binh thì quân Pháp từ ba mặt tấn công vào, quân Gia nghị tận lực chống ngăn nhưng cự dương không nổi, phải đành tan rã. Trong trận đánh lần thứ hai này, Đức Cố Quản mất tích luôn, nhằm ngày 21 tháng 2 năm Quí Dậu (1873), nêu một tấm gương sáng vị quốc vong thân cho muôn đời ngưỡng vọng.

(BSKH - VK - sdd) .
2/Tăng Chủ (Bùi Đình Thân)

Đình Thới Sơn, do Tăng Chủ tạo lập, để làm nơi thờ phụng và nơi tu.
Tăng Chủ, tên thật là Bùi Đình Thân, không biết năm sinh năm mất, chỉ biết ông sống nửa cuối thế kỷ 19. Tuy có tên thật, nhưng từ khi ông làm đệ tử Phật Thầy Tây An (gọi tắt là Phật Thầy), và được ban cho đạo hiệu là Bùi Thiền Sư, thì cái tên thật kia ít ai còn nhớ đến. Sau này, khi được thầy giao việc coi sóc trại ruộng tại chân núi Két, ông còn được gọi là Tăng Chủ (theo nghĩa ông sư làm chủ trại ruộng), và đây chính là cái tên còn được gọi cho đến hôm nay.
Ông là người có công phát triển giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương và là người có công khai phá sơn lâm, lập nên hai làng là Hưng Thới và Xuân Sơn mà sau này hợp thành xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, Việt nam.
Một số thông tinTăng Chủ không có vợ con. Về sau ông xin một đứa trẻ, con của người em, về làm con nuôi, đó là ông Đình Tậy
 GS. Nguyễn Văn Hầu mô tả:Tướng mạo ông cao lớn, miệng rộng, tay dài, tiếng nói sang sảng mà tâm tính bao giờ cũng thuần hậu.
Và khi Phật Thầy dựng lên cái trại ruộng ở Hưng Thới, thì người ta đã thấy ông Tăng Chủ có mặt bên thầy đầu tiên. Kể từ đó, ông là người thay thầy truyền đạo, phát phù trị bịnh, chiêu nạp dân cư và cùng với hai ông là Đình Tây và Phạm Văn Lăng tổ chức việc "phá lâm, lập làng"
Năm 1859, sau ngày Phật Thầy mất ba năm, nhân có sự bất đồng ý kiến với ông Lăng, ông bèn trở lại làng Xuân Sơn lập một ngôi Tam Bảo (nay là đình Thới Sơn)rồi cùng với người con nuôi là Đình Tây về nơi đó hành đạo.
Tăng Chủ mất tại đình Thới Sơn vào ngày 27 tháng Mười năm Mùi, thọ được trên 80 tuổi. Hiện nay mộ ông (mộ không đắp nấm) nằm cách đình khoảng trăm mét. Trên bia có ghi mấy dòng chữ:
Đại Nam quốc, An Giang tỉnh, Tịnh Biên phủ, Qui Đức tổng, Thới Sơn thôn.
Nguyên Tăng chủ Bùi Thiền Sư, hưởng thượng thọ.
Mùi niên, thập nguyệt, nhị thập thất nhật chi chung.
 Giai thoại





Mộ Bùi Tăng Chủ.
Nhiều người dân nơi ở xã Thới Sơn cho biết, lúc bấy giờ quanh núi Két hãy còn rừng rậm nên thú dữ rất nhiều.
Tương truyền, theo hai nguồn tham khảo ghi bên dưới, thì một hôm ông Tăng Chủ đi thăm ruộng về, trong khi trời nhá nhem tối, ông trông thấy một con hổ lớn nằm bên vệ đường. Thấy ông, hổ đứng dậy há miệng rồi tỏ vẻ đau đớn lắm. Ông Tăng Chủ bèn hỏi: Chắc ngươi mắc xương phải không? Hổ gật đầu và đập đuôi. Liền khi ấy, ông Tăng Chủ co tay đấm mạnh vào cổ con thú, lập tức hổ khạc lên mấy tiếng rồi trong miệng văng ra một cục xương lớn. Hôm sau, ông Tăng Chủ thấy xác một con heo rừng nằm bên tự viện, do hổ đem đến để đền ơn cứu chữa. Hiện nay, bên đình Thới Sơn vẫn còn một cái miễu nhỏ thờ “ông hổ” ấy.

(http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C4%83ng_Ch%E1%BB%A)
ÔNG TĂNG CHỦ (Giữa thế kỷ thứ 19)A. Thân Thế
Ông họ Bùi, tên thật là chi không ai biết được cho đến tấm bia trước mộ ông cũng chỉ biên là Tăng Chủ Bùi Thiền Sư mà thôi.
Có lẽ vì ông là người có công nghiệp rất lớn lao trong việc thừa mạng của Đức Phật Thầy Tây An để lập ra làng Xuân Sơn và đạo đức quá cao siêu cho nên người đời quen lệ kiêng cử mà tên ông bị quên mất!
Thấy ông có đủ tư cách một người thay mặt cho mình để truyền đạo, cùng coi sóc quanh vùng Hưng Thới và Xuân Sơn, Đức Phật Thầy đặt cho ông cái đạo hiệu là Bùi Thiền Tăng Chủ. Nhân thế người ta gọi ông là ông Tăng Chủ.
Ông không vợ không con nên chi ông xin ông Đình Tây là con người em về làm con nuôi từ khi ông Đình vừa khôn lớn.
ông Tăng hình vóc cao lớn, miệng rộng, tai dài, bàn tay buông xuống chí đầu gối, tay chân mọc lông rất nhiều, tiếng nói sang sảng mà tâm tính bao giờ cũng ôn lương thuần hậu. Có người đã ví dung mao lẫn tâm hồn ông không khác một nhân vật đời thượng cổ.
B. Ở Trại Ruộng Hưng Thới
Trong khi Đức Phật Thầy mới vào mở trại ruộng ở Hưng Thới, ông Tăng là người có công rất lớn trong việc chiêu nạp dân cư và phát phù trị bịnh. Cùng với ông Đình Tây và ông Phạm Văn Lăng là những người coi sóc công việc ruộng rẫy hồi ấy, ông Tăng còn có cái biệt tài ở chỗ thu phục được các mãnh thú, làm cho dân chúng được an ổn làm ăn, khỏi bị nạn khuấy phá.
Ông thường lui tới Phước Điền Tự (2) để trông nom mấy thửa ruộng của Đức Phật Thầy giao cho tín đồ ở làm. Ông rất siêng năng công việc, mặc dầu đã có nhiều thân chủ tình nguyện làm công quả và kính trọng ông là một bậc sư huynh, Ông vẫn không lấy đó làm cao, phàm việc gì từ nặng nhọc cho đến nhẹ nhàng, đều có tay ông nhún vào tất cả. Do đó mà có sự phật lòng giữa Ông và ông Phạm Văn Lăng (tục gọi là ông Cả Lăng.)
Theo lời của ông Trần Văn Khánh (gọi là ông Chủ Khánh) hiện giờ đag làm cố vấn cho Đạo ở làng Thới Sơn kể lại thì một hôm, ông Lăng thấy ông Tăng  vác tre bèn kêu lên nửa đùa nửa thật mà bảo:
- Ông sức lực mạnh mẽ quá mà sao vác ít như thế? Thôi hãy vào đây nghỉ với tôi, để tôi cho sáp nỏ nó vác cũng xong!
Ông Tăng tuy ngoài miệng không nói năng chi chứ trong bụng có ý hơi buồn. Ông buồn dây vì lẽ thấy ông bạn ngồi không lại hayganh tị với những công tác đắc lực của mình, chứ không phải buồn vì tiếng nói. Cho nên từ ấy trở đi, ông xử sự rất dè dặt với ông Lăng.
C. Lập Đình Xuân Sơn
Năm 1859, nghĩa là sau ngày Đức Phật Thầy diệt độ ba năm, ông thấy dân chúng trong vùng Xuân Sơn đã được trù mật, lại nhân có sự bất đồng ý kiến với ông Lăng, ông bèn đến lập một ngôi Tam Bảo tại làng Xuân Sơn, rồi cùng với ông Bùi Văn Tây về ở (chùa này lúc đầu cất trước miểu sau chùa, rồi í lâu đổi hẵn là đình.)
Tuy về đây, ông Tăng vẫn tiếp tục phát phù trị bịnh, và thỉnh thoảng có tới lui nơi chùa Phước Điền và chùa Hưng Thơí để thăm lom công việc và nhắc nhở giáo lý của Đức Phật Thầy cho anh em trong đạo nghe.
Cũng tại đình này, một hôm ông Tăng đi thăm ruộng về, trời đã tối, khi đến gần cửa ông trông thấy một con hổ nằm lù lù bên vệ đường. Thấy ông, hổ đứng dậy hẳ miệng rồi cúi đầu tỏ vẻ đau đớn lắm. Ông Tăng hiểu ý bèn hỏi:
-Chắc ngươi mắc xương đó phải không? Sao không tới đây cho sớm đặng ta cứu cho mà để đến nổi ốm o quá đổi nhu thế này vậy!
Hổ cúi đầu và phụ xuống, tỏ ý là lời nói phải.
Ông Tăng bảo:
- Nếu thật mắc xương thì hãy ngay cổ ra, ta trị cho.
Hổ vâng theo lời dạy. Ông Tăng co tay đấm vào cổ con hổ một cái. Lập tức hổ khạc lên mấy tiếng rồi trong miệg văng ra một cục xương rất lớn.
Ông Tăng cười mà bảo:
- Thôi hết rồi, hãy đi đi, từ nay ăn uống nên cẩn thận hơn, đừng hồ đồ quá ta cứ không kịp thì nguy đa!
Hổ cúi đầu vâng lời rồi lui ra. Hôm sau, hổ bắt một con heo rừng đem đến dâng cho ông Tăng mà đền ơn cứu bịnh. (3)
Từ đó, đối với các mãnh thú trong vùng Thất Sơn, ông Tăng không phải là một người thường  mà là một vị Thần linh, hay một ông chúa tể. Ông Tăng có thể truyền một lời ra, hầu hết hùm beo đều phải cứi đầu theo lịnh.
Ông độ đời và nhắc đạo được một thời gian khá lâu thì tịch tại đình Xuân Sơn vào ngày 27 tháng 10 năm Mùi, thọ được trên 80 tuổi. Hiện nay mộ ông vẫn còn ở cách đình khoảng 100 thước, có dựng bia và chép:
Đại Nam quốc, An Giang tỉnh, Tịng biên phủ, Qui Đức tổng, Thới sơn thôn.
Nguyên Tăng chủ Bùi Thiền Sư, hưởng thượng thọ.
Mùi niên, thập ngoạt, nhị thập thất nhật chi chung.
GS Nguyễn Văn Hầu.
CHÚ THÍCH:
(1) Ở dưới chân núi Két xưa kia có hai làng Xuân Sơn và Hưng Thới, sau sáp nhập lại gọi là Thới Sơn.
(2) Nơi này là chỗ trại ruộng mà xưa Đức Phật Thầy để ông Sấm, ông Sét (hai con trâu), về sau  gài giao cho bà Hai Mun, nghĩa tử của Ngài đến ở.
(3) Theo lời của ông Năm Hạnh (rễ của ông Đình Tây) thì việx trị bịnh cho hổ lúc Đức Phật Thầy còn, song bằng vào lời ông Chủ Khánh và nhiều bậc phụ lão khác thì lúc đó Đức Phật Thầy đã tịch rồi và việc này xảy ra tại đình Xuân Sơn. Vậy xin chép theo thuyết của đa số.
http://www.nguyetsanlonghoa.net/bt1107NguyenVanHauTSMN.htm
Xin xem tiếp bài 7. dienbatn.
Xem chi tiết…

NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM . BÀI 5.

4/06/2011 |
NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM
 PHẬT THÀY TÂY AN.( Tiếp theo).
Giới thiệu
Một đạo hữu Bửu Sơn Kỳ Hương là ông Trần Hữu Thành, pháp danh Phước Đồng, xuất thân gia đình từ nơi phát xuất của đạo, đã tâm huyết sưu tầm, biên soạn một tài liệu qúy giá về Bửu Sơn Kỳ Hương mang tựa đề Theo Dấu Người Xưa, gồm 13 chương, trong đó đã lần theo lịch sử và những địa danh, những câu chuyện huyền thoại về bổn đạo.
Tài liệu này đã được lưu truyền trong các đạo hữu, nay ông Trần Hữu Thành phát tâm trao bản gốc cho NNC Nguyễn Tuấn Thanh, với nhã ý phổ biến trên trang TGVH, giúp cho đạo hữu gần xa có thêm tư liệu tìm hiểu về Bửu Sơn Kỳ Hương.
Chúng tôi chân thành cảm ơn tác giả Trần Hữu Thành, cảm ơn ông Nguyễn Tuấn Thanh đã gởi tặng tư liệu.
Bản quyền thuộc về tác giả Trần Hữu Thành, thông qua đại diện ông Nguyễn Tuấn Thanh.
GIỚI THIỆU SÁCH KIM CỔ KỲ QUAN
Tác giả cuốn sách Kim Cổ Kỳ Quan là ông Nguyễn Văn Thới (1866 - 1926), thường được người gọi một cách kính trọng là Ông Ba. Ông Ba sinh tại làng Mỹ Trà, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và mất tại ngã ba Lộ Lở ở xã Kiến An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông ra đời sau khi Phật Thầy Tây An viên tịch 10 năm. Ông trưởng thành trong thời kỳ Pháp bắt đầu đặt chân xâm chiếm nước ta và là một nhân sĩ có tinh thần chống Pháp triệt để, thể hiện giáo lý Tứ Ân, trong đó có ân đất nước.
Ông Ba đã thọ giáo với cậu Hai Nhu, con cả của Đức Quản Cơ Trần Văn Thành (đệ tử thứ nhất của Phật Thầy Tây An), người sáng lập hệ phái Tinh Minh Hiếu Nghĩa.
Ông Ba đã thọ giáo với cậu Hai Nhu học đạo Tinh Minh Hiếu Nghĩa được 7 năm, trong một cuộc bố ráp của Pháp vào chùa Bửu Hương Tự, hơn 60 người bị bắt. Sau đó đều bị đày đi Côn Đảo (1913). Cậu Hai Nhu trốn thoát về ẩn vùng U Minh thượng Rạch Giá. Riêng ông Ba, ông đã cắt cổ tự vẫn.
Pháp đưa ông về bệnh viện Châu Đốc chữa trị, khi tỉnh dậy ông đã xé bỏ băng vết thương, ném bỏ thuốc thang của Tây cấp để tỏ rõ tinh thần bất khuất. Ông lẩn trốn về ngã ba Lộ Lở, xã Kiến An và ẩn thân nơi đó đến ngày mất (08/04/ 1926).
Ông Ba có lẽ đã viết ra bộ sách Kim Cổ Kỳ Quan trong thời gian ẩn dật này (1900 - 1926). Có lẽ ông đã có hai ngụ ý khi soạn tập sách này:
1) Muốn góp phần với các nhà khoa học lịch sử tìm di tích của vua Quang Trung và Ngọc Hân Công Chúa; với rất nhiều nghi vấn chưa giải đáp, nhất là mộ phần của hai người.
2) Muốn giải thích rõ ràng cho các đạo hữu Bửu Sơn Kỳ Hương về thân thế của Phật Thầy mà bao nhiêu thế hệ qua đã hiểu lầm, mặc dù tất cả đều tôn kính ngài như một vị Phật.
NHỮNG CHỨNG CỨ TRONG SÁCH KIM CỔ KỲ QUAN .
Ông Ba Thới.
Bắt đầu trong sách Kim Cổ Kỳ Quan với 2 câu:Tôi nay lời nói sang đàng
Đầu xóm một chữ, cuối làng một câu

Đó là lời mở đầu của tác giả ông Ba Thới, muốn ám chỉ nghệ thuật ẩn giấu bí mật tài tình trong tập sách này, mà gần 20 năm nghiên cứu người viết mới khám phá ra.
Ví dụ trang 26 sách Kim Cổ Kỳ Quan viết:Gánh thơm bán rẻ người không dụng
Việc mắt âu lo tặng kinh tâm
Đắng cay để dạ thâm ché siển (thiền)
Cá cạn ao hồ biển rộng thinh
Trung tâm tích đức tinh minh chí
Hạ bút đề thơ tặng ý Nam…

Khi viết xong không tô màu đậm chữ làm sao hiểu nghĩa của nó, làm sao hiểu ông Ba muốn nói gì?
Câu trên có thể giải nghĩa:
- Ta kết hợp Thơm với Hồ, tức Hồ Thơm, là vua Quang Trung.
- Chữ Mắt tức Mục, là Nguyễn Quang Mục, là tên Phật Thầy Tây An.
- Tinh Minh ám chỉ hệ phái Tinh Minh Hiếu Nghĩa.
- Chữ Trung, ám chỉ Quang Trung.

Nội dung đoạn thơ ngầm ám chỉ chế độ Quang Trung (Hồ Thơm) đã suy tàn, Nguyễn Quang Mục (Phật Tầy Tây An) như cá ở ao cạn, phải tìm biển rộng ở miền Nam mà mở đạo Tinh Minh (ông Ba Thới thọ giáo).
Để xác nhận Hồ Thơm với gốc cội của Phật Thầy Tây An, tác giả sách Kim Cổ Kỳ Quan đã viết : Ai ai cũng muốn làm thầy
Ngặt tôi làm tớ ăn mày không cơm
Phải dùng gánh nước gánh thơm
Không ai hỏi tới để đơm cúng trời,
Của nhà chẳng sợ lỗ lời
Để đem cúng Phật, cúng Trời độ thân

Ông Ba Thới xác nhận rõ ràng thơm (Hồ Thơm) là của nhà Phật Thầy, cũng là Bửu Sơn Kỳ Hương (thơm), nhưng không ai biết đó là dòng dõi cao quý của Ngài. Ngài chỉ biết lo gánh Nước, gánh Thơm, cúng Phật, cúng Trời.
PHẬT THẦY TÂY AN LÀ CON CỦA NGỌC HÂN CÔNG CHÚA
Công Chúa Lê Ngọc Hân (1771-1799) là hoàng hậu của vua Quang Trung, bà sinh năm Tân Mão (1771), con gái của vua Lê Hiển Tông và bà Phù Ninh Từ Cung Nguyễn Thị Huyền, người làng Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân là Như Ý Trang Thuần Trinh Nhất Võ Hoàng Hậu, giữ ngôi Bắc Cung Hoàng Hậu.
Khi vua Gia Long lên ngôi, đã trả thù tru di cửu tộc đối với nhà Tây Sơn: hành hình vua Cảnh Thịnh, bà Bùi Thị Xuân, quan Thiếu phó Trần Quang Diệu ở Huế vào tháng 8 năm 1802. Nhưng không nhắc đến Bắc Cung Hoàng Hậu và hai người con của bà là Nguyễn Quang Mục và Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Và mãi đến ngày nay lịch sử hình như không nhắc đến chi tiết này. Sử sách chỉ ghi rằng, bà mất tại làng Phù Ninh, và đến ngày 28 tháng 6 năm Quý Mão 1843, vua Thiệu Trị cho đào mộ Ngọc Hân Công Chúa đổ xuống sông.
Trong Đại Nam Liệt Truyện Sơ Tập, có chép việc quật phá mộ phần của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, nghiền bỏ hài cốt, giam sọ vào ngục thất, triệt ấp Tây Sơn, đổi tên là An Tây. Phải chăng chính từ An Tây mà có tên Tây An sau này?
Chúng ta biết rằng Phật Thầy Tây An mồ côi cha, sống với mẹ ở làng Tòng Sơn, Cái Tàu thượng, tổng An Thạnh thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp), đó là sự thật và Ngài ra mở đạo lần đầu tiên ở vùng này. Nếu ta đã chứng minh ngài là con của vua Quang Trung, vậy mẹ Ngài là ai trong hai vị hoàng hậu họ Phạm và họ Lê, hay của một vị thứ phi nào khác?
Rõ ràng, mẹ của Phật Thầy đã thay tên đổi họ cho con để giữ lại dòng dõi của chồng, dạy dỗ con nên người. Đọc sách Kim Cổ Kỳ Quan chúng ta sẽ thấy rõ được sự gian nan, đau khổ của bà và khám phá được sự thật là ai?
Trong sách Kim Cổ Kỳ Quan có mấy câu :Mấy lời mẹ lại dạy con
Trái nào nở mắt mật son vào lòng
(Trái thơm, hay trái dứa có nhiều mắt)

Hoặc :Mấy lời mẹ dạy đừng quên
Dù mà sống thác hư nên tại lòng

Những phần sau sẽ tiếp tục đi tìm mẹ Đức Phật Thầy là ai?
VUA QUANG TRUNG VÀ NGỌC HÂN CÔNG CHÚA
TIỂU SỬ CỦA VUA QUANG TRUNG.
Vua Quang Trung tên thật là Hồ Thơm, sinh năm Quý Dậu 1753 tại Tây Sơn, phủ Quy Ninh, xứ Bình Định. Dòng dõi ông vốn họ Hồ ở phủ Hưng Nguyên, xứ Nghệ An, Ông là con của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng. Gia đình đi khai hoang ở ấp Tây Sơn, xứ Bình Định. Vua Quang Trung có tất cả 7 anh em, gồm 4 gái 3 trai. Ông là con út, anh kế là Hồ Lữ, và anh cả là Hồ Nhạc. Thuở trẻ ba anh em theo học nghề văn, nghiệp võ với ông giáo Hiến.
Những năm 1770 trở đi, ông cùng hai anh bắt đầu phất cờ khởi nghĩa từ ấp Tây Sơn, Bình Định, dưới sự cố vấn của thầy giáo Hiến. Theo lời khuyên của thầy, các anh em đổi họ Hồ ra họ Nguyễn thành Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ đánh thắng đội quân chúa Nguyễn ở Bình Thuận và thừa thắng kéo quân vào Gia Định. Nguyễn Nhạc xưng ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Thái Đức, phong cho Nguyễn Lữ làm “Tiết Chế Đông Định Vương”, phong Nguyễn Huệ làm “Tiết Chế Bắc Bình Vương”.
Năm 1783, Nguyễn Huệ vào Nam đánh chúa Nguyễn Ánh, phải bỏ Gia Định chạy ra Phú Quốc. Nguyễn Huệ lại đem quân vây đánh Phú Quốc, Nguyễn Ánh phải chạy ra Côn Đảo, có lúc phải trốn đến trú ẩn núi Cấm, An Giang, rồi chạy sang Xiêm cầu viện. Nhưng Nguyễn Huệ đem quân đánh một trận lớn tại Rạch Gầm gần Mỹ Tho, tiêu diệt hàng chục ngàn quân Xiêm.
Năm 1786, Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc tiêu diệt chúa Trịnh với danh nghĩa Phò Lê Diệt Trịnh. Vua Lê Hiển Tông bấy giờ đã phong Nguyễn Huệ chức Nguyên Súy Uy Quốc Công và gả Ngọc Hân Công Chúa.
Năm 1788, vua Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, đưa 30 vạn quân Thanh vào xâm chiếm nước ta, do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy. Nguyễn Huệ tế trời đất tại núi Bàn (Ba Tầng) ở Phú Xuân và lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi kéo 10 vạn quân ra Bắc. Với chiến thuật thần tốc, vua Quang Trung đã tiêu diệt toàn bộ 30 vạn quân Thanh và kéo quân vào Thăng Long mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Vua Càn Long nhà Thanh chánh thức phong cho vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương.
Năm 1792, vua Quang Trung ngọa bệnh bất ngờ, chỉ một thời gian ngắn rồi băng hà, nhằm ngày 16/09/1792 bỏ dở giấc mộng lớn của mình. Ông mất tại điện Dương Xuân và được bí mật quàn ở đó. Điện Dương Xuân biến thành lăng Đan Dương và ông được truy phong miếu hiệu Thái Võ Hoàng Đế.
Vua Quang Trung là một thiên tài về quân sự, thông minh lỗi lạc, mưu lược, biết người biết ta, là vị tướng cầm quân bách chiến bách thắng, dũng mãnh, quyết đoán. Suốt 21 năm chinh Nam, dẹp Bắc, ông chưa từng bị một vết thương trên người. Vua Quang Trung đã để lại một ấn tượng kinh hoàng và khâm phục đối với địch thủ của ông. Các sử gia triều Nguyễn cũng đã viết: “Nguyễn Huệ là em của Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo kiệt, thiện chiến ai cũng phải sợ”. Cho đến một cung nhân nhà Lê cũng nhận định: “Nguyễn Huệ là một anh hùng hảo thủ, hung tợn và giỏi cầm quân. Cách ông ta cầm quân vào Nam ra Bắc thật là xuất quỷ, nhập thần không ai có thể dò biết được. Ông ta bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết một con lợn. Không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh của ông ta, ai cũng mất hồn vía, sợ hơn sấm sét” (Hoàng Lê Nhất Thống Chí).

GIA TỘC VUA QUANG TRUNG
Vua Quang Trung có hai ngôi hoàng hậu:
- Bà Phạm Thị.
- Bà Ngọc Hân Công Chúa.
Ngoài ra ông còn có một số hoàng phi khác.
Vua Quang Trung có tất cả 17 người con, gồm 11 trai, 6 gái:

1. Phạm Hoàng hậu: có 3 trai, 2 gái.
Nguyễn Quang Toản (sau nối ngôi tức Cảnh Thịnh)
Nguyễn Quang Thiệu
Nguyễn Quang Bảng

2. Ngọc Hân Công Chúa: có 1 trai, 1 gái.
Nguyễn Thị Ngọc Bảo
Nguyễn Quang Đức

3. Ngoài ra còn một số người con với các thứ phi:
Nguyễn Quang Thùy
Nguyễn Quang Cương
Nguyễn Quang Tự
Nguyễn Quang Diệu
Nguyễn Quang Duy

Ngày 16/09/1792 vua Quang Trung bất ngờ ngã bệnh và mất. Quang Toản lên ngôi niên hiệu Cảnh Thịnh, vì còn nhỏ nên mọi việc triều chính đều do Thái Sư Quốc Cựu Bùi Đắc Tuyên cầm nắm. Do Thái Sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền thống đoạt, khiến cho triều đình Tây Sơn chia rẽ, quan tướng giết nhau đi đến suy sụp. Vụ tranh chấp trong nội bộ nhà Tây Sơn cũng là nguyên nhân làm cho triều đại suy vong. Nguyễn Ánh nhân cơ hội này khởi binh tấn công, chiếm kinh thành, phục thù mối hận, thế là máu nhuộm hoàng thành.
MÁU THẮM NHUỘM KINH KỲ
Năm 1801 chiếm xong thành Phú Xuân, tất cả những người con của Quang Trung đều bị hành quyết dã man, riêng chỉ có Tiết Chế Khang Quốc Công Nguyễn Quang Thùy đã tự ải (thắt cổ) chết trước khi bị bắt, không để kẻ thù hành hình nhục nhã.
Tất cả họ hàng thân tộc của Quang Trung và các quan thần như bà Bùi Thị Xuân, quan Thiếu phó Trần Quang Diệu và tất cả những ai có liên quan đến Quang Trung đều bị sát hại một cách vô cùng dã man, bằng những hình thức hết sức khủng khiếp như cho voi dày, ngựa xé, tùng xẻo để chết không được toàn thây.
Lăng mộ tổ tiên của anh em nhà Tây Sơn trở thành tuyệt mộ. Hài cốt vua Quang Trung ở lăng Đan Dương, của Nguyễn Nhạc, của Phạm Hoàng Hậu… đều bị quật lên, nghiền nát và trộn với thuốc súng mà bắn. Xương sọ thì bỏ vào 3 cái vò mà giam vào ngục thất và cho quân sĩ đái vào. Ba cái vò đó mãi đến năm 1885 mới bị đánh cắp nhân vụ khởi nghĩa bất thành của vua Hàm Nghi ở Huế.
Sách Kim Cổ Kỳ Quan ghi lại cảnh đau buồn này:Máu hoàng cung nhuộm hồng thây cửu tộc
Xương hoàng triều trắng xóa cả bể Đông
Oan oan tương báo chất chồng
Nay ta, mai chúng biết đời nào xong
Khói lửa ngất trời ngùn ngụt cháy
Thù sâu vạn kiếp máu loang hồng
Cứ ngỡ trời Nam muôn thuở hận
Hồi chuông tỉnh mộng thất hương nồng
(thất: Thất Sơn - hương: Bửu Sơn Kỳ Hương)

Các cung điện, dinh phủ cũng bị san bằng, đến bây giờ người ta không biết phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, phủ Tập Tường, Phủ Cam nằm ở đâu? Gần đây qua công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Đắc Xuân và sự phát hiện của ông Nguyễn Hữu Oánh, chúng ta mới biết được lăng Đan Dương của vua Quang Trung nằm ở gò Bình An, cố đô Huế. Điện Trường Lạc ở cánh đồng Bầu Vá.
Riêng Công chúa Ngọc Hân, theo tư liệu Ngọc Hân Công Chúa Dật Sự (chưa rõ tác giả) đăng trên tạp chí Nam Phong số 103 có chép rằng :
“Dòng dõi Tây Sơn không còn sót một ai, Ngọc Hân Công Chúa là con của vua Lê được khỏi nạn. Năm ấy đã 32 tuổi mà nhan sắc vẫn còn đẹp chưa hề suy giảm. Vua Gia Long để yên bà ở Dịch Đình ở cạnh cung điện, cho người hầu hạ. Bầy tôi có người can gián vua, cho rằng “Công Chúa là của thừa của Tây Sơn”, vua bảo “ Đất đai nhân dân ngày nay, không một thứ gì là không phải của thừa Tây Sơn sao, có gì phải ngại?“.

Ca dao có câu rằng:Gái đâu có gái lạ lùng
Con vua mà lấy hai chồng làm vua

Sau vua Gia Long cho công chúa về quê mẹ, thuộc tỉnh Bắc Ninh, cho đến ngày bà mất. Theo quyển Đỉnh Tập Quốc Sử di biên, bà Ngọc Hân mất năm 1804 tại quê mẹ. Tuy nhiên căn cứ vào 5 bài tế của Phan Huy Ích, tế Bắc Cung Hoàng Hậu (Ngọc Hân Công Chúa), một số nhà sử học lại xác định bà mất năm Kỷ Mùi 1799.
Chúng ta nên nhớ rằng sử sách của nhà Tây Sơn đều bị hủy diệt, nên những ghi chép lịch sử được biết ngày nay đều theo chính sử của nhà Nguyễn… Nếu ông Nguyễn Văn Thới không để lại quyển Kim Cổ Kỳ Quan thì dẫu có đến mấy ngàn năm nữa cũng sẽ chẳng ai biết có một bí mật sau đây. Trang 284 Kim Cổ Kỳ Quan có đoạn:Thương trung quân thương lén thương thầm
Vàng rơi khoa kiếm ngọc trầm khó mua.
Khuyên bà già bớt tranh đua
Ngọc vàng dấu cất, bán mua lâm thời.
Trần Tử Minh đèn sách tiếng đời
Trá hôn Ngọc Thị đỡ thời quốc gia
Xưa người ta, nay cũng người ta
Có đâu họa thể dối ma khuấy đời
Tượng tranh Nga có Phật trời
Tượng tranh Trần Thị thương đời thảo ngay.
Chẳng suy xưa, sao chẳng xét nay
Nhứt nhơn cư hiểm vạn Tây nan tìm

Các nghiên cứu giải như sau:
- Trần Tử Minh, thay chữ Tử thành chữ Thị ta có tên là Trần Thị Minh hoặc Trần Thị Ngọc Minh.
- Vàng rơi khó kiếm ngọc trầm khó mua: là ám chỉ bà Ngọc Hân giấu mặt.
- Nga tức Kiều Nguyệt Nga trong chuyện Lục Vân Tiên, ôm tượng Vân Tiên gieo mình xuống sông tự tử, giữ trọn trinh tiết để cho nàng hầu thay thế nàng đi cống vua Phiên.

Nội dung của đoạn thơ trên đã ẩn ý rằng: Ngọc Hân Công Chúa vì thủ tiết với chồng (Quang Trung) đã nhờ một người cung nữ vừa là em nuôi, rất giống mình, tên là Trần Thị Minh hay Trần Thị Ngọc Minh thay bà để trá hôn, chiều lòng vua Gia Long.
Do vậy mà có thơ đề Khóc Ngọc Hân như sau:Gia Long ! Ơi hỡi ! Gia Long
Tham chi “tí đó” để hòng phá trinh
Chữ trinh ! Ơi hỡi ! Chữ trinh
Thờ chồng vạn dặm nhục hình nào than !
Ngọc Hân ! Ơi hỡi ! Ngọc Hân
Một thân làm vợ, hai thân mẹ hiền
Cánh chim ! Ơi hỡi ! Cánh chim
Nhất nhơn cư hiểm vạn Tây khó tìm

Vừa trốn khỏi sự trả thù của vua Gia Long vừa tìm cách cứu hai con, hiện đang bị giam giữ, hoàn cảnh của Ngọc Hân không cho phép bà tự tử như Kiều Nguyệt Nga để bảo toàn trinh tiết được vì hai con bà. Lúc đó bà đã ẩn mặt, hủy hoại nhan sắc để trở thành người bình thường. Sau đó bà đã được đưa trốn về quê mẹ là làng Phù Ninh, giả chết, lập mộ giả ở đó, rồi bí mật cùng hai con trốn vào Nam. Sự kiện ra Bắc vào Nam đó đã thể hiện qua câu trang 95 sách Kim Cổ Kỳ Quan:
Cao bay xa chạy đầu vào trôn ra

Câu chuyện về thân thế Phật Thầy Tây An và Ngọc Hân Công Chúa rất nhiều huyền thoại, và chúng ta không quên nhắc đến sự sắp đặt mọi chuyện là do công của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp (1723-1804), kể cả việc lập mộ giả trước khi vua Quang Trung mất… Đến ngày nay quả thật ông xứng đáng là “thánh nhân” thứ hai sau Trạng Trình. Chúng ta thấy công trình sắp đặt quy mô, của lòng Người và ý Trời, cần phải tiếp tục nghiên cứu chưa thể nói hết được…

CÂU CHUYỆN LY MIÊU HOÁN CHÚA
Sách sử đã ghi rằng: năm Nhâm Tý 1792, vua Quang Trung mất, Ngọc Hân Công Chúa về chùa Kim Tiên ở gò Dương Xuân để tu, sớm hôm phụng viếng lăng mộ chồng ở điện Đan Dương, chính nơi đây bà đã viết bài Ai Tư Vãn khá nổi tiếng. Bà mất năm Kỷ Mùi 1799.
Nhưng nay các nhà nghiên cứu giải mã sách Kim Cổ Kỳ Quan lại thấy rằng sự thật không phải như thế, chúng ta sẽ ngạc nhiên với sự thật câu chuyện Ly Miêu Hoán Chúa.
Thơ rằng :Đào chồng (1) đoạt vợ (2) thiêu con trẻ (3)
Tuyệt giống Quang Trung dạ mới nghe
Quỷ kế dâm tàn con thú dữ
Tôi trung đốt ngục tế con mình

(1) Đào chồng: năm 1801 vua Gia Long cho đào mộ vua Quang Trung, lấy xương nghiền bột, trộn với thuốc súng bắn ra biển, ba anh em đều như vậy, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Còn sọ 3 anh em giam vào ngục và cho quân sĩ tiểu vào.
(2) Đoạt vợ: vua Gia Long muốn giữ lại Ngọc Hân Công Chúa ở cung Dịch Đình, mặc dù bị tôi thần ngăn cản. Cuối cùng Ngọc Hân phải theo kế của La Sơn Phu Tử, nhờ em nuôi của mình là Trần Thị Ngọc Minh (rất giống Ngọc Hân) bí mật tráo hôn.
(3) Thiêu con trẻ: vua Gia Long hạ lệnh cho Ngô Văn Sở đốt ngục, giết con của vua Quang Trung với Ngọc Hân Công Chúa cùng với các trung thần nhà Tây Sơn. Gần đây các nhà sử học tìm được những lá thơ của một giáo sĩ kể lại cuộc thăm các tù nhân Tây Sơn, trong đó có các con của vua Quang Trung và Ngọc Hân Công Chúa. Một trai khoảng 12 tuổi và 1 gái khoảng 10 tuổi.

Trong Kim Cổ Kỳ Quan đã trả lời chúng ta :Do thiên đại phú an cư
Do cần tiểu phú gia tư cơ bài
Thủy minh thổ phú trợ trần
Quân sư văn võ kim toàn

Ngô Văn Sở được vua Quang Trung phong chức Đại Tư Mã, sau đó còn được phong Thủy Sư Đô Đốc. Ông là người đã từng kết nghĩa với Nguyễn Huệ lúc hàn vi ! Năm 1792, ông được tiến chức Đại Đổng Lý, tước Quận Công, nhưng sau đó do tranh giành quyền lực nên Thái sư Bùi Đắc Tuyên triệu ông về Phú Xuân tìm cách giết và cho lệnh dìm ông dưới sông.
Trong Đại Nam Chính Biên liệt truyện, sử triều Nguyễn còn ghi Ngô Văn Sở đã trốn thoát khỏi cuộc tương tàn tranh quyền hành của triều Cảnh Thịnh suýt bị dìm xuống sông chết và vào đầu quân cho vua Gia Long, lập nhiều công to, âu cũng là số trời. Nhờ vậy mà vua Gia Long mới tin dùng giao cho việc đốt ngục, nhờ đó nên giây phút cuối cùng mới có duyên cứu được các con Ngọc Hân. Ngô Văn Sở đã hy sinh con của mình để thế mạng hai con của Quang Trung và Ngọc Hân công chúa, cho trọn tình huynh đệ cũng là trọn đạo Quân Thần.
Từ câu chuyện trên, “Kim Cổ Kỳ Quan” đã hé cho chúng ta thấy thêm “Nghĩa Quân Thần, Nghĩa Vua Tôi” là Đạo lớn nhất trong thời phong kiến. Có những trung thần có thể hy sinh mạng sống của bản thân hoặc của vợ con mình, đã dùng kế “ly miêu hoán chúa” thay con mình vào đó để cứu con của vua.
Phóng hỏa thiêu sống con mình
Quân thần đại nghĩa mặc tình ra sao

NGỌC HÂN VÀ CÁC CON VỀ ĐÂU
Năm 1801, nhà Tây Sơn bị vua Gia Long tru di cửu tộc, tuy nhiên cho mãi đến ngày nay rất nhiều nhà sử học, các nhà báo, các lời truyền khẩu ở Phù Ninh, vẫn không biết Bắc Cung Hoàng Hậu (Ngọc Hân) và hai con ra sao.
Cho đến năm 1996, mới tìm thấy lời giải trong cuốn sách Kim Cổ Kỳ Quan:Đờn kêu lập đạo mười lăm
Đờn kêu lời thánh minh tâm dặn dò
Đờn kêu tự đinh tưởng đưa đò
Đờn qua Tây quốc vọng hò Nam bang
Đờn kêu từ giữ cội một mình
Đờn kêu trách bấy lộng tình cho ai
Đờn kêu thương ách nước không vua
Đờn kêu cay đắng chát chua cho đời
Tiền thủy liễu, hậu cây bần

+ Đạo mười lăm được hiểu là đạo Phật vì thường lấy ngày rằm là ngày cúng Phật, ý ở đây nói nên mở một mối đạo Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương.
+ Đinh Tưởng: tướng họ Đinh, rất có thể là Đinh Tích Nhưỡng, một trung thần của vua Lê Hiển Tông, cha của Ngọc Hân Công Chúa, từng chống Tây Sơn, sau về với Tây Sơn. Vậy người bảo vệ cho mẹ con bà Ngọc Hân trốn thoát có thể là viên quan họ Đinh này.
+ trách bấy lộng tình cho ai: ám chỉ vua Gia Long muốn giữ bà Ngọc Hân.
+ ách nước không vua: ý chỉ vua Quang Trung băng hà.
+ Tiền thủy liễu, hậu cây bần: ý nói hoàng hậu cải dạng thường dân bần khổ.
Nhưng làm sao bà đã thoát khỏi vòng lưới bao vây của kẻ thù? Thật sự, bà đã giả chết ở quê mẹ, rồi bí mật thay hình đổi dạng đưa con vào miền Nam. Sự giả chết đó được biểu hiện qua câu thơ sau:
Thác còn, sống mất đường đi sỏi sành

Giả thác mới có thể tồn tại, sống như mọi người trước sau cũng sẽ bị triều đình Gia Long tìm cách sát hại.
Sách Kim Cổ Kỳ Quan viết : Phật ra xem thế tiền giang
Sông mê bể khổ chẳng an lòng nào
Ngược xuôi khôn quỷ hỗn hào
Cao bay xa chạy đầu vào trôn ra

+ vào: tức là vào phía Nam.
+ ra: tức là ra phía Bắc.

Nhắc lại, khi mẹ con Ngọc Hân được cứu thoát về quê mẹ ở làng Phù Ninh, giả chết lập mộ giả rồi cùng các con trốn vào miền Nam, theo kế của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.
NGỌC HÂN LÊN NÚI ẨN TU
Chúng ta lần theo Kim Cổ Kỳ Quan để theo dõi bước chân của bà, tác giả viết trang 114 sách Kim Cổ Kỳ Quan:Nam kỳ từ giã Bắc kỳ
Trai ngay thờ chúa, gái trinh thờ chồng
Thế suy cầu Phật hội đồng
Trung can nghĩa khí, giữ lòng tự nhiên

Đoạn này chứng tỏ mẹ Phật Thầy quyết thờ chồng trọn đạo. Vì thời cuộc gia tộc suy vi, nên giã từ miền Bắc để vào Nam lánh nạn. Nỗi niềm thương nhớ chồng và quê hương, cùng sự gian nan của bà được biểu lộ qua đoạn thơ sau trang 107:Linh đinh sóng gió dập dồn
Thương non nhớ biển đứng ngồi không an
Phật mang tám nạn dương gian
Người ba tai nạn chẳng than trong lòng

Chữ non, nghĩa là núi, ý chỉ Tây Sơn.
Hoặc trang 111:Linh đình thuyền bá giữa vời
Buồm đà gặp gió xuôi thời phải xuôi
Nước mắt còn dựa mắt đui
Buồm đà gặp gió thả xuôi một bề
Thân tôi như thể thằng hề
Gió day mấy hướng, mấy bề cũng theo
Nực cười tấm đá cheo leo
Con khỉ người nói, con heo khó bàn
Dốc lòng chí tử quy tây
Trời chiều ác lặn, vận may đỏ đèn
Liều thân chi chữ khó hèn
Vượt nguồn nước đục, lóng phèn cho trong

+ mắt: mục, ám chỉ tên Nguyễn Quang Mục của Phật Thầy.
+ quy tây: về miền Tây.

Hai đoạn trên chứng tỏ mẹ của Phật Thầy đã gian nan, vất vả, thay hình đổi dạng nghèo khổ để đi thuyền vào miền Nam cùng với con lánh nạn, trải qua bao phen sóng dập gió dồi. Điều đó càng chứng minh đoạn kinh sau :Ơn cao nghĩa rộng tròn niềm
Có lòng Trời Phật lại tìm chúng sanh
Bất tường ẩn tích mai danh
Dù ai đặng chữ công danh thời nhờ
Nam mô thiếu trí dại khờ
Gió Nam, sóng Bắc dật dờ hồn ma.

Hiển nhiên do hoàn cảnh bất tường nên bà phải đưa con thơ dại từ miền Bắc vào Nam để ẩn tích mai danh, lẩn tránh trong bóng tối như một hồn ma bóng quế, sợ kẻ thù phát hiện. Vào được miền Nam rồi, bà lại đưa con thơ lên vùng núi non, hoang vắng để tu học, lánh xa người đời, vì lúc nào cũng có lưới giăng của kẻ thù. Tác giả Kim Cổ Kỳ Quan viết :Non cao thú dữ muôn ngàn
Nghiêng vai gánh đạo, tầm đàng Tây phương
Sợ đàng lưới nhện vấn vương
Dốc lòng giữ đạo tầm phương non bồng
Sơn khê đá dựng chập chồng
Còn lo một nỗi khéo lòng khó đi
Chim kêu vượn hú tử quy
Thác còn sống mất, đường đi sỏi sành

Sự kiện mẹ con Phật Thầy đã lên vùng Thất Sơn ẩn tu thể hiện trang 111 Kim Cổ Kỳ Quan:Ngó lên cấm điện Thất Sơn
Ngùi ngùi nhớ Phật, từng cơn hiểm nghèo
Gian nan xuống dốc lên đèo
Người khôn mắc chốn hiểm nghèo hết khôn
Quyết lòng ra ngoại Càn Khôn
Người hiền bao nỡ Phật chôn trí tài

Qua hai đoạn trên, cho thấy mẹ Phật Thầy Tây An đã vất vả, gánh ông đạo con về vùng Thất Sơn, điện ông Cấm (Thiên Cẩm Sơn), để lánh nạn và tu trên đó. Từ đầu đến đây tác giả quyển Kim Cổ Kỳ Quan đã cho phép chúng ta vén bức màn bí mật trang 157 Kim Cổ Kỳ Quan:Nghiêng vai gánh Đạo dương trường
Quạnh hiu uốn khúc nẻo đường gay go
Éo le nhiều chỗ khó lo
Thủ trung thất hiếu biết lo sao toàn
Hiếu trung gánh nặng hai đàng
Lỡ bề báo hiếu lỡ tràng lập thân
Cơ hàn thất hiếu lỗi ân
Nguyện cùng tiên tổ lập thân minh tường
Tử tôn kế hậu gia thường
Nhơn từ đức hạnh lập tường quốc gia
Hữu Phật diệt tất hữu ma
Hữu tà hữu chánh thiết tha tài tình
Phật tâm, tâm Phật cho minh
Lòng ma dạ quỷ đọa hình Diêm La
Tưởng ơn trời Phật mẹ cha
Làm con hiếu đạo quốc gia yêu dùng
Thương người trung nghĩa khôn cùng
Thuyền quyên sánh với anh hùng kém chi
Đào Lư công chúa phương phi
Hồng Mao công chúa kém đi sắc tài
Nhật Bổn công chúa hớn hào
Xiêm Vương công chúa sắc tài phương phi
Bắc Kinh công chúa hậu ly
Đuổi về trấn quốc, tiền khi bất hòa
Ngũ long giao chiến nước nhà
Nhất nương bất hiệp, giao hòa tứ nương
Vạn niên khắc cốt ghi xương
Vạn niên tích đức vi lương tùng quyền
Khán tường trở hậu lập tiền
Trở tiền lập hậu, nhơn tiền an khương
Nước nhà như ngựa buông cương
Xem trong lê thứ càng thương nước nhà

Trong đoạn thơ có rất nhiều lần nhắc đến các từ chốn cung vàng điện ngọc như: công chúa, thuyền quyên, tùng quyền, trung nghĩa, nhà Lê: ám chỉ công chúa nhà Lê.
+ trung hoặc anh hùng: ám chỉ vua Quang Trung.
+ gánh đạo: ám chỉ mẹ Phật Thầy đưa con lên núi.

Nội dung của đoạn thơ trên ngầm ám chỉ Công Chúa Lê Ngọc Hân vì chữ hiếu, nghe lời cha mẹ, kết duyên cùng với Nguyễn Huệ, thành một đôi “anh hùng sánh với thuyền quyên”, trai tài, gái sắc. Với câu “Bắc Kinh công chúa hậu ly” ý nói công chúa ở miền Bắc rời bỏ cung điện.
Như vậy đến đây có lẽ tạm đủ để chúng ta có thể thấy rằng cuốn sách Kim Cổ Kỳ Quan của tác giả Nguyễn Văn Thới, tức ông Ba Thới, một đạo sĩ trung thành của Bửu Sơn Kỳ Hương, đã tài tình ẩn dấu nhiều câu chuyện lịch sử quan trọng về phàm thân của Đức Phật Thầy Tây An, chính là con của vua Quang Trung và hoàng hậu Ngọc Hân.
Công chúa Ngọc Hân là một người trung trinh tiết liệt, trọn đạo thờ chồng. Dòng lịch sử thăng trầm đã không cho Bà được trọn đời bên cạnh vua Quang Trung, nhiều thế hệ qua chúng ta rất đồng cảm với Bà qua bài thơ Ai Tư Vãn (tế vua Quang Trung). Nhưng ngày nay chúng ta được biết thêm về Bà, đã có công đức vô lượng với Đạo, là người mẹ giáng sinh của Đức Phật Thầy Tây An, người đã khai sáng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Chúng ta sẽ tiếp tục đi tìm mộ phần của hoàng hậu Ngọc Hân ở phần sau.
PHẦN MỘ CỦA NGỌC HÂN CÔNG CHÚA
Trong phần trước, tác giả Trần Hữu Thành đã đưa ra các lời giải mã về việc Ngọc Hân Công Chúa vào trú ẩn ở vùng cù lao sông Cửu Long và mất nơi đây. Bà đã dắt con vào mai danh ẩn tích, làm ruộng rẫy ở vùng cù lao giữa sông Tiền và sông Hậu. Bà đã từng lên điện Ông Cấm núi Thiên Cẩm Sơn lánh nạn và tu hành rất lâu. Ta hãy nghe tâm sự của bà qua đoạn thơ sau trong Kim Cổ Kỳ Quan:Dụng chi bạc lớn với chì
Vàng trao dạ ngọc, tu trì mới yên
Cửa thiền khó mở hai bên
Việc nào lập ý mới bền mới chân
Việc nào lập ý mới nhuần
Lòng không cần mẫn chẳng thuần phải hư

+ Thuần và Ý là hai từ trong tước hiệu Như Ý Trang Thuần Trinh Nhất Võ Hoàng Hậu của Ngọc Hân Công Chúa.
Nói ra trong dạ sụt sùi
Thân này chi khỏi trái mùi trên cây
May mà trôi nổi đến đây
Việc xưa chi khác việc nay chút nào
Quán trung ít kẻ ra vào
Tai nghe phường phố như tàu hưng binh.
(trang 172 Kim Cổ Kỳ Quan)

+ tàu hưng: chợ Cái Tàu, xã An Hưng
+ Quán trung: vua Quang Trung.

Bà Ngọc Hân đã âm thầm đau khổ nuôi con nên người, về sau người con của bà là Phật Thầy Tây An đã trở thành một vị Phật Bửu Sơn Kỳ Hương, có ảnh hưởng rộng khắp miền Nam. Cuối cuộc đời bà đã yên nghỉ tại rạch Cái Nai, qua bắc An Hòa, đi về chợ Cái Tàu Thượng thuộc xã Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, bà đã di chúc nơi này là đất chôn bà.
E là quan cựu dân tân
Dân tân quan cựu, không phân chánh tà
Vô phần sanh sự bất hòa
Lao ngao chen cửa an tòa lại tây
Dại chi chẳng biết dại ngay
Vô tòa quan chúng hành thây vui mừng
Đặng kiện về nói tưng bừng
Đêm nằm chiêm nghiệm nhớ chừng mưu gian
Trong lòng trăn trở chẳng an
Âm mưu nhiều việc tính toan hoành hành.

+ hòa, an: bến phà An Hòa, ở Long Xuyên, tỉnh An Giang.
+ thây: ám chỉ hài cốt của bà Ngọc Hân.

Vào một ngày đẹp trời cuối năm 2005, một nhóm nghiên cứu gồm ông Trần Hữu Thành, GS Hồ Yêm, nhà nghiên cứu Kim Sơn lên đường đi tìm lại dấu vết người xưa.
Hiện nay toàn khu lăng mộ Bà, được cư dân địa phương gọi là chùa, là một quần thể hoàn chỉnh với hàng rào và hai cổng bên ngoài. Một cổng ghi chữ Việt “Mộ Bà” và cổng kia ghi chữ Hán “Mộ Bà Cổ Tự”. Vào trong sân lát gạch tàu là Mộ Bà không đắp nấm với tấm bia sơn đỏ không đề tên, có lẽ xưa là để nghi trang tránh tai mắt nhà Nguyễn rồi sau đó trở thành tập tục cho đến ngày nay.
Theo lời kể, ngày xưa mộ Bà ở Cái Nai không đắp nấm, tương tự như mộ Phật Thầy Tây An ở núi Sam, bốn góc chỉ trồng bốn cây bông trang trắng để làm dấu. Về sau, khi hoàn cảnh thuận lợi, mộ mới được làm bia và xây rào ngăn. Hằng năm, đến ngày giỗ 29/10 âm lịch đều có một nhóm khoảng bốn, năm người âm thầm đến viếng rồi lặng lẽ ra đi. Những người này là ai không rõ, và rất có thể là những quần thần xưa cùa con cháu nhà Tây Sơn. Chi tiết mộ Bà và mô Phật Thầy Tây An đều không đắp nấm mộ, khỏa bằng giống nhau, nếu không phải mẹ con làm sao chỉ có hai mộ khỏa bằng ở miền Tây này? Cách san bằng mộ rất đặc biệt này cũng cho chúng ta suy đoán là cách cẩn thận để nghi trang, hòng tránh sự trả thù của nhà Nguyễn.
TẤM BÀI VỊ HOÀNG LÊ
Vào trong chánh điện là bàn thờ có ghi chữ Phật Mẫu, Phật Thầy nhưng trong các khung kính vẫn không có hình ảnh mà chỉ là tấm vải điều. Không để hình ảnh là cùng lý do nghi trang như trên, nhưng tại sao lại là tấm vải điều ? Phải chăng đây là ngụ ý nhà Tây Sơn xuất thân từ “áo vải, cờ đào” của Ngọc Hân?
Nhưng điều thú vị muốn nhắc đến ở đây lại nằm ở phần sau chánh điện, nơi thông thường các chùa vẫn thờ tổ và chư tiên linh. Chính giữa phần thờ tổ ở đây là bàn thờ cũng có bài vị nền đỏ nhưng có ghi dòng chữ cho biết để thờ các vị trụ trì đã quá vãng. Nhưng ở bàn thờ kế bên, chúng tôi đã tìm được tấm bài vị "Hoàng Lê đường". Tấm bài vị bằng giấy hồng điều đã cũ lộng trong chiếc khung đơn sơ và cũng cũ không kém, có nội dung chữ lớn ở giữa:Hoàng Lê Đường
Cung thỉnh
Hoàng Phủ chi
Lê Phủ vị

(Dịch nghĩa: Nhà thờ họ Hoàng Lê. Cung kính thỉnh linh vị Hoàng Phủ, Lê Phủ)
Ở hai bên phải, trái là hai hàng chữ nhỏ :Hoàng đường phước huệ do tiên trạch
Lê phủ chi phái khải hậu nhân

(Dịch nghĩa: Phước huệ họ Hoàng do nơi ân đức cũ.
Chi phái phủ Lê mở lối cho người sau)

Theo lời kể của cô Sáu, một người phụ nữ có nét đẹp đôn hậu hiện coi sóc chùa, tấm bài vị này có nguồn gốc từ lâu lắm, tại địa phương có ông bà phủ tên Bỉnh hay Vĩnh gì đó, rất giàu có nhưng lại không con, nên đã đem đất ruộng hiến cho chùa để chùa có lương thảo chi dùng. Sau khi ông bà mất, một thân nhân là ông Ba Chỉ, viết bài vị đem qua xin để nhờ tại chùa cho có nơi hương khói.
Theo thông lệ, người muốn được thờ tự ở chùa thường ghi rõ danh tính, tuổi tác, quê quán... thậm chí cả công đức với chùa, nếu có. Nhưng ở đây chỉ có mấy chữ lớn Hoàng Lê đường cùng Hoàng phủ chi, Lê phủ vị, đặt giả thiết rằng ông bà phủ nói trên có họ Hoàng và Lê, nhưng tại sao bài vị của một gia đình chức sắc danh giá như vậy lại chẳng ghi chút tên tuổi gì, trái hẳn với tập tục của thời phong kiến cũ?
Trong khi đó, hai chữ "Hoàng Lê" lại cho ta gợi nhớ đến tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí" nói về thời vua Lê chúa Trịnh xưa. Phải chăng đây cũng là một ẩn ý nữa xuất phát từ di ngôn của Ngọc Hân Công Chúa ?
NGÔI MỘ THÁP CÔ ĐƠN
Hiện nay bên hông trai đường của chùa có một ngôi mộ tháp cũ, lẻ loi trong khu vườn chuối nhỏ. Trên một mặt tháp là những dòng chữ chỗ mờ chỗ tỏ lại viết theo ẩn ý gì đó khó hiểu, nửa giống kiểu chữ điện tín, nửa không. Phía trên, thấy rõ mấy chữ “1997 NGS THI CAML” còn phía dưới không đọc rõ được. Còn bên trong trai đường, cũng có một nấm mộ vô danh nghe nói là người theo Bà.
Theo lời cụ Đặng Chín là cụ từ tiền nhiệm, năm nay đã 82 tuổi, già yếu răng không còn nên nói phều phào không nghe rõ phải nhờ cô con gái “thông ngôn”, thì đây là mộ tháp của bà từ coi sóc chùa từ những đời trước, có tên là Nguyễn Thị Cầm, tục gọi là bà Tám.
( Nguồn thegioivohinh.com - LOVE TAMLINH chuyển bản điện tử ).
dienbatn có trong tay 2 cuốn: Thân thế Phật Thầy Tây An và Ngọc Hân công chúa qua Kim cổ kỳ quan của tác giả - cư sĩ Sripolieu - có lẽ chăng đây chính là tác giả Trần Hữu Thành???
Xin xem tiếp bài 6-dienbatn.
Xem chi tiết…

NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM . BÀI 4.

4/01/2011 |
NHỮNG ÔNG ĐẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO MỚI Ở VIỆT NAM
HOÀN CẢNH VÀ NGUYÊN NHÂN XUẤT HIỆN.
TÓM LƯỢC HOÀN CẢNH VÀ CÁC NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN.
 *Tính chất phong kiến của triều đình nhà Nguyễn.
*Đời sống khổ cực của những người lao động.
*Sự phản kháng của nhân dân.
*Cuộc xâm lược của Pháp và những hậu quả của nó .
*Không có hệ tư tưởng chủ đạo chi phối.
*Điều kiện xã hội của vùng Nam bộ thời đó.
*Lòng yêu nước của nhân dân ta.
*Vai trò lu mờ của Phật giáo và Thiên chúa giáo thời bấy giờ.
*Là trong hoàn cảnh đất nước và xã hội cực kỳ rối ren từ Bắc vào Nam. Trong khi đó xã hội suy thoái, vua quan ngu dốt, bất tài, lại thêm nạn tham nhũng, bóc lột, sưu cao thuế nặng, triều đình kỳ thị chém giết tôn giáo : cấm đạo Gia Tô, cấm lập chùa thờ Phật. Nạn mất mùa, đói kém, kinh tế phá sản, các bệnh dịch hoành hành đã khiến nhiều cuộc khởi nghĩa và bạo động nổ ra khắp mọi nơi. Lợi dụng cơ hội này, thực dân Tây phương tác động bằng nhiều cách để gây rối loạn nhằm thực hiện ý đồ xâm lược. Trong điều kiện lịch sử như vậy, lòng dân ly tán, cố chống lại triều đình và bọn địa chủ mới đang phát triển.
*Về phương diện hoàn cảnh, chủ trương nhập thế và xuất thế rất phù hợp với tinh thần của một xã hội đang đòi hỏi sự nỗ lực của tăng lẫn tục trong công cuộc để tỉnh tinh thần hy sinh để bảo vệ lãnh thổ và giữ vững tín ngưỡng quốc gia chống lại mọi cuộc xâm lăng bờ cõi ở phía Bắc và mọi sự uy hiếp dị giáo ở phía Nam.
*Thời kỳ đã gấp rút, dân chúng vốn thiểu căn, một pháp môn đối cơ không thể có tính chất trường kỳ và cao viễn; vì rằng trường kỳ thì không kịp trang nghiêm hạnh lành, còn nếu cao viễn thì chúng sinh đã không thể lĩnh hội mà còn sinh lòng chán ngán.
Phải gấp rút và dễ hành, đó là hai điều kiện tối yếu, cũng là hai đặc tính mà những pháp môn đưa ra giáo hóa trong thời kỳ này cần phải có. Nếu thiếu đi dù có được nhiều trợ duyên cũng không sao gây được thịnh huống trong đạo Phật, vì lẽ không được chúng sinh sùng mộ và qui ngưỡng theo.
NHẬN XÉT : Theo thiển ý của dienbatn nguyên nhân mấu chốt nhất vẫn là "Sau mấy trăm năm loạn lạc, dân chúng cơ hồ mất hết tin tưởng, đâm ra ngờ vực đối với Phật-pháp. Gia dĩ, sự suy lạc của nhà Thiền do các tập tục mê tín dị đoan thịnh khởi, càng làm cho lòng ngờ vực thêm tăng trưởng. Trong lúc đó lại được luồng gió văn minh vật chất thổi vào càng dễ lôi cuốn người đời ngã theo dục lạc và ưa thích những cái hữu hình hữu ảnh là những vật mang lại khoái cảm về thị dục và thính dục.
Trong lúc tinh thần dân chúng chỉ thích cái gì đem lại kết quả nhãn tiền có thể thấy được, thực tiễn đem lại lợi ích cho bản thân, mà đưa giáo pháp cao siêu ra giảng hóa thì chẳng những người đời không sùng mộ mà còn buông lời nhạo báng cười chê là khác.
Vả lại, tâm lý chung của người đời bao giờ cũng ham sống sợ chết, luôn luôn quí trọng thân mạng, vậy nên, cái giáo pháp nhiếp hóa hữu hiệu nhất là những ai biết đem lợi lạc cho kẻ khốn cùng, đem sự mạnh lành cho người đau ốm.- BSKH-VK - sdd). Điều đó không những đúng với thời gian cuối thế kỷ 19 mà ngày nay càng chứng tỏ điều đó là cần thiết.

PHẦN 2 : CÁC ĐẠO GIÁO RA ĐỜI CUỐI THẾ KỶ 19 VÀ NHỮNG ÔNG ĐẠO ĐIỂN HÌNH. 
1/ĐẠO GIÁO BỬU SƠN KỲ HƯƠNG VÀ PHẬT THÀY TÂY AN.


Bửu Sơn Kỳ Hương là một giáo phái có ảnh hưởng lớn đến lịch sử và chính trị tại Nam Kỳ (Việt Nam) từ giữa thế kỷ 19.
Hoàn cảnh ra đời
Bửu Sơn Kỳ Hương được khai sáng năm 1849 bởi một người tục danh Đoàn Minh Huyên (1807 - 1856), đạo hiệu là Giác Linh, quê ở Tòng Sơn, Cái Tàu thượng, tổng An Thạnh thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Sau này, khi ông đến tu tại chùa Tây An (núi Sam, Châu Đốc) được tín đồ gọi tôn kính là Phật Thầy Tây An.
Năm 1849, ở Nam Kỳ xảy ra vụ mất mùa và đại dịch (kéo dài đến 1850), đã làm nhân dân lâm vào cảnh cùng cực, khổ đau và chết chóc. Trong hoàn cảnh ấy, Đoàn Minh Huyên từ Tòng Sơn vào Tràm Dư, rồi đến vùng Kiến Thạnh (nay là làng Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) trổ tài trị bệnh cho dân. Từ chỗ chữa trị bệnh có kết quả, ông dìu dắt được nhiều bệnh nhân và người thân của họ nghe theo những điều răn dạy của ông.
Thấy người tin theo ngày một đông, nên ngay năm 1849, ông đã sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, và tồn tại cho đến ngày hôm nay.



Chùa Thới Sơn (Tịnh Biên) được coi như là Tổ đình của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
 
Sơ lược đặc điểm của giáo phái

 
Rao giảng về hội Long HoaTheo truyền thuyết của giáo phái này, thì Bửu Sơn (núi báu) là Thất Sơn, mà linh thiêng nhất là núi Cấm. Kỳ hương tức là mùi hương lạ. Hội Long Hoa sau thời Mạt pháp sẽ được thành lập ở đó để đón nhận những ai biết tu hiền.
Trước thực trạng nghèo đói và bệnh tật triền miên, nghe nói hội Long Hoa, giống như cõi Tiên tại thế, mà việc hành đạo lại rất dễ, nên người tin theo ngày càng đông. Nhà văn Sơn Nam viết:
Có thể nói Phật Thầy Tây An là người thứ nhất báo hiệu và đánh thức người đời rằng thời kỳ Hạ ngươn sắp mãn để bước sang thời Thượng ngươn, tức là thời kỳ Đức Di-lặc hạ sanh lập nên hội Long Hoa .
 

Đơn giản hóa đạo Phật
Trần điều tại chùa Thới Sơn
Người đến quy y sẽ được Đoàn Minh Huyên cấp cho một tấm "lòng phái" (mảnh giấy màu vàng có ghi bốn chữ “Bửu Sơn kỳ Hương” màu son), được truyền dạy giáo lý "học Phật - tu nhân", tức là noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết "Tứ ân (ơn)", đó là: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo và Ân đồng bào nhân loại.
Về việc hành đạo, tuy lấy đạo Phật làm gốc, nhưng tín đồ đạo này không cần thờ tượng Phật (trên ngôi thờ Tam bảo chỉ cần thờ tấm trần điều màu đỏ), không cần phải ly gia cắt ái, không cần ăn chay, cạo râu tóc, gõ mõ tụng kinh,...và không cần phải dâng cúng những lễ vật tốn kém (bông hoa, nước lã là đủ).
Nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có Sơn Nam cho rằng đây là lối tu theo thuyết “vô vi”, tức là không chú trọng đến hình thức, không dụng tâm bày đặt ra cái này cái khác .
 

Đề cao Tứ ân
Ngoài việc tuân theo thuyết vô vi và pháp môn học Phật - tu nhân, Phật Thầy Tây An còn đề cao Tứ ân. Đây là bốn ân lớn mà mọi tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương phải kết lòng kính thờ và phụng sự. Có thể xem đây là nét tinh túy của đạo, bởi yếu lý này rất phù hợp với bản sắc của dân tộc Việt.
Chính vì vậy, khi quân Pháp xâm chiếm Nam Kỳ, các tín đồ đã báo “ân đất nước” bằng cách đứng lên chống ngoại xâm, mà cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 -1873) do Trần Văn Thành (đại đệ tử của Phật Thầy Tây An) phát động, là một minh chứng.
 

Cổ súy khẩn hoang
Phật Thầy Tây An rất xem trọng việc khẩn hoang, làm rẫy ruộng để người hành đạo có thể tự túc được lương thực, không phải nhờ vào người khác để mà tu. Nhờ vậy đã dấy lên được một phong trào khai hoang rộng khắp miền Tây Nam Bộ lúc bấy giờ. Theo sách Lịch sử địa phương An Giang, thì năm 1851, Đoàn Minh Huyên đã phân công các đệ tử là Trần Văn Thành, Tăng Chủ (Bùi Đình Thân), Đạo Xuyến (Nguyễn Văn Xuyến),...thành lập nhiều đoàn tín đồ đi khẩn hoang những miền đất hoang vu, lập nên những trại ruộng, như ở Cần Lố (Đồng Tháp Mười), Láng Linh (Châu Phú), Thới Sơn (Tịnh Biên),...Nhờ đức tin, mà những tín đồ đã bám trụ và khẩn hoang, biến những vùng đầm lầy, rừng rậm thành những vùng đất rộng lớn, màu mỡ.
Sau này, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và đạo Hòa Hảo chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu lý trên.

Trích sám giảngTương truyền,
Phật Thầy Tây An thường căn dặn các tín đồ và người đến chữa bệnh bằng những câu như sau:Dặn cùng già trẻ gái trai,
Giữ lòng niệm Phật lâu dài đừng quên.
Thảo ngay nhơn nghĩa cho bền,
Thờ cha kính mẹ, tưởng trên Phật Trời.
Nói cho lớn nhỏ ghi lời,
Nhứt tâm niệm Phật, Phật Trời độ cho.
Ai trau công quả cho dày,
Đất bùn có thuở mọc rày hoa sen.
Màu thiền đắc ý cùng màu,
Còn hơn chen chúc công hầu vương khanh.
Tây Phương trước mặt chẳng còn bao xa
Cách nhau vì bởi ái hà biển mê
Dốc lòng niệm chữ từ bi,
Lấy đao trí huệ cắt đi cho rồi...

( http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%ADu_S%C6%A1n_K%E1%BB%B3_H%C6%B0%C6%A1ng)
ĐỨC PHẬT THẦY TÂY AN
Đoàn Minh Huyên (14 tháng 11 năm 1807 - 10 tháng 9 năm 1856), là người sáng lập ra giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, và được tín đồ gọi tôn kính là Phật Thầy Tây An. Ngoài vai trò là một tu sĩ, ông còn là một nhà yêu nước, nhà dinh điền đã có công khai hoang nhiều vùng đất ở Nam Bộ (Việt Nam).
Đoàn Minh Huyên còn có tên là Đoàn Văn Huyên, đạo hiệu: Giác Linh, quê ở Tòng Sơn, Cái Tàu thượng, tổng An Thạnh thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp).
Năm 1849, ở Nam Kỳ, xảy ra vụ mất mùa và đại dịch (kéo dài đến 1850), đã làm nhân dân lâm vào cảnh cùng cực, khổ đau và chết chóc. Trong hoàn cảnh ấy, ông Đoàn Minh Huyên từ Tòng Sơn vào Tràm Dư, rồi đến vùng Kiến Thạnh (nay là làng Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) trổ tài trị bệnh cho dân. Từ chỗ chữa trị bệnh có kết quả, ông dìu dắt được nhiều bệnh nhân và người thân của họ nghe theo những điều dạy khuyên của ông.
Thấy người tin theo ngày một đông, nên ngay năm ấy (1849), ông đã sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, với tôn chỉ và phương pháp hành đạo rất đơn giản.
Nghe ông chữa bệnh bằng nước cúng (nước lã), bông cúng,...đồng thời rao giảng đạo, quan tỉnh An Giang nghi ngờ ông là gian đạo sĩ, hoạt động chính trị nên bắt giam, nhưng xét không có bằng chứng phải thả tự do cho ông. Song ông buộc phải quy y theo đạo phật (phái Lâm Tế) và tu tại chùa Tây An, dưới chân núi Sam (Châu Đốc). Từ đó, ông được người dân tin tưởng gọi tôn kính là Phật Thầy Tây An.
Mặc dù bị chỉ định cư trú, song ông vẫn thường đi lại khắp miền sông Hậu, phổ biến giáo lý Tứ Ân, đồng thời vận động dân nghèo khai hoang, dần hình thành 4 trung tâm dinh điền lớn, đó là Đồng Tháp Mười(Đồng Tháp), Thới Sơn (Tịnh Biên), Láng Linh và Cái Dầu (đều thuộc Châu Phú)...
Phật Thầy Tây An viên tịch ngày 10 tháng 9 năm 1856), lúc 49 tuổi. Hiện mộ ông ở phía sau chùa Tây An (Châu Đốc), không đấp nấm theo lời căn dặn của ông.
Tương truyền, Phật Thầy Tây An có viết mấy quyển kinh, kệ sau đây:
Chuẩn đề chú
Thái dương kinh
Khai kinh kệ
Thái âm kinh
Ông có nhiều đệ tử giỏi, như Đức Cố Quản (Trần Văn Thành), Tăng Chủ (Bùi Đình Thân), Đạo Xuyến (Nguyễn Văn Xuyến), Đạo Lập (Phạm Thái Chung), Đạo Thắng (Nguyễn Văn Thắng),v.v...
Theo truyền thuyết của giáo phái này, thì Bửu Sơn (núi báu) là Thất Sơn, mà linh thiêng nhất là núi Cấm. Kỳ hương tức là mùi hương lạ. Hội Long Hoa sau thời Mạt pháp sẽ được Phật Di-lặc thành lập ở đó để đón nhận những ai biết tu hiền.
Trước thực trạng nghèo đói và bệnh tật triền miên, nghe nói hội Long Hoa giống như cõi Tiên tại thế, mà việc hành đạo lại rất dễ, nên người tin theo ngày càng đông.
Người đến quy y sẽ được Đoàn Minh Huyên cấp cho một tấm "lòng phái" (mảnh giấy màu vàng có ghi bốn chữ “Bửu Sơn kỳ Hương” màu son), được truyền dạy giáo lý "học Phật- tu Nhân", tức là noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết "Tứ ân (ơn)", đó là: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo và Ân đồng bào nhân loại.
Về việc hành đạo, tuy lấy đạo Phật làm gốc, nhưng tín đồ đạo này không cần thờ tượng Phật (trên ngôi thờ Tam bảo chỉ cần thờ tấm trần điều màu đỏ), không cần phải ly gia cắt ái, không cần ăn chay, cạo râu tóc, gõ mõ tụng kinh,...và không cần phải dâng cúng những lễ vật tốn kém (bông hoa, nước lã là đủ).
Nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có Sơn Nam cho rằng đây là lối tu theo thuyết “vô vi”, tức là không chú trọng đến hình thức, không dụng tâm bày đặt ra cái này cái khác.
Sau này, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và đạo Hòa Hảo chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu lý trên.
Phật Thầy Tây An là một nhà yêu nước ẩn dưới chiếc áo nhà tu. Ông vừa trị bệnh cứu người, vừa quy tụ nông dân nghèo khai hoang, vừa phổ biến "Tứ ân", mà trong đó "Ân đất nước" rất được chú trọng. Điểm đáng lưu ý nữa, đó là những "trại ruộng" mà ông lập ra chỉ là hình thức, thực chất đấy là căn cứ tập hợp nông dân chống lại chính sách cai trị hà khắc của nhà Nguyễn. Sau này, khi thực dân Pháp đến xâm lược, thì những nơi ấy trở thành những căn cứ chống ngoại xâm, nhiều tín đồ của ông trở thành nghĩa quân (để đền ơn đất nước), mà cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 -1873) do Trần Văn Thành (đại đệ tử của Phật Thầy Tây An) phát động, là một minh chứng.

(http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90o%C3%A0n_Minh_Huy%C3%AAn)
Chính Đức Phật Thầy Tây An đã sáng lập giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương, Danh từ này được truyền ra là từ khi Ngài về ở Núi Sam. Cứ mỗi lần Ngài thâu nhận một người nào qui y thọ giáo thì Ngài có phát cho một cái lòng phái có bốn chữ Bửu- Sơn Kỳ- Hương bằng son in trên giấy vàng. Người tín đồ thọ phái, xem đó như một vật rất thiêng liêng, cứ may đãy mà đeo, không dám tò mò tìm hiểu ý nghĩa. Danh từ Bửu- Sơn Kỳ- Hương từ đó một ngày một rộng truyền ra. Người nào co lòng phái tức là tín đồ của phái Phật thầy hay Bửu- Sơn Kỳ- Hương.
Một khi qui y thọ phái rồi, người tín đồ phải tu hành theo pháp môn của Ngài chỉ dạy. Về phương diện nghi thức thờ phượng, mỗi nhà, ngoài bàn thờ ông bà cha mẹ, còn có ngôi thờ Tam bảo, trên đó chỉ thờ đơn giản một tấm trần điều, chớ không có cốt hình chi cả.
Còn về phương diện hành đạo thì Ngài dạy tín đồ lo làm lành lánh dữ, đền trả Tứ Ân, sửa tâm sửa tánh, siêng năng niệm Phật, nghĩa là cả pháp môn Tu Nhân học Phật. Kỳ dư không có dạy tụng kinh gõ mõ hay ly gia cát ái. Ngay các đại đệ tử như ông Đạo Xuyến, Đạo Ngoạn… mặc dù quyết chí ly gia cát ái, nhưng Ngài không cho mà trái lại còn dạy trở về lập gia thất, cốt yếu là phải cứu dân độ thế, làm ích lợi cho đời, tự mình làm lấy mà sống.
Đó là về phương diện công truyền. Đến như đối với hàng đại đệ tử thì ngoài phương diện công truyền để phổ hóa chúng sinh. Ngài còn mật truyền bí pháp chỉ dạy cách tu luyện để đắc pháp thần thông có thay thế Ngài ra giúp đời độ bịnh. Chính trong hàng đệ tử thân tín ấy, Đức Phật Thầy đã truyền bài thơ "Tứ bửu linh tự", bài "Đại Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận"… để thông đạt diệu lý và cơ huyền của phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương.
Sau khi, cơ cấu đã vững đặt, hàng trăm đệ tử đắc pháp thần thông, Đức Phật Thầy mới bắt tay vào việc truyền bá. Hoặc giả, tự Ngài lập chùa, lập trại rồi giao phó cho đệ tử đảm đương việc phát phù trị bịnh, giáo hóa chúng sinh, hoặc giả, tự đệ tử đứng lên tạo lập, khuyến tu phát phái, thâu nhận tín đồ. Nhờ đó mà chẳng bao lâu hệ phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương đã đặt khắp miền Nam nước Việt. Người ta được biết, ngoài vùng Châu Đốc, Long Xuyên, công cuộc truyền giáo về miệt Cao Miên thì có Bà Năm Chòm Dầu, về miệt Sa Đéc. Vĩnh Long thì có ông Đạo ngoạn, về các tỉnh miền Đông thì có ông Đạo Xuyến.
Trong một thời gian rất ngắn, từ ngày Đức Phật Thầy ra đời cho đến ngày Ngài viên tịch, chỉ trong vòng có bảy năm mà cơ sở của giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương đã vững vàng, tín đồ qui y thọ giáo có mấy mươi vạn.
Có thể nói chính Ngài là người đầu tiên báo tin cho chúng sinh biết rằng nhân loại bước vào thời kỳ Hạ ngươn là thời kỳ cũng cuối của luật tuần hoàn Tam ngươn để tạo lập đời Thượng ngươn vô cùng an lạc.
Đặc điểm của giáo lý nhà Phật không phải là những giáo điều cố định; nó luôn luôn uyển chuyển, tùy không gian thời gian, để thích nghi với căn cơ của chúng sinh.
Cũng như một vị lương y diệu thủ biết tùy theo tạng phủ của bịnh nhân mà gia giảm phương dược, Đức Phật Thầy Tây An, y cứ theo giáo pháp căn bản của Đức Phật, đã biết chọn pháp môn thích hợp với căn cơ của chúng sinh ở thời kỳ mạt pháp.
Nhận rõ con người sanh ở thời kỳ Hạ ngươn này phần đông là hạng người thiểu căn thiểu trí, không thể lãnh hội hay tu theo những giáo lý cao siêu chỉ thích hợp với hạng người thượng căn thượng trí ở thời kỳ chánh pháp, nên chi Ngài khai thị pháp môn Tu Nhân Học Phật, là pháp môn gồm tu cả phước lẫn huệ, dù người ở trình độ cơ cảm nào cũng có thể tu hành được cả.
Với pháp môn Tu Nhân Học Phật, Ngài đã gây nên một phong trào đạo đức chưa từng có khắp miền Nam nước Việt. Ngài làm sống lại chánh pháp vô vi chân truyền của Đức Phật Thích Ca mà từ một ngàn năm trở lại đây khi Đức Lục tổ Huệ Năng bặt truyền y bát, đã thất truyền vì những lối tu âm thinh sắc tướng của Thần Tú.
Quả pháp môn Tu Nhân Học Phật là một pháp môn siêu thăng ở thời kỳ Hạ ngươn thứ nhứt là ở hoàn cảnh của Việt Nam.
Với điều Tu Nhân, nó đã giúp cho người hành trí nó, trả được nợ Tứ Ân, gây lấy phước duyên làm nền móng cho bước đường tu giải thoát và nêu cao tinh thần hy sinh vì đạo nghĩa như hồi đời Lý đời Trần. Trong lịch sử Cần vương, một danh dự rất lớn đã dành cho Trần Văn Thành, Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Nhu… đều là những vị anh hùng cứu quốc, xuất thân trong giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương.
Với điều học Phật, một số lớn môn nhân đệ tử của Ngài đã đắc pháp thần thông và liễu ngộ. Cần nhắc lại chăng gương ông Cử Đa, Đạo Lập, Đạo Xuyến, Đạo Sang, ông Ba Thời… đều là những bực tu hành đã có nhiều ấn chứng mà chẳng một ai ở miền Nam nước Việt không từng nghe danh hay ít ra cũng được mấy ngài hóa độ.
Đó là chưa kể những Đức Phật Trùm, Đức Bổn sư, ông Sư Vãi Bán Khoai, Đức Huỳnh giáo chủ… là những bực tỏ ngộ nối tiếp nhau hưng truyền giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương và sương minh pháp môn Tu Nhân Học Phật, gây nên một thịnh huống tu hành trong dân chúng.
Công nghiệp hoằng hóa lợi sanh của Đức Phật Thầy Tây An, đối với chúng sinh trong thời kỳ mạt pháp thật vĩ đại lắm thay.
Riêng về dân tộc Rồng Tiên, công nghiệp ấy qui bằng núi báu (Bửu Sơn), vì nó đem lại một mùi thơm lạ (Kỳ Hương) trong Phật-giáo Việt Nam.

( BSKH- VK-sdd)
Hầu hết tín đồ của Bửu- Sơn Kỳ- Hương đều là hàng tại gia cư sĩ, còn nặng nợ với non sông đất nước.
Cứ theo Sám giảng của các Ngài Tiên giác thì thời kỳ này là buổi Hạ nguơn sắp mãn để tạo lập đời Thượng nguơn thánh triết an lạc. Để cứu độ chúng sanh cho kịp kỳ Long Hoa Đại hội, và nhứt là cho được phù hợp với căn cơ của chúng sanh trong thời mạt pháp, Đức Phật Thầy Tây An cũng như các vị Tiên giác trong giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương xiển dương pháp môn Tu Nhân Học Phật.
Cứu cánh của pháp môn này, với điều Tu Nhân đồ chúng nếu hành vẹn đạo Nhân thì sẽ được dự vào Hội Long Hoa là một đại hội phán xét cuối cùng để chọn người hiền đức hầu tạo lập cõi đời Thượng nguơn vô cùng an lạc.
Đến như về điều Học Phật, các Ngài khuyên tu Tịnh độ. Những ai nhứt tâm thuần thành niệm Phật A Di Đà và hành sử những điều lợi lạc cho chúng sanh sẽ được vãng sanh về cõi Cực lạc hưởng quả bất thối.
Cứu cánh của pháp môn Tu Nhân Học Phật, nói tóm lại, là đào luyện nên người hiền đức để dự Hội Long Hoa và tiếp độ những người nhứt tâm niệm Phật về nơi An dưỡng để học đạo cho hoàn toàn trở lại cứu vớt chúng sanh.
 CỨU CÁNH CỦA TU NHÂN- HỘI LONG HOA

Nói đến Hội Long Hoa tức là nói đến Đức Phật Di Lặc, vì theo Đức Phật Thích Ca cho biết trong Kinh Di Lặc, thì vào thời kỳ mạt pháp có Đức Phật Di Lặc ra đời là vị Phật thứ năm trong Hiền Kiếp, lập lên Hội Long Hoa, mở ba trường thuyết pháp hóa độ chúng sanh.
Trong Kinh chỉ nói Đức Phật Di Lặc ra đời vào thời kỳ mạt pháp, nhưng không nói rõ là vào khoảng nào, cho nên về ngày giờ lập Hội Long Hoa có nhiều giải thuyết khác nhau, mỗi người hiểu mỗi cách.
Để rộng đương nghiên cứu, chúng tôi xin trình bày tất cả các giải thuyết.
I. PHÁI THIỀN GIA

Về Hội Long Hoa, trong quyển Qui nguơn trực chỉ, Đức Tông Bổn có viết:
“Từ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh, bấy giờ loài người sống đều chỉ trăm tuổi, bắt đầu kể đi, cứ qua trăm năm, loài người giảm đi một tuổi.
“Giảm đến thời đại mà loại người còn được 30 tuổi, thân người dài chừng 3 thước, toàn thế giới nổi lên tai cơ cẩn
“Giảm đến thuở loài người chỉ còn 10 tuổi, thân dài 1 thước, toàn cầu nổi lên tai đao binh, ấy gọi là cái biến tướng của tiểu tam tai.
“Chỉ còn lưu lại nam nữ chừng muôn người, trốn vào trong núi để làm giống.
“Thuở đó với điều làm vợ người, con gái 5 tuổi đã gả, thế mới là con số đã cùng cực của kiếp giảm vậy.
“Lại từ đó cứ qua một trăm năm, loài người được thêm lên một tuổi, cứ như thế, thêm đến cái thời đại mà toàn thể loài người đều sống 8 vạn 4 ngàn tuổi, thế gọi là con số kiếp tăng đã cực điểm.
“Lại cũng vẫn từ đó thối lui, cứ qua mỗi một trăm năm, loài người bị giảm một tuổi, mãi thế, giảm đến thuở mà nhơn loại sống còn 8 vạn tuổi, Đức Di Lặc mới là giáng sanh.
Theo Đức Tổng Bổn căn cứ theo sự tăng giảm của các kiếp mà tính.
Cứ theo tạng kinh thì mỗi Đại kiếp có bốn Trung kiếp: Thành, Trụ Hoại, Không, mỗi Trung kiếp có 20 Tiểu kiếp; trong mỗi Tiểu kiếp có một lần tăng một lần giảm. Bắt đầu từ loài người sống 84.000 tuổi là cực điểm của số tăng, từ đây qua 100 năm giảm đi một tuổi cho đến khi nhơn loại còn 10 tuổi là cực điểm của số giảm. Rồi lại bắt đầu từ đó cứ 100 năm tăng lên một tuổi cho đến khi loài người sống 84.000 tuổi mỗi lần tăng và giảm như thế là một Tiểu kiếp. Cứ 20 Tiểu kiếp như thế làm thành một Trung kiếp và hiệp bốn Trung kiếp làm thành một Đại kiếp. Tính ra một Đại kiếp có 1.280.000.000 năm.
Đức Phật Thích Ca ra đời vào thời kỳ giảm của kiếp thứ 9 trong kiếp Trụ. Từ một trăm tuổi là thời kỳ Phật Thích Ca ra đời, giảm xuống còn 10 tuổi: lại từ 10 tuổi tăng lên 84.000 tuổi, rồi từ 84.000 giảm xuống còn 8.000 tuổi thì Đức Di Lặc hạ sanh.
Do những lý giải nói trên mà trong Thiền gia có quan niệm rằng Hội Long Hoa còn lâu lắm mới lập.
Tuy nhiên, ngoài lý giải của Đức Tông Bổn, trong Kinh Đại Tập có cho biết rằng: Thời kỳ sau khi Đức Phật Thích Ca tịch diệt chỉ có 2.500 năm phân làm 5 thời kỳ như sau, mỗi thời kỳ là 500 năm:
1. Thời Kỳ Giải thoát kiên cố là thời kỳ người tu hành đều y theo giáo pháp của Phật, nên chứng pháp giải thoát;
2. Thời kỳ Thiền định kiên cố là thời kỳ hành giả y theo giáo lý tu tập các pháp thiền na mà chứng đặc định quả hữu lậu và vô lậu;
3. Thời kỳ Đa văn kiên cố là thời kỳ hành giả y theo mười hai bộ kinh của Phật tu hành mà hiểu thấu các giáo pháp;
4. Thời kỳ Tháp tự kiên cố là thời kỳ người hành đạo chỉ ưa làm hạnh hữu vi lập chùa, đúc tượng, ấn kinh để hưởng phước báo của cõi Nhân Thiên;
5. Thời kỳ Đấu tranh kiên cố là thời kỳ phần nhiều kẻ tu hành hay háo thắng, chia bè kết đảng, chống báng lẫn nhau.
Mặc dầu, đem đối chiếu thời kỳ Đấu tranh kiên cố với hiện tình thời nay, ai cũng thấy có chỗ tương đồng, nhưng vì trong kinh không nói rõ Đức Di Lặc giáng sanh vào lúc nào, mà chỉ thấy nói là vào thời mạt pháp, cho nên về Hội Long Hoa, phái Thiền gia vẫn tin là còn xa lắm.
Vả chăng trong kinh điển còn phân từ Phật ra đời về sau làm ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp và phỏng định thời kỳ Chánh pháp là 500 năm, thời kỳ Tượng pháp là 1.000 năm, và thời kỳ Mạt pháp là 10.000 năm. Cứ theo Phật lịch mà tính thì hẳn chúng ta ở vào thời kỳ Mạt pháp, nhưng thời này lại kéo dài đến một muôn năm, thế nên phái Thiền gia chưa tin Đức Di Lặc hạ sanh trước khi thời kỳ Mạt pháp chấm dứt.
Tin tưởng Hội Long Hoa lập ra trong một ngày gần đây chăng chỉ thấy có giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương và Cao Đài giáo.
II. PHÁI BỦU SƠN KỲ HƯƠNG
Mộ Phật Thầy nằm sau chùa Tây An cổ tự, xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, An Giang. Ảnh do Thuydaonguyen chụp vào ngày rằm tháng Giêng, năm Mậu Tý, dương lịch 2008.
Có thể nói Đức Phật Thầy Tây An, vị sáng lập ra giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương là người thứ nhứt đã báo hiệu và đánh thức người đời rằng thời kỳ Hạ nguơn sắp mãn để bước sang thời kỳ thượng nguơn, tức là thời kỳ Đức Phật Di Lặc hạ sanh lập lên Hội Long Hoa như Ngài cho biết:
Hạ nguơn đã cận người ôi !
Nay cho giáng bút đề thôi coi đời.

Lời báo hiệu này, Đức Phật Thầy thốt ra trên một năm nay. Ta không phải lấy làm ngạc nhiên về lời báo hiệu của Ngài, là bởi Ngài thấu rõ cơ huyền. Sự giáng lâm của Ngài là cả một sự kỳ bí làm cho mọi người phải kinh ngạc. Ngài không từng tu học, thế mà hoát nhiên tỏ ngộ, không khác trường hợp của Đức Lục tổ Huệ Năng. Ngoài những huyền diệu cứu độ chúng sanh, Ngài còn khai thị pháp môn Tu Nhân Học Phật là một pháp môn thích hợp với trình độ cơ cảm của chúng sanh trong thời kỳ mạt pháp. Ngài mở cơ phổ độ và khuyên hóa nhân dân mau kiếp tu hành cho kịp kỳ dự Hội Long Hoa. chầu Đức Di Lặc.
Danh từ Hội Long Hoa được quảng bá trong dân chúng là bắt đầu từ đó.
Sau Đức Phật Thầy Tây An, còn có các Ngài tiên giác trong giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương tiếp tục, cũng không dứt nói đến Hội Long Hoa, cho biết rõ những biến thiên sẽ xảy ra thế nào trong những ngày lập hội
nhận định về thời kỳ Hạ nguơn, ông Sư Vãi Bán khoai có viết:

Hạ nguơn giáp tý đầu tiên,
Gẫm trong thiên hạ không yên chỗ nào.

Hoặc là:Hạ nguơn giáp tý bằng nay,
Cơ trời đã khiến lập đời Thượng lai.

Về Hội Long Hoa, ông có viết:
Bởi trần lỗi quá muôn phần,
Cho nên lập Hội Long Hoa chọn người.
Hiền từ thì đặng thảnh thơi,
Nghinh ngang khó trốn lưới trời bớ dân !

Và ông quả quyết:Trẻ già đừng có nghi ngờ,
Việc đời ngó thấy bây giờ tới đây.

Gần đây Đức Huỳnh giáo chủ, cũng là một bực hoát nhiên tỏ ngộ, không học mà thông có cho biết về đời Hạ nguơn không khác gì các bực Tiên.
Hạ nguơn nay đã hết đời,
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang.

Với Đức Phật Thầy Tây An và ông Sư Vãi Bán khoai thì thời kỳ Hạ nguơn chỉ mới bắt đầu, đến Đức Huỳnh giáo chủ thì Ngài lại cho biết thời kỳ ấy đã hết.
Thế nên Ngài nói quyết;

Đời Nguơn hạ ngày nay mỏng mẻo,
Khuyên thế trần hãy ráng kiêng dè.

Về Hội Long Hoa, Ngài còn nói rõ hơn nữa, Ngài cho biết đó là một trường thi để tuyển chọn người hiền đức.
Lập rồi cái Hội Long Hoa ,
Đặng coi hiền đức được là bao nhiêu.
Gian tà hồn xác cũng tiêu,
Thảm thương bá tánh chín chiều quặn đau.

Nói tóm lại, các Ngài tiên giáo trong giáo hệ Bửu- Sơn Kỳ- Hương đều quả quyết rằng đời mạt hạ đã sắp mãn và Hội Long Hoa chắc chắn sẽ được lập một ngày gần đây.
Những điều thuyết giáo này còn được Cao đài giáo xác nhận.



NHỮNG DI TÍCH CÓ LIÊN HỆ ĐẾN ĐỨC PHẬT THẦY.
A. Ở Tòng Sơn
Từ chợ Cái Tàu Thượng (Sadec) đi đổ xuống rẽ sang lột đất lối hai ngàn thước, du khách sẽ trông thấy xa xa một ngôi đình lợp bằng ngói, ẩn hiện sau mấy chòm cổ thụ như trôm, dầu ... đó là đình làng Tòng Sơn, một dấu vết ở quê hương của Đức Phật Thầy, nơi mà xưa kia, Ngài về nương náu sau mái hiên, sau bao nhiêu năm xa cách.
Trải mấy lần đất lở, đình này phải dời đi cất lại đến chỗ ngày nay. Trong đình, tại bàn chánh thì thờ trần điều, còn bàn Thần thì đặt ngay một hương án ở chính giữa phiá trước. Hai bên: tả ban thì thờ cửu huyền, hữu ban thì thờ Đức Phật Thầy, trên bàn có một tấm biển bằng cây, sơn son thiếp vàng, lớn độ một thước bề ngang, một thước rưởi bề đứng, có khắc sâu những chữ: Đoàn Phật Sư ở giữa, và một đôi liễn kiến hai bên, đề:
Tòng Sơn đắc ngộ Phật
Tây An quả giác Sư
Hằng năm đến ngày 12 tháng 8 là ngày vía của Đức Phật Thầy, đình này có cúng kiến long trọng như các chùa chiền vậy.
B. Ở Cái Nai
Mộ Phật Mẫu (thân mẫu của Đức Phật Thầy) hiện ở rạch Cái Nai (thuộc thôn An Thạnh Trung, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (An Giang). Rạch này cách cho Cái Tàu Thượng lối năm ngàn bốn trăm thước. Từ vàm rạch vào đến mộ chừng hai trăm thước nữa, chung quanh mộ có trồng ô môi và có cất một cái nhà thờ, có người ở đây lửa hương phụng tự.
Tương truyền rằng trước đây khi chưa có người coi giữ mộ này, trâu bò cũng không dám đến gần; có khi người ta cho trâu đi ăn khuya lỡ lạc lại gần đó thì trâu bỗng nhiên nghinh lên rồi thụt lui mà chạy, chừng như nó thấy được ai chận đuổi nó vậy. Bởi thế nê ngôi mộ này đến nay, dù đã trải nhiều mưa nắng, nhưng đất vẫn gò lên, khách đi thuyền qua đây dòm lên còn thấy cao hơn các chỗ khác.
C. Ở Long Kiến
Tại làng Long Kiến (tổng Định Hoà, Long Xuyên), phía hữu ngạn sông ông Chưởng, khách đi đường sẽ trông thấy một ngôi chùa lộng lẫy nguy nga, trước sân có một cây dầu, chung quanh có xây bồn bằng gạch, ấy là chùa Tây An Cổ Tự, một di tích của Đức Phật Thầy. Ngày xưa Ngài có về đây để phát phù trị bịnh cho đến khi bị dời về An Giang. Nơi này trước kia là cái cốc của ông Kiến. Tuy đã qua mấy bận hư hao và một lần bị cháy, người ta đều sửa lại cho có chỗ thờ phượng. Đến năm 1952, chùa này mới được dựng lại và sửa sang đồ sộ như ngày nay.
D. Ở Núi Sam
Từ Chợ Châu Đốc đi vào năm ngàn thước thì tới núi Sam, rẽ sang phía tả, nhìn lên thấy ngôi chùa lồng lộng nằm trên triền núi, ngoài ngõ có đề ba chữ Tây An Môn, ấy là chùa Tây An (tục gọi là chùa chánh) ở núi Sam. Đây là nơí Đức Phật Thầy nương náu để độ dân cho đến ngày nhập diệt. Trong chùa, Phật cốt rất nhiều, vì chùa này là của giáo phái Lâm Tế như đã nói ở đoạn trước, nên không có chi là dấu vết của Đức Phật Thầy.
Sau chùa, về phia Đông có một vòng thành vuông rộng 5 thước 45 bề dài, 4 thước 75 bề ngang, nằm trên chín cấp nấc gạch, ấy là mộ của Đức Phật Thầy.
Một không có đắp nấm, trước mộ có một tấm bia khắc những chữ:
"Ngươn sanh Đinh Mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời chú sanh.
Tự Lâm Tế gia chư thiên phổ chánh phái tam thập bát thế, thượng Pháp hạ Tạng, tánh Đoàn; pháp danh huý Huyên, đạo hiệu GiácLinh chi vãn tọa.
Tịch ư Bính Thìn niên, bát ngoạt, thập nhị nhựt, ngọ thời thị tịch diệt."
E. Ở Thới Sơn
Trại ruộng ở Thới Sơn cách xa núi Sam trên mười ngàn thước. Ngày xưa, khi lập xong, Đức Phật Thầy giao cho ông Tăng chủ và ông Đình Tây ở giữ. Nơi nầy có hai di tích: Phước Điền Tự và Thới Sơn Tự. Hai chùa này cách nhau đọ hai ngàn thước. Khi Đức Phật Thầy mới vào đây, Ngài để trâu (ông Sấm và ông Sét) và làm ruộng tại Phước Điền, còn Thới sơn(ngày xưa là trại ruộng Hưng Thới) thì cất để thờ phượng và để ở thôi.
Tại Phước Điền Tự còn có hai đôi liễn thờ ở bàn chánh và dán ngoài cửa ngõ. Người ta bảo là của Đức Phật Thầy chỉ cho tín đồ viết và lưu truyền đến ngày nay.
Liễn ở cửa ngõ:
Nhứt trần bất nhiễm bồ đề địa
Vạn thiện đồng quy bát nhã môn
Liễn ở bàn thờ chánh:
Phước bảo thiền quang thanh tịnh vô vi thường phổ chiếu;
Điền kinh công đức viên dung bát nhã biến thông truyền.
Và một linh vị:
"Ngươn sanh Đinh Mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời hưởng dương ngũ thập tuế.
Cung thỉnh Lâm Tế chánh tông tam thập bát thế, thượng Pháp hạ Tạng, tánh Đoàn; pháp danh huý Minh Huyên, đạo hiệu GiácLinh chứng minh.
Vãng ư Bính Thìn niên, bát ngoạt, thập nhị nhựt, ngọ thời nhi chung."
Về sau khi ông ĐìnhTây ttịch, trại ruộng Thới Sơn được sửa sang lại thành một ngôi chùa nguy nga, nhưng qua bao nhiêu lần dâu bể, chùa ngày nay chỉ còn mấy nếp lợp thiếc và lá mà thôi. Gần chùa còn có mấy ngôi mộ của ông Tăng Chủ và ông bà Đình Tây là những người có công nghiệp rất to tát trong việc mở mang làng xóm dân cư ở đây ngày xưa.
G. Ở Láng Linh
Từ vàm kinh xáng Vịnh Tre đi vô độ mười ngàn thước thì tới trại ruộng Bửu Hương Các ở Láng Linh (thuộc làng Thạnh Mỹ Tây, tổng An Lương, Châu Đốc). Chỗ này là một di tích mà Đức Phật Thầy xưa đã rẽ đất rạch hoang để mở cơ hoằng pháp. Ngài giao trại ruộng này cho Đức Cố Quản Trần Văn Thành coi giữ. Ngày nay qua nhiều trận hư hao, nơi đây được chấn chỉnh lại, trang hoàng, lợp ngói, vách gạch và có ông Nguyễn Văn Tịnh, một đệ tử cũ của ông Hai Trần Văn Nhu ở giữ gìn phụng tự. ( Thất Sơn nhiệm Mầu- Nguyễn Văn Hầu )
Nhận xét tổng quát:
Bửu Sơn Kỳ Hương đã đề xướng những hoạt động mang lợi ích thiết thực cho đời sống lưu dân. Như vào năm 1851, Đoàn Minh Huyên chia các đệ tử thành nhiều đoàn đi khẩn hoang những miền đất hoang vu, lập nên những trại ruộng ở vùng Cần Lố (Đồng Tháp Mười) của Đạo Ngoạn; vùng Láng Linh của Quản cơ Trần Văn Thành; vùng núi Két (thuộc Thất Sơn) của Bùi Văn Thân (tức Bùi Thiền Sư) và Bùi Đình Tây (lập nên hai làng Hưng Thới, Xuân Sơn, sau này hợp thành xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên); vùng Cái Dầu của ông Nguyễn Văn Xuyến (tức Đạo Xuyến).... Nhờ đức tin, tín đồ đã bám trụ và khẩn hoang, biến những vùng đầm lầy, rừng rậm thành những vùng đất rộng lớn, màu mỡ.
Khi Pháp xâm chiếm miền Tây Nam Bộ (1867), tiếp nối truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt và tư tưởng giáo lý “Tứ ân”, những tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đã tự cuốn hút vào ngọn cờ khởi nghĩa do lãnh tụ Trần Văn Thành khởi xướng ở Bảy Thưa (Láng Linh). Tuy nhiên, do lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ... nên cuối cùng khởi nghĩa này cũng không tránh khỏi thất bại.
Bửu Sơn Kỳ Hương thực sự là một tôn giáo nhập thế, một tôn giáo yêu nước có ảnh hưởng lớn đến lịch sử chính trị và tôn giáo tại Nam Kỳ.(http://tuanhieunghia.blogspot.com/2010/03/phat-thay-tay.html)

 Xin xem tiếp bài 5. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *