Lăng
nghĩa đen là cái gò cao, như trong mấy chữ “ như cương như lăng “của thơ Tiểu
Nhã trong Kinh Thi vậy. Chữ “Lăng “
trong danh từ Lăng tẩm có nghĩa là Mộ. Sách Quốc Ngữ , phần Tề ngữ có câu : “
Lăng chi vi chung “ , nghĩa là làm mộ để chôn cất. Sách Thủy kinh Vị thủy nói :
Đời Tần gọi mộ Vua là Sơn , đời Hán gọi là Lăng ( Tần danh Thiên tử chủng viết
Sơn , Hán viết Lăng ). 陵1.
gò, đồi.2. mộ của vua .3. bỏ nát .Mả vua. Nhà Tần 秦 gọi mả vua là “sơn” 山, nhà Hán 漢 gọi là “lăng” 陵.lăng tẩm” 陵寢.
Về sau chữ
Lăng chỉ riêng mộ Vua , Chúa , như nhà Minh có Thập tam Lăng , ở phí Bắc châu
Xương Bình , nhà Thanh có Đông Lăng Tây lăng ở tại Huyện Tuân Hóa phía Đông và
phía Tây Bắc Kinh và tại Lại Thủy , cách
Vạn lý trường thành 50 dặm. Những “ Sơn Lăng “ , “ Lăng viên” , “ Lăng tẩm “ đều
chỉ vào các mộ Vua. Tẩm nghĩa đen là ngủ , là nghỉ ngơi hay phòng ngủ.Nó lại có
nghĩa là cái phòng để bài vị người chết. Phòng ấy được chia làm 2 phòng nhỏ ,
phòng bên ngoài gọi là Miếu , có cửa thông vào phòng bên trong đóng kín .
Chữ Tẩm dùng
đi đôi với chữ Lăng , còn có nghĩa là ngọi nhà dững gần bên mộVua để làm nơi thờ
phượng. Sách Sử Ký nói : Đến đời nhà Tần mới xây dựng Tẩm một bên mộ , nhà hán
cũng theo nhà Tần chế cũng có những viên tẩm ( Chi Tần thỉ xuất Tẩm khởi ư mộ
trắc . Hán nhân Tần chế, Thượng Lăng gia hữu viên Tẩm ).
Sông Hương hay Hương Giang
(Hán Nôm 香江) là con sông chảy qua thành phố Huế và các
huyện, thị xã: Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang đều thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế,
miền Trung Việt Nam.
Sông Hương có hai nguồn
chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn.Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven
khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ,
qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng
Lãng (khoảng 3 km về phía bắc khu vực lăng Minh Mạng).
Sông Tả Trạch là phụ
lưu hợp thành của sông Hương, chảy ở tỉnh Đà Nẵng và Thừa Thiên-Huế, Việt Nam
.Sông có chiều dài khoảng 70 km, chảy qua và làm một đoạn ranh giới tự nhiên
giữa các huyện, thị Phú Lộc, Hương Thủy và Hương Trà. Sông bắt nguồn từ
dãy Bạch Mã ở xã Hòa Bắc huyện Hòa Vang, Đà Nẵng . Đoạn từ thượng nguồn đến xã
Hương Lộc có tên gọi sông Ba Ran, chảy theo hướng Tây vào Huyện Nam Đông, Thừa
Thiên Huế. Đến địa phận thị trấn Khe Tre, Nam Đông sông đổi hướng chảy
theo hướng Tây Bắc qua huyện Phú Lộc, Hương Thủy, Hương Trà và hợp lưu với sông
Hữu Trạch tại xã Hương Thọ, Hương Trà đổ vào sông Hương .
Hữu Trạch dài
khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác và vượt qua phà
Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương. Sông
bắt nguồn từ xã vùng núi A Roàng, huyện A Lưới. Từ đây sông chảy theo hướng
Đông đến địa phân tiếp giáp với thị xã Hương Thủy, đổi hướng sang hướng Bắc
chảy đến xã Bình Thành (thị xã Hương Trà) đổi sang hướng Đông và hợp lưu với
sông Tả Trạch tại xã Hương Thọ thị xã Hương Trà thành sông Hương .
Từ Bằng Lãng đến cửa sông
Thuận An, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao
hơn mấy so với mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trản, sắc nước
sông Hương xanh hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén. Tại đây có một vực rất
sâu.
Sông Hữu Trạch: Bắt nguồn
từ nơi có độ cao khoảng 500m ở vùng núi thấp phía Đông A Lưới - Nam Đông, chảy
theo hướng Nam Bắc cho đến Bình Điền, từ Bình Điền sông đổi sang hướng Tây Nam
- Đông Bắc và cuối cùng hội nhập với sông Tả Trạch ở ngã ba Tuần. Tính đến ngã
ba Tuần chiều dài dòng chính là 51km, diện tích lưu vực là 729km2 và độ dốc
bình quân lòng sông chính là 9,8 m/km.
Sông Tả Trạch: Là nhánh
sông chính bắt nguồn từ vùng núi trung bình huyện Nam Đông với độ cao tuyệt đối
900m. Sông chính chảy theo hướng chung Nam Đông Nam - Bắc Tây Bắc cho tới ngã
ba Tuần thì hội nhập với sông Hữu Trạch và trở thành sông Hương. Từ đây sông
Hương uốn lượn quanh co qua kinh thành Huế và đến Bao Vinh lại chuyển hướng Tây
Nam - Đông Bắc để rồi sau đó hội lưu với sông Bồ tại ngã ba Sình trước khi đổ
ra phá Tam Giang và chảy ra biển theo hai cửa Thuận An và Tư Hiền. Tính đến
Dương Hoà, chiều dài dòng chính là 54km, diện tích lưu vực là 717km2 và độ dốc
bình quân lòng sông chính là 16,5m/km. Nếu tính đến nơi đổ ra phá Tam Giang,
sông chính có chiều dài là 104km, diện tích lưu vực là 2.830km2 và độ dốc bình
quân lòng sông là 8,65m/km.
Ta hãy quan sát các bản đồ vệ tinh sau sẽ thấy sức mạnh của Long mạch chảy theo 2 con sông Tả - Hữu Trạch đổ vào sông Hương :
Đầu nguồn sông Hữu Trạch:
Đầu nguồn sông Tả Trạch:
Đầu nguồn sông Tả - Hữu Trạch:
Tả - Hữu trạch nhập chung thành sông Hương.
Chùa Thiên Mụ là nơi trấn giữ khúc Long mạch đi ngang ( đại cuộc đất là Hoành Long.)
Nói rõ hơn, Nguyễn Đăng Khoa qua tài liệu đã dẫn, nhận xét: “Sông Hương theo cách nhìn địa lý cổ, là một dòng sông chảy ngược từ phía Nam lên phía Bắc. Theo quan niệm trong Kinh dịch thì gốc của thủy phải ở phía Bắc và chảy về Nam (khởi từ Khảm và tụ về Ly). Tất nhiên, ở Huế, dòng chảy của sông Hương do địa hình quy định, phía Nam sông Hương là vùng đồi núi cao, hợp lưu của hai nhánh sông Tả và Hữu trạch. Hai dòng nước này hợp lại ở thượng nguồn sông Hương, giữa 3 khu núi cao là Kim Phụng, Thiên Thọ và núi Vưng. Nhìn rộng ra thì cả khu vực đồi núi này bắt nguồn từ Trường Sơn, tạt ngang ra biển, tạo nên một đại cuộc đất là Hoành Long.
Dòng sông Hương trong lặng tỏa rộng về phía Bắc ra
cảng Thuận An. Dòng nước uốn lượn nhiều lần qua đồi Vọng Cảnh, chảy về phía
Nguyệt Biều, rồi lật trở lại chảy qua mặt thành. Theo sách Địa đạo diễn ca của
Tả Ao thì long mạch uốn lượn gấp khúc càng nhiều thì càng chứng tỏ đất có nhiểu
sinh khí. Mặt đất nhược dần về phía Kinh thành tạo ra một vài thế đất kết tụ
gọi là Thủy Hử (phần đất được sông đổi hướng chảy ôm lấy tạo thành). Những
loại mạch sơn cước như vậy khi xuống thấp thấy hiền hòa hơn, chính là nơi tạo
ra những huyệt địa kết phát. Vua Gia Long đã chọn được khu vực tốt cho việc xây
thành, lập kinh đô. Thành có Án, có tả Thanh long, hữu Bạch hổ triều củng, có
“thủy đáo điện tiền” và đoạn sông trước thành đồng thời đóng vai trò minh đường
cho thành”.
Phong thủy vùng Kim Long .
Quốc sử quán triều Nguyễn chép: vào năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan (tức chúa Thượng) thấy đất Kim Long là nơi “có địa hình tốt đẹp” nên đã dời dinh đến đó và Kim Long trở thành thủ phủ đầu tiên đóng bên bờ tả ngạn sông Hương. Nhìn qua bên kia hữu ngạn thấy đồi Long Thọ hiện lên với thế núi đặc thù “khóa giữ thượng lưu sông Hương và được các nhà địa lý gọi là kiểu đồi “thiên quan địa trục” – nghĩa là trổ cửa lên trời và là trục xoay của các vùng đất (Đại Nam nhất thống chí).
Địa thế phong thủy ấy cũng được học giả Cadìere ghi nhận khi ông đứng từ kinh thành Huế nhìn xa xa tới đường chân trời phía nguồn sông Hương thấy những ngọn đồi và đỉnh núi dãy này nối tiếp dãy kia trùng điệp vắt ngang tầm mắt, màu sắc thay đổi theo từng ngày nắng, ngày mưa, khi thì nâu nhạt, lúc xanh thẫm, tựa hồ bức tranh bốn mùa sinh động.
Giữa bức tranh cẩm tú mênh mang ấy là một con sông chạy đến gần đất Huế, trải mình ra giữa hai ngọn đồi: “một bên là ngọn đồi Thiên Mụ (Hà Khê) với tháp Phước Duyên, bảy tầng ngất ngưỡng như chọc thủng trời xanh để đưa xuống những nguồn phúc lộc, và bên kia hữu ngạn là mô đất Long Thọ – trường sinh bất tử. Mô đất này cũng có những đặc tính nhiệm màu kỳ lạ mà sau này các thầy địa lý của triều đình Việt Nam cũng công nhận. Vì nó án ngữ nguồn chảy của sông Hương, tưởng như nó đang gối đầu lên dòng nước và nghiêng nghiêng đối diện với đồi Thiên Mụ tạo thành một thế phong thủy gọi là cánh cửa thông thiên và trục xe địa phủ” (Đỗ Trinh Huệ dịch).
Như vậy, đồi Long Thọ (hữu ngạn) cùng đồi Hà Khê (tả ngạn) nhô lên khỏi đất bằng để ôm lấy dòng nước sông Hương đang êm đềm đổ xuống, tạo nên cảnh trí thơ mộng cho các vùng đất hai bờ, trong đó có Kim Long. Xét sách địa lý gia truyền của cụ Tả Ao, thì: có núi mà không có nước sẽ thành cảnh “cô sơn” – ngược lại có nước mà không có núi sẽ thành “cô thủy” (Hữu sơn vô thủy, vị chi cô sơn – Hữu thủy vô sơn, vị chi cô thủy).
Tốt nhất vừa có núi vừa có sông nước liền nhau để núi nghênh thủy (sơn cố thủy) và thủy in bóng núi (thủy cố sơn) mới thật là đất tốt (dung kết chi địa dã). Vậy Kim Long có đủ yếu tố “sơn thủy” như cụ Tả Ao nêu. Mà thủy ở đây với thế “tĩnh” và “tụ” nên sinh ra người trong vùng thanh lịch, giàu có (thủy tĩnh nhân tú - thủy tụ nhân phú) khác với chỗ nước xoáy xô bồ ào ạt, hoặc nước chảy rì rào như tiếng khóc tỉ tê suốt ngày sẽ sinh ra kẻ bần tiện, đói nghèo (thủy trọc nhân mê – thủy khứ nhân bần). Thật vậy, cuộc đất Kim Long từ khi trở thành thủ phủ. Sau này, khi thủ phủ dời về Phú Xuân (cũng nằm bên tả ngạn sông Hương), Kim Long vẫn để lại các tên đất gợi nhớ thời lập phủ như: Thượng Dinh, Trung Dinh, Hạ Dinh, Cồn Kho, Mô Súng, vườn Nghênh Hôn … Và vua Thành Thái đã đến đó góp một trang “tình sử”.
Địa thế phong thủy cùng tài năng chúa Nguyễn đã đưa Kim Long thành trung tâm hành chính, quân sự của đất Nam Hà một thời. Để tìm hiểu điều ấy, thiết tưởng chúng ta hãy xem qua những ghi chép khách quan của người châu Âu đương thời từng đến đó. Chúng tôi muốn nhắc đến học giả, nhà truyền giáo dòng tên (Jésuite): Alexandre de Rhodes – đã có mặt tại Kim Long khoảng những năm 1640 – 1645 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Lan. Ông là tác giả cuốn Từ điển Việt – Bồ – La, biên soạn sau ngày đến Kim Long, chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa của người Việt thế kỷ 17. Chính ở Kim Long, Alexandre de Rhodes yết kiến chúa Nguyễn Phúc Lan và tận mắt nhìn thấy sinh hoạt trong phủ chúa cũng như ngoài dân chúng và kể lại trong một cuốn sách xuất bản tại châu Âu.
Trong tác phẩm đó, ông mô tả quang cảnh Kim Long như một “thành phố lớn” (cette grande ville) với đông đúc dân cư, nhà cửa, phố xá, chợ búa, bến nước và buổi lễ đón tiếp những người Tây Ban Nha, những nữ tu và ông vào buổi chiều tháng 2.1645 bên bờ sông Hương: “Chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) và phu nhân trong trang phục quý phái, lộng lẫy cùng đông đảo các vị quan lớn trong phủ Kim Long có mặt tại buổi đón tiếp. Có ngót 4000 lính chia làm 4 đội sắp hàng chỉnh tề, khéo léo, không che khuất chỗ chúa Thượng và phu nhân đang đứng. Những đội cận vệ đứng sát để bảo vệ chúa, ai nấy đều cầm trong tay một thanh đao có gắn chuôi bằng bạc và mặc áo bằng nhung màu tím có thắt đai vàng ngang bụng, đứng nghiêm chỉnh và im phăng phắc. Khi đoàn Tây Ban Nha đến, chúa cho phép hết thảy binh lính của mình ngồi xuống đất, xếp bằng lại để buổi lễ bắt đầu. Chúa sai mang đến cho mỗi người một phần trà đựng trên các khay sơn son thếp vàng bóng loáng”.
Chúa Thượng cũng mời Alexandre de Rhodes và những người trong đoàn bữa tiệc theo cung cách cung đình với rất nhiều món ăn sang trọng. Yến tiệc được bày ra với các vũ nữ Kim Long vây quanh biểu diễn các điệu múa điêu luyện khiến những người Tây Ban Nha có mặt phải trầm trồ khen ngợi. Mãi đến khi trời sập tối, chúa ra lệnh thắp đuốc sáng rực khắp dinh. Các dịp tiếp theo, chúa Thượng đã cho diễu binh trên bộ với khoảng 6000 binh lính và dân chúng tham gia đi rợp cả “thành phố lớn” Kim Long. Cùng lúc dưới nước chúa cho tập trận với 20 chiến thuyền lướt như bay trên mặt sông Hương.
Sau này vị trí của thủ phủ Kim Long mà Alexandre de Rhodes ghi lại được nhiều nhà nghiên cứu định vị, chẳng hạn: “có lẽ thủ phủ của chúa Nguyễn lúc ấy tọa lạc tại vùng đất từ chợ Kim Long lên đến gần làng Xuân Hòa (…) đã được sông ngòi bao bọc cả 4 bề: trước mặt là sông Hương, bên trái là sông Kim Long, bên phải và phía sau là sông Bạch Yến” (Phan Thuận An). Một tác giả khác, nhà nghiên cứu Phan Thanh Hải, trong tài liệu về “Thủ phủ Kim Long và diện mạo của Huế trước 1687”in trong tuyển tập Cố đô Huế xưa và nay (NXB Thuận Hóa 2005) nhắc đến 4 lần chúa Nguyễn dời dựng, thay đổi vị trí thủ phủ trước khi chuyển đến Kim Long, đó là Ái Tử (1558 – 1570), Trà Bát (1570 – 1600), Dinh Cát (1600 – 1626), Phước Yên (1626 – 1636) và nhận định:
“Địa danh Kim Long mà chúng tôi nói ở đây là làng Kim Long (chứ không phải phường Kim Long) có diện tích tổng cộng chừng 130ha, nằm ở tả ngạn sông Hương, một vùng đất trù phú màu mỡ, vị trí thuận lợi, cảnh sắc trữ tình. Căn cứ vào các nguồn tư liệu, nhất là gia phả của các dòng họ lâu đời ở Kim Long, thì làng đã được thành lập cách đây trên dưới 400 năm và là kết quả của việc mở rộng và tách ra từ làng Hà Khê (nơi có chùa Thiên Mụ và long mạch nhà Nguyễn) (…) Trong địa phận của làng Kim Long, ngoài sông Hương ở phía Nam còn có sông Kim Long (tức sông lấp) ngăn cách làng Phú Xuân và Vạn Xuân, và sông Bạch Yến chảy ngang qua giữa làng. Cả hai con sông này đều là các chi lưu của sông Hương, chúng vừa tạo nên vẻ đẹp trữ tình của vùng đất này, vừa tạo nên địa thế rất “đắc lợi” của Kim Long là “tứ thủy triều quy”…
Nghĩa là bốn dòng nước tụ về dưới chân những trái núi quanh cuộc đất Kim Long phù hợp với điều cụ Tả Ao giảng giải về thế sơn thủy: sơn làchồng, thủy là vợ, khi chồng xướng xuất việc gì thì vợ sẽ phụ theo (sơn vi phu, thủy vi phụ, phu xướng phụ tùy), cùng nghĩa ấy: núi là “trống”, nước là “mái” – núi chạy đến đâu thì nước theo đến đó (sơn vi hùng, thủy vi thư – hệ sơn tắc thủy tòng). Mà sơn mạch chạy từ dãy Trường Sơn hùng vĩ tách nhánh ra đến đất Kim Long được dòng sông Hương, sông Bạch Yến theo về “hợp hôn” – sinh ra một vùng nước xanh thơ mộng – thủ phủ của Nam Hà, cũng là thủ phủ của tình yêu một thuở.
( Theo Tạp chí Duyên Dáng Việt Nam – Bài: Giao Hưởng – Ảnh: Gia Tiến, Tư liệu).
VUA NHÀ NGUYỄN ĐI TÌM LONG MẠCH.
Câu chuyện tìm long mạch được các vị vua của triều đại nhà Nguyễn đặc biệt chú trọng. Trong 13 vị vua của vương triều này, có tới 7 vị vua có lăng tẩm riêng, mỗi lăng tẩm lại có vị thế, kiến trúc đặc biệt, ứng với phong cách và con người của vị vua đó.
Nhưng điểm chung của các lăng tẩm này đều sở hữu địa thế vô cùng đắc lợi, nằm nơi núi non trùng điệp và không gian vừa hoang sơ, vừa thiêng liêng, hai trong số đó là Thiên Thọ Lăng (lăng tẩm của Vua Gia Long) và Hiếu Lăng (lăng tẩm của Vua Minh Mạng).
Địa bàn xã Hương Thọ ở bờ bắc thượng nguồn sông Hương, ranh giới được phân định từ núi Ngọc Trản, nơi có điện Hòn Chén, lên tới làng Định Môn chính là nơi có lăng tẩm của Vua Gia Long. Vùng đất này nằm ngay nơi ngã ba hai nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch của sông Hương hội tụ, tạo nên vùng sơn thủy hữu tình và xưa kia cũng được Vua Gia Long xác định là vùng long mạch.
Theo ghi chép của triều Nguyễn, năm 1814, sau khi Thừa Thiên Cao hoàng hậu mất, Vua Gia Long đã sai người đi tìm vùng đất có long mạch để làm lăng tẩm cho vợ và cũng là nơi yên nghỉ của mình sau này. Vua sai đại thần Lê Duy Thanh, người rất am hiểu và tinh thông địa lý, phụ trách việc tầm long điểm huyệt.
Sau khi Lê Duy Thanh tìm được vị trí đất đẹp, Vua Gia Long địch thân cưỡi voi đến xem. Vua sau lại chọn một vùng đất khác, cách đó không xa, tự mình xem xét, gieo quẻ, rồi trách đại thần rằng: “Xét về long mạch và cuộc đất cát tường thuận theo cung mệnh đế vương thì nơi đây mới hợp, lẽ nào khanh không biết mà lại lại chọn cho trẫm một nơi không thuận hợp như trước kia. Hay là khanh đã biết mà muốn dành để cải táng hài cốt cha ông mình vào đó”?
Đó chính là vùng đất tại xã Hương Thọ ngày nay. Theo nhiều nhà phong thủy, thế đất này rất đẹp, có Long nhập thủ từ phương Cấn đến, tả có Thanh Long, hữu có Bạch Hổ bao bọc, trước mặt có một hồ nước lớn làm minh đường với phương thủy tụ là Khôn sơn. Phía bên kia hồ lại có ngọn núi Thiên Thọ làm tiền án, nước chảy tới minh đường rồi uốn lượn mà chảy tiêu ở thủy khẩu Tuất phương.
Đến đời Vua Minh Mạng, vị vua được mệnh danh là người có nhiều phi tần và con cháu nhất trong triều đại nhà Nguyễn, công cuộc tìm long mạch để xây lăng tẩm cũng được ông dành hàng năm trời để tìm hiểu. Bảy năm sau khi lên ngôi, tức năm 1826, Vua đã lập tức cho người tìm vùng đất đẹp, làm nơi kết phát để làm lăng mộ cho chính mình sau này.
Vua Minh Mạng dụ cho văn võ đình thần đi tìm hai ngôi đất là “Vạn niên đại cát địa” và “Vạn niên cát địa”, trong chỉ dụ, Vua viết: “Các thánh đế minh vương đời xưa muốn cầu nhiều phước đều có dự định đất tốt vạn niên để mong trời cho cơ đồ dài lâu. Kể từ đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta khôi phục miếu xã, xây dựng các lăng, lại dự kế cất để nghìn muôn năm, năm Gia Long đã từng hạ sắc cho bầy tôi tìm kiếm ngôi Vạn niên cát địa.
Nay trẫm kính lo đường kế thuật, may gặp buổi thái bình, việc phần mộ không thể không dự tính trước. Vậy hạ lệnh cho đình thần cùng với Khâm thiên giám đi đến miền núi thuộc các xã Kim Ngọc, Định Môn, lựa trước ngôi “Vạn niên đại cát địa” và ngôi “Vạn niên cát địa”, cho được gần chốn khí thiêng mà để lại phước ấm về sau. Các khanh đều nên hết lòng nhận kỹ, cốt cho thoả hợp, rồi vẽ địa đồ dâng trình, đợi trẫm thân đến lựa chọn”.
Hành trình tìm đất long mạch của nhà vua cũng mất tận 14 năm bao gồm cả việc tìm kiếm, cân nhắc nhiều ý kiến và nhiều sự lựa chọn. Sau, Vua cũng quyết định lựa chọn núi Cẩm Kê, thuộc xã An Bằng để dựng lăng tẩm, làm đất phát nghiệp ngàn năm.
Theo “Đại Nam thực lục”, khi đến xem đất Vua bảo rằng: “Núi này thực phong thủy tốt, nơi này chưa ai xem ra, nay xem được chỗ đất tốt, thật đáng vui mừng”. Khu vực này gần với nơi hợp lưu của hai con sông Tả Trạch và Hữu Trạch, cách kinh thành Huế 12km, là vị trí đặc địa để xây dựng lăng tẩm, điều này khá tương đồng với việc chọn đất của Vua Gia Long.
Công trình lăng tẩm trong quá trình xây dựng có lúc bị gián đoạn do không đúng ý Vua, sau Vua Minh Mạng lại qua đời khi đang xây dựng dang dở, công trình này tiếp tục được hoàn thành ở đời Vua Thiệu Trị. Ngày nay, nhiều người đánh giá lăng Minh Mạng là một công trình kiến trúc đẹp, cân bằng đối xứng trên diện tích 18 ha, một trong những điểm du lịch rất thu hút du khách trong quần thể kiến trúc cung đình, lăng tẩm xứ Huế.
( Tài liệu sưu tầm trên internet ). Ảnh dienbatn lấy trên Googmap.
Xin theo dõi tiếp BÀI 5. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét