"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG" BÀI 1.

9/28/2016 |
"HUYỀN MÔN PHONG THỦY THỰC DỤNG"
Nguyễn Ngọc Vinh - bút danh Mân Côi.
Đây là một tài liệu dienbatn sưu tầm được. Nhận thấy có nhiều điểm bổ ích nên đăng lại trong Blog này. Tất nhiên " ngọc nào cũng có vết " - Có nhiều điểm chưa đúng hoàn toàn , nhưng là một tư liệu quý để các bạn suy ngẫm , chiêm nghiệm. Nhiều khi ca một cuốn sách chỉ cần một dòng cũng soi sáng cho ta nhiều điều trong quá trình tu học. Xin giới thiệu cùng các bạn . Thân ái. dienbatn.
CHUYÊN MỤC VỀ CÁC PHÁP QUYẾT NGŨ HÀNH
1. HAI MƯƠI BỐN SƠN
2. CHÍNH NGŨ HÀNH 24 SƠN
3. TRUNG CHÂM SONG SƠN NGŨ HÀNH
4. TIỂU HUYỀN KHÔNG NGŨ HÀNH
5. ĐẠI HUYỀN KHÔNG NGŨ HÀNH
6. HỖN THIÊN NGŨ HÀNH
7. TINH ĐỘ NGŨ HÀNH
8. PHÙNG CHÂM TAM HỢP NGŨ HÀNH
9. HỒNG PHẠM NGŨ HÀNH
10. NẠP ÂM NGŨ HÀNH
I. Luận Ngũ Hành:
Ngũ hành là 1 cương lĩnh lớn trong phong thuỷ, nhưng nhiều người vẫn băn khoăn về việc xác định ngũ hành của Nhị thập tứ sơn, ví dụ sơn Đinh vì sao lúc lại thuộc Hoả, lúc lại thuộc Mộc, lúc lại thuộc Kim? lý do là Nhị thập tứ sơn được dùng với mục đích khác nhau thì ngũ hành cũng khác nhau:
1. Bát quái ngũ hành:
Chấn Canh Hợi Mùi Tốn Tân thuộc Mộc
Đoài Đinh Tỵ Sửu Kiền Giáp thuộc Kim
Khảm Thìn Thân Quý thuộc Thuỷ
Ly Nhâm Dần Tuất thuộc Hoả
Khôn Ất Cấn Bính thuộc Thổ
Bát quái ngũ hành phối hợp với thiên can, địa chi mà luận thuật ngũ hành quy thuộc. Bát quái ngũ hành có thể đem vận dụng vào việc bố cục, tiêu sa, nạp thuỷ(âm trạch)
2. Chính ngũ hành:
Khôn Cấn thuộc Thổ, vị trí trung ương
Thìn Tuất Sửu Mùi, thuộc Thổ cùng ở trung ương
Hợi Nhâm Tý Quý, thuộc Thuỷ ở phương Bắc
Dần Giáp Mão Ất Tốn, thuộc Mộc ở phương Đông
Tỵ Bính Ngọ Đinh, thuộc Hoả ở phương Nam
Thân Canh Dậu Tân Kiền, thuộc Kim ở phương Tây
Chính ngũ hành căn cứ Lạc Thư để thiên 1 cư ở phương Bắc, đem Hợi Nhâm Tý Quý quy về thuỷ; thiên 9 cư ở phương Nam, đem Tỵ Bính Ngọ Đinh quy về hoả; thiên 3 cư ở phương Đông, đem Giáp Dần Ất Mão quy về mộc; thiên 7 cư ở phương Tây, đem Thân Canh Dậu Tân quy về kim; địa 2 cư ở Tây Nam, đem Khôn quy về Thổ; địa 4 cư ở Đông Nam, đem Tốn quy về Mộc; địa 6 cư ở Tây Bắc, đem Kiền quy về Kim; địa 8 ở Đông Bắc, đem Cấn quy về Thổ. Thiên 5 cư ở chính trung, nhờ vượng 4 mùa, Thìn Tuất Sửu Mùi vì vậy quy về Thổ.
Đây cũng là Hậu thiên ngũ hành, chuyên dùng để luận xét phương vị, luận xét sinh khí long mạch và âm dương thuận nghịch.
3. Huyền không ngũ hành:
Bính Đinh Dậu Ất thuộc Hoả
Kiền Khôn Mão Ngọ thuộc Kim
Quý Hợi Giáp Cấn thuộc Mộc
Tuất Canh Sửu Mùi thuộc Thổ
Tý Dần Thìn Tốn Tân
Tỵ Thâm Nhâm thuộc Thuỷ
Huyền không ngũ hành dùng kiểm chứng vấn đề sinh khắc trong khai môn phóng thuỷ(cả âm trạch và dương trạch). Kỵ phạm vào sinh xuất, khắc xuất.
4. Song sơn ngũ hành:
Kiền Hợi, GIáp Mão, Đinh Mùi thuộc Mộc
Khôn Thân, Nhâm Tý, Ất Thìn thuộc Thuỷ
Cấn Dần, Bính Ngọ, Tân Tuất thuộc Hoả
Tốn Tỵ, Canh Dậu, Quý Sửu thuộc Kim
Song sơn ngũ hành cũng gọi là Tam hợp ngũ hành. Hai sơn hợp lại thiên can địa chi để lấy vượng thế long mạch. Dùng vòng trường sinh để định long, huyệt, hướng(cho cả âm trạch và dương trạch)
5. Hỗn thiên ngũ hành:
cung Kiền, nội quái Giáp Tý, ngoại quái Nhâm Ngọ
cung Khảm, nội quái Mậu Dần, ngoại quái Mậu Thân
cung Cấn, nội quái Bính Thìn, ngoại quái Bính Tuất
cung Chấn, nội quái Canh Tý, ngoại quái Canh Ngọ
cung Tốn, nội quái Tân Sửu, ngoại quái Tân Mùi
cung Ly, nội quái Kỷ Mão, ngoại quái Kỷ Dậu
cung Khôn, nội quái Kỷ Mùi, ngoại quái Quý Sửu
cung Đoài, nội quái Đinh Tỵ, ngoại quái Đinh Hợi
Hỗn thiên ngũ hành chuyên dùng cho quy tắc bát quái, để khảo sát Tứ cát, Ngũ thân.
Trong môn địa lý, có rất nhiều phép tính toán liên quan tới phương vị và ngũ hành, nên cần phải nắm rõ các quy tắc. Phần này sẽ giới thiệu tổng quát về các pháp quyết ngũ hành.
HAI MƯƠI BỐN SƠN. 
Trong môn địa lý người ta đem một vòng tròn chia ra 24 phần, đem 12 địa chi, mười thiên can bỏ đi hai can Mậu Kỷ không dùng (vì Mậu Kỷ đóng ở trung tâm) chỉ còn lại 8 can, 4 quẻ là Càn Khôn Cấn Tốn đem bỏ vào 24 phương vị này:
lấy Giáp Ất đóng ở phía Đông
lấy Bính Đinh đóng ở phía Nam
lấy Canh Tân đóng ở phía Tây
lấy Nhâm Quý đóng ở phía Bắc
Bốn quẻ đóng vào bốn góc gọi là Tứ duy: Càn đóng Tây Bắc, Cấn đóng Đông Bắc, Tốn đóng Đông Nam, Khôn đóng Tây Nam.
“tiên thiên la kinh thập nhị chi, hậu thiên tái dụng can dữ duy, bát can tứ duy phụ chi vị, tử mẫu công tôn đồng thử suy”
Tưởng công: La kinh 24 sơn người người đều biết, đoạn này không phải giảng về cách làm la kinh mà từ La kinh nói thư hùng giao cầu, chỉ rõ tác dụng suy vượng sinh tử. 12 chi an lần lượt trên vòng chu thiên là tiên thiên, đạo là địa mà pháp lại là thiên, tuy có 12 cung mà phân ra 8 quái, mỗi quái 3 hào, tức 12 cung không thể tận hết địa số . Nên gia thêm 10 can, mậu kỉ là hoàng cực không phương vị nên quy về trung cung, 8 can còn lại phân vào phụ hai bên tứ chính. So với số hào (không phải nạp hào) còn thiếu 4 nên gia thêm 4 ngung quái mà thành 24.
Như vậy nhị thập tứ lộ đã an đầy đủ, hiểu được mẹ con ông cháu trong đó tức biết thư hùng giao cấu, huyết mạch của kim long, tận nghĩa long thần sinh vượng suy tử. Thế tục chú: Tý Dần Thìn Càn Bính Ất nhất long là công, Ngọ Thân Tuất Khôn Tân Nhâm nhị long là mẫu, Mão Tị Sửu Cấn Canh Đinh tam long là tử, Dậu Hợi Mùi Tốn Quý Giáp tứ long là tôn, đều là không phải vậy.
Phần Tưởng công chưa nói ra chính là mối liên hệ giữa Tiên thiên và Hậu thiên cũng như tại sao 24 sơn lại ứng với 24 hào 

2. CHÍNH NGŨ HÀNH 24 SƠN.
Hai mươi bốn sơn bao hàm tám quẻ, chính ngũ hành cho 24 sơn như sau:
Hợi Nhâm Tý Quý: hành thủy
Dần Giáp Mão Ất: hành mộc
Tị Bính Ngọ Đinh: hành hỏa
Thân Canh Dậu Tân Càn: hành kim
Thìn Mùi Tuất Sửu Khôn Cấn: hành thổ
Chính ngũ hành như trên được định danh do các nhà "Hồng phạm" để phân biệt với "song sơn ngũ hành".
CÔNG DỤNG
Dùng luận xét phương vị, biết hành của "Long nhập thủ" để phối hướng và dùng tam hợp cục để bổ long. Ngoài ra còn nhiều cách dùng khác. Ví dụ: gặp thế đất Cấn long, vậy biết hành của nó là hành thổ. Khi xác lập hướng phải dùng các hướng hỏa như Bính, Đinh...vv để hỗ trợ cho long, khi chọn thời gian (năm tháng ngày giờ) cho Cấn long phải dùng "ấn cục" hỏa tam hợp Dần - Ngọ - Tuất; hay dùng "tài cục" thủy tam hợp Thân - Tý - Thìn để bổ long. Nói rõ hơn là dùng năm tháng ngày giờ đều có 3 chi của cục muốn bổ. Ví dụ: dùng cục ấn thì chọn năm Dần Ngọ Tuất, tháng Dần Ngọ Tuất, ngày Dần Ngọ Tuất, giờ Dần Ngọ Tuất. Công thức dùng cục nhất khí để bổ long không dính dáng gì tới nạp âm ngũ hành. Đây là nói về cách dùng địa chi. Dùng thiên can: ta thấy Cấn long có nạp giáp là Bính, vậy khi dùng năm tháng ngày giờ phải tận dụng thêm can Bính. Ấn cục hỏa phải tận dụng Bính Dần, Bính Ngọ, Bính Tuất, còn ấn tài cục phải tận dụng Bính Thân, Bính Tý, Bính Thìn.
Khi muốn bổ long người ta dùng 3 cục:
1. Ấn cục: là tam hợp cục sinh ra hành của Long
2. Vượng cục: là tam hợp cục đồng hành với Long
3. Tài cục: là tam hợp cục có ngũ hành bị Long khắc chế
Tuy nhiên, trong ví dụ Cấn long thuộc thổ, mà hành thổ không có riêng tam hợp cục nên không bàn tới Vượng cục.
NGUYÊN TẮC DỤNG CHÍNH NGŨ HÀNH ĐỂ NẠP THỦY, KHỨ THỦY.
Khi nạp thủy, phải dùng hướng của Mộ để xét nạp theo công thức: "lai thủy đến hành của hướng mộ phải sinh ra hành của sơn thủy lai". Ví dụ:
Ngôi mộ tọa Càn hướng Tốn, vậy hướng Tốn có chính ngũ hành thuộc Mộc. Vậy phải nhận thủy lai tại các sơn có hành hỏa như Tỵ Bính Ngọ Đinh.
Ngôi mộ tọa Ngọ hướng Tý, hướng Tý có chính ngũ hành là Thủy. Vậy phải nạp thủy tại các sơn có hành mộc như Dần Mão Ất Tốn.
Khi khứ thủy, phải dùng hành của sơn sinh ra hành của bổn hướng. Ví dụ:
Ngôi mộ tọa Giáp hướng Canh, hướng Canh có chính ngũ hành thuộc kim, vậy phải khứ thủy tại các sơn hành thổ như: Thìn Tuất Sửu Mùi Khôn Cấn.
Ngôi mộ tọa Tý hướng Ngọ, hướng Ngọ có chính ngũ hành thuộc hỏa, vậy phải khứ thủy tại các sơn có hành mộc như: Dần Giáp Mão Ất Tốn.

3. TRUNG CHÂM SONG SƠN NGŨ HÀNH .
Trong 24 sơn chính của la kinh được phân ra làm 12 cặp "song sơn", tức là lấy sơn địa chi kết hợp với sơn thiên can/tứ duy đi trước nó để tạo thành từng cặp như:
Càn - Hợi
Giáp - Mão
Đinh Mùi
Khôn – Thân .
Nhâm - Tý
Ất - Thìn...vv
Hành của cặp song sơn này chính là hành của tam hợp cục ngũ hành. Pháp thức song sơn được áp dụng rất rộng rãi hầu hết trong thuật "thu sa, nạp thủy" để xác định phương hướng, cùng đồng dùng cục khí để bổ "long hướng" và bổ "mệnh". Khi phân cung trong pháp thức "thập nhị thần" cũng sử dụng cách song sơn này. Dùng la kinh để xác định nơi thủy đến/thủy đi cũng được gộp ở thế song sơn. Nói tới tam hợp cục chính là địa chi tam hợp: 12 chi phân thành 4 cục, và các can/duy đứng trước mỗi một địa chi trong tam hợp cũng mang hành giống nó.
(Càn - Hợi), (Giáp - Mão), (Đinh - Mùi): thuộc mộc cục
(Khôn - Thân), (Nhâm - Tý), (Ất - Thìn): thuộc thủy cục
(Cấn - Dần), (Bính - Ngọ), (Tân - Tuất): thuộc hỏa cục
Trong ngũ hành Đại/Tiểu Huyền Không dùng để nạp thủy phối hướng, ta căn cứ vào hành của "sơn thủy lai đáo" là hành gì thì nạp nó vào cục đó để phối hướng, không nhất thiết phải theo đúng ngũ hành chính của Đại/Tiểu huyền không. Ví dụ:
1. Thế đất có thủy lưu đáo sơn Nhâm:
* theo Đại huyền không thì sơn nhâm thuộc nhị long hành mộc, do đó phải dùng các sơn hướng trong nhị long mộc, hoặc tứ long hỏa để lập hướng.
* theo Tiểu huyền không thì sơn Nhâm thuộc thủy, phiả dùng các sơn hướng hành thủy và hành mộc để phối hướng.
* còn công thức song sơn này ta chỉ dụng cục tam hợp để phối sơn hướng như sau: Nhâm thuộc cục thủy vậy phải phối hướng là Thân - Tý - Thìn.
2. Thế đất có thủy lưu đáo sơn Tân: sơn Tân thuộc cục Hỏa nhưng lại nằm vào thế mộ khố Tân - Tuất (song sơn ngũ hành). Dụng song sơn tam hợp cục để phối hướng, ta dùng:
* cục mộc: để tiếp nhận thủy lai phối hướng ở các sơn: Càn - Hợi, Giáp - Mão. Dùng cục thủy để khứ thủy phối hướng tại hai sơn Đinh - Mùi.
* cục thủy: để tiếp nhận thủy lai phối hướng các sơn: Khôn - Thân, Nhâm - Tý. Tiếp nhận thủy khứ tại hai sơn: Ất - Thìn.
* cục hỏa: tiếp nhận thủy lai phối hướng ở các sơn: Cấn - Dần, Bính Ngọ. Tiếp nhận thủy khứ phối hướng tại hai sơn: Tân - Tuất.
cục kim: tiếp nhận thủy lai đáo phối hướng tại các sơn: Tốn - Tị, Canh - Dậu. Tiếp nhận thủy khứ phối hướng tại hai sơn: Quý - Sửu.

Theo công thức như vậy, ta hình thành các phối hướng tam hợp cục như sau:
DÙNG THUẬT TRẠCH CÁT ĐỂ BỔ LONG TRONG VIỆC ĐỂ MỘ
Công thức dụng trạch cát tam hợp cục theo tứ trụ năm tháng ngày giờ, người ta chọn tứ trụ để bổ long là chính.
Ví dụ: gặp phải khu đất là "Khôn long", ta biết Khôn trong chính ngũ hành 24 sơn thuộc hành thổ, ta không cần biết ngôi mộ đó có hướng thế nào, ta cứ dựa vào đốt "Long nhập thủ" là Khôn long có hành thổ để bổ long:
dụng cục Ấn: sử dụng năm/tháng/ngày/giờ Dần/Ngọ/Tuất
dụng cục Tài: sử dụng năm/tháng/ngày/giờ Thân/Tý/Thìn
dụng cục vượng: hành thổ không có cục vượng.
Ví dụ: gặp phải thế đất có long nhập thủ là Mão long thuộc mộc, ta tiến hành bổ long như sau:
dụng cục Ấn: dụng năm/tháng/ngày/giờ Thân/Tý/Thìn
dụng cục Tài: hành mộc không có tài cục, bởi vì hành thổ không có tam hợp cục.
dụng cục Vượng: dùng năm/tháng/ngày/giờ Hợi/Mão/Mùi.
Ví dụ: gặp thế đất có long nhập thủ là Càn long hành kim, ta tiến hành bổ long như sau:
dụng cục Ấn: hành kim không có ấn cục, bởi không có tam hợp hành thổ
dụng cục Tài: sử dụng năm tháng ngày giờ Hợi/Mão/Mùi.
dụng cục Vượng: sử dụng năm tháng ngày giờ Tị/Dậu/Sửu
Ví dụ: gặp thế đất có long nhập thủ là Nhâm long hành thủy:
dụng cục Ấn: sử dụng năm tháng ngày giờ tạo thành tam hợp cục Thân/Tý/Thìn
dụng cục Tài: sử dụng năm tháng ngày giờ Dần/Ngọ/Tuất
dụng cục Vượng: sử dụng năm tháng ngày giờ Thân/Tý/Thìn
Ví dụ: gặp thế đất có long nhập thủ là Bính long hành hỏa:
dụng cục Ấn: sử dụng năm tháng ngày giờ tạo thành tam hợp cục Hợi/Mão/Mùi
dụng cục Tài: sử dụng năm tháng ngày giờ tam hợp cục Tị/Dậu/Sửu
dụng cục Vượng: sử dụng năm tháng ngày giờ tam hợp cục Dần/Ngọ/Tuất
4. TIỂU HUYỀN KHÔNG NGŨ HÀNH .
Tiểu huyền không ngũ hành chi tiết như sau:
Thuyết này do Dương Quân Tùng lập ra để đo lường sa, thủy mà đoán định hung, cát. Nguyên tắc chính là dùng sơn để xét sa, dùng hướng để xét thủy:
Thủy lai phải từ sơn hành vượng tướng cho hướng ngôi mộ: tức là khi tiếp nhận thủy lai, phải ở các sơn có ngũ hành đồng hành với ngũ hành của hướng (mộ); hoặc phải ở các sơn có ngũ hành sinh ra hành của hướng (mộ).
Thủy khứ phải từ sơn hành hưu tù của hướng ngôi mộ: khi thủy khứ, phải khứ từ các sơn có ngũ hành sinh xuất cho ngũ hành của hướng mộ; hoặc sơn có thủy khứ phải khắc nhập với ngũ hành của hướng mộ.
Lưu ý: tính toán thủy lai hay thủy khứ đều dùng "hướng". Khi dùng Tiểu huyền không để tính sa, thủy thì hoàn toàn dụng ngũ hành theo Tiểu huyền không chứ đừng bao giờ xen lẫn các dạng ngũ hành khác. Ngoài ra, tính sinh - vượng - mộ cho tiểu huyền không ngũ hành thì phải theo tam hợp chính ngũ hành:
Dùng tiểu huyền không để nạp thủy thì phải nạp thủy từ sơn Sinh, Vượng và khứ thủy tại sơn Mộ:
Hỏa (Bính Đinh Dậu Ất): nạp thủy tại Dần, Ngọ và khứ thủy tại Tuất
Kim (Càn Khôn Mão Ngọ): nạp thủy tại Tị, Dậu và khứ thủy tại Sửu
Mộc (Hợi Giáp Cấn Quý): nạp thủy tại Hợi, Mão và khứ thủy tại Mùi
Thổ và Thủy: nạp thủy tại Thân, Tý và khứ thủy tại Thìn.
Công thức Sinh - Vượng - Mộ của tam hợp cục nằm ở pháp thức "Thập nhị thần".
Ví dụ 1: Ngôi mộ tọa Nhâm hướng Bính, hướng Bính theo Tiểu huyền không thuộc hành hỏa, nên khi tiếp nhận thủy lai phải ở các sơn Hỏa, Mộc:
Hỏa: Bính Đinh Dậu Ất (chọn vượng khí: vì thủy lai hành hỏa đồng hành với hướng mộ)
Mộc: Hợi Giáp Cấn Quý (chọn tướng khí: vì thủy lai hành mộc sinh xuất cho hướng mộ hành hỏa)
Khứ thủy phải từ các sơn có hành sinh xuất: hành thổ, hoặc hành khắc nhập: hành thủy:
Thổ: Tuất Canh Sửu Mùi (hưu khí)
Thủy: Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm (tử khí)
Ví dụ 2: Ngôi mộ tọa Tý hướng Ngọ, theo Tiểu huyền không thì Ngọ hành kim, nên khi tiếp nhận thủy lai phải ở các sơn vượng (hành kim) tướng (hành thổ):
Kim: Càn Khôn Mão Ngọ (vượng khí)
Thổ: Tuất Canh Sửu Mùi (tướng khí)
Khứ thủy phải từ các sơn có hành sinh xuất (thủy) hoặc khắc nhập (hỏa):
Thủy: Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm (hưu khí)
Hỏa: Bính Đinh Dậu Ất (tử khí)
Ví dụ 3: Ngôi mộ tọa Khôn hướng Cấn, theo Tiểu huyền không thì thuộc mộc, nên khi tiếp nhận thủy lai phải từ các sơn vượng (mộc), tướng (thủy):
Mộc: Hợi Giáp Cấn Quý (vượng khí)
Thủy: Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm (tướng khí)
Khứ thủy từ các sơn hưu khí (hỏa), tử khí (kim):
Hỏa: Bính Đinh Dậu Ất (hưu khí)
Kim: CÀn Khôn Mão Ngọ (tử khí)
Ví dụ 4: Ngôi mộ tọa Giáp hướng Canh, theo tiểu huyền không thì Canh hành thổ, nên khi tiếp nhận thủy lai phải từ các sơn vượng (hỏa), tướng (thổ):
Hỏa: Bính Đinh Dậu Ất (vượng khí)
Thổ: Tuất Canh Sửu Mùi (tướng khí)
Khứ thủy từ các sơn hưu khí (kim), tử khí (mộc)
Kim: Càn Khôn Mão Ngọ (hưu khí)
Mộc: Hợi Giáp Cấn Quý (tử khí)
Ví dụ 5: Ngôi mộ tọa Càn hướng Tốn, theo tiểu huyền không thì sơn Tốn hành thủy, nên khi tiếp nhận thủy lai phải từ các sơn vượng khí (kim), tướng khí (thủy)
Kim: Càn Khôn Mão Ngọ (tướng khí)
Thủy: Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm (vượng khí)
Khứ thủy từ các sơn hưu khí (mộc), tử khí (thổ):
Mộc: Hợi Giáp Cấn Quý (hưu khí)
Thổ: Tuất Canh Sửu Mùi (tử khí)
Ví dụ 6: Ngôi mộ tọa Mão hướng Dậu, theo tiểu huyền không thì Dậu hành hỏa, nên tiếp nhận thủy lai từ các sơn vượng khí (hỏa), tướng khí (mộc):
Hỏa: Bính Đinh Dậu Ất (vượng khí)
Mộc: Hợi Giáp Cấn Quý (tướng khí
Khứ thủy từ các sơn hưu khí (thổ), tử khí (thủy):
Thổ: Tuất Canh Sửu Mùi (hưu khí)
Thủy: Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm (tử khí)
Ví dụ 7: Ngôi mộ tọa Cấn hướng Khôn, theo tiểu huyền không thì Khôn hành kim, nên tiếp nhận thủy lai từ các sơn vượng khí (kim), tướng khí (thổ):
Kim: Càn Khôn Mão Ngọ (vượng khí)
Thổ: Tuất Canh Sửu Mùi (tướng khí)
Khứ thủy từ các sơn hưu khí (thủy), tử khí (hỏa)
Thủy: Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm (hưu khí)
Hỏa: Bính Đinh Dậu Ất (tử khí)
5. ĐẠI HUYỀN KHÔNG NGŨ HÀNH .
Pháp thức này được hình thành và ghi lại từ "tứ kinh" thuộc "Thiên ngọc kinh":
Thiên bảo kinh: thuộc công vị thứ nhất, hành kim
Long tử kinh: thuộc công vị thứ hai, hành mộc
Huyền nữ kinh: thuộc công vị thứ ba, hành Thủy - Thổ
Bảo chiếu kinh: thuộc công vị thứ tư, hành hỏa
Nguyên tắc của nó là khởi từ tứ hành gia nhập, khi xác nhập các sơn Can và Chi, nó trở thành tứ hành liên châu. Xét 6 sơn trong mỗi công vị, ta thấy có 3 sơn thuộc địa chi và 3 sơn thuộc Can/Duy. Ta thấy rằng cứ 3 sơn thuộc địa chi đều cách nhau 4 vị, và 3 can/duy đều cách nhau 4 vị, gọi là "tứ hành". Lấy 3 sơn/duy và 3 chi kết hợp với nhau trong một công vị đại diện cho ngũ hành gọi là "Tứ hành liên châu".
CÔNG THỨC VẬN DỤNG .
Người ta dùng Đại huyền không ngũ hành để nạp thủy và phóng thủy, tất yếu phải dùng sơn và hướng của ngôi mộ để xét theo các nguyên tắc sau đây:
1. Dùng Chi thần làm "chính", Can thần làm "Linh": tức là tọa/hướng phải dụng địa chi của sơn.
2. Thủy lai phải đáo sơn thiên can/tứ duy
3. Hướng và Thủy phải đồng một công vị (gọi là "đồng hành") hoặc tương sinh.
Ví dụ: lập một ngôi mộ phải chọn tọa Mão hướng Dậu; tọa Thìn hướng Tuất; tọa Tý hướng Ngọ; tọa Dần hướng Thân...vv; Tức là lập tọa hướng cho một ngôi mộ chỉ được phép lập vào những sơn địa chi. Khi tiếp nhận thủy lai (tới) đáo phải là các sơn thuộc Can/Duy như: Càn khôn cấn tốn giáp ất bính đinh tân nhâm quý. 
Sau đó, dựa vào ngũ hành Đại huyền không để xem xét chọn ba quan hệ:
a) đồng hành (vượng khí),
b/ tương sinh (tướng khí);
c) trường sinh cục, tức là dựa vào tam hợp cục để tiếp nhận thủy lai
QUAN HỆ ĐỒNG HÀNH .
QUAN HỆ TƯƠNG SINH .
TRƯỜNG SINH CỤC .
Nguyên tắc dùng trường sinh cục là phải nạp thủy tại Sinh, Vượng và khứ thủy tại Mộ:
Kim cục tràng sinh tại Tốn - Tị, vượng tại Canh - Dậu, mộ tại Quý - Sửu
Mộc cục tràng sinh tại Càn - Hợi, vượng tại Giáp - Mão, mộ tại Đinh - Mùi
Thủy/thổ cục tràng sinh tại Khôn - Thân, vượng tại Nhâm - Tý, mộ tại Ất - Thìn
Hỏa cục tràng sinh tại Cấn - Dần, vượng tại Bính - Ngọ, mộ tại Tân - Tuất
ỨNG DỤNG: SỬ DỤNG KẾT HỢP TIỂU HUYỀN KHÔNG VÀ ĐẠI HUYỀN KHÔNG
Khi muốn lập hướng mộ phần ở các nơi có thủy lai tùy theo địa thế của cuộc đất, ta có thể kết hợp hai pháp Tiểu/Đại huyền không hợp nhất như các ví dụ sau:
Ví dụ 1: khi đứng trên thế đất dự định xây mộ phần, nhìn thấy có thủy lưu (đến) đáo sơn Càn. Ta sẽ có hai cách lập hướng theo huyền không như sau:
Tiểu huyền không: thủy lai đáo sơn Càn, mà Càn theo tiểu huyền không là thuộc kim nên ta chọn hướng của mộ phần theo vượng khí (kim) hoặc tướng khí (thủy):
* Kim: Càn Khôn Mão Ngọ (hướng thủy lai hành kim gặp hướng mộ hành kim nên tướng khí)
* Thủy: Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm (thủy lai hành kim sinh cho hướng mộ hành thủy nên tướng khí).
Đại huyền không: thủy lai sơn Càn thuộc tam long hành Thủy/thổ, xét theo:
* đồng hành: Mão - Tị - Sửu (hành thủy/thổ)
* tương sinh: Tý - Dần - Thìn - Cấn - Bính - Ất (hành kim)
Kết hợp cả hai pháp thức lại, ta có kết quả như sau: Tọa Ngọ hướng Tý; Tọa Thân hướng Dần; Tọa Tuất hướng Thìn; Tọa Hợi hướng Tị
Ví dụ 2: thế đất có thủy lai đáo sơn Giáp: 
qua phân tích tiểu/đại huyền không, ta thấy có hưởng Hợi, Dậu cả hai pháp thức tương đồng, vì vậy ta lập mộ tọa Tị hướng Hợi và tọa Mão hướng Dậu là đại cát. Tọa Canh hướng Giáp, tọa Đinh hướng Quý là thứ cát.
Ví dụ 3: Thế đất có thủy lai đáo sơn Dậu:
qua phân tích và so sánh hai pháp thức đại/tiểu huyền không, ta có thể lập mộ: tọa Mão hướng Dậu, tọa Sửu hướng Mùi.
Ví dụ 4: thế đất có thủy đáo sơn Ngọ:
Ta có thể thấy sự tương đồng giữa hai pháp quyết: tọa Tý hướng Ngọ; tọa Dần hướng Thân; là đại cát; tọa Cấn hướng Khôn, tọa Bính hướng Nhâm, tọa Ất hướng Tân là thứ cát. 

dienbatn giới thiệu -Xin xem tiếp phần 2 .
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ KIẾN TRÚC LĂNG MỘ TRUNG QUỐC .

9/27/2016 |
LƯỢC KHẢO VỀ KIẾN TRÚC LĂNG MỘ TRUNG QUỐC.
Dương Đạo Minh


Lời người dịch:Lược  khảo  về kiến trúc lăng mộ Trung Quốc của tác giả Dương Đạo Minh vốn là một chuyên luận đăng trong bộ Trung Quốc Mỹ Thuật Toàn Tập (tập 2, phần Kiến Trúc Lăng Mộ) do Trung Quốc Kiến Trung công nghiệp xã xuất bản và ấn hành năm 1988. Nhận thấy đây là một bài viết có giá trị, khả dĩ giúp ích cho các bạn đọc muốn tìm hiểu nền kiến trúc Trung Quốc cổ đại, chúng tôi đã cố gắng chuyển ngữ bài viết trên thành tiếng Việt. Tuy nhiên trong khi dịch, chúng tôi đã lược bớt một số đoạn đi viết hơi xa trọng tâm. Những phần trích dẫn từ các thư tịch cổ của bài viết chúng tôi cũng cố gắng dịch thẳng sang tiếng Việt, để tránh bớt sự rườm rà, trừ một số đoạn quan trọng. Mặc dầu đã đầu tư không ít tâm sức cho việc chuyển ngữ bài viết này, song do trình độ còn hạn chế, bản dịch chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết, kính mong bạn đọc lượng thứ và chỉ giáo thêm.
Huế-2001
Phan Thanh Hải
     Dân tộc Trung Hoa từ cổ xưa đã nhận thức "vạn vật hữu linh". Con người sau khi chết, linh hồn vẫn không bị tiêu tan mà vẫn tồn tại vĩnh viễn tại chốn "minh gian"(thế giới u minh của các hồn ma). Linh hồn ấy vẫn có cuộc sống như lúc sinh tiền, hơn thế còn có thể tự do lai vãng đến chốn trần gian. Quan niệm "sự tử như sự sinh" ấy đã khiến người Trung Hoa "sùng tông kính tổ", đời đời phụng tế, thế thế tương truyền mà hình thành nên tập tục. Qua quá trình lịch sử lâu dài dần dần sinh ra một loại hình kiến trúc sử dụng chuyên biệt cho việc an táng và tế tự người chết- kiến trúc lăng mộ, trở thành một trong những bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc cổ Trung Quốc.
            Kiến trúc lăng mộ gồm hai bộ phận hợp thành là địa thượng (bộ phận phía trên mặt đất) và địa hạ (bộ phận dưới mặt đất). Phần địa hạ phần nhiều mô phỏng tình cảnh sinh sống của người chết lúc sinh thời, dùng để an táng thi thể người chết và chôn theo các vật dụng, đảm bảo cho cuộc sống ấy tương tự như cuộc sống lúc còn ở trần gian. Phần địa thượng chủ yếu để cho người sau cử hành lễ tế tự và  đặt thần chủ. Hình thức tựa như đàn tế, nội dung lại như miếu đường, để nhằm tôn sùng hoặc tưởng niệm người đã khuất.
            Hai bộ phận trên kết hợp với nhau, tạo thành một hợp thể vừa để an táng vừa để tế tự. Đây cũng là nét đặc trưng độc đáo của kiến trúc lăng mộ so với tất cả các loại hình kiến trúc khác.
            Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, chế độ đẳng cấp rất nghiêm ngặt. Lăng mộ của vua Chúa và thần dân khác nhau hoàn toàn từ tên gọi đến qui mô, hình thức. Lăng mộ của vua Chúa thường được xưng là "Sơn", "Lăng", "Lăng tẩm"... Còn nói chung mộ của thần dân chỉ được gọi là " Trủng", "  khâu", "phần mộ"... Mộ của thần dân hình thức đơn giản, qui mô có hạn. Phần địa hạ chủ yếu đào huyệt đất, gọi là "thổ khoáng", "mộ khoáng", "mộ huyệt" hoặc "mộ thất". Còn toàn bộ phần trên, vun đất lại thành cái gò, tục gọi là "phong thổ", cái lớn thì gọi là "Trủng" (mả cao), "khâu",... nói chung đều thống nhất gọi là "phần đầu"   .
            Lăng mộ của vua Chúa qui mô hùng vĩ, kết cấu kiên cố bền vững, cấu trúc tinh mỹ. Phần địa hạ thường xưng là "minh trung", "huyền thất", "u cung", "địa cung". Phần địa thượng luôn có phần đất to lớn chắc chắn che chở, gọi là "Phương thượng", "Bửu đỉnh", hoặc dùng vòng tường thành cao lớn bao bọc, gọi là "Bửu thành". Lấy đó làm trung tâm, còn ở phía trước, có đài tế, Hiếu điện, Bi Biểu, Tượng đá người, thú, khuyết phường... Có khi phụ cận còn có thêm lăng mộ của hoàng hậu, viên tẩm của phi tần, thậm chí có số lớn mộ của huân thần, quí tộc cũng được bồi táng cùng. Khiến khuôn viên lăng chiếm đất hàng trăm km2.
            Ngoài ra, lăng mộ từ hình thức kiến trúc, vật liệu xây dựng, trang trí, các hoa văn cho đến màu sắc đều có những qui định chặt chẽ về đẳng cấp, lấy đó để biểu thị lòng tôn kính và đồng thời là phần thưởng cho những thành tích công trạng trong cuộc đời của người được an táng.
            Mỗi thời đại lại có những định chế đối với kiến trúc lăng tẩm riêng, không thể vượt qua. Giai cấp thống trị cũng lợi dụng nó để củng cố trật tự xã hội phong kiến, bảo vệ công cụ chủ yếu là chế độ tôn pháp.
            Bởi thế, ở bất cứ nơi nào kiến trúc lăng mộ đều thể hiện rõ quan niệm đẳng cấp rất nghiêm ngặt.


 1.KIẾN TRÚC LĂNG MỘ TRUNG QUỐC TỪ KHỞI THỦY
 ĐẾN THỜI TẦN -HÁN.

            Lăng mộ là một tiêu chí biểu thị nhân loại đã bước vào xã hội văn minh. Kiến trúc lăng mộ ở thời kỳ sớm nhất có thể tìm về nền văn hóa  Ngưỡng Thiều trước Công nguyên 5-6000 năm tại thôn Bán Pha thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây. Đây là di chỉ cư trú của công xã thị tộc thời nguyên thủy. Tại đây đã phát hiện các huyệt mộ hợp táng nhưng phân theo giới tính nam, nữ, chôn kèm cả đồ gốm nhật dụng.
            Ở di chỉ văn hóa Long Sơn, cách đây 4-5000 năm, đã phát hiện hình thức đơn thể mộ táng và nam nữ trưởng thành hợp táng ,ở trong huyệt mộ còn phát hiện di tích ván gỗ. Khai quật cho thấy rõ quách gỗ có hình chữ T.
            Trong thời kỳ chế độ công xã thị tộc phụ hệ, tức tương đương với thời Viêm Hoàng (trong Tam Hoàng Ngũ Đế) của truyền thuyết Trung Quốc, người sau khi chết thì táng vào huyệt đất, lấp bằng mặt, không để lại vết tích hay lưu niệm gì, "cổ dã, mộ nhi bất phần" (Lễ Ký), là hình thức cơ bản của lăng mộ thời bấy giờ. Hiện tại, lăng của Hoàng đế, Thiếu Hạo và Đại Vũ (ba vị Hoàng Đế của thời Tam Hoàng) đều không còn nguyên trạng mà đều cho người đời sau căn cứ vào truyền thuyết để xây nên.
            Từ thế kỷ 21 đến thế kỷ 11 trước Công nguyên, Trung Quốc bước vào xã hội nô lệ với các triều đại Hạ, Thương. Nhà Thương sùng tín quỷ thần, hết sức trọng thị việc xây dựng lăng mộ, huy động rất nhiều nô lệ để xậy dưng rất nhiều những ngôi mộ to lớn với huyệt sâu, quách to. Ở thành phố An Dương tỉnh Hà Nam đã phát hiện hơn 20 ngôi mộ lớn loại này. Bình diện mộ thường là hình vuông hoặc hình chữ  nhật, chôn ở độ sâu từ 8-13m. Ngôi lớn nhất rộng đến 460m2, 4 bề có đường dốc lên. Dưới quách lót ván gỗ. Trên đỉnh quách lót bằng gỗ phương. Bên trong tường quách dùng màu vẽ hoặc chạm khắc hoa văn trang trí, phản ánh nhu cầu thẩm mỹ rất cao của thời bấy giờ. Phía trên mộ thất chỉ nén chặt đất, không đắp gò, trồng cây,nên không để lại một dấu vết gì. Đây là đặc điểm của kiến trúc lăng mộ thời kỳ này. (sơ đồ 1)
            Thế kỷ 11trước Công nguyên, nhà Tây Chu lập quốc, phong hầu ,xây dựng nên chế độ tông pháp, tuyên truyền trung tín, giảng dạy lễ nghĩa, tăng cường hoạt động tế tự, cầu cúng... Hình thức kiến trúc lăng mộ đơn thể tương tự thời Hạ, Thương nhưng đã thiết lập những qui định và chế độ quản lí chuyên biệt từ an táng từ thiên tử, chư hầu khanh đại phu với chế độ "công mộ" đến mai táng thần dân với chế độ "bang mộ", "công mộ" lấy Thiên tử làm trung tâm, chư hầu ở hai phía tả hữu phía trước, khanh đại phu ở phía sau. Công mộ và Bang mộ đều là "Tộc táng" (Chu lễ), lấy tước vị cao thấp để xác định phong thổ to nhỏ, trồng cây ít nhiều, biểu thị chế độ đẳng cấp rất nghiêm ngặt.
            Thời kỳ Xuân Thu bắt đầu xuất hiện phần "địa thượng" (phong thổ). Phong thổ đại thể  có "đường"  , "phòng"  , "Phúc Hạ"   , "phủ"( )   , 4 hình thức cơ bản (phủ còn gọi là bờm ngựa). Đại khái yếu tố phong thổ chưa lớn, số cây trên mộ và các yếu tố khác sai biệt nhau không nhiều. Thời gian lại quá dài nên khó phân biệt. Đến nay, di tích mộ Chu Văn Vương và Chu Võ Vương vẫn đang chờ ngày xác định.
            Thời Chiến Quốc, phong thổ trong kiến trúc lăng mộ dần dần lớn hơn. Tuy nhiên, phần kiến trúc ở phía trên nó thường gặp không còn rõ ràng. Năm 1978 người ta khai quật phát hiện được sơ đồ khu vực mộ của Vương Triệu ở Trung Sơn. Sơ đồ làm bằng bạc đúc thành. Điều đó chứng tỏ thời kỳ này người ta đã biết qui hoạch và thiết kế cho kiến trúc lăng mộ, đồng thời càng cho thấy phần phong thổ của lăng mộ thời kỳ này có dạng chữ     .
            Đến thời kỳ này, kiến trúc lăng mộ từ địa hạ đến địa thượng, từ tạo hình từng đơn thể đến tổng thể bố trí đã cơ bản hình thành một chế độ hoàn chỉnh. Xu hướng làm phần phong thổ to lớn xuất hiện. Đây đồng thời là một tiêu chí đánh dấu kiến trúc lăng mộ trở thành một bộ phận trọng yếu của kiến trúc Trung Quốc cổ đại.
            Tần Thủy Hoàng tiêu diệt sáu nước, chấm dứt cục diện phân biệt kéo dài của Trung Quốc, lập nên chính quyền phong kiến trung ương tập quyền lần đầu tiên trong lịch sử quốc gia này. Tần Vương Doanh Chính sau khi lên ngôi liền lập tức cho người đi tìm đất xây dựng lăng mộ, sử gọi là "Xuyên Trị Li Sơn"  . Lăng Tần Thủy Hoàng vô cùng lớn. Lực lượng nô lệ huy động đến 72 vạn người, thời gian kéo dài 37 năm. Đây là ngôi lăng mộ đế vương cổ nhất ở Trung Quốc hiện nay. (sơ đồ 2)
            Lăng mộ Tần Thủy Hoàng ở chân núi phía bắc của ngọn Li Sơn huyện Lâm Đồng tỉnh Thiểm Tây. Phía nam dựa vào núi Li Sơn, phía bắc chạm đến sông Vị Thủy. Bình diện lăng hình vuông, cạnh đông- tây ở đáy là 345m, cạnh nam- bắc là 350m lăng cao 43m. Bốn bề có những vòng tường bao bọc, tạo nên bình diện hình chữ nhật. Khu lăng được đặt dọc theo chiều bắc- nam. Vòng trong chu vi là 2,5km, vòng ngoài chu vi chừng 6km. Nhìn trên tổng thể, phần lăng chính ở đây được bố trí sát về phía nam hơn. Chính ở điểm giữa của tường lăng, ở 3 mặt đông, tây, nam đều trổ cửa, đăng đối với nhau. Gần đây, trong khuôn viên của lăng người ta đã phát hiện những di thể kiến trúc. Đó là xe ngựa đồng, phối táng cùng đội Binh Mã Dũng có thể hình rất lớn. Điều đó khiến người ta phải có nhận thức mới về kiến trúc lăng mộ. Sử Ký Tư Mã Thiên, phần Tần Thủy Hoàng Bản Kỷ đã viết: "Xuyên tam tuyền, hạ đồng nhi chí quách, Cung quán bách quan kỳ khí trân quái đồ tàng mãn chi, lệnh tương tác cơ nỗ thỉ, hữu sở xuyên cận giả  xạ chi, dĩ thủy ngân vi bách xuyên giang hà đại hải, cơ tương quán luân, thượng cụ  thiên văn, hạ cụ địa lý. Dĩ caongư vi chúc, độ bất diệt giả cửu chi"
            (Đào 3 con suối, dưới quách đổ đồng, trong chứa đầy các đồ trân quí. Cung điện có trăm quan. Lệnh cho thợ làm máy bắn nỏ, bắn ra mỗi khi có kẻ đến gần. Đổ thủy ngân làm trăm sông và biển lớn, làm cho chảy thông nhau. Trên có đủ thiên văn, dưới có đủ địa lý. Lấy dầu cá đốt sáng, tính cho cháy lâu dài không bao giờ tắt). Phần mô tả trên chủ yếu nói về tình hình một thất ở phần địa hạ. Với những tư liệu hiện có có thể biết, các địa cung của mộ cơ bản đều dùng hình thức mộ lớn, quan tài gỗ, bốn phía đều trổ lối đi theo lệ từ thời Thương- Chu. Hình thể lăng bên trên cao lớn, vuông vắn. Trên lăng có "quảng thực thảo mộc" (nhiều loại cây cỏ) khiến lăng được tôn cao như núi, làm cho lăng có vẻ oai nghiêm trang trọng. Từ đây thành lệ, kiến trúc lăng mộ đế vương Trung Quốc trong bố cục luôn lấy cao to làm quí, lấy vuông vắn làm tôn nghiêm
            Đội Binh Mã Dũng có thể là "cung quan bách quan"trong tư liệu? Việc khai quật tìm thấy đội Binh Mã Dũng này không chỉ chứng tỏ qui mô to lớn của lăng Tần Thủy Hoàng mà mặt khác, nó cũng cho thấy tài năng, trí tuệ và nghệ thuật điêu khắc cao siêu của những nghệ nhân thời kỳ này. Tượng có đến số ngàn. Tay tượng cầm cung đao, thần thái mỗi tượng đều có nét riêng tựa như người thật, ngựa thật... tái hiện nên khí thế hùng mạnh một thời của quân đội Tần.
            Năm 206. CN, nhà Tây Hán thay nhà Tần thống nhất Trung Hoa. Hán Vũ đế bài trừ bách gia, độc tôn nho giáo, cho sứ thông thương với Tây vực, tuyên truyền Thiên nhân cảm ứng, kiện toàn nghi lễ tế tự, xếp việc hậu táng thành phong tục. Lăng mộ đế vương từ đời Hán khởi xưng là "Lăng". Tất cả mộ của thần dân đều gọi là "mộ phần". Toàn dân đều rất trọng thị kiến trúc lăng mộ, dần dần hoàn thiện những qui chế về lăng mộ. Kiến trúc lăng mộ vì thế càng phát triển toàn diện. Các hoàng đế nhà Hán sau khi lên ngôi, ngay năm sau liền phái tướng huy động dân tìm đất xây thọ lăng. Nhà Hán noi theo quy chế nhà Tần. Phần Phong Thổ làm hình vuông, đỉnh bằng và kiểu lăng đài chóp cụt, tục gọi là "phương thượng" cao tới 12 trượng (12 x 2,2m = 26,4m), bốn bên có thành đất, chính giữa bốn mặt trổ khuyết môn, chiếm diện tích đất 7 khoảnh (7 x 100 mẫu = 700 mẫu). Lăng thể cao lớn, 4 phương đối xứng, như cái gò mà cũng tựa như cái đầu, trông vẻ trang trọng thần thánh. Phần địa khoáng của địa cung năm ngay dưới phần Phương Thượng, gọi là "Phương Trung", sâu tới 13 trượng (13 x 2,2m = 28,6m), 4 bên có đường vào, huyệt đất, quan tài gỗ, được xem là hình thức mộ táng cao cấp nhất. Trên mộ là nấm đất (phong thổ) to lớn. Ở phía tây của lăng hoàng đế còn có lăng mộ hoàng hậu, lăng viện tiệp dư, quý thích, huân thần bồi táng cùng trong mộ khu vực. Ngoài ra, ở bên cạnh lăng viên còn xây thêm tông miếu và lăng ấp, hình thành nên cả một quần thể đế lăng rộng lớn.
            Việc xây dựng lăng của hoàng đế nhà Tây Hán đã thành định chế, mỗi năm dùng 1/3 số thuế  thu nhập của toàn quốc để tu bổ lăng mộ. Do các hoàng đế tại vị thời gian dài ngắn không giống nhau, nên thực tế là lăng mộ của họ cũng to nhỏ khác nhau. Trong đó Hán Vũ đế ở ngôi 54 năm. Lăng mộ của ông, Mậu Lăng là lăng hoàng đế lớn nhất thời Tây Hán (sơ đồ 3).
            Mậu lăng, phần Phương thượng làm hình vuông, đỉnh bằng kiểu lăng đài chóp cụt chiều đông- tây của đáy trên là 39,5m, chiều nam bắc 30,5m đáy dưới, đông tây dài 231m, nam bắc là 234m. Lăng cao 46,5m. kích thước Mậu lăng tương đương lăng Tần Thủy Hoàng. Lăng thể có cạnh đáy ngắn, chiều cao lại lớn, bình diện tả hữu đối xứng. Lập diện mặt chính tương đương với mặt bên. Nó được đặt giữa bình nguyên rộng lớn 3vùng Quan Trung, cân đối, trang nghiêm, so với lăng Tần Thủy Hoàng còn có phần to lớn,  kỳ vỹ hơn.
            Ở  xung quanh lăng còn có lăng mộ Lý phu nhân, mộ của Vị Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, Hoắc Quang, Kim Nhật Đạn... qui mô, hình thức các lăng mộ này đều nhỏ hơn lăng Tần Thủy Hoàng.
            Trong các lăng hoàng đế Tây Hán, Bá Lăng là tiết kiệm nhất. Lăng có hình thức rất độc đáo, đục núi làm lăng, không xây phần nấm đất phía trên. Đây là lăng khai sáng cho một hình thức mới: đục núi làm lăng mộ.
            Đông Hán dời đô về Lạc Dương. Chế độ trung ương tập quyền bị suy yếu. Một số thức giả đề xướng xu hướng coi nhẹ việc hậu táng. Lăng hoàng đế thu nhỏ nhiều so với trước. Đa số lăng không bằng nửa lăng hoàng đế Tây Hán, 4 bề lại không có tường thành, lấy "hành mã" (đường đi) để thay thế. Chính giữa 4 bên có khuyết môn gọi là "Tư mã môn". Phía nam, bên trong của Tư mã môn, phía trước lăng đặt đài tế, Thạch điện. Ngoài cửa, 2 bên của thần đạo bố trí tượng người, thú bằng đá. Theo văn hiến ghi lại, bên cạnh lăng còn xây viên tự, sai xá, Tẩm diện, Tiện điện..v..v.. Trong số lăng các hoàng đế Đông Hán hiện còn lăng của Quang Vũ đế có qui mô lớn nhất. Lăng thể hình chùy tròn, cao 12m, chu vi ước độ 500m. Ngoài có tường hình vuông bao bọc, 4 bên ở chính giữa có cửa. Lăng hoàng đế thời Hán đã hình thành kiểu bố cục lăng thể là trung tâm của bình diện. Ở phía chính nam có một đường thần đạo ngắn và đơn giản, khiến cho bình diện tổng thể đã có bước phát triển. Trong "Hán luật" của thời Tây Hán có ghi "phần mộ của bậc hầu cao 4 trượng. Từ hầu xuống đến dân chúng có sự sai biệt (to nhỏ khác nhau). Mộ cỡ vừa và nhỏ lấy hình kiểu vuông làm quí, độ cao bị khống chế từ 4 trượng trở xuống". Ở thời kỳ đầu, mộ chủ yếu dùng hình thức: "huyệt đất, quan gỗ". Từ thời Chiến Quốc xuất hiện xây mộ thất rỗng bằng gạch. Kiểu mộ gạch đá kiên cố trường tồn này dần dần thay thế hình thức "huyệt đất, quan gỗ". Thời Đông Hán, thế lực quý tộc phát triển, hoạt động tế tự lăng mộ càng rầm rộ để mong lăng mộ được bình yên trường tồn. Kiến trúc lăng mộ ở địa thượng, địa hạ đều dùng một lượng lớn các vật liệu gạch đá khiến cho kiểu kiến trúc lăng mộ gạch đá ngày càng phát triển.
            Kiến trúc mộ thất bằng phần địa hạ gạch đá, thời kỳ đầu chỉ làm đơn giản với bình diện hình chữ nhật. Về sau, bình diện do tiền thất, trung thất và hậu thất 3 bộ phận hợp thành, có cái còn có nhiều phòng phụ ở 2 bên. Mộ thất càng tăng (diện tích), bình diện quách càng phức tạp (sơ đồ 4)
            Phần cấu tạo của đỉnh mộ thất có hình thức kết cấu kiểu xà ngang, ván, ván chống các loại: đa biên củng, giản hình củng, lũy phúc đấu tỉnh hoặc khung long đỉnh... kết cấu hợp lí, thi công tinh mỹ, nên kiên cố trường tồn với thời gian.
            Mộ thất xây bằng gạch đá trang trí và sử dụng vật liệu không giống nhau, phân làm 3 loại "Họa tượng chuyên mộ" (mộ gạch vẽ hoa văn), "họa tượng thạch mộ" (mộ đá vẽ hoa văn) và "bích họa mộ" (mộ có tường vẽ). Các loại mộ này bên trong bố trí đầy những điêu khắc và bích họa, phản ánh hội họa đương thời, trình độ nghệ thuật điêu khắc đương thời... đồng thời chúng là những kho tàng về điêu khắc, hội họa trong lòng đất.
            Trên bề mặt kiến trúc bắt đầu xuất hiện tượng đá. Căn cứ vào sách "Phong thị văn kiến ký" có ghi: "Từ thời Tần, Hán trở lại, trước lăng mộ hoàng đế có tượng đá kỳ lân, tượng đá tịch tà (tượng một loại thần hình dạng như sư tử nhưng có cánh, chuyên trừ tà ma, tượng người đá, ngựa đá.
            Mộ của thần dân phía trước có tượng dê đá, hổ đá, tượng người, trụ đá... Trang trí ở mộ phần gồm các nghi vệ tựa như lúc sinh tiền. Tuy nhiên, đến nay không thể tìm thấy ngôi mộ nào có đầy đủ các thứ như vừa kể. Hiện còn đầy đủ nhất các loại tượng trong kiến trúc lăng mộ Trung Quốc là mộ của Hoắc Khứ Bệnh thời Tây Hán. Hoắc Khứ Bệnh là một danh tướng thời Hán Vũ đế, làm quan tới chức Đại tư mã phiêu kị quán quân hầu. Khi chết được ân tứ cho bồi táng ở cạnh Mậu Lăng. Mộ đặt ở núi Kỳ Liên. Trên mộ đặt một số lớn tượng điêu khắc cùng với các loại cây cỏ, tái hiện nên quang cảnh Kỳ Liên Sơn với các loại dã thú. Các loại tượng điêu khắc phong phú, tạo hình kiểu cổ điển, thủ pháp điêu khắc đơn giản. Các loại tượng như: ngựa đang nhảy lên, ngựa nằm, tượng bò đực, tượng hổ nằm, lợn rừng, con cóc, cá, tượng gấu, tượng người.v.v. đều đá gần như nguyên trạng, dùng thủ pháp điêu khắc cực đơn giản tùy theo hình dáng của nguyên liệu để điêu khắc, tạo nên hình tượng cổ điển. Ở gần nhìn có vẻ cố tạo nét tả thực, ở xa trông tới lại có vẻ cực kỳ đơn giản, giống như như những viên đá núi, lại có vẻ khi ẩn khi hiện, tựa hồ những dã thú khi thấy khi không. Các tượng đá này có phong cách độc đáo, phản ánh trình độ thông tuệ và kỹ thuật cao siêu của người thợ xưa. Thực xứng đáng là những sản phẩm trân bảo của đời Tây Hán.
            Từ thời Đông Hán trở đi, điêu khắc đá và kiến trúc đá ở lăng mộ càng được sử dụng rộng rãi. Văn hiến ghi lại không ít những điều này. Cũng không thiếu những di vật còn lại đến ngày nay... chứng tỏ nó đã trở thành một bộ phận trọng yếu của kiến trúc lăng mộ.
            Cửa đá bỏ kết cấu gỗ mà thành. Đa số bố trí ở phía trước lăng. Đây làm một tiêu chí quan trọng để đi vào khu lăng mộ. Hiện trong rất nhiều cửa mộ còn tồn tại thì cửa mộ phía trước của mộ Châu Thái Thú Cao Di ở huyện Nhã An tỉnh Tứ xuyên, là có tạo hình và điêu khắc tinh tế nhất, được xem là tác phẩm cổ điển của thời Hán. Tượng đá điêu khắc ở đây có tượng sư tử, Tịch Tà, hổ, trâu, dê, ngựa, lạc đà... bố trí đối xứng thành từng đôi hai bên đường thần đạo. Chúng biểu thị cho ý nghĩa tốt đẹp và sự bảo vệ. Phẩm loại, số lượng tượng thú ở lăng mộ tượng trưng cho địa vị, đẳng cấp của chủ nhân.
            Thạch biểu (cột đá) còn gọi là Thần đạo trụ (cột ở trên thần đạo) nguyên xưa bằng gỗ. Đặt tại đoạn trước của Thần đạo. Tháng 6/1964 người ta đã phát hiện cột biểu mang tên "Hán cố U châu thư tả Tần quân thần đạo" ở núi Cảnh Sơn- Thành phố Bắc kinh. Đây là chiếc cột đá cổ nhất của đời Hán. (sơ đồ 5)
            Bia đá (thạch bi) nguyên xưa làm bằng gỗ, vốn là một công cụ để hạ táng. Thời Đông Hán trở thành một tiêu chí tất phải có bố trí ở phía trước lăng mộ.
            Bia do 3 bộ phận: trán bia, thân bia, đế bia hợp thành. Bia thời Hán trán có ba kiểu: hình viên ngọc, hình bán nguyệt và hình vuông. Ở chính giữa có một lỗ tròn gọi là "xuyên". Đây là một đặc điểm của bia thời Hán. Thạch điện còn gọi là Thạch Từ, Thạch Miếu, dựng ở phía trước lăng mộ, là nơi tế cúng, cử hành nghi lễ.
            Từ đời Tần Hán, kiến trúc lăng mộ đã hình thành sự kết hợp giữa phần địa thượng và địa hạ. Lăng thể từ lớn biến thành nhỏ, thần đạo từ ngắn chuyển thành dài. Trước lăng có tượng đá điêu khắc và kiến trúc đá. Đây là đặc trưng của bước phát triển trong kiến trúc lăng mộ đương thời.


            2 TỪ THỜI TAM QUỐC ĐẾN THỜI TÙY -ĐƯỜNG

Bắt đầu từ thời Tam quốc đến khi nhà Tùy thống nhất Trung Hoa, hơn 300 năm (CN 220-581) ấy là thời kỳ Trung Quốc phân liệt chiến tranh loạn lạc liên miên, xã hội biến động, kinh tế suy thoái. Trong sự biến động ấy, nhiều lăng mộ của thời kỳ trước bị bọn đạo chích đào trộm. Có bậc thức giả chủ trương đề cao việc mai táng đơn giản. Chiến tranh cũng khiến tục mai táng biến đổi Ngụy Văn đế từng để lại di chiếu với các điều:
            "Lấy núi làm lăng, táng tại rừng núi, không làm tẩm điện, không tạo viên ấp, không thông thần đạo, mộ không nấm đất, không trồng cây, loại trừ tế lễ ở lăng mộ, tế lễ chỉ tổ chức tại tông miếu..." (Ngụy Thư, Ngụy văn Đế bản kỷ)
            Trong tình hình đó, lăng mộ đã cải biến hình thức, qui mô thu nhỏ, thậm chí phần địa thượng chẳng dấu lưu lại dấu tích gì, tựa như cách thức thời Hạ, Thương. Hình thức tiềm táng hoặc biến tướng của nó là hình thức mai táng cơ bản của thời kỳ này. Nó chứng tỏ kiến trúc lăng mộ thời kỳ này đã vào thời kỳ  thoái trào
            Ngụy Hoàng năm 3 (năm 222 sau CN), Ngụy Văn Đế căn cứ vào điều "bỏ tế tại lăng, tế tự chỉ tổ chức tại tông miếu" để hủy hoại phần kiến trúc bên trên của lăng Ngụy Võ Đế (tức lăng Tào Tháo).
            Nhà Thục, Chiêu Liệt đế Lưu Bị chết tại thành Bạch Đế, mộ táng tại Thành Phố Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên, xưng là Huệ lăng. Nấm lăng hiện còn hình tròn, xung quanh có vòng tường cao chừng 12m bao bọc. Trước lăng có tấm bia khắc chữ "Hán chiêu liệt hoàng đế chi lăng" dựng năm Thanh Càn Long 52. Tường sau có gắn tấm đá khắc dòng chữ "Hán chiêu liệt chi lăng", dựng năm Thanh Khang Hy 7. Ngoài ra không còn dấu vết di vật gì.
            Lăng của các hoàng đế triều Đông Tấn đều táng tại huyện Giang Ninh, thành phố Nam Kinh, đa số lăng này không xây nấm bên trên. Đa số mộ của thần dân đều đơn giản hơn ở các triều đại. Mộ thất xây gạch đá thịnh hành khắp nơi. Phần nhiều sử dụng lối họa tượng hoặc bích họa để trang trí mộ thất.
            Thời kỳ Nam Bắc Triều, xã hội Trung Quốc tạm yên ổn, kinh tế phục hồi, người ta căm ghét chiến tranh, tôn sùng Nho thuật, Phật giáo cũng thịnh hành. Kiến trúc lăng mộ lại có dịp hồi phục. Các triều Tống, Tề, Lương, Trần đều đóng đô ở Kiến Khang (nay là Nam Kinh) 
            Trong hơn trăm năm đó, tại khu vực này còn lưu lại cả một hệ thống lăng mộ đế vương công hầu.
            Nhìn chung, phía trước lăng, hai bên đường Thần đạo đều đặt tượng đá thú, Thần đạo trụ (hoa biểu), bia đá .v.v. Ở Nam kinh hiện nay còn hơn 30 nơi có đặt tượng đá điêu khắc của Nam triều gồm có tượng đá, cột đá (cột biểu), bia đá... Tượng thú ở phía trước mộ Tiên Cảnh, có thể xem là tiêu biểu. Hình thể tượng to lớn, dáng dấp tựa sư tử nhưng hai bên lại có cánh. Đầu tượng ngẩng cao, ngực ưỡn, trông oai nghiêm hùng tráng. Tạo hình rất sinh động, điêu khắc tinh mỹ, thật đúng là tinh phẩm của Nam triều.
            Thạch Trụ, còn gọi là Thạch biểu (cột đá) hoặc Thần Đạo Trụ, được ứng dụng rất phổ biến trong lăng mộ thời Nam- Bắc triều. Thạch biểu thường được đặt ở chỗ bắt đầu bước vào khu lăng mộ, bố trí thành một cặp. Hiện nay ở thôn Thạch Trụ huyện Định Hương tỉnh Hà Bắc có một Thạch trụ thời Bắc Tề niên hiệu Đại Ninh 2, mang tên "Nghĩa Từ Huệ Thạch Trụ". Đây là trụ biểu kỷ niệm duy nhất của Trung Quốc cổ đại đặt tại lăng mộ một thường dân.
            Thạch trụ này cao khoảng 7m, gồm 3 bộ phận hợp thành là Thạch điện, thân trụ và đế trụ. Trụ được tạo hình rất lạ, điêu khắc thật tinh tế. Phần dưới chân trụ tạo hình vuông, trên hình tròn khắc hoa văn cánh sen. Thân trụ dài, mặt chính diện khắc Tụng văn (lời ca ngợi). Trên đỉnh trụ có một tòa thạch điện nhỏ trong khắc Am Phật và tượng Phật, nhìn tựa như một Phật đường, cột trụ này đặt ở phía trước mộ.
            Hiện ở huyện Tập An tỉnh Cát lâm còn lưu lại mộ của một vị tướng quân, mang tên "Tướng Quân Phần". Đây là ngôi mộ dùng các viên đá lớn xếp thành, tạo nên một hình lăng trụ lớn 7 tầng, được xưng tụng là "kim tự tháp của phương Đông"
            Thời Tùy, Đường ở Trung Quốc là thời kỳ xã hội phong kiến thịnh trị. Đây cũng là thời kỳ kiến trúc cổ Trung Quốc đi vào giai đoạn thành thục và phát triển cao. Quốc gia thống nhất, kinh tế phồn vinh, văn hóa nghệ thuật phát triển rực rỡ, thiên hạ giàu có. Tục hậu táng lại thịnh hành. Kiến trúc lăng mộ noi theo thời Hán, thích làm cao lớn, xem tạo hình vuông là quý. Từ Chiêu Lăng của Thái Tông trở đi, lấy núi làm lăng, qui mô kiến trúc lăng mộ đã có bước biến đổi rất lớn. Thái Lăng của Tùy văn Đế, Hiếu lăng của Đường Cao tổ đều lấy Trường Lăng, Nguyên lăng của nhà Hán làm quy phạm noi theo.
            Đường Thái Tông lấy núi làm lăng, đục núi làm mộ, theo qui chế nhà Hán, dựng thành vuông, làm Thạch điện, khắc tượng đá, phù điêu ngựa chiến, lấy đồ vật để xưng tụng công lao. Trên dựng tẩm điện, dưới xây tẩm cung, lại ân tứ cho quý thích huân thần được bồi táng trong khu vực đến hơn 200 mộ. Lăng viên chiếm một khoảnh đất chu vi 6 km. Toàn lăng là một ngọn núi cao 1188m so với mặt biển. Núi đứng độc lập, nguy nga hùng vĩ... Đây là lăng mộ khởi đầu cho phong cách kiến trúc "lấy núi làm lăng".
            Trong các lăng hoàng đế thời Đường, Càn lăng được xem là điển hình. Càn lăng là lăng mộ hợp táng của Đường Cao Tông và Võ Hậu (Võ Tắc Thiên). Nguyên lấy ngọn Lương Sơn làm lăng. Đây là một ngọn núi cao lớn hùng vĩ của phương bắc. Núi cao 1047m so với mặt biển. Phía nam có 2 ngọn núi nhỏ, thấp, đỉnh bằng phẳng. Phía đông và tây đều thoáng đãng. Địa cung được đặt ở sườn phía bắc núi. Trước lăng nguyên có Hiếu điện. 4 bề quanh núi có thành hình vuông bao bọc, chính giữa trổ cửa. Cửa phía đông gọi là Thanh Long môn, tây là Bạch Hổ môn, nam là Chu Tước môn, bắc xưng Thần Vũ môn. Đường Thần đạo phía trước Hiếu điện chạy xuyên qua Chu Tước môn, qua cửa vào đặt ở các ngọn núi phía nam Lương Sơn, dài đến 4km. Đường Thần đạo dài như vậy thực hiếm thấy trong kiến trúc lăng mộ trước đó. Ở 2 bên Thần đạo dưới các ngọn núi phía nam đặt một đôi trụ biểu đá. Từ đây vào đó Chu Tước môn, hai bên Thần đạo bày rất chỉnh tề tượng người đá, thú đá và tượng phiên vương, tất cả hơn 100 bức, tạo không khí nghiêm trang như khi đang thiết triều vậy. Phía trước cửa Chu Tước, ở 2 bên đều có bia đá. Bên phía đông có "vô tự bi" (bia không chữ), phía tây có "Thuật Thánh bi" (bia thuật lại cuộc đời, công lao của bậc thánh). Thuật Thánh bi dùng 7 tảng đá lớn ghép thành. Phía trên bia có lợp mái kiểu Vũ điện. Văn bia do đích thân Võ Tắc Thiên tuyển lựa. Nội dung ca ngợi công đức của Đường Cao Tông. Đây là tấm bia ca ngợi công đức có sớm nhất trong lịch sử kiến trúc lăng mộ Trung Quốc.
            Với vòng thành do bàn tay con người xây dựng to lớn hùng vĩ vây quanh núi Lương Sơn, với đường thần đạo dài hun hút và vô số các tượng đá được trình bày chỉnh tề hai bên nó, Càn lăng đã tạo nên một ấn tượng hùng vĩ lạ kỳ. Trong khung cảnh tự nhiên ấy, sự kỳ vĩ của lăng đã biểu hiện  ý thức "duy ngã độc tôn", "đế quyền tối thượng" của vua Chúa nhà Đường.

                                               3 TỪ THỜI TỐNG ĐẾN  TRƯỚC THỜI MINH  

Từ năm 907 CNvề sau, Trung Quốc bước vào thời kỳ "ngũ đại thập quốc" với các cuộc chiến tranh phân liệt liên tục nổ ra. Nền kinh tế đại suy thoái. Do biến động như vậy, kiến trúc lăng mộ dường như không cần "cao, hiển", qui mô lăng mộ trở nên nhỏ bé.
            Năm 960, nhà Tống thống nhất Trung Nguyên, kinh tế bắt đầu có những bước chuyển biến tốt. Nhưng về chính trị, quân sự vẫn rất bấp bênh. Nhà Tây Hạ và nhà Kim đã trở thành lực lượng đối địch. Kiến trúc lăng mộ noi theo qui chế thời Đường nhưng sơ sài hơn nhiều. những hạn chế về kinh tế chính trị đã ảnh hưởng đến qui mô của lăng các hoàng đế. Sự thống nhất và tương đối ổn định của nhà Tống đã làm nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp có bước phát triển lớn. Nền kinh tế được chấn hưng đã thể hiện rõ ở việc gia tăng các hình thức trang trí, tạo hình ở mộ phần của quan lại, quý tộc. Từ 907-1368, trong hơn 400 năm đó tuy có nhiều triều đại thay thế nhau, bối cảnh lịch sử từng lúc không giống nhau nhưng qui mô kiến trúc lăng mộ ít có sự biến đổi, kiến trúc phần địa thượng ít biến hóa. Phần địa hạ, mộ thất được kiến tạo hoàn chỉnh, trang trí tinh tế. Đây là đặc điểm chung của thời kỳ này.
            Thời Ngũ Đại, tiền Thục chủ Vương Kiến lăng và Khâm lăng thời Nam Đường, qui mô không khác nhau bao lâu. Phần Bửu đỉnh của mộ thấp và không rõ, Thần đạo và tượng đá điêu khắc đã cũng không thật tiêu biểu.
            Tuy nhiên phần mộ thất của địa hạ hết sức tinh mỹ. Tất cả đều kết cấu gạch đá nên kiên cố vững chắc. Tường và nóc mộ thất trang trí rất nhiều hình vẽ và điêu khắc. Phần địa thượng qui mô nhỏ bé, chỉ coi trọng kiến trúc phần mộ là đặc điểm của thời kỳ này.
            Thời Tống có qui định, đế hậu khi sống đều không xây lăng. Sau khi băng hà mới phái người tìm đất, chọn ngày, trong vòng 7 tháng phải xây lăng và tổ chức nhập táng. Do tình hình kinh tế và thời gian thi công khá tương tự nên lăng các hoàng đế thời Tống đều có qui mô tương tự nhau. Lăng mộ các hoàng đế Bắc Tống đều tập trung ở huyện Củng tỉnh Hà Nam. Phía đông tới Thạch Hà, tây đến thị trấn Hồi Quách, phía nam bắt đầu từ Tây Thôn phía bắc tới thị trấn Hiếu Nghĩa. Địa thế vùng này phía nam cao, phía bắc thấp. 9 vị hoàng đế có 8 lăng. Các lăng đều "tọa bắc diện nam" (ngồi bắc nhìn về phía nam), mặt nhìn vào núi lớn, lưng dựa vào Hoàng Hà. Ngoài ra còn có thêm lăng Hoàng hậu và các mộ bồi táng khác, hình thành nên cả một khu vực lớn.
            Lăng của hoàng đế Bắc Tống đều dựa theo kiểu kiến trúc lăng thời Đường, lấy hình vuông là tôn quý, cấu trúc hai phần cung điện trên dưới mặt đất theo truyền thống. Phần lớn làm kiểu hình vuông, đỉnh bằng, kiểu hình trụ lăng đài. Bốn bên có thần tường bao bọc, 4 phía ở chính giữa trổ cửa, 4 góc làm khuyết đài. Trước mặt lăng có thần đạo xuyên nam bắc qua nam thần môn. 2 bên Thần đạo bài trí tượng đá người, thú rất chỉnh tề... Hình thức bố trí như vậy hoàn toàn tương tự lăng mộ thời Đường nhưng qui mô nhỏ bé hơn nhiều. Lăng các hoàng đế triều Tống rất nhỏ, khá gần gũi với lăng mộ phần dân thường. Đặc điểm bố trí của lăng hoàng đế Tống là phía sau lăng hoàng đế hơi lệch về phía tây bố trí lăng hoàng hậu. Hình thức lăng hoàng hậu tương tự lăng hoàng đế nhưng qui mô chỉ bằng nửa, tối đa không được lớn quá 2/3 lăng hoàng đế.
            Tỉ như lăng Vĩnh Chiêu, có hình trụ, đáy rộng 56m, cao 13m, thành bao bọc hình vuông cạnh rộng 242m, thần đạo dài độ 300m.
            Phía trước Nam Thần môn 150m bố trí ở hai bên Thần đạo trên 40 tượng đá điêu khắc (người, thú). Kích thước tượng tương tự người thật, thú thật... Hình thức tựa như bày nghi trượng khi hoàng đế ngự, tạo nên không khí rất trang nghiêm.
            Lăng Hoàng đế triều Kim và vua Tây Hạ cũng rất giống lăng hoàng đế Tống, đều tập trung ở một khu vực nhất định.
            Lăng vua Tây Hạ đặt ở sườn núi phía đông ngọn Lan Sơn, Thành Tây Hạ, thành phố Ngân Xuyên. Bình diện và hình thể lăng đều theo lối hướng tâm, bốn bề có thành hình vuông bao bọc, tương tự như lăng triều Tống. Tuy nhiên hình thể lăng lại theo kiểu chùy tám cạnh hoặc hình chùy tròn. Phía Nam, hai bên Thần đạo đặt tượng đá điêu khắc người, thú, hoa biểu. Bên ngoài có nguyệt thành xây nhô cao ôm về hai bên. Tất cả đặc điểm trên đều phản ánh rằng lăng vua Tây Hạ và lăng hoàng đế Tống có ảnh hưởng lẫn nhau, đồng thời chúng cũng có đặc điểm riêng.
            Mộ gạch điêu khắc và mộ đá điêu khắc cực thịnh hành thời Tống, Kim. Bốn bề trong mộ thất, thường căn cứ vào cuộc sống thực tế của chủ nhân lúc sinh tiền để trang trí tựa như một phủ đệ. Kết cấu rất giống kết cấu kiến trúc gỗ với đủ cột xà, đấu củng, mái nhà, cửa, cửa sổ và trưng bày các đồ dùng gia đình...
            Trên tường khắc hoặc vẽ miêu tả cuộc sống của chủ nhân lúc sinh tiền. Trần mộ trang trí hoặc điêu khắc thành môtíp kiểu lục giác, bát giác, hoặc ô vuông. Rất nhiều mộ thất được trang trí tỉ mỉ công phu.
            Với trình độ điêu khắc vô cùng tinh tế. Có những mộ quan đại thần còn đẹp hơn cả mộ hoàng đế và hoàng hậu. Điển hình là mộ Bạch Sa thời Tống ở huyện Vũ tỉnh Hà Nam (sơ đồ 10), mộ hợp táng của đôi vợ chồng Vương Sán ở huyện Tuân Nghĩa, tỉnh Quý Châu. Gần đây, người ta còn phát hiện lăng Vĩnh Hy của Lý hoàng hậu với trang trí mộ thất còn đẹp hơn nhiều.
            Kiến trúc lăng mộ thời kỳ này coi trọng phần mộ thất, sử dụng điêu khắc gạch đá rất phổ biến. Các sản phẩm điêu khắc nghệ thuật đó đã phản ánh một cách chân thực đặc điểm, kiến trúc nhà ở và cuộc sống sinh hoạt của xã hội thời bấy giờ.

           4.KIẾN TRÚC LĂNG MỘ TRUNG QUỐC THỜI MINH -THANH

Nhà Minh sau khi lập quốc đã đề cao Nho học, tôn sùng lễ trị, tôn trọng truyền thống. Năm Hồng Vũ 15 (1382. CN), triều đình phái quan lại đi xem xét lăng mộ đế vương các thời trước. Từ năm Hồng vũ nguyên niên (1386) đã định ra chế độ mộ phần rất nghiêm ngặt cho văn võ quan viên. Năm Hồng Vũ thứ 3 (1370), đã "lệnh cho thiên hạ khắp các châu huyện phải xây mộ nghĩa, nghiêm cấm các tục hỏa táng, thủy táng ở Triết Tây và các vùng khác, nghiêm cấm tục đốt tro xương người chết của người Nguyên và xếp nó vào hàng trọng tội, lệnh cho các bộ soạn thảo thành luật". Như vậy, nhà Minh đã xem việc xây dựng lăng mộ như một biện pháp trị quốc an dân.
            Năm Hồng Vũ thứ 2 (1369), tại phía Nam thành Phụng Dương tỉnh An Huy bắt đầu xây hoàng lăng, lăng viên "tọa nam diện bắc". "Bửu đỉnh" xây hình khối chóp cụt vuông, đỉnh bằng. Trước lăng có Hiếu điện, hai bên Thần đạo dựng một đôi bia đá, hai cặp trụ biểu đá và 30 đôi tượng người, tượng thú. Như vậy, từ bố trí tổng thể đến hình thức Bửu đỉnh chịu ảnh hưởng kiến trúc lăng thời Tống.
            Từ Minh Hiếu Lăng trở đi, kiến trúc lăng mộ Trung Quốc có sự thay đổi lớn và bước phát triển mới mẻ. Minh Hiếu Lăng căn cứ vào kiến trúc cung điện mà xây thành. Dựa vào ba yêu cầu công năng khá đặc biệt là an táng, tế tự và quản lý phục vụ để chia ra ba khu vực (ba viện) trong lăng là tiền viện, trung viện, và hậu viện. Noi theo thể kiến trúc "thượng hạ nhất thể" của thời Tống tạo nên một quần thể kiến trúc vừa phục vụ hoạt động an táng vừa phục vụ hoạt động tế tự.
            Cổng chính phần tiền viện của Minh Hiếu lăng nguyên có tên là "Văn Vũ Phương Môn". Trong viện, hai bên là Thần Khố, Thần Trù, sử dụng lúc cúng tế. Tiền viện và Trung viện có Hưởng Môn thông qua. Ở trung tâm, hơi lệch ra sau của Trung viện là phần đài mộ rất lớn xây bằng đá xanh, trên có tòa Hưởng điện rộng 9 gian, sâu 5 gian. Điện này còn có tên là điện Lăng Ân.
            Phía trước điện ở 2 bên có hành lang, bố cục nghiêm chỉnh, hình thức như cung điện. Đây là nơi cử hành hoạt động tế lễ. Sau điện có Nội Hồng Môn thông với hậu viện. Hậu viện gồm một vòng tường cao lớn hình tròn xây bao bọc lấy phần Phong thổ (nấm mộ). Vòng tường này gọi là Bửu Thành. Phía trước xây một thành đài cao lớn có một tòa điện rộng 5 gian, sâu 1 gian, hình thức tựa như một tòa thành lâu (lầu trên thành) cao lớn, có tên gọi là "Phương Thành Minh Lâu".
            Trên đường Thần đạo của Minh Hiếu Lăng cũng có những hình thức xây dựng mới. Ở đoạn đầu tiên của Thần đạo xây thêm một tòa lầu chứa bia Thánh Đức Thần Công rất to lớn, bình diện hình vuông. Hình thể to lớn, dáng vẻ uy nghiêm của nó khiến cho người ta phải có cảm giác tôn kính, nghiêm trang khi vào lăng.
            Tượng người đá, thú đá đặt phía sau lầu bia này. Số tượng đá đặt 2 bên Thần đạo trên đã gây nên vẻ thần bí uy nghiêm của lăng mộ, tăng thêm không gian lớp lang tầng thứ của kiến trúc lăng và cũng là tiêu chí để khu biệt đẳng cấp của lăng mộ.
            Điện Long Ân và Phương Thành Minh Lâu kết hợp với nhau, tạo thành chủ thể của kiến trúc lăng mộ. Sự kết hợp của chúng tựa như lối "Tiền Triều hậu tẩm" của sự kết hợp cung điện và miếu vũ. Đề cao địa vị của chủ thể kiến trúc lăng mộ, thay cho thổ thành và lăng mộ hình chóp cụt của lăng mộ thời Tống, nâng cao tính nghệ thuật của kiến trúc lăng mộ.  
Minh Thành Tổ Chu Đệ dời đô về Bắc Kinh. Bắt đầu từ năm Vĩnh Lạc 7 (1409) khởi công  xây dựng Trường Lăng ở chân phía nam núi Thiên Thọ huyện Xương Bình thành phố Bắc Kinh. Từ đây đến khi quân Thanh vào Bắc Kinh lịch sử đã trải qua 235 năm, triều Minh xây dựng được 13 khu lăng mộ, ta quen gọi là "Minh thập tam lăng". Đây là khu lăng mộ có qui mô lớn nhất và khá sớm trong lịch sử Trung Quốc. Phía bắc thập tam lăng, dãy Thiên Thọ quanh co trùng điệp. Ở 2 phía đông, tây núi vươn qua ôm lấy, hình thành nên một thung lũng nhỏ. Đất đai ở thung lũng này phì nhiêu, cây cối tốt tươi rậm rạp. 13 tòa lăng mộ đế vương lấy Trường lăng làm trung tâm, tọa bắc nhìn về phía nam, lấy Chiêu- mục làm nguyên tắc bố trí, thuận theo thế núi để bố trí ở chân núi phía nam ngọn Thiên Thọ Sơn, ẩn hiện giữa màu xanh ngút ngàn của tùng, bách, hình thành một không gian tuyệt đẹp, một quần thể kiến trúc lăng mộ vĩ đại. Ở tận cùng phía nam của khu lăng là Đại Hồng Môn, cửa chung của toàn khu lăng. Ở quảng trường bên ngoài cổng có một tòa Thạch bi phường (cổng đá) 5 gian, 6 cột trụ. Đây là khởi điểm của Thần Đạo. Phía bắc của Đại Hồng Môn là tòa lầu bia Thánh Đức Thần Công to lớn, bình diện hình vuông, 4 cột trụ biểu chạm khắc tinh mỹ, công phu càng tôn thêm vẻ đường bệ, quý phái của lầu bia Thánh Đức Thần Công. Sau lầu bia, 2 bên Thần Đạo lấy cột đá làm đầu để bày các tượng thú đá, tượng người đá... tất cả là 18 đôi. Hàng tượng này chấm dứt ở cửa Long Phụng. Từ Thạch Bi phường đến Long Phụng môn dài tổng cộng 2,5km. Màu trắng của Thạch Bi phường, vẻ to lớn của Đại Hồng môn, sự hùng vĩ của lầu bia, vẻ trang trọng uy nghiêm của hai hàng tượng đá và vẻ đẹp hoa mỹ của Long Phụng môn đã tạo cho 13 khu lăng mộ trở thành một chỉnh thể thống nhất hài hòa.
            Trường lăng là ngôi lăng mộ đứng đầu của thập tam lăng. Lăng được xây dựng sớm nhất, qui mô to lớn nhất, bắt đầu xây dựng từ năm Vĩnh Lạc 7 (1409). Do căn cứ vào Minh Hiếu lăng để xây dựng nên giữa chúng có nhiều điểm tương tự hoặc giống nhau.
            Bình diện lăng do 3 bộ phận hợp thành. Tiền viện gồm có Thần Trù, Thần Khố. v.v. Trung Viện, hơi dịch ra sau trên trục chính là điện Lăng Ân. Điện được xây dựng trên một nền đài 3 tầng làm bằng đá cẩm thạch, bề rộng 9 gian, sâu 3 gian. Mái điện kiểu trùng diêm Vũ điện. Gỗ hoàn toàn dùng gỗ nam phỏng theo điện Phụng Thiên ở Cố Cung Bắc Kinh. Đây cũng là ngôi điện dùng gỗ nam có qui mô lớn nhất của kiến trúc cổ Trung Quốc.
            Tòa Phương Thành Minh lâu của Trường Lăng vốn có bình diện chữ nhật sau sửa lại thành bình diện hình vuông. Ở chính giữa Minh lâu đặt một tấm bia đá nên thực tế nó đã trở thành một tòa lầu bia. Đây cũng chính là đặc điểm mà lăng mộ các hoàng đế thời Minh, Thanh về sau mô phỏng theo. Ở Định Lăng, phần địa cung đã được khai quật. Địa cung nằm sâu bên dưới Bửu Đỉnh 27m. Diện tích 1195m2. Bình diện địa cung tựa như một tòa tam hợp viện với một gian chính (hậu điện) và hai gian bên (phối điện). Tiền điện và Trung điện nối thông với nhau qua đường dũng đạo. Hậu điện có qui mô lớn nhất, kích thước 30,1m x 9,1m, cao đến 9,5m. Toàn bộ dùng đá xây thành theo kiểu vòm cuốn. Cửa vào đặt phía ngoài, bên trong không trang sức, điêu khắc nhưng làm rất đẹp. Đến nay toàn bộ vẫn được bảo quản rất tốt.
            Địa cung của Thập Tam lăng đều đặt trong lòng đất khá sâu, cơ bản đến nay vẫn được giữ gìn tốt. Địa cung của Định lăng là biểu hiện tiêu biểu tình trạng địa cung lăng các hoàng đế thời Minh.
            Điểm sáng tạo của kiến trúc lăng mộ thời Minh là lấy Phương Thành Minh lâu làm tâm điểm của kiến trúc, từ đó liên kết với điện Lăng Ân, tạo nên hình thức kiến trúc lăng mộ kiểu "tam tiến viện lạc"( 3 khu vực liên kết nối tiếp). Kéo dài đường Thần Đạo và chia Thần Đạo thành 2 đoạn. Đoạn đầu lấy lầu bia Thánh Đức Thần Công là trung tâm. Đoạn sau, trung tâm điểm lại là Phương Thành Minh lâu, làm gia tăng không gian tầng thứ lớp lang của kiến trúc lăng mộ. Đồng thời, các hình thức kiến trúc đa dạng, cách tạo hình phong phú, ưu mỹ, đã thực sự tạo được một ý niệm không gian tĩnh mịch thần thánh của kiến trúc lăng mộ, nâng cao tính nghệ thuật của loại hình kiến trúc này. 13 khu lăng mộ hoàng đế triều Minh lấy Trường Lăng làm trung tâm đã tạo nên một khu vực lăng tẩm rộng lớn. Với thủ pháp kiến trúc nghệ thuật, mỗi khu lăng đều kết hợp hài hòa với hoàn cảnh xung quanh, khiến mỗi tòa lăng trong tổng thể chung đều có nét đặc sắc rất riêng.
            Kiến trúc lăng mộ hoàng đế thời Minh không chỉ bố trí thành quần thể, có thành tựu lớn trong việc lợi dụng hoàn cảnh tự nhiêntrên phương diện tổng thể  mà mỗi lăng  đều có thành tựu đặc sắc về tạo hình đơn thể. Như Thạch bi phường, lầu bia Thánh Đức Thần Công, cửa Long Phụng, cửa Linh Tinh, Thạch Ngũ cung, Phương Thành Minh lâu, Bửu Thành, Bửu Đỉnh, Địa cung v.v... các kiến trúc đơn thể đều có bước sáng tạo. Những cống hiến này đã làm cho kiến trúc lăng mộ có những bước phát triển lớn.
             Cuối thời Minh, ở phía bắc dãy núi Trường Bạch bộ tộc Nữ Chân trở nên lớn mạnh. Trải qua một quá trình phát triển không ngừng, đến năm 1636 họ đã lập nên Triều Thanh.
            Thời Thanh sơ kỳ đã xây dựng ba tòa lăng ở miền đông bắc là Vĩnh Lăng, Phúc Lăng và Chiêu lăng, thường gọi là "quan ngoại tam lăng". Đương thời, do chưa thống nhất được Trung Quốc, thực lực còn yếu nên các lăng mộ xây dựng còn khá đơn giản.
            Vĩnh lăng ở thị trấn Vĩnh Lăng huyện Tân Tân tỉnh Liêu Ninh. Phía bắc, lăng dựa vào núi Khải Vận, nam đến sông Tô Tử. Bình diện lăng kiểu "tam tiến viện lạc" hình chữ      .
            Cửa vào của Tiền viện là Đại Hồng Môn, rộng 3 gian, mái kiểu Ngạnh Sơn. Trung viện hơi thiên về phía bắc là 4 tòa bi đình (nhà bia) với kiểu mái Yết Sơn. Hai bên là Thần Khố, Thần Trù.
            Đại điện nằm ở phía bắc Trung viện là nơi cử hành lễ tế tự, gọi là điện Khải Vận. Điện có mái đơn kiểu Yết Sơn, hình thức tổng thể đơn giản.
            Sau điện có 5 gò đất thấp, đó chính là các lăng Phúc lăng và Chiêu lăng đều ở thành Phiên Dương tỉnh Liêu Ninh, một lăng ở phía đông thành phố, một lăng ở phía bắc thành phố, tục gọi là "Đông Lăng" và "Bắc Lăng". Đông lăng là lăng mộ hợp táng của Nỗ Nhĩ Hạp Xích và hoàng hậu (Diệp Hách Nạp La Thị) Chiêu lăng là hợp táng lăng của Hoàng Thái cực và Hoàng hậu (Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị).
            Đông lăng và Bắc lăng có hình thức kiến trúc tương tự nhau nhưng qui mô và thể lượng kiến trúc lớn hơn Vĩnh lăng rất nhiều. Đại Hồng Môn có mái kiểu đơn diêm Yết Sơn, trước cổng có thêm Thạch Bi Phường. Trong cổng có hàng tượng đá, lầu bia Thánh Đức Thần Công, Phường Thành. 4 góc của Phương Thành có Giác lâu. Ở chính giữa tường phía nam có cửa xây lầu. Chính giữa tường phía bắc là Minh Lâu. Thành của lăng xây hình vuông, khiến lăng có vẻ hùng vĩ, to lớn lạ thường. Bửu thành và Bửu Đỉnh phía trong lại có vòng tường to lớn bao bọc, khiến cho kiến trúc lăng càng thêm hùng vĩ.
            Đông lăng và Bắc lăng là sự kế thừa và phát triển vượt bậc của Vĩnh lăng. Về tất cả mọi mặt: qui mô, chất lượng, hiệu quả nghệ thuật đều vượt xa so với Vĩnh lăng.
            Năm 1644, triều Thanh đóng đô ở Bắc Kinh. Năm 1661, Thanh Thế Tổ (Thuận Trị) băng hà. Năm Khang Hy 2 (1663) đã xây dựng Hiếu Lăng. Đây là chủ thể của khu Thanh Đông Lăng, cũng là lăng hoàng đế Thanh đầu tiên ở "quan nội"
            Thanh Hiếu Lăng mô phỏng kiến trúc của Minh Thập Tam lăng. Sau khi vào cửa có Thạch Bi phường, Đại Hồng môn, lầu bia Thánh Đức Thần Công. Kéo dài đường Thần Đạo đến 10 dặm. Hai bên bố trí 18 đôi tượng đá. Hiếu lăng cũng có bình diện kiến trúc phỏng theo Trường lăng.
            Tiền viện lấy điện Long Ân làm trung tâm. Hậu viện có Phương Thành Minh Lâu và Bửu Thành. Nhìn chung, triều Thanh sau khi vào Trung Nguyên về mọi mặt đều phỏng theo triều Minh. Qui chế về kiến trúc lăng mộ cũng hoàn toàn kế thừa truyền thống của triều Minh. Các lăng hoàng đế triều Thanh về sau đều phỏng theo kiến trúc Hiếu lăng, duy chỉ có qui mô là thu nhỏ hơn. Tuy nhiên Mộ Lăng hoàn toàn khác các lăng trên .Thanh Tuyên Tông (Đạo Quang) lúc tại vị, chính trị không ổn định. Cuộc chiến tranh Nha Phiến bị thất bại, phải bồi thường chiến phí, đất nước bị xâu xé. Ông đã tự cho mình không có công trạng gì, lăng mộ vì thế cũng không thể so sánh với các bậc tiền bối. Ông chủ trương làm một lăng mộ tiết kiệm so với lăng tổ tiên ở khu đông bắc. Ra lệnh gọi lăng là "Mộ lăng"     , làm điện Lăng Ân với qui mô nhỏ bé với bộ mái đơn kiểu Yết Sơn. Trong khu lăng không có bia Thánh Đức Thần Công. Nội ngoại thất điện đường đều không tô vẽ để biểu thị sự tiết kiệm. Phương Thành Minh lâu cũng cải lại thành hình trụ tròn. Phía trước chỉ đặt một cửa Phường bằng đá trắng và một cây cầu đá. Tổng thể kiến trúc tạo nên vẻ thanh đạm, giản đơn mà trang nhã.
            Điện Long Ân của Mộ Lăng dùng toàn gỗ Hương Nam. Trần điện chia ô và điêu khắc hoa văn cực kỳ công phu, tinh xảo. Tường điện bên trong gắn đầy các bức gấm đoạn hợp với màu sắc tự nhiên của các bức phù điêu bằng gỗ Nam khiến cho Mộ Lăng càng thêm vẻ cao quý, trang nhã. Xét về nghệ thuật kiến trúc và hiệu quả trang trí, Mộ lăng có nét rất riêng so lăng tẩm các hoàng đế trước đó. Trong Thanh Đông lăng, địa cung của Dũ lăng được chế tác vô cùng tinh mỹ, có thể xem là địa cung tiêu biểu của kiến trúc lăng mộ thời Thanh. Địa cung có diện tích 372m2. Toàn bộ dùng đá xanh trắng xây thành. Phần đỉnh dùng kết cấu vòm. Bốn mặt tường và vòm đỉnh khắc đầy những tượng Phật, Pháp Khí và kinh bằng chữ Phạn. Số lượng chữ Phạn, chữ Phiên co tới hàng vạn. Mộ thất có kết cấu nghiêm cẩn, điêu khắc tinh tế,  khiến cho kiến trúc và điêu khắc trở thành một thể thống nhất, hài hòa đẹp đẽ, thể hiện trình độ kiến trúc và điêu khắc của thời Thanh.
            Thời Thanh, kiến trúc lăng mộ đầu tiên là lăng Hoàng hậu. Đây là một đặc điểm của kiến trúc lăng mộ thời Thanh. Nhà Thanh có qui định. Nếu Hoàng hậu chết trước Hoàng đế thì tùy Hoàng đế mà có thể táng chung trong lăng (Hoàng đế).
            Nếu làm lăng riêng biệt thì đặt ở vùng phụ cận lăng Hoàng đế. Tên gọi lăng căn cứ  vào tên lăng Hoàng đế và vị trí đặt của nó mà định. Ví dụ đặt ở phía đông của Hiếu lăng thì gọi là lăng Hiếu đông. Lăng hoàng hậu hình thức tương tự lăng vua nhưng qui mô nhỏ hơn nhiều. Trong số lăng các hoàng hậu, lăng Hiếu đông là được xem hàng đầu. Ở phía trước Phương Thành Bửu đỉnh của hậu viện, dọc theo hai bên đặt đến hơn 20 mộ phi tần với bửu đỉnh hình tròn, khiến lăng hoàng hậu hợp nhất với viên tẩm của các phi tần. Tuy nhiên điều đó đã ảnh hưởng đến không gian bố cục và tính trang trọng của kiến trúc của lăng.
            Tuy nhiên Định Đông Lăng của Từ Hy ở núi Phổ Đà lại khác hẳn. Nhìn bên ngoài Định Đông Lăng không khác gì lăng các hoàng hậu khác, nhưng nội thất của điện Long Ân thì được trang trí tinh mỹ vô cùng. Điện Long Ân được đặt trên nền đài bằng đá cẩm thạch. Lan can của đài được điêu khắc đồ án "long phụng tường vân" hết sức tinh xảo, thật chẳng có lăng đế, hậu nào bì kịp.
            Ở Điện Long Ân của Định Đông Lăng, gồm cả hệ thống cửa, cửa sổ của đông, tây phối điện đều dùng các loại gỗ quý danh tiếng như gỗ lê hoa vàng, gỗ Nam để chế tác. Trên nền tự nhiên của sắc gỗ, người ta thếp các đồ án hoa văn long, phụng, vân, chữ Thọ v.v..
            Trừ hệ thống cửa, cửa sổ ở mặt trước, 3 mặt còn lại đều xây kín bằng gạch mài nhẵn, trên đó khắc các đồ án chữ vạn   , ngũ phúc, Thọ...v.v.
            Toàn bộ thếp bằng vàng lá chói ngời, lung linh. Cách trang trí đó khiến khu lăng mộ thêm cao quý, hoa lệ. Đây thực sự là một bước sáng tạo độc đáo của kiến trúc lăng tẩm thời Thanh ở giai đoạn cuối.
            Kiến trúc lăng mộ của phi tần triều Thanh được làm riêng biệt, gọi là "Phi viên tẩm". Đây cũng là một qui chế về kiến trúc lăng mộ của thời Thanh.
            Chu vi viên tẩm dùng tường màu đỏ, mái lợp ngói xanh lục. Tiền viện có Hưởng điện, 5 gian, mái đơn, lợp ngói lưu li xanh, xây trên 1 nền đài thấp, không có lan can. Hậu viện đặt các mộ với bửu đỉnh hình trụ tròn, cao thấp, trước sau tùy thuộc đẳng cấp của chủ nhân. Đây là mộ các phi tần thuộc về một vị hoàng đế. Duy chỉ có 2 vị Hoàng quý phi của vua Khang Hy là Khác Huệ và Đôn Di là mai táng chung trong một khu lăng, gọi là "Cảnh Song phi viên tẩm".
            Thời Minh, Thanh, kiến trúc lăng mộ Trung Quốc đã kế thừa được các thành tựu nghệ thuật trước đó. Trải qua một quá trình phát triển và hoàn thiện, kiến trúc lăng mộ Trung Quốc đã đạt đến giai đoạn đỉnh cao. Từ thời Hạ đến cuối thời Thanh, kiến trúc lăng mộ Trung Quốc, từ địa hạ đến địa thượng đã từng bước phát triển để trở thành cả quần thể kiến trúc, hình thành một thể tổng hợp của các loại kiến trúc nghệ thuật. Thể tổng hợp nghệ thuật ấy luôn luôn kết hợp với hoàn cảnh tự nhiên khiến vẻ đẹp tự nhiên hợp nhất được với vẻ đẹp nghệ thuật  làm cho kiến trúc lăng mộ cổ Trung Quốc thăng hoa, đạt tới một cảnh giới nghệ thuật tột cùng "Thiên Thành địa tựu"
            Loại hình kiến trúc này đã trở thành một bộ phận trọng yếu trong kho tàng nghệ thuật cổ đại của dân tộc Trung Hoa.
                                                                        Biên dịch
                                                                  PHAN THANH HẢI
           dienbatn giới thiệu.


Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *