Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 3.
Mai táng là biện pháp xử lý xác người chết
với nhiều hình thức khác nhau. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều hình thức
mai táng như: địa táng (thổ táng), hỏa táng, thủy táng, không táng (thiên
táng), huyền táng, điểu táng… nhưng ở Việt Nam phổ biến hiện nay là địa táng và
hỏa táng.
1/Địa táng (Thổ táng).
“Địa táng hay còn gọi là thổ táng là một
hình thức mai táng của loài người. Trong các hình thức mai táng: hoả táng, thuỷ
táng, không táng, thổ táng… thì địa táng là hình thức phổ biến rộng rãi hơn cả.
Địa táng gồm có 2 loại:
– Một loại chôn cất xuống đất vĩnh viễn,
trừ phi “mả động”, nghĩa là khi trong gia đình xảy ra sự cố gì bất trắc (có người
ốm nặng, mất mùa, cửa nhà sa sút, chết bất đắc kì tử…), người ta mới phải cải
táng.
– Một loại chôn xuống đất một thời gian nhất
định (tuỳ theo tập tục quy định), sau đó bắt buộc phải cải táng (tức là lấy
xương cốt còn lại đem chôn lầ nữa ở chỗ khác hay địa điểm cũ) lần này mới chôn
vĩnh viễn”.
Địa táng hay còn gọi là thổ táng là một hình thức mai táng truyền thống của người Việt.
Hình thức này có ở Việt Nam từ rất lâu đời.
Gồm có nhiều kiểu quan tài, phổ biến nhất là quan tài hình vò (hay chum) và
hình thuyền có trong nền văn hóa cổ Sa Huỳnh, Đông Sơn và trãi khắp vùng Đông
Nam Á.
– Quan tài hình vò (còn gọi mộ vò, mộ
chum): người xưa dùng vò để mai táng người đã khuất. Ở Sa Huỳnh, lần đầu tiên
người ta lại sử dụng thuật ngữ mộ chum. Ở Làng Cả, người Đông Sơn lại dùng nồi
gốm, vv. Vò hay chum được để hở hoặc đậy bằng những vung đặc biệt hoặc các hiện
vật gốm nhưng cùng loại hình. Có trường hợp trong một chum, vò to còn có nhiều
vò chum nhỏ đặt bên trong. Một số nhà nghiên cứu đề nghị nên sử dụng thuật ngữ
mộ có quan tài gốm. Khi dụng cụ không vừa chiều dài của thi thể, người xưa có
thể ghép 2 cái, hoặc đục đáy cái thứ ba để lồng vào giữa. Những quan tài được
ghép bằng hai ba hiện vật thường được đặt nằm ngang. Loại hình này có phạm vi
phân bố rất rộng vào thời đại sắt sớm ở khắp vùng lục địa và hải đảo Đông Nam
Á. Trong thời đại đá mới, chúng tồn tại phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới nhất
là đối với những cư dân chuyên làm nông nghiệp.
Chum táng đặc trưng Sa Huỳnh bằng đất
nung. Hình cho thấy chum đang phát hiện, còn chôn trong đất, phần miệng bị bể,
bên trong có vật táng.
– Quan tài hình thuyền: “người xưa dùng
quan tài hình thuyền để mai táng. Còn gọi là quan tài thân cây khoét rỗng. Quan
tài là một đoạn thân cây khoét rỗng lòng, chừa hai đầu hay ghép thêm hai miếng
ván. Nắp quan tài có mộng hay chốt để khớp với quan tài. Trong đồ tuỳ táng thường
có mái chèo. Phổ biến trong khu vực văn hoá Đông Sơn ở các vùng trũng. Ở Việt
Nam hiện nay đã có gần 30 di tích cóquan tai hình thuyền thuộc văn hoá Đông Sơn
được nghiên cứu. Nổi tiếng như khu mộ Việt Khê (Hải Phòng), Châu Can (Hà Tây).
Tàn dư của loại quan tài này vẫn còn tồn tại nhiều nơi ở Việt Nam. Quan tài
hình thuyền cũng được phát hiện ở Tứ Xuyên (Trung Quốc), Thái Lan, Philippin .
2/Hỏa táng.
Còn gọi hoả thiêu. Đây là phương pháp xử
lí thi hài bằng cách đốt cháy thành tro (dùng gỗ, dầu mazut, dầu hoả, khí đốt;
dùng điện là tốt nhất); tro của hài cốt tuỳ theo phong tục của cộng đồng mà cho
vào bình kín để thờ cúng trong gia đình hoặc nơi thờ tự của tôn giáo như chùa,
vv. hoặc để ở một nơi công cộng hoặc theo nguyện vọng của người quá cố (ví dụ
như rải ngoài thiên nhiên).
Thuận tiện: sạch, gọn, không gây ô nhiễm
môi trường, không phải cải táng, không tốn đất mở rộng nghĩa địa; tiện đối với
trường hợp người chết ở nước ngoài không thể đem thi hài về nước.
Bất tiện: phi tang nếu là một vụ chết người
có nghi ngờ về mặt pháp lí, không điều tra được nguyên nhân gây tử vong. Trước
khi cho phép hỏa táng phải có giấy chứng nhận của thầy thuốc điều trị, của cơ sở
y tế là chết tự nhiên; nếu có nghi vấn phải làm giám định y pháp trước khi hỏa
táng.
Ở Việt Nam, trước đây tục hỏa táng không
phổ biến lắm, chủ yếu ở người Khơ Me theo đạo Phật. Mỗi phum, sóc người Khơ Me
có nơi hỏa táng riêng, nhiên liệu chủ yếu là củi. Trước khi hỏa táng, người ta
tiến hành những nghi thức có tính tôn giáo nhằm đưa hồn người chết về thế giới
bên kia. Hiện nay một số nơi ở nước ta như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… đã bắt
đầu áp dụng hỏa táng.
Trong những tư liệu khảo cổ học cũng cho
thấy tục hỏa táng đã có trong nền văn hóa Sa Huỳnh vì tìm thấy những mộ chum chứa
tro cốt. Hiện vẫn chưa khẳng định được đây xuất phát từ tín ngưỡng bản địa hay
du nhập từ bên ngoài.
3/Huyền táng (táng treo)
Hay còn gọi là tục táng treo. Một kiểu
chôn người chết không phổ biến rộng rãi như địa táng nhưng xuất hiện rất nhiều
trong thời xưa. Theo cách này, người ta để thi thể người chết lộ thiên, hoặc để
nằm trên một tấm phên, hoặc để nằm trong quan tài hình thuyền. Có nhiều cách để
quan tài như:
– Đặt quan tài trên chạc ba một cái cây to
hoặc treo lủng lẳng trên cành cây.
– Đặt quan tài dưới vòm mái đá hay trong
hang đá ở lưng chừng núi, có khi đặt nằm sâu trong hang động. Những hang động
thường nằm gần sông, có rào chắn cẩn thận, là hang thiên tạo hay do con người
đào khoét. Hang được ngăn ra nhiều phòng, tạo chỗ để nhiều quan tài.
– Dùng những đoạn gỗ to ghim vào vách núi
làm điểm tựa cho quan tài hoặc cắm một đầu quan tài vào những hốc đá trên lưng
chừng núi,.
– Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều di chỉ
về hình thức huyền táng này ở các dân tộc thiểu số miền núi và trung du như:
quan tài treo ở động Ma, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Hang đá với
nhiều mộ treo ở xã Tân Lập, huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La. Những rừng ma của các
dân tộc ở Tây Nguyên nổi tiếng các làng Biên Loong, Đak Xay, Dục Lang và Vai
Trang của dân tộc Giẻ-triêng ở xã Đak Long, huyện Đak Glei tỉnh Kon Tum … Hiện
nay, táng treo không còn nữa vì tục này gây ô nhiễm môi trường, bệnh dịch…
4/Thủy táng.
Là hình thức thả trực tiếp xác người chết
xuống sông, biển, hồ… hiện nay hình thức này không còn vì gây ô nhiềm môi trường.
Tuy nhiên trong những trường hợp bất đắc dĩ vẫn còn sử dụng. Nó liên quan nhiều
đến điều kiện và môi trường sống cũng như ý nghĩa tâm linh của những cư dân sử
dụng hình thức này. Thủy táng không chỉ có ở Việt Nam mà khá phổ biến ở những
cư dân ven biển, trên các đảo nhỏ ở vùng Đông Nam Á (cả những vùng thuộc văn
hóa Đông Nam Á cổ đại).
Hình thức này cũng xuất hiện trong tác phẩm
văn học “Mùa hoa cải bên sông” của nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã được đạo diễn
Khải Hưng chuyển thể thành phim “Lời nguyền của dòng sông” với hình ảnh thủy
táng người vợ của lão chài họ Phạm. Hay bộ phim “Mùa len trâu” do Nguyễn Võ
Nghiêm Minh làm đạo diễn với hình ảnh thủy táng người cha của Kìm giữa đồng nước
mênh mông, đồng thời bộ phim này có hình ảnh cả tục táng treo trên cây, khi nước
xuống mới đem chôn (mặc dù không đúng thật 100%). Điều này phần nào thể hiện
cách thưc mai táng chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên.
5/Thiền táng (tượng táng).
Thiền táng (táng trong tư thế ngồi thiền)
hay Tượng táng (làm thành tượng để táng), là một loại hình rất hiếm hiện nay chỉ
được tìm thấy ở Trung Quốc và Việt Nam. Đặc biệt chỉ thấy ở những nhà sư Phật
Giáo. Các tượng nhà sư vẫn còn nguyên vẹn xương cốt, nội tạng… được đặt trong
tư thế thiền định. Đây là một hình thức táng vẫn đang dược nghiên cứu vì sự đặc
biệt của nó.
Ở Việt Nam có hai trường hợp thiền tảng nổi
tiếng là của nhà sư Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, tức Thành Đạo Tự,
thuộc làng Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
“Theo truyền thuyết trong dân gian có nói
rằng là hai thiền sư vào nhập thất có dặn là ta vào nhập thất 100 ngày, có gõ
mõ niệm phật, hết 100 ngày thì toàn thân sẽ khô đi, thơm tho, nếu thực sự như
thế thì để nguyên còn nếu có mùi như mọi người thì đem chôn… Đến nay di hài của
hai nhà sư vẫn còn được lưu giữ theo thế ngồi thiền”.
Dienbatn xin viết chi tiết về hình thức Địa
táng thường thấy ở Việt nam.
Trong cùng một đất nước, nhưng ở 2 miền Bắc
và Nam Việt lại có hình thức Địa táng khác nhau.
Tại miền Nam, chủ yếu là chôn một lần và
không cải táng. Trước kia, khi trong nhà có người chết, gia đình thường “ đào
sâu, chôn chặt” phía trước nhà. Người ta thường sử dụng các loại gỗ chịu nước
như cây Sao, cây Sến, lấy nguyên thân cây lớn, xẻ một tấm nắp và tấm còn lại đục
rỗng để làm quan tài. Gỗ Sao, Sến chịu nước rất tốt nên thường được làm tàu ,
thuyền. Những cỗ quan tài làm bằng Gỗ Sao, Sến thường tồn tại dưới đất đến vài
trăm năm. Đặc biệt tấm nắp quan tài rất dày nên hầu như không bị trường hợp bị
mục sụp xuống mà người ta gọi là “ sụp ván Thiên “. Người miền Nam đa phần khi
chôn cất không nhờ Thày Phân Kim – Điểm Hướng, mà chỉ đặt ang áng theo địa
hình. Ngày nay , tại miền Nam vì các loại Gỗ Sao, Sến hiếm dần nên hình thước Hỏa
táng được sử dụng rộng rãi.
Tại miền Bắc Việt nam, trước giờ vẫn chủ yếu
là chôn xong một thời gian đủ cho xương cốt sạch sẽ thì tiến hành Cải táng, cho
xương cốt vào tiểu, quách rồi đem chôn tại khu đất mới. Khu đất chôn đầu tiên
thường gọi là khu Hung táng.
Những gia đình giầu có và có địa vị cao
trong xã hội còn có tục Địa táng gần giống với miền Nam nhưng làm quy củ hơn. Đó
chính là tục tẩm , ướp xác và chôn luôn một lần. Đây là một quy trình cực kỳ phức
tạp và đòi hỏi chi phí rất lớn, cần có Thày Địa lý và Thày Pháp giỏi kết hợp.
Quan tài để dùng trong trường hợp này đa
phần làm bằng gỗ Vàng tâm rất dày, nhiều trường hợp sử dụng nguyên một khúc gốc
cây Vàng tâm cổ thụ.
Gỗ vàng tâm là một trong số những loại gỗ
vô cùng quý, nó được sử dụng chủ yếu cho những vật dụng mang tính tâm linh như:
quan tài, đồ thờ,… ỗ vàng tâm là một loại sản phẩm từ cây Vàng tâm hay
còn được gọi là Cây mỡ (theo dân gian) và nó là một loại thực vật nằm trong họ
Mộc Lan.
Gỗ vàng tâm là một loại gỗ tốt với những đặc
điểm như: khó biến dạng, nứt nẻ khi gặp thời tiết hanh khô, hạn chế được mối mọt,
độ bền của nó vô cùng cao với tuổi thọ lên tới tận hàng nghìn năm.
Ngoài ra, gỗ vàng tâm có đặc tính khá nhẹ,
thơm, có độ bền cao trong môi trường nước, rất thích hợp để làm các đồ thờ
cúng, tiểu, quan tài, quách,…
Gỗ vàng tâm được lấy từ một loại cây cũng
có tên là Cây Vàng tâm, đây là một loại cây thân gỗ với kích thước lớn từ 25 đến
35 m và đường kính rộng từ 74 đến 85cm. Tốc độ tăng trưởng của cây Vàng tâm ở mức
trung bình và nó chỉ được tái sinh bằng hạt. Thời điểm ra hoa của loại cây này
rơi vào khoảng tháng 3 tháng 4.
Những vùng có Vàng tâm tại Việt Nam đó là:
Nghệ An (Quỳ Châu), Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang Quảng Bình (Ba Rền).
Với những đặc điểm và tính chất như: mùi
thơm đặc biệt, độ bền đến hàng nghìn năm, chịu được nơi ẩm ướt lẫn thời tiết
khô,… nên rất thích hợp để làm quan tài.
So với những loại gỗ khác, nó có nhiều đặc
tính và giá trị về mặt công dụng hơn. Những loại gỗ khác thường sẽ dễ bị mối mọt
đào khoét hay dễ bị ảnh hưởng với những tác động của môi trường xung quanh.
Để tránh nhầm lẫn gỗ Ngọc Am, gỗ lát, gỗ dổi
thì gỗ vàng tâm có đặc tính xốp hơn. Khi đem gỗ vàng tâm đi đốt, ta sẽ ngửi thấy
mùi thơm đặc biệt của gỗ. Đồng thời, sẽ có tiếng lép bép khi đốt thi thoảng xì
ra như một chiếc que diêm cháy. Có thể nói đây là đặc điểm quan trọng nhất giúp
chúng ta phân biệt được tính thật giả của Gỗ vàng tâm.
Ngoài ra, sau khi làm quan , quách bằng gỗ
vàng tâm, thường có độ dày từ 10 – 20 cm , tùy điều kiện của gia đình mà người
ta thường ghép vào mặt bên trong một lớp gỗ Ngọc Am.
Gỗ Ngọc Am của dienbatn.
(Phần
này dienbatn có sử dụng tài liệu và ảnh của PGS.TS NGUYỄN LÂN CƯỜNG.)
Gỗ Ngọc Am dùng làm quan tài, hoặc
nếu sử dụng tinh dầu Ngọc Am bôi lên xác thịt người đã chết thì đến cả trăm năm
xác thịt vẫn tươi nguyên… quần áo niệm vẫn còn nguyên không hề rách nát. Khi
khai quật mộ lên có khi cách xa hàng trăm mét vẫn ngửi thấy mùi thơm thoang
thoảng, tuyệt nhiên không có mùi gây gây của xương thịt người. Người được chôn
cất được tẩm liệm theo phương pháp này được coi là chôn vĩnh viễn, không cần
cải táng.
Trên thị
trường hiện nay có rất nhiều loại tinh dầu với thành phần chiết xuất đa dạng,
mang đến những tác dụng tích cực cho sức khỏe và làm đẹp. Trong đó tinh dầu Ngọc
Am là một trong những sản phẩm cực kỳ tốt nhưng có giá khá đắt nên vẫn chưa được
dùng phổ biến.
Ngọc Am là một cây gỗ quý với rất nhiều công dụng khác nhau, cây này chỉ
có ở vùng núi cao tại một số tỉnh Tây Bắc nước ta. Hiện nay gỗ Ngọc Am ngày
càng trở nên khan hiếm nên giá trị kinh tế cũng rất cao.
Người ta đã nghiên cứu và chiết xuất ra loại tinh dầu gỗ Ngọc Am với rất
nhiều công dụng tốt cho sức khỏe, hỗ trợ làm đẹp.
Gỗ Ngọc Am rất quý, quý từ trong cái tên (am là nằm sâu trong lòng đất,
ngọc am là ngọc trong đất) đến công dụng của nó. Chính vì vậy mà trong quá
trình chế tác ra tượng, đồ thờ, đồ trang trí đắt tiền, người ta sẽ giữ lại gỗ vụn
và mùn cưa của Ngọc Am để chưng cất ra Tinh dầu Ngọc Am. Thành phần chính của
Tinh Dầu Ngọc Am là: α-cedrene (16.9%), cedrol (7.6%), and β-cedrene (5.7%). Gỗ Ngọc Am từ lâu đã nổi tiếng bởi công dụng của tinh dầu có thể ướp xác
hàng nghìn năm không bị mối mọt. Không biết đó là câu chuyện có thật hay chỉ là
những lời đồn thổi của giới buôn gỗ chuyên nghiệp vùng Hoàng Su Phì. Nhưng sự
thật đang diễn ra là người Trung Quốc vẫn trả giá cao khi ai đó có Ngọc Am để
bán. Các nhà khoa học của Nhật Bản sau khi nghiên cứu tinh dầu Ngọc Am đã kết
luận tinh dầu Ngọc Am có độc tính với tế bào, gây đông vón protein tế bào ở người
và động thực vật nên gỗ và dầu Ngọc Am chỉ thích hợp cho việc bảo tồn tế bào, bảo
tồn xác ướp theo kinh nghiệm của người xưa. Đó cũng là lý do vì sao trước đây người ta
không làm các đồ vật bằng loại gỗ này bởi độc tính quá cao. Nhưng dầu ngọc am không được nhiều nên người ta nghĩ cách làm giả, dùng
tinh dầu thông và pơ mu trộn với một lượng nhỏ ngọc am rồi đem bán.
Tinh dầu Ngọc
Am của dienbatn,
Một vấn đề quan trọng nữa khi ướp xác là việc bó xác. Người ta thường bó xác rất cẩn thận và rất nhiều lớp bằng một loại vải trắng thường sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc từ những loại cây thiên nhiên như cây gai, cây bông và cây lanh. Vải thổ cẩm được dệt hoàn toàn thủ công. Loại vải này thường phải mua từ bên Lào hay của người dân tộc. Sau khi bó xác cẩn thận hàng trăm lớp vải, người ta dùng mật ong rừng tẩm lên các lớp vải cho kín , không để khí lọt vào. Sau khi mật ong khôn, người ta mới cho xác ướp vào quan tài Vàng tâm có lót Ngọc am. Dưới quan tài thường có một tấm ván bằng vàng tâm có khoan chùm sao Thất tinh ( Chòm sao Đại Hùng ) . Lớp gạo nếp rang phủ bên dưới tấm ván khoan chùm Thất tinh .
" Cho đến nay ở Việt Nam đã phát hiện được
khoảng 52 mộ hợp chất , nhưng phần lớn tập trung ở miền Bắc . Có những mộ đã
được khai quật, có mộ bị kẻ gian phá trộm để tìm kiếm hiện vật hoặc một số khác
chỉ mới phát hiện ( xem phần phụ lục ) . " Mộ hợp chất " còn gọi là
" Mộ trong quan ngoài quách " , " Mộ ướp xác ", " Mộ
quách tam hợp ", " Mộ bao kín " , " Mộ có xác " , hay "
Mộ cổ " ...Theo chúng tôi , mộ hợp chất là cách gọi tương
đối hợp lý và dễ hiểu hơn cả . Nếu mộ hợp chất có tường bao quanh 3 mặt , bên
trong là mộ đôi thì chúng tôi gọi là " Mộ hợp chất song táng " . Loại
mộ này chưa phát hiện ở miền bắc , chỉ có ở phía Nam của nước ta . Mộ hợp chất
có một đặc điểm chung nhất là có quách hợp chất bao ở bên ngoài . Quách hợp
chất mà người ta gọi là " Tam hợp " thông thường gồm 3 chất : vôi ,
cát , mật . Ngoài ra người ta còn trộn thêm vỏ nhuyễn thể đã bị hun, đốt nghiền
nhỏhay giấy bản hoặc nước cháo loãng ...Người ta còn dùng nước cây Niệt Dó trộn
lẫn có tác dũng như chất hồ làm liên kết các hợp chất với nhau , khiến cho nước
bên ngoài không thấm vào được . Chính vì vậy người ta gọi là mộ hợp chất .
Một số mộ lại có quách gỗ bao kínầi mặt của quan tài . Xác được giữ lại chính
nhờ các loại dầu ướp xác và quan , quách kìn , tạo môi trường yếm khí .
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét