Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 12.
PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.
PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. ( Tiếp theo bài 10 ).
1. ĐỊA HÌNH.
2. LONG MẠCH VÀ DANH NHÂN HUYỆN ĐỨC THỌ. ( Thuộc Giai đoạn 4 ).
3.LONG MẠCH VÀ DANH NHÂN VÙNG XUNG QUANH HỒNG LĨNH.
1/ NÚI HỒNG 99 NGỌN.
Dãy núi 99 ngọn ấy vốn chưa có tên, cho đến ngày 100 con chim Hồng bay về...
99 con đổ xuống 99 ngọn núi. Riêng chim Chúa lượn mãi trên không, cuối cùng phải
hạ cánh xuống một mô đất. Nhưng chim vừa đặt chân thì mô đất đã chúc nghiêng,
liền kêu một tiếng rồi bay vút lên. Cả đàn vỗ cánh bay theo. Từ đó, dãy núi 99
ngọn có tên núi Hồng. Còn ngọn núi Ông Đùng bỏ lại bờ Bắc tục gọi Rú Rum, tức
núi Lam Thành, và mô đất chim Chúa đặt chân chính là Cụp Lịp (“Sự tích núi Hồng”).Núi
Hồng - Hồng Sơn, Hồng Lĩnh có nghĩa là Núi Lớn"),
Theo một số nhà nghiên cứu thị “Hồng" là từ tiếng Nam Á “Hnong”
nghĩa là núi,cũng được gọi núi Cao, núi Ông, xưa kia bao phủ một thế rừng dày
nên tục gọi Ngàn Hống. Núi trải rộng khoảng 30km” từ bờ Nam sông Cả - Lam Giang
đến cửa Gián, trên đất hai huyện Nghi Xuân, Can Lộc và thị xã Hồng Lĩnh bây giờ.
Là núi lẻ ở đồng bằng ven biển, trên mười vạn năm trước, Hồng Lĩnh là một
dải đảo giữa bốn bề sóng nước, và ngày nay là một “quần đảo” trên mặt đất. Phần
núi phía Tây Bắc gồm những ngọn dưới 400m, trong đó Thiên Tượng (337m) là ngọn
tiêu biểu, trên sách cổ ghi là “nhóm Thiên Tượng”. Phần núi chủ yếu nhô cao dần
về hướng Đông Nam, kéo ra tận bờ biển. Đây là một khối núi liền mạch, nhưng
sách cổ cũng lấy eo Bù làm dải phân cách để chia thành hai nhóm: “nhóm núi Đụn”
(Độn phong) lấy núi Đụn (499m) là ngọn cao nhất làm tiêu biểu và “nhóm Hương
Tích” lấy động Hương Tích làm tiêu biểu dù chỉ có 297m. Trong khi ngọn Tháp Cờ,
còn gọi Rú Ông (676m) là đỉnh cao nhất dãy Hồng Lĩnh. Từ đó núi chia làm hai
chi, chi Đông kết thúc ở ngọn Gâm (Kim Sơn, xã Cổ Đạm); chi Đông Nam có hai ngọn
cao là Sư Tử (630m) và Động Dang (Đông Dương - còn gọi ngọn Bòng Bong). Đến đây
núi hạ thấp dần, đi về nhiều hướng. Ngọn Tiên Am (xã Thịnh Lộc) là mút cuối dãy
Hồng Lĩnh.
“Cửu thập cửu phong thứ đệ bài” -
Chín mươi chín ngọn núi giảng bày” (Thơ vua Thiệu Trị).
Với con mắt nhạy cảm, người xưa nhìn mỗi ngọn núi, hình dung ra dáng
riêng và gọi tên theo hình dáng ấy. Chùm Ngũ Mã là “đàn ngựa phóng qua sông” vừa
đặt chân xuống bờ Nam; hòn Cô Độc như “chú nghé đang trằn xuống nước”; ngọn
Thiên Tượng “có hòn đá giống voi”; ngọn Bàn Thạch “có tảng đá lớn, bằng phẳng
như chiếc mâm”; ngọn Kê Quan “đá chất chồng dựng đứng như mào gà”; ngọn Phượng
Hoàng “đứng xa trông lên giống hệt như cặp mào đầu chim phượng”; ngọn Quan Áp
“trông như chiếc mão” (mũ); ngon Lịp (Lạp Phong) “từ biển nhìn vào hình như chiếc
nón”; rồi ngọn Cổ Chùy (Dùi Trống), ngọn Hàm Rồng (Long Hãm), ngọn Yên Ngựa (Mã
Yên), ngọn Đầu Voi (Tượng Đầu), ngọn Đầu Ngựa (Mã Đầu), ngọn Kim Quy (Rùa
Vàng), ngọn Sư Tử, ngọn Đoạn Đầu (người Cụt Đầu)...
Những ngọn khác được gọi tên theo truyền thuyết, di tích lịch sử, văn
hóa: Ngọn Đùm Cơm (Phong Phạn) mé Bắc, là “gói cơm ông Đùng để lại” và ngọn
Tiên Tích, mé Nam “trên đá có dấu chân tiên”. Rú Ông hay Tháp Cờ - ngọn cao nhất
trong dãy Ngàn Hồng, tương truyền là nơi Chúa Hai, con vua Mai Hắc Đế cắm cờ
khi ông xây dựng căn cứ chống quân nhà Đường ở đây:
“Từ Cơn Vạng đến Bằng Vai,
Cụp Cờ còn đó, nhớ ai cắm cờ”.
Rú Lầu cao lớn, bề thế, là nơi
vua Lý Thánh Tông dựng hành cung để lên du ngoạn”. Ngọn rú Tháp “tương truyền
xưa kia người Tàu (?) xây tháp trên đỉnh”, và ngọn Hương Tích có ngôi chùa cổ
Hương Tích đời Trần. Rủ Lần (Lan hay Lận Sơn, Cù Sơn), nơi Bảng nhãn Trần Bảo
Tín ở ẩn dưới triều Mạc được gọi là Trần Sơn (rú ông Trần / hay rủ ông Bảng),
Hoàng giáp Phan Chính Nghị một trung thần nhà Lê khác cùng thời thì lấy tên Rú
Sét (Liệt sơn) nơi mình ở ẩn, làm hiệu: Liệt sơn tử. Còn Rú Mã quê Hoàng giáp
Phan Đình Tá thì bị đổi thành Mại Quốc sơn (núi Bán Nước) vì ông là người bỏ
Lê, phò Mạc. Ngọn núi nơi đốt lửa làm hiệu thời chiến tranh Trịnh - Nguyễn, gọi
là rú Hỏa Hiệu.
Lại có những ngọn núi được dân gian gọi theo tên loại cây cỏ mọc nhiều ở
đó: Rú Lách, Bú Vọt, rú Bòng Bong hay động Dang, Rú Trúc, Rú Thông...
Sách cổ chép trên Hồng Lĩnh có 26 dòng khe suối là “Danh tuyền”, trong
đó có Hương Tuyền ở động Hương Tích, Hoa Khê ở Hoa Viên, Tượng Khê ở Tượng
Phong, Hoàng Ngưu Khê ở Yên Trừng, Độ Liêu Khê ở Độ Liêu.. Có những khe lớn người
ta đắp đập ngăn lấy nước tưới ruộng như đập khe Vẹt (tức khe Độ Liêu, khe Nhà
Trò) tương truyền do Ngự sử Bùi Cầm Hổ đắp ngày xưa, và các đập Cù Lây - Trường
Lão, Cồn Tranh, Khe Hao... ngày nay. Nhiều khe suối có dòng chảy đặc biệt: Suối
Hương Tích từ kẽ hốc trên vách đá dựng đứng vọt ngang ra, “nước trong và thơm”;
khe Vành Khăn ở ngọn Sư Tử, khe Nước Nhỏ ở mỏm núi Thung Ao... nước từ đỉnh
thành đá cao bốn, năm chục mét đổ xuống thẳng đứng thành ngọn thác; khe Mưa
Dông ở ngọn Hàm Rồng, nước phun xuống từ vòm trần một hang lớn, tạo thành “cơn
mưa dông” liên tục suốt tháng, suốt năm; Lại có khe chảy ngầm dưới truông Trâu ở
Rú Lần ra sông Lách (sông Lam ở Kẻ Lách)...
Trên núi có nhiều vùng trũng nước đọng thành ao, thành đầm gọi là “Ao Trời”
(Thiên Trì), hoặc thành vực sâu như vực Nguyệt ở Rú Đụn, tương truyền “sâu
không đáy”. Dưới núi lại có nhiều bàu nước lớn: Bàu Kim Cương nằm giữa lũng núi
“rộng tới 30 mẫu”; đàm Hồ Lô “là nơi tiên tắm” nên thường gọi bàu Tiên; bàu Mỹ
Dương “uốn lượn như dải lụa”, dài tới 10 cây số.
Trong núi có tám dải đường truông dài ngắn, thông từ Tây sang Đông, từ Bắc
xuống Nam. Truông Trầu, truông Màn Trường ở Bắc và Nam ngọn Rú Lần. Truông Cọng
Khánh từ Kẻ Lách vào Kẻ Treo, xưa là tượng lộ (đường voi chiến đi để tránh cầu)
nay là đường tỉnh lộ 18. Đây chính là con đường “Truông Hồng - Đỏ Cài” mà Nguyễn
Du thường từ Tiên Điền sang Tràng Lưu gặp gỡ bạn bầu. Mé Nam Hồng Lĩnh có hai
đường truồng thông giữa Nghi Xuân và Thiên/| Can Lộc: một truông toàn đá đen
(chứa quặng sắt) chắn gió Bấc, gọi truông Gió, một truông toàn đá son, ngắn, gọi
truông Vắn. Tương truyền, triều đình phái Hầu thượng Ngật (Nguyễn Văn Giai) về
khảo sát. Sợ nếu khai thác mỏ sắt thì dân quê ông phải chịu phu đài hoặc phải
đóng thuế sản phẩm quảng sắt, ông bèn đổi tên gọi hai dải truông cho nhau, rồi
tâu lên truông Gió (tức truông Vắn) chỉ có đá son đỏ... Sách “Non nước Hồng
Lam” của Võ Hồng Huy miêu tả về truông Vắn: “Đường truong uốn hình chữ V, góc
khuỷu nằm giữa đỉnh eo, cao khoảng 120 mét so với mặt biển. Dọc giữa tâm đường
truồng được lát ghép cả thảy 1645 bậc đá, nối tiếp từng bậc theo độ dài bước
chân và tầm lài của mái núi. Đoạn được ghép đá dài khoảng 800 mét nằm giữa
truông có tổng chiều dài 1300 mét đường núi.” Sách xưa chép khác nhau về thời
gian và người ghép đá đường truồng, còn dân gian thì cho là con đường do “cố
Ghép”, người địa phương làm, và gọi truong Vắn là “truông cố Ghép” hay “truông
Ghép” (Nguyễn Đổng Chi - "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”). Gia phả họ
Ngô làng Đồng Gián, Nghi Xuân chép vị tổ đời Lê là Ngô Trát, giữ chức thi lý bầu
(lý trường... “từng đem hết sức lực làm xong con đường truông Vắn” (VHH, SĐD).
Trong núi còn có các đường hẻm như hẻm Đá Ma dưới ngọn Thiên Tượng mà có
lần quân Trịnh thua trận ở bãi Vọt phải luôn qua Bang Hồng thôn, thoát được sự
truy đuổi của quân Nguyễn,Khắp nơi trên mái núi, dưới chân núi có những khối đá
hình thù kỳ lạ: Đá Voi Trời, đá Hàm Rồng, đá Lưỡi Cày, đá Mũi Thuyền, đá Cổng,
đá Nón, đá Chân Tiên, đá Ông Bà... Đá Ông Bà hay đá Vợ Chồng (Phu Phụ Thạch) là
một trong mười cảnh đẹp của ngọn Vân Am (Vân Am thập cảnh).
Trên núi lại có nhiều động, nhiều hang kỳ vĩ: Động Mười Hai Cửa, động
Che Hai, động Đá Hang trên ngọn Đụn rộng “có thể chứa hàng trăm người”, được
coi là “cung điện” trong truyền thuyết “Cố đô Việt Thường” ở Ngàn Hống. Động
Hàm Rồng trên ngọn Hương Tích được truyền là “nơi hóa thân của Phật Bà Quan Âm
Nam Hải”. Lại còn Chọ Hang với “những cảnh trí kỳ ảo, lạ lùng, những triền dài
cho đá hiểm học chất chống trong lòng núi, bằng nhiều động tác luồn lách, cúi,
bò, trườn, trượt khác nhau mới có thể vượt qua. Qua từng chặng phải làm dấu để
nhớ lối khi trở ra.” (“Non nước Hồng Lam” SĐD). Cố Bu - Phan Bộ, khởi nghĩa chống
nhà Nguyễn (đầu thế kỷ XIX) và cố Thần - Ngô Quảng thời Cần Vương - Duy Tân (cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) đều lấy nơi này làm căn cứ...
Che phủ “99 ngọn núi Hồng” là lớp lớp rừng dày, rừng già với hệ thực vật
phong phú, đa dạng, có nhiều loại cây gỗ, cây hoa quả, cây dược liệu quý... Do
đó, núi được gọi là “ngàn” - Ngân Hống. Nhiều loại cây mọc thành những khu rừng
riêng, rừng lim, rừng gọ ( gụ), rừng thông, rừng trúc, rừng dang, mây... Lại
còn những vườn maii, vườn quýt được huyền thoại hóa thành “cây thiêng”. Sách cổ
chép về loại quýt ở rủ Đụn “trái to, ngọt, ai đến hái lu bao nhiêu cũng được,
nhưng nếu mang về thì không thể lần được đường xuống núi”.
Sinh sống dưới thảm rừng trùng điệp ấy là hàng trăm loài thú, loài chim
quý. Thủ lớn có voi, tê ngưu, hố, lưu nai... Theo “Thiên Lộc huyện chí” thì vào
thế kỷ XV, Anh em Nguyễn Cả, Nguyễn Hải ở
Kẻ Sóc “vào núi Thường Lộc bất đôi voi trắng, ra mắt vua Lê Thánh tông xin đầu
quá , trở thành tướng giỏi”, và “Lưu quận công, tổ họ Nguyễn ở Cương Gián được
vua Lê sai đi bắt đàn voi ở Trà Sơn” (gần Hồng Lĩnh)... Lại chuyện vào sau tết
năm Nhâm dần (1902), dân làng Lạc Thiện (Trung Lễ) đi làm đồng, đã đuổi bắt được
con “tây ngu” (tê ngưu) từ Ngàn Hồng (hay rú Xanh Trà Sơn) chạy lạc xuống... Hổ
thì dữ nhất là ở vùng Treo, Vọt: “Cướp bãi Dài, khái bãi Vọt” (hay “Cửa Trẹm”
(Treo). Trương Quốc Dụng viết trong “Thoái thực ký văn”: “Trên núi Hồng Lĩnh có
hổ dữ, dân hai huyện Thạch Hà, Thiên Lộc bị hại nhiều. Vào thời Tự Đức, hổ còn
bơi qua sông Nghèn đi bắt người.... Một nhà sư chùa Thiên Tượng đang đêm bị hổ
xông vào, vô chết, mang đi... Hươu nai, lợn lòi... từng đàn. Các làng quanh núi
đều có phường săn, cứ “đệ niên xuân thủ tế rồi – Cứ như cơm gạo một người ba
ngay...” (vè) kéo nhau vào núi sản hươu, bủa lợn... Nguyễn Du rất ham mê đi săn
và tự hiệu là “Hồng sơn liệp hộ” (Thợ săn núi Hống). Sách xưa không thấy nói ở
Hồng Lĩnh có công, trĩ... nhưng chim khác thì loài nào cũng có. Đặc biệt ở mé
Đông Nam, bên lạch Kèn, núi lấn ra tận bờ biển, là nơi tập trung nhiều chim, nhất
là loài Ô ( Ác ) ,, thước (xác ). Hàng năm, vào hai mùa Bạch lộ, sương Giáng
cac loài chim di cư dừng cánh ghẻ lại nghỉ, đậu dày đặc khap mái núi, bãi đồng.
Hồng Lĩnh xưa là một vườn bách thảo - bách thú mênh mồng giữa vùng đồng
bàng ven biển.
Điểm xuyết cho cảnh trí thiên nhiên còn có những công tình nhân tạo - những
di tích lịch sử, văn hóa vô giá. Đó là các phe tich lũy ông Ninh ở Rú Lần, tháp
người Tàu (?) ở Rú Tháp, nền Trang vương ở động Hương Tích, đường đá truông Văn
Đỏ là đền Lý Uy minh vương ở ngọn Bàn Thạch, đền Độ nam nhạc ) Trà sơn ở Kẻ
Sóc, đền Đô đài ngự sử ở ngọn Bạch Tỵ, đền Lý (?) nguyên phi ở Rú Nưa, đền Liễu
Hạnh công chúa ở núi Tam Kỳ, đền Khuông quận công ở Trung Lao, đền Cương Khấu
và đền Bạch Thạch ở Động Gián. Đó là hệ thống chùa Phật dày đặc của “trung tâm
Phật giáo phía Nam Đại Việt thời Lý - Trần” với những chùa cổ mà sách xưa từng
chép.
Hồng Lĩnh - Lam Giang xưa nay là danh tiếng bậc nhất Châu Hoan, là biểu
tượng của xứ Nghệ. “Hồng Lĩnh tủ khí". “Hồng Lĩnh văn vật” là nói về linh
khí của núi Hồng, vô tình hoa của con người. “Hồng Sơn liệt chương” không chỉ đứng
đầu “Nghi Xuân bát cảnh” mà từ xa xưa, người Tàu đã coi là một trong 21 danh
sơn nước Việt, và có họa sĩ đã sang về cảnh núi về dâng vua Minh Thái tổ.
Năm Minh Mệnh thứ 17 (1936), khắc hình tượng Hồng Lĩnh lên “Anh đỉnh” ở
Thái miêu Huế. Năm 1842, vua Thiệu trị Bắc tuần, có làm bài thơ khắc lên bia
đá, dựng dưới núi. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) nhận núi Hồng Lĩnh là danh sơn Hà
Tĩnh và ghi vào điển thờ.
Ngày nay, trên núi không còn đại ngàn, phía dưới đã có một thị xã trẻ
mang tên núi, cảnh vật đổi thay khác lạ, nhưng núi Hồng 99 ngọn mãi mãi vẫn
hùng vĩ và thơ mộng...
2/ HUYỆN NGHI XUÂN - MỘT VÙNG ĐỊA LINH SINH NHIỀU NHÂN KIỆT.
Đứng bên bờ đê Dũng Quyết của Nghệ An , nhìn sang bên kia sông Lam , đất Hà Tĩnh ta thấy một khung cảnh thật tuyệt vời , trong trời Nam khó nơi nào sánh kịp. Một vùng trời nước bao la được bao bọc đằng sau bởi một dãy núi đẹp như một bức tranh sơn thủy . Cửa sông Lam đổ ra biển ( phía bên Nghệ An ) là cửa Hội . Dặng núi phía bên kia sông Lam ( đất Hà Tĩnh ) là dãy Hồng Lĩnh . Vùng đất ven sông Lam bên Hà Tĩnh có một nơi gọi là Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh , ngày trước được gọi là huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang trấn Nghệ An . Sông nước hữu tình , địa linh sinh nhân kiệt , chúng ta thử tìm hiểu khu vực này bằng kiến thức Phong thủy xem như thế nào nhé.
Huyện lị là thị trấn Nghi Xuân.
Các đơn vị hành chính của huyện bao gồm thị trấn Nghi Xuân và các xã: Xuân Hội,
Xuân Trường, Xuân Đan, Xuân Phổ, Xuân Hải, Xuân Yên, Tiên Điền, Xuân Giang,
Xuân Mỹ, Xuân Thành, Xuân Hồng, Xuân Viên, Xuân Lam, Xuân Lĩnh, Xuân Liên, Cổ
Đạm, Cương Gián.
Nguyên là huyện Hàm Hoan, Châu Hoan về đời Đường. Thời thuộc Minh là huyện Nha
Nghi (gồm cả Nghi Lộc). Huyện thuộc phủ Đức Quang, trấn Nghệ An về đời Lê. Năm
1822 thuộc phủ Đức Thọ. Năm 1831 thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Thời phong kiến, huyện có 21 người đỗ đại khoa, được xem là vùng đất học của xứ
Nghệ. Nghi Xuân là quê hương của nhiều tên tuổi lớn như: Nguyễn Nghiễm, Nguyễn
Khản, Nguyễn Điền, Nguyễn Hành, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Thiện, Nguyễn
Mai, Ngụy Khắc Tuần, Trần Bảo Tín, Phan Chánh Nghị, Nguyễn Công Trứ...
Từ tháng 7/1885 đến năm 1888, diễn ra cuộc khởi nghĩa của nhân dân Nghi Xuân,
do Ngô Quảng lãnh đạo. Năm 1888, khi Phan Đình Phùng thống nhất các lực lượng
kháng chiến ở Nghệ Tĩnh, nghĩa quân Ngô Quảng sáp nhập với nghĩa quân Hương
Khê." ( http://mobile.coviet.vn/).
Theo https://vi.wikipedia.org :
" Nghi Xuân là huyện đồng bằng ven biển, nằm phía Đông Bắc tỉnh Hà Tĩnh,
cách thành phố Hà Tĩnh 47 Km, cách thị xã Hồng Lĩnh 15 km về phía Nam, phía Bắc
giáp với thành phố Vinh (Nghệ An), phía Đông giáp biển Đông; đây là vùng đất
“Địa linh nhân kiệt” hội tụ đầy đủ tinh hoa của núi Hồng, sông Lam. Với nhiều
danh nhân, di tích danh thắng nổi tiếng và nhiều loại hình văn hóa vật thể, phi
vật thể. Là mảnh đất tam hợp hội đủ núi đồi, đồng bằng, sông biển; từ Nghi Xuân
đến cảng hàng không Vinh chưa đầy 20 km, đi cửa khẩu Cầu Treo biên giới Việt
Lào 110 km theo đường quốc lộ 8, đi khu kinh tế Vũng Áng (Kỳ Anh) 115 km. Với
vị trí địa lý rất thuận lợi cho giao thương với các tỉnh, các trung tâm kinh
tế, xã hội trong và ngoài nước.
Nghi Xuân có diện tích tự nhiên 220 km2, dân số gần 100.000 người, 19 đơn vị hành
chính (17 xã và 2 thị trấn); có khu du lịch Xuân Thành, sân golf, cảng cá Xuân
Hội, cảng Xuân Hải; có hệ thống giao thông khá thuận lợi với hai nhánh đường
quốc lộ với chiều dài gần 35 km; có 32 km bờ biển với các bãi biển thoải, nước
biển trong xanh; sông Lam chảy phía Tây Bắc với chiều dài trong địa phận huyện
là 28 km. Thị trấn Xuân An và thị trấn Nghi Xuân là trung tâm kinh tế, văn hoá,
chính trị của huyện..., đặc biệt là huyện nằm gần một số cảng của tỉnh bạn như
cảng Bến Thủy, cảng biển Cửa lò, cảng Cửa Hội rất thuận lợi cho việc lưu thông
hàng hóa và phát triển thị trường.
Từ thời nhà Đường đến nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê: Nghi Xuân thuộc đất Hoan Châu.
Thời nhà Lý, nhà Trần: Nghi Xuân thuộc Nghệ An châu, Nghệ An trại.
Thời nhà Hậu Lê, huyện Nghi Xuân thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An (rồi trấn Nghệ
An).
Thời nhà Nguyễn, huyện Nghi Xuân thuộc phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Từ năm 1832 đến năm 1976, huyện Nghi Xuân trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Nghi Xuân trực thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 17 xã:
Cổ Đạm, Cương Gián, Tiên Điền, Xuân An, Xuân Đan, Xuân Giang, Xuân Hải, Xuân
Hội, Xuân Hồng, Xuân Lam, Xuân Liên, Xuân Mỹ, Xuân Phổ, Xuân Thành, Xuân
Trường, Xuân Viên, Xuân Yên.
Ngày 23-2-1977, thành lập xã Xuân Lĩnh tại vùng đất khai hoang.
Ngày 1-3-1988, tách xóm Tiến Hòa của xã Tiên Điền gồm 59,30 ha diện tích tự
nhiên và 507 nhân khẩu; xóm Giang Thủy của xã Xuân Giang gồm 22,5 ha diện tích
tự nhiên và 588 nhân khẩu cùng 2.298 nhân khẩu là cán bộ, công nhân viên Nhà
nước và người ăn theo của các cơ quan đóng trên địa bàn này để thành lập thị
trấn Nghi Xuân - thị trấn huyện lị huyện Nghi Xuân.
Từ năm 1991 đến nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Ngày 8-6-1994, chuyển xã Xuân An thành thị trấn Xuân An.
Nghi Xuân có nhiều di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu như Ca trù Cổ Đạm, Trò
Kiều Tiên Điền và Xuân Liên, Sắc Bùa Xuân Lam, Chầu Văn Xuân Hồng, trò Sĩ -
Nông - Công - Thương - Ngư Xuân Thành, Lễ hội Cầu ngư Xuân Hội, các làn điệu
dân ca Nghệ Tĩnh..."
Chỉ riêng Làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang trấn Nghệ An nay
là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh ta cũng thấy khá nhiều kì tích .
Làng này ngày xưa còn có tên gọi là Vô Điền, U Điền, Tân Điền, Hữu Điền, Phú
Điền, Trung Nghĩa, Tiên Uy, Xuân Tiên.
"Nói về những mặt nổi trội của đất Nghi Xuân thời Lê - Nguyễn, dân gian có
câu: "Ló (lúa) Hoa (Xuân) Viên, quan
Tiên Điền, tiền Hội Thống…". Địa bạc dân bần, nhưng Tiên Điền lại nổi
tiếng lắm quan văn, quan võ, quan to, quan nhỏ, có thời trong làng đầy những
công hầu khanh tướng, có nhà hiển hoạn cao khoa, có người là tể phụ triều đình.
Trong sách Lịch triều hiến chương loại
chí, Phan Huy Chú viết: Khoa giáp nổi trội hơn hẳn, danh thần, hiền phụ
đứng hàng đầu trong phủ Đức Quang là viết về Tiên Điền.
Dưới hai triều đại Lê - Nguyễn, Tiên Điền có 6 vị đỗ Đại khoa (1 hoàng giáp, 4
tiến sĩ đều là người họ Nguyễn, 1 phó bảng họ Hà) và 32 vị (29 hương cống, 3 cử
nhân).
Nghi Xuân khi xưa thuộc phủ Đức Quang (gồm cả Hương Sơn, Can Lộc, Đức Thọ,
Thanh Chương, Nghi Lộc) được xem là vùng "địa linh nhân kiệt" của Xứ
Nghệ. Trong thời kì phong kiến, Nghi Xuân có 21 vị đỗ Đại khoa (Tiến sĩ) với
những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Nguyễn Tiên Điền, Ngụy Khắc, Trần, Phan,
Uông, Đậu... và các làng giàu truyền thống văn hoá như: Tiên Điền, Uy Viễn,
Cương Gián, Cổ Đạm, Tả Ao, Phan Xá...
Nhiều người thành đạt xuất thân từ Nghi Xuân, như Danh nhân Văn hóa Thế giới,
Đại Thi hào dân tộc Nguyễn Du; Đại doanh điền, Nhà thơ Nguyễn Công Trứ;Nhà Địa
lý Tả Ao nổi tiếng đời Hậu Lê; Danh tướng Nguyễn Xí; Thiêm đô Ngự sử Phạm Ngữ
(1434-?); Danh nho Đặng Thái Phương; Hoàng giáp Phan Chính Nghị; Đại Tư đồ Xuân
Quận công Nguyễn Nghiễm- Tể tướng triều Hậu Lê; Liêu Quận công Đặng Sĩ Vinh;
Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh; Toản Quận công,Tiến sĩ Nguyễn Khàn- Thượng thư Bộ
lại; "An Nam ngũ tuyệt", nhà thơ Nguyễn Hành; Tổng đốc, Thượng thư
Ngụy Khắc Tuần; Bảng nhãn Trần Bảo Tín, Thám hoa Nguyễn Bật Lạng (1546-?), Thám
hoa Ngụy Khắc Đản; Phó bảng Hà Văn Đại; Lam Khê hầu Nguyễn Trọng; Điền Nhạc hầu
Nguyễn Điều; Nhà sử học Trần Trọng Kim - Thủ tướng đầu tiên của Chính phủ Việt
Nam...
Trong số những người nổi tiếng hiện nay, từ huyện Nghi Xuân có: Nghệ sĩ Nhân
dân Đào Mộng Long; Nhà Giáo Nhân dân Lê Hải Châu; Giáo sư, Nhà Khảo cổ học Hà
Văn Tấn; Giáo sư, Tiến sĩ Y khoa Hà Văn Mạo; Nhạc sĩ, Nghệ sĩ Nhân dân Lê Đóa;
Giáo sư Vũ Ngọc Khánh; Trung tướng Lê Hữu Đức-nguyên Cục trưởng Cục tác chiến,
nguyên Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam; Đặng Duy Phúc - nguyên Thành
uỷ viên Thành phố Hà Nội, Giám đốc Sở Công nghiệp Hà Nội - Nhà Sử học; Thiếu
tướng Đặng Văn Duy -Nguyên Phó Ban Cơ Yếu Trung ương, nguyên Chính ủy Bộ Tư
lệnh Không quân, Cục trưởng Cục Tuyên truyền đặc biệt thuộc Bộ Quốc phòng; Đậu
Ngọc Xuân -nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Tiến sĩ Đặng Duy Báu-
nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh; Tiến sĩ Uông Chu Lưu -Ủy viên Trung ương Đảng,
Phó chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Giáo
sư kinh tế Nguyễn Đình Hương; Giáo sư Trần Ngọc Hiên nguyên Phó Giám đốc Thường
trực Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà báo, Nhà thơ Thuận Hữu - Ủy
viên Trung ương Đảng khóa XI,Tổng biên tập báo Nhân dân, Tiến sĩ Trần Quyết
Thắng- Cục trưởng Cục A thuộc Văn phòng Trung ương Đảng; Tiến sĩ Y khoa Hà Văn
Quyết; Tiến sĩ Đặng Quốc Khánh- Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh
ủy, Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh; Nguyễn Thị Hà - Phó Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh...
Nghi Xuân Là huyện có tiềm năng lớn về du lịch với các danh lam thắng cảnh,
là miền quê có bề dày truyền thống văn hoá lịch sử với 200 di tích, có 68 di
tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia và cấp tỉnh trong đó 01 di tích được xếp
hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt là Khu lưu niệm Danh nhân văn hoá thế giới -
Đại thi hào Nguyễn Du. Hệ thống di tích huyện Nghi Xuân hết sức phong phú và đa
dạng phục vụ tốt cho các hoạt động du lịch văn hóa danh nhân, du lịch văn hóa
tâm linh tiêu biểu như: Quần thể khu di tích Nguyễn Du, nhà thờ Uy viễn Tướng
công Nguyễn Công Trứ, đền Chợ Củi, đền Huyện, đình Hội Thống, đền Nguyễn Xí,
chùa Phong Phạn, chùa Thanh Lương, chùa Đà Liễu và Di chỉ khảo cổ Bãi Cọi -
Xuân Viên, Việt Nam Trần Triều Điện, Thiền Viện Trúc lâm Hồng Lĩnh... Sau đây
là một số địa chỉ nổi bật:
Đền Huyện Nghi Xuân. Nơi đây thờ Hoàng tử triều Lý là Uy Minh vương Lý Nhật
Quang. Đền thờ được xây dựng lâu đời và nổi tiếng linh thiêng. Dự kiến, UBND
tỉnh Hà Tĩnh, UBND huyện Nghi Xuân sẽ triển khai đầu tư xây dựng Đền Huyện với
quy mô lớn hơn. Bên cạnh Đền Huyện có giếng Tả Ao và cũng tại nơi đây dự kiến
sẽ xây dựng khu lưu niệm và nhà thợ Tả Ao.
Đền Thượng tại thôn An Tiên, xã Xuân Giang thờ ba vị đại vương triều Lý gồm Uy
Minh vương Lý Nhật Quang, Đông Chinh vương và Dực Thánh vương.
Đền Chợ Củi tại xã Xuân Hồng: Di tích kiến trúc nghệ thuật tôn giáo thế kỉ 17,
thờ Đức Hoàng Mười, Liễu Hạnh công chúa.
Nhà thờ Nguyễn Công Trứ tại xã Xuân Giang: Nhà thờ Danh nhân văn hóa thế kỉ 19.
Khu lưu niệm Nguyễn Du tại xã Tiên Điền: Khu lưu niệm danh nhân văn hóa thế kỉ
19.
Đình Hội Thống tại xã Xuân Hội: Kiến trúc nghệ thuật thế kỉ 17.
Nhà thờ Thiếu bảo Liêu Quận công Đặng Sĩ Vinh - di tích lịch sử văn hóa từ năm
2003, được xây dựng từ năm 1770 thời Vua Lê Hiển Tông.
Nhà thờ và mộ Trịnh Khắc Lập tại xã Xuân Thành: Danh nhân lịch sử năm 1912.
Đình Hoa Vân Hải tại làng Vân Hải - xã Cổ Đạm: Di tích cách mạng giai đoạn
1930-1931.
Đền thờ Nguyễn Ngọc Huấn ở xã Xuân Yên
Đền Cả ở xã Xuân Hội
Đền làng Cam Lâm ở xã Xuân Liên
Nhà thờ Phạm Ngự ở xã Xuân Mỹ
Nhà thờ Hoàng giáp Phan Chính Nghị tại thôn Vinh mỹ xã Xuân Mỹ
Nhà thờ và mộ Bảng nhãn Trần Bảo Tín ở Thị trấn Xuân An.
Bãi biển Xuân Thành thuộc xã Xuân Thành
Đền Thánh Mẫu ở xã Xuân Lam
Trúc Lâm đại giác - Việt Nam Trần triều điện tọa lạc trên khu đắc địa rộng 5000
m2 tại làng Kiều Lĩnh, xã Xuân Phổ, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, có kiến trúc đặc
biệt độc đáo, vừa hiện đại vừa cổ kính. Ba tòa nhà chính là 3 cung điện thờ,
được xây dựng 2 tầng, tầng một bằng bê tông cốt thép, tầng 2 bằng gỗ quý nhập
khẩu từ nước CHDCND Lào,thờ các vị vua nhà Trần"
Nơi đây còn có khá nhiều làng nghề truyền thống như :
Làng nón Tiên Điền: thuộc xã Tiên Điền.
Làng nước mắm Cương Gián: nay là xã Cương Gián.
Làng làm nồi đất Cổ Đạm : thuộc xã Cổ Đạm.,
Làng làm mộc: thuộc xã Xuân phổ.
Làng làm trống: thuộc xã Xuân Hội.
Thông minh , tài năng là đặc điểm nổi bật thứ 2 của con người vùng đất Hồng
– Lam. Thật ra thì nghĩa khí và tài năng là hai mặt liên quan chặt chẽ, không
thể tách rời . Trên đất Hà Tĩnh bây giờ, từ xa xưa, đã có những con người “ truyền thuyết “ mà
tài năng được nhiều người biết đến . Một người con gái đất Phổ Minh , hát giỏi
mà bạc mệnh , mất tích trong một lần vào Ngàn Hống lấy củi , đã trở thành “
Thần hát ví “ . Một chàng trai bên bờ sông Phố , giỏi nghề thợ dác , đi theo
nghĩa quân Lam Sơn , ngày thắng lợi trở về , tiếp tục hành nghề . Khi mất được
dân dựng miếu thờ và gọi là “Tiên Dác “ . Một Võ Đức Huyền là “ Thánh Địa lý Tả
Ao “ . Một Lê mai ở Kẻ Thượng là “ Thần Y “ . Một Nguyễn Cảnh ở Tiên Điền là “
Thánh Y “ . Một Sáu Ngại – Nguyễn Huy Ngại , được dân thợ mộc Thái Yên gọi là “
Á Thánh “ sau Thánh thợ Lỗ Ban . dân gian còn truyền một “ ông kẻ bề “, có tài
vật bách chiến bách thắng , có tên lạ là “ Ông Ồ “ . Một bà mụ người làng Lạc
Dị , giỏi nghề hộ sinh , được Khái ( Hổ ) đến cõng vào rừng đỡ đẻ cho Khái mạ (
Hổ mẹ ), nên dân gian trong vùng gọi là “ Mụ Khái “ .Một Trần Hồ , vạn chài ,
có tài lặn bắt cá dưới nước , được vua lê Thánh Tông ban cho tên “ Thám Hồ “ .
và những người có tài khôi hài thì dân xứ Nghệ gọi là “ Trạng “..
Chuyện người tài trong dân gian thì phải kể đến hàng tháng , hàng năm . Ở
đây chỉ nói đến một số nhân tài lỗi lạc , tiêu biểu nhất cho tài năng của nhân
dân ta .Họ là con em của vùng đất núi Hồng – Sông Lam văn vật , và là những
người góp công tạo nên đất văn vật Hồng – Lam. Đó là những ông Trạng, ông Bảng
, ông Thám , ông Nghè , ông Cử là những trí thức tân học hiện đại.
Thời Lý – Trần , Thăng Long và vùng phụ cận , Nho học đã phát triển mạnh
mẽ, thì Thanh , Nghệ còn là đất trại xa xôi .nếu lấy khoa cử làm mốc thì việc
học ở đây chậm sau 2 thế kỷ , và Nghệ Tĩnh so với Thăng Long cũng chậm hơn một
bước. Nhưng từ cuối thời Trần , nhất là dưới hai triều Lê – Nguyễn , xứ Nghệ
nổi tiếng là đất học , có nhiều người chăm học và học giỏi .
NGHI XUÂN BÁT CẢNH :
Là tám cảnh đẹp ở huyện Nghi Xuân . Theo sách “ Nghi
Xuân thông chí – Quyển hạ “ thì nguyên trước kia có 01 cảnh , nhưng Hoàng
Giáp Bùi Dương Lịch đã dọn bớt chỉ để lại 8 cảnh .
Tám cảnh được sắp xếp theo thứ tự từng cặp đối với nhau . Mở đầu là hai bức
tranh :
* Hồng Sơn liệt chương ( Núi Hồng thành dựng ).
* Đan Nhai quy phàm ( Bờ son buồm về ).
Còn Đan Nhai ( sách cổ chép Đơn hay Đan Thai ) là xã Hội Thống bây giờ .
Đan Nhai là hải môn của Cửa Hội , cửa sông Lam ( Ngàn Cả ) chảy giữa Nghi Lộc
và Nghi Xuân . Sách “ Nghi Xuân địa chí “ của lê văn Diễn mô tả : “ Những tháng
cuối xuân sang hè , trời nắng tạnh , các loại thuyền đánh cá lớn nhỏ , cùng với
thuyền buôn từ Bắc đến , vào cửa sông có hàng mấy trăm chiếc . Buồm thuyền no
gió , dập dờn qua lại hàng đàn …khác nào như đàn bướm đang vờn hoa , bày cá
đang dỡn nước …Thật là một nơi thắng lãm hiếm có “.
Hồng Sơn – Đan Nhai là hai bức tranh toàn cảnh Sơn – Hải ( Thủy ) rộng lớn
. Có 2 bức “ Song Ngư hí thủy ( Đôi cá dỡn nước ) – “ Cô độc lâm lưu “ ( Nghé
lẻ lội sông ), là trích từ 2 bức tranh lớn đó ra , nói về 2 cảnh sơn – Thủy cụ
thể , nhỏ xinh như 2 hòn non bộ.
Cô Độc là trái núi nhỏ, nằm tách ra riêng ở mé sông Lam , thuộc nhóm Ngữ Mã
trong dãy Hồng Lĩnh. Do hình núi nên dân gian tưởng tượng ra là Con nghé
lẻ loi sắp lội xuống sông ( Cô độc lâm lưu ) . Núi còn có tên là “ Khu độc “ (
Con nghé đang nhảy ) . dân địa phương xã Xuân Hồng gọi là Núi bà ( có lẽ là
Tháp Sơn ở gần đó có đền thờ bà Chúa Liễu ). Trên đỉnh núi có tảng đá lớn , mặt
rộng gần trượng , giữa có 1 lỗ sâu gọi là “ Đá Cối “ . Tương truyền đó là dấu
tích Ninh quận công Trịnh Toàn giã gạo quân lương.
Cặp đôi thứ 3 là một bến đò , một cái bãi trên sông Lam : Giang đình cổ độ
( bến cổ Giang đình ) – Quần Mộc binh sa ( Bãi bằng Quần mộc ) .
Giang Đình là 1 bến đò có từ xưa , gọi là đồ Tả Ao ( Thuộc làng Tả Ao ) ,
trên bến là chợ Tả Ao. Hội Xuân quận công Nguyễn Nghiễm , thân sinh ra thi hào
Nguyễn Du khi trí sĩ, người ta dựng Giang Đình trên bến đò để đón rước , mở hội
ăn mừng . Để ghi lại sự kiện mang lại vinh dự cho địa phương , người ta đổi tên
bến đò và khu chợ thành Giang Đình . về sau , Nguyễn Du có nhắc lại việc này
qua bài thơ “ Giang Đình hữu cảm “
Ức tích
ngô ông tạ lão thì ,
Phiêu
phiêu bố trí thử giang nữ .
( Nhớ cụ
ta khi cáo lão về ,
Mé sông
này rộng ngựa cùng xe.)
Cuối cùng là một cảnh chùa và một cảnh chợ . Uyên Trừng danh tự ( Chùa đẹp
Uyên Trừng ) và Hoa phẩm thắng triền ( Chợ lớn Hoa Phẩm ).
Uyên Trừng là tên tục của chùa Dằng, trên rú Dằng ( Uyên Trừng sơn ) ,
trong nhóm Ngũ Mã phía Tây dãy Hồng Lĩnh thuộc xã Tam Đang hạ ( sau là Tam Xuân
hạ, nay là Xuân Hồng ) .Uyên Trừng là gọi theo tên núi , tên địa phương , còn
tên chính thức là chùa Hoa Tạng, từ đời Thiệu Trị, kiêng húy đổi ra là Ba Tạng.
Đây là ngôi chùa lớn dựng từ thời Lý ( nay không còn ) . sách cổ đều chép :
Phía trước chùa là sông Lam núi Hồng bao quanh 3 mặt , phong cảnh thanh u ,
tĩnh mịch . Phía trước chùa có khe , có cầu , có am viện , có ao đá do nước
suối chảy vào . Bên chùa là nơi sư ở . Xưa nay du khách đã ngâm vịnh ở chùa này
nhiều. Thật là một nơi già lam bậc nhất .
Chợ Hoa Phẩm tức là chợ Chế ở xã Tam Chế , sau đổi thành Hoa Phẩm rồi Quả
Phẩm , nay là xã Xuân Lam . Ngày trước chợ sát chân núi . Đời Lê , táng mộ Lý
nguyên phi ở núi Na nên dời chợ xuống khu đất sát sông Lam . Vua Lê Thánh
Tông có bài thơ Nôm “ Vịnh làng Chế “ như sau :
…Chợ họp bên sông gẵm có chiều,
Thuyền bày trên đất xem nhiều vẻ.
Cảnh vật bằng đây họa có hai …
Các cảnh trên đấy trước , sau Bùi Dương Lịch đều có người ngâm vịnh , nhưng
chỉ có ông Bùi là làm đủ 8 bài trong “ Nghi Xuân bát cảnh “. ( SĐD ).
Xin theo dõi tiếp BÀI 13. Thân ái. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét