Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.BÀI 9.2 LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU: NGHỆ AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.
BÀI 9.2 LOẠT BÀI
NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU: NGHỆ AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.
Bài 9. 2: Văn hóa đa
sắc tộc và phi vật thể. Tiêu đề: Hòa quyện và độc đáo: Bản sắc văn hóa của 6
dân tộc tại Nghệ An.
Lời Tri Ân Và Hướng Tiếp Cận.
Kính gửi quý độc giả, Sau những năm tháng đắm mình trong
công cuộc điền dã miệt mài tại Nghệ An – vùng đất của những huyền thoại và tinh
thần quật cường – Điện bà Tây Ninh tự hào đã tích lũy được một kho tàng tư liệu
vô giá. Đó là những trang ghi chép thủ công thấm đẫm mồ hôi, những ổ đĩa cứng
chứa đựng hàng ngàn hình ảnh và video, ghi lại từng con suối róc rách, từng ngọn
núi sừng sững, từng di tích lịch sử thấm đẫm dấu thời gian, cùng những câu chuyện
đầy cảm xúc từ người dân bản xứ.
Hôm nay, nhân dịp nông nhàn, chúng tôi xin được sẻ chia những
tư liệu quý báu này, không chỉ như một bài nghiên cứu lịch sử mà còn như một lời
tri ân sâu sắc đến những người bạn xứ Nghệ – những ân nhân đã đồng hành, dẫn lối
chúng tôi qua những con suối sâu, hang động bí ẩn, và bên bếp lửa hồng, kể những
câu chuyện dân gian đầy ý nghĩa. Nhờ họ, chúng tôi đã thấu hiểu hơn về mảnh đất
và con người nơi đây.
Loạt bài này sẽ đưa quý độc giả vào hành trình khám phá sâu
sắc các địa danh và nhân vật lịch sử, văn hóa của Nghệ An, bắt đầu từ nguồn cội
và vươn xa theo dòng chảy thời gian. Với tính chất chuyên sâu, kết hợp với bộ ảnh
và video của Điện bà Tây Ninh, chúng tôi sẽ mô tả chi tiết, phân tích thấu đáo,
đồng thời gợi ý các liên kết hình ảnh và video để dựng nên một bức tranh toàn
diện về vùng đất địa linh nhân kiệt. Chúng tôi hy vọng quý độc giả sẽ kiên nhẫn
đồng hành cùng chúng tôi trong hành trình này. Thân ái! Điện bà Tây Ninh.
Vì bài này rất dài nên Điện bà Tây Ninh sẽ chia làm 2 bài.
Phần 2 sẽ tiếp nối với :
Chương 4: Dân Tộc Khơ Mú – Tinh Thần Kiên Cường Nơi Rẻo Cao
Với Múa Au Eo Và Lễ Tết Cơm Mới.
Chương 5: Dân Tộc Mông – Sức Sống Vượt Lên Đại Ngàn Với Tiếng
Khèn Và Lễ Giỗ Họ.
Chương 6: Dân Tộc Ơ Đu – Tấm Thảm Văn Hóa Đang Dần Phai Màu
Với Lễ Chăm Phtrong Và Nỗ Lực Bảo Tồn Ngôn Ngữ.
Tổng Kết: Sức Mạnh Từ Sự Hòa Quyện và Tiềm Năng Phát Triển Bền
Vững.
Xin cảm ơn quý độc giả đã kiên nhẫn theo dõi. Thân ái. Điện
bà Tây Ninh.
Chương 4: Dân Tộc Khơ
Mú – Tinh Thần Kiên Cường Nơi Rẻo Cao Với Múa Au Eo Và Lễ Tết Cơm Mới.
4.1. Nguồn Gốc và Lịch
Sử Phát Triển.
Bản sắc văn hóa dân tộc Khơ Mú tại Nghệ An thể hiện rõ nét
qua các lĩnh vực như trang phục (áo cài khuy bạc, hoa văn độc đáo), văn nghệ
dân gian (hát Tơm, kèn môi, múa lắc hông), tín ngưỡng (thờ đa thần, coi trọng
ma nhà), nghề thủ công truyền thống (đan lát, dệt thổ cẩm), lễ hội (Tết cơm mới,
lễ cúng bản), và lối sống (nhà sàn, quan niệm về ma, ẩm thực). Tuy nhiên, các
giá trị này đang dần bị mai một do những thay đổi trong đời sống kinh tế và xã
hội.
Theo số liệu điều tra từ cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc
năm 2000 thì dân tộc Khơ Mú có 56.542 người, đứng thứ 23 trong 54 dân tộc anh
em trên đất nước Việt Nam. So với các tỉnh thành khác trong cả nước, Nghệ An là
nơi tập trung đông dân tộc Khơ Mú nhất với 37.000 người, chiếm 8% dân số toàn tỉnh
và chiếm 50% tổng số người Khơ Mú cả nước.
Theo Tiến sĩ Hoàng Xuân Lương trong “Người Kư Mụ ở Nghệ An”
thì người Khơ Mú ở Nghệ An có nguồn gốc từ Lào di cư sang cách đây khoảng 200
năm. Do các tỉnh miền Tây Nghệ An nối liền về địa hình - văn hóa với các tỉnh
Xiêng Khoảng, Hủa Phăn của Lào nên việc di cư của dân cư của hai bên diễn ra
khá dễ dàng. Các đợt thiên di của người Khơ Mú sang Nghệ An diễn ra theo nhiều
đợt khác nhau, đợt đầu tiên trong cuộc đấu tranh chống lại phong kiến Xiêm La,
thực dân Pháp và bọn địa chủ cường hào, người Khơ Mú đã ở lại và sinh sống tại
các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, trong đó tập trung đông nhất tại huyện
Kỳ Sơn, sau này còn có nhiều đợt di cư rải rác khác.
Về mặt nhân chủng học, người Khơ mú thuộc loại hình trung
gian giữa nhóm Inđônêđiêng và Nam Á, thuộc ngôn ngữ Môn - Khơme. Tộc danh Khơ
Mú là tên gọi chung thống nhất cả nước mang tính pháp lý từ khi có bảng danh mục
các thành phần dân tộc Việt Nam do Tổng Cục thống kê công bố năm 1979. Trước
đây, dân tộc này có nhiều tên gọi khác nhau, đó là các tên tự gọi, tên do các
dân tộc khác gọi ở những vùng và những thời kỳ khác nhau. Ở Lào, người Khơ Mú
được gọi là bằng các tên như Xá Khao, Khạ, Bit hoặc được gộp chung vào các nhóm
tộc người ở rẻo giữa khác được gọi là Lào Thênh, Lào Thơng. Còn ở Thái Lan họ
còn được gọi bằng cái tên Kamú, Phu Thênh, Kha Mu, Kham Mu.
Trước đây, người Thái gọi người Khơ Mú là “Tây Tênh”. Tên gọi
này có nghĩa là dân tộc ở trên cùng quả bầu được chui ra đầu tiên. Theo giải
thích của nhiều người Thái thì tên gọi này hàm ý tôn trọng ngưòi Khơ Mú. Một thời
gian về sau, người Thái lại gọi người Khơ Mú bằng một cái tên mới là “Tây
Thênh”, sau tên gọi “Tây Thênh” là tên gọi “Xá” hay “Xà” tuỳ theo giọng phát âm
của từng vùng. Cho đến nay, nghĩa đen của từ “Xà” có nghĩa là “cái giàn gác bếp"
vì giàn gác bếp thường là rất đen cho nên họ thường gọi người có da đen là “Xà”
với ý đen như gác bếp (đắm khư xà, đắm khư thênh) đó là câu nói cứa miệng của
người Thái. Tuy nhiên từ khi các tộc Môn- Khơme nói chung, trong đó có người
Khơ Mú, lệ thuộc vào người Thái thì tộc danh “Xá” hay “Xà”, càng mang hàm ý miệt
thị.
Phong tục cưới xin của
người Khơ mú ở Nghệ An.
Đến năm 1960, khi nhà nước tiến hành cuộc Tổng điều tra dân
số lần thứ nhất, người Khơ Mú được gọi là Tày Hạy, còn ở Lai Châu, Sơn La vẫn
được gọi là lá Xá (Xà). Từ tên gọi Xá, người Khơ Mú được các dân tộc khác gọi bằng
những tên khác nhau như Xá Cẩu (Thái), Khá Klẩu (LaLa), Klẩu (Kháng), Mãng Cẩu
(Hmông). Ở một số địa phương người Khơ Mú còn được gọi bằng các tên khác nữa
như Tềnh (Mộc Châu), Pu Thênh hay Tày Hạy (Thanh Hoá, Nghệ An), Mứn Xen (Lai
Châu), hay còn được gọi là tên Việt Cang. Tất cả các tên gọi như đã nêu đều có
nghĩa là người Xá có tục bối tóc ngược. Nhưng cái tên Tềnh, Pu Thênh có nghĩa
là người ở trên (núi) cao. Tày Hạy có nghĩa là người chuyên làm rẫy. Mứn Xen có
nghĩa là người có tục ăn trầu hay nhổ nước bọt. Việt Cang có nghĩa là người Việt
ở lưng chừng núi.
Ở Nghệ An, người Khơ Mú được người Thái ở đây gọi là Tày Hạy.
Tên Tày Hạy được đồng bào người Khơ Mú và người Thái ở đây coi là một tên chính
thống thân quen, gần gũi. Thậm chí có những người Khơ Mú (chủ yếu là giới trẻ)
họ không biết, không hiểu họ là dân tộc Khơ Mú nữa mà chỉ biết họ là những người
Tày Hạy - một dân tộc gần gũi với người Thái, đối với người Khơ Mú họ thích gọi
là người Tày Hạy hơn là Khơ Mú. Bởi tên gọi Khơ Mú trong đó có từ “mú” có thể
nói đây là từ không thân thiện thậm chí còn mang tính miệt thị, vì “mú” nghĩa
là lợn. Tuy nhiên, người Khơ Mú thích và tự gọi mình là Khmụ, Kưm Mụ, Cư Mụ vì
khi phát âm cũng như khi viết thì có nghĩa là "người", thể hiện sự
tôn trọng đối với bản thân và dân tộc họ.
Như vậy, tính đến nay ở Nghệ An dân tộc Khơ Mú đã có 7 tên gọi
qua các thời kỳ lịch sử khác nhau: Cư Mụ, Khơ Mú, Mãng Cẩu, Pu Thênh, Kưm Mụ,
Xà, Tày Hạy. Nhưng dù với gọi tên này hay tên khác đi nữa thì ngay từ ban đầu,
dân tộc này đã có một ý thức dân tộc rõ ràng, thể hiện tính cách của một dân tộc
thống nhất.
Đặc điểm hình dạng của người Khơ Mú là dáng người thấp, da
đen, tóc xoăn, đầu dài, mũi to và dô. Đặc điểm hình dạng này gắn liền với truyền
thuyết về “nguồn gốc loài gốc loài người sinh ra từ quả bầu” và di tích huyền
thoại đó còn được ngộ định vào một tảng đá lớn tại bản Tẩu Pung (bản có tên là
Quả Bầu Khổng Lồ) ở Mường Thanh - Điện Biên. Truyện quả bầu ở người Thái cũng kể
rằng chính tổ tiên người Khơ Mú đã chui từ quả bầu khổng lồ ra trước theo lỗ
dùi bằng sắt nung đỏ nên mới có nước da ngăm đen. Tổ tiên người Thái ra sau bằng
lỗ dao khoét nên có nước da trắng hơn, nên tục ngữ Thái có câu: “pu tay ọc hu
pa, pu xà óc hu chi” (có nghĩa người Thái chui từ quả bầu ra sau theo lỗ khoét
của dao, còn người Khơ Mú (Xà) chui từ quả bầu ra trước theo lỗ dùi bằng sắt
nung).
Lịch sử đấu tranh của người Khơ Mú còn gắn liền với truyện kể
về vị anh hùng huyền thoại có tên là Chương Han là một vị tù trưởng anh hùng,
tài giỏi, đã tập hợp và tổ chức được hàng nghìn binh mã, đánh đông dẹp bắc,
chinh phục được nhiều vùng rộng lớn. Hình tượng vị anh hùng Chương Han đã trở
thành biểu tượng của khát vọng tự do, niềm kiêu hãnh của đồng bào Khơ Mú, đi
vào truyện thơ "Tạo Khủn Chương".
Ở Nghệ An, người Khơ Mú sinh sống chủ yếu ở các huyện Kỳ
Sơn, Tương Dương, Quế Phong, dân số hơn 71.000 người, chiếm khoảng 48,9% dân số
Khơ Mú ở nước ta hiện nay.
Theo Tiến sĩ Hoàng Xuân Lương trong “Người Kư Mụ ở Nghệ An”
thì người Khơ Mú ở Nghệ An có nguồn gốc từ Lào di cư sang cách đây khoảng 200
năm. Do các tỉnh miền Tây Nghệ An nối liền về địa hình - văn hóa với các tỉnh
Xiêng Khoảng, Hủa Phăn của Lào nên việc di cư của dân cư của hai bên diễn ra
khá dễ dàng. Các đợt thiên di của người Khơ Mú sang Nghệ An diễn ra theo nhiều
đợt khác nhau, đợt đầu tiên trong cuộc đấu tranh chống lại phong kiến Xiêm La,
thực dân Pháp và bọn địa chủ cường hào, người Khơ Mú đã ở lại và sinh sống tại
các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, trong đó tập trung đông nhất tại huyện
Kỳ Sơn, sau này còn có nhiều đợt di cư rải rác khác.
Về mặt nhân chủng học, người Khơ Mú thuộc loại hình trung
gian giữa nhóm Inđônêđiêng và Nam Á, thuộc ngôn ngữ Môn - Khơme. Tộc danh Khơ
Mú là tên gọi chung thống nhất cả nước mang tính pháp lý từ khi có bảng danh mục
các thành phần dân tộc Việt Nam do Tổng Cục thống kê công bố năm 1979. Trước
đây, dân tộc này có nhiều tên gọi khác nhau, đó là các tên tự gọi, tên do các
dân tộc khác gọi ở những vùng và những thời kỳ khác nhau. Ở Lào, người Khơ Mú
được gọi là bằng các tên như Xá Khao, Khạ, Bit hoặc được gộp chung vào các nhóm
tộc người ở rẻo giữa khác được gọi là Lào Thênh, Lào Thơng. Còn ở Thái Lan họ
còn được gọi bằng cái tên Kamú, Phu Thênh, Kha Mu, Kham Mu. Ở Nghệ An, người
Khơ Mú được người Thái ở đây gọi là Tày Hạy. Như vậy, tính đến nay ở Nghệ An
dân tộc Khơ Mú đã có 7 tên gọi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau: Cư Mụ, Khơ
Mú, Mãng Cẩu, Pu Thênh, Kưm Mụ, Xà, Tày Hạy. Nhưng dù với gọi tên này hay tên
khác đi nữa thì ngay từ ban đầu, dân tộc này đã có một ý thức dân tộc rõ ràng,
thể hiện tính cách của một dân tộc thống nhất.
Đặc điểm hình dạng của người Khơ Mú là dáng người thấp, da
đen, tóc xoăn, đầu dài, mũi to và dô. Đặc điểm hình dạng này gắn liền với truyền
thuyết về “nguồn gốc loài người sinh ra từ quả bầu” kể rằng chính tổ tiên người
Khơ Mú đã chui từ quả bầu khổng lồ ra trước theo lỗ dùi bằng sắt nung đỏ nên mới
có nước da ngăm đen. Tổ tiên người Thái ra sau bằng lỗ dao khoét nên có nước da
trắng hơn, nên tục ngữ Thái có câu: “pu tay ọc hu pa, pu xà óc hu chi” (có
nghĩa người Thái chui từ quả bầu ra sau theo lỗ khoét của dao, còn người Khơ Mú
(Xà) chui từ quả bầu ra trước theo lỗ dùi bằng sắt nung).
Lịch sử đấu tranh của người Khơ Mú còn gắn liền với truyện kể
về vị anh hùng huyền thoại có tên là Chương Han là một vị tù trưởng anh hùng,
tài giỏi, đã tập hợp và tổ chức được hàng nghìn binh mã, đánh đông dẹp bắc,
chinh phục được nhiều vùng rộng lớn. Hình tượng vị anh hùng Chương Han đã trở
thành biểu tượng của khát vọng tự do, niềm kiêu hãnh của đồng bào Khơ Mú, đi
vào truyện thơ “Tạo Khủn Chương”.
Để làm sâu, sự di cư từ Lào là kết quả của chiến tranh và
kinh tế, với Kỳ Sơn là trung tâm. Dân số hiện 71.000 người, tăng nhờ chính sách
hỗ trợ. Truyền thuyết quả bầu nhấn mạnh vị trí "người đầu tiên", thể
hiện tự hào dân tộc.
4.2. Đời Sống Kinh Tế
Và Văn Hóa Vật Thể.
Do đến muộn hơn nên địa bàn cư trú của người Khơ Mú thường
là những nơi núi cao, đất dốc, rất khó khăn cho việc trồng trọt, do đó loại
hình canh tác duy nhất của người Khơ Mú là nương rẫy (người Khơ Mú gọi nương là
hơrê). Cây trồng chủ yếu của họ là lúa nương, ngoài ra họ còn trồng thêm các loại
hoa màu khác như: ngô, sắn,… Do điều kiện sản xuất khó khăn, kỹ thuật thô sơ
nên nguồn thu nhập từ sản xuất của người Khơ Mú rất thấp, khiến đời sống của bà
con phần lớn là đói nghèo, dẫn đến việc du canh, du cư của đồng bào. Bên cạnh
trồng trọt, người Khơ Mú chăn nuôi gia súc gia cầm, nhưng chủ yếu là tự cung tự
cấp, phục vụ nhu cầu tiêu dùng, chưa có ý thức phát triển thành chăn nuôi hàng
hóa. Người Khơ Mú còn có các nghề thủ công truyền thống như rèn sắt, làm mộc,
đan lát... Tuy không phong phú, song lại có những lĩnh vực rất tinh xảo, trong
đó đặc biệt hơn cả là nghề đan lát với các sản phẩm từ đan lát như: gùi, mâm,
ghế, giỏ đựng cơm, hộp đựng kim chỉ, chiếc plum để đựng quần áo, cốt, bồ để đựng
thóc lúa, các đồ dùng như nống, sàng, sẩy lúa gạo v.v... Đến nay, các nghề thủ
công này vẫn được duy trì, phát triển như là vốn văn hóa truyền thống quý báu của
dân tộc Khơ Mú.
Người Khơ Mú không có chữ viết riêng như những dân tộc khác,
nhưng lại tiếp xúc ngôn ngữ rất nhanh, họ chịu ảnh hưởng và tiếp thu tiếng
Thái. Do đó, hiện nay hầu hết người Khơ Mú ở Nghệ An đều thông thạo tiếng Thái,
họ dùng ngôn ngữ Thái để giao tiếp với các dân tộc khác. Nền văn hóa dân gian của
người Khơ Mú khá phong phú và đặc sắc, họ có các điệu hát đặc trưng như: hát
tơm, điệu múa hòvor, re ré,… với các nhạc cụ cồng chiêng, sáo đệm, khèn bè,
khèn môi, pí tơm, các bộ gõ bằng tre nứa… Kho tàng truyện cổ tích, truyện kể tô
tem của họ cũng rất phong phú và độc đáo, trong đó tiêu biểu là truyện thơ
"Tạo Khủn Chương".
Tín ngưỡng, tôn giáo của người Khơ Mú còn rất sơ khai, phức
tạp, tuy nhiên lại không chịu ảnh hưởng của các loại tôn giáo khác như: Phật
giáo, Công giáo. Họ tin ở đa thần và quan niệm “vạn vật hữu linh”, mọi vật đều
có linh hồn và sự linh thiêng nên họ thờ và cúng những vật như cây đa, tảng đá,
gốc cây to, con suối.v.v... Người Khơ Mú cũng quan niệm trong cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày của họ có Ma, Ma thì có con Ma ác và con Ma lành với nhiều loại ma
như: Ma Trời, là loại ma to nhất, đáng tôn trọng nhất và cũng đáng sợ nhất, Ma
đất, Ma rẫy, Ma rừng, Ma tổ tiên v.v... Họ cũng tin rằng mọi hoạt động đời sống
hàng ngày của họ đều do các lực lượng “siêu nhiên” chi phối, lực lượng siêu
nhiên này được gọi là hrôi (Ma). Chính vì thế mà người Khơ Mú cũng tin vào nhiều
thủ thuật có thể đẩy thế giới “ma” ra khỏi thế giới con người, bằng nhiều cách
khác nhau như: niệm thần chú, dùng dao hơ lửa cắt xung quanh người ốm hoặc vẩy
nước, ngậm nước phun vào người ốm... Do quan niệm đó nên vị trí của thầy Mo hết
sức quan trọng trong các nghi lễ.
Mặc dù đời sống kinh tế của người Khơ Mú còn nghèo đói, khó
khăn, nhưng họ sở hữu một nền văn hóa đặc sắc, phong phú, đa dạng và giàu bản sắc.
Tuy nhiên, ý thức bảo tồn, lưu giữ và phát huy của người Khơ Mú còn thấp, do đó
đòi hỏi phải có sự quan tâm, chú trọng của các cấp ngành liên quan trong công
tác bảo tồn và lưu giữ, tránh sự mai một, đồng hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện
nay.
Thêm chi tiết: Nương rẫy với chu kỳ luân canh, trồng lúa
nương năng suất thấp nhưng bền vững. Nghề đan lát tạo sản phẩm xuất khẩu, như
gùi tre ở Kỳ Sơn. Nhà sàn với hai bếp, bếp thiêng cúng ma nhà. Trang phục phụ nữ
với "láp la" dây lưng sặc sỡ, nam mộc mạc.
4.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Múa Au Eo Và Lễ Tết Cơm Mới.
Âm nhạc: Người Khơ Mú có các nhạc cụ truyền thống như kèn
môi, ống gõ, sáo, đàn, và trống.
Văn học dân gian: Làn điệu dân ca Tơm mang đậm tính sử thi
và trữ tình, thường hát theo lối đối đáp.
Múa: Múa Xoè và các điệu múa lắc hông (như múa Au eo), mô phỏng
các động tác lao động, là nét đặc sắc và có kỹ thuật cao, thể hiện tinh thần cộng
đồng và gắn bó với thiên nhiên.
Múa Au eo là điệu múa lắc hông đặc trưng, mô phỏng động tác
lao động như gặt lúa, hái quả, với nhịp nhanh, lắc eo linh hoạt, thường biểu diễn
trong lễ hội. Theo nghiên cứu "Sử dụng chất liệu múa Khơ Mú trên sân khấu
hiện nay" từ Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh, múa Au eo được biến tấu
trong múa đương đại, giữ giá trị dân gian. Ở Thanh Chương, múa Au eo kết hợp
hát Tơm trong lễ mừng nhà mới, thể hiện vui mừng.
Lễ Tết cơm mới là lễ hội quan trọng, tổ chức sau vụ gặt
tháng 10 âm lịch, dịp vui của bản sau một năm lao động. Theo Ủy ban Dân tộc, Tết
cơm mới bao gồm cúng hồn lúa, ăn uống cộng đồng, hát múa. Ở Kỳ Sơn, lễ này kéo
dài 3 ngày, với thầy Mo cúng hrôi (ma), cầu mùa màng bội thu. Lễ cầu phúc Tết Mạ
Grợ (gần giống) ở Sơn La có giao thoa, với nghi lễ tâm linh.
Bảo tồn: Sự thay đổi canh tác dẫn đến mai một lễ nghi. Nhiều
người lớn tuổi mất, hoạt động văn hóa không thường xuyên. Cần đầu tư cơ sở vật
chất, lớp dạy múa, lễ hội.
Chương 5: Dân Tộc
Mông – Sức Sống Vượt Lên Đại Ngàn Với Tiếng Khèn Và Lễ Giỗ Họ.
5.1. Nguồn Gốc và Địa
Bàn Cư Trú.
Bản sắc văn hóa của Dân tộc Mông tại Nghệ An thể hiện qua
các khía cạnh độc đáo như trang phục truyền thống với hoa văn thổ cẩm tinh xảo,
văn hóa ẩm thực phong phú với các món như rượu ngô, bánh ngô, thịt gác bếp,
truyền thống thờ cúng tổ tiên và ma bếp sâu sắc, lễ hội và các nghi thức tâm
linh như giỗ họ, lối sống gắn bó với núi rừng, cùng với các hoạt động du lịch cộng
đồng phát huy giá trị văn hóa.
Đồng bào Mông ở Nghệ An có trên 6.926 hộ/33.716 khẩu, cư trú
ở 91 bản, thuộc 28 xã, thị trấn của 3 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong;
trong đó có 6 xã thuần người Mông. Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học Việt Nam
thì người Mông có nguồn gốc từ phía Nam Trung Quốc. Trước đây, họ là một bộ phận
của dân tộc Dao ở Trung Quốc, cho đến thế kỷ VII-IX mới phát triển và tách ra
thành một dân tộc độc lập. Qua những biến động của lịch sử Trung Quốc, để tránh
chế độ phong kiến hà khắc và sự bóc lột tàn độc của bọn chúa đất, từ thời Thái
bình Thiên Quốc đến khi Trung Quốc giải phóng (1949), người Mông đã tổ chức nhiều
đợt thiên di. Một bộ phận lớn người Mông di chuyển từ tỉnh Quý Châu (Trung Quốc)
đến phía Tây Bắc Việt Nam và cư trú ổn định, lâu dài ở đây. Tuy nhiên, do lối sống
du canh du cư nên một bộ phận người Mông lại tiếp tục di cư từ các tỉnh phía
Tây Bắc sang Xiêng Khoảng (Lào), một bộ phận từ Sơn La sang Sầm Nưa (Lào). Và từ
các tỉnh này của nước bạn Lào, người Mông lại di cư sang các tỉnh miền Tây Nghệ
An, trong đó huyện Kỳ Sơn là huyện tập trung người Mông sớm nhất và đông nhất.
Người Mông thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, với nhiều tên gọi
khác nhau như: Mèo, Mẹo, Miếu Hạ, Mán trắng. Người Mông ở Nghệ An có hai ngành:
Mông trắng và Mông đen, sự phân chia này không phải dựa vào màu da như một số
tài liệu đã viết, mà chủ yếu dựa vào trang phục truyền thống của hai ngành này.
Do di cư đến Nghệ An muộn hơn những dân tộc khác nên địa bàn
cư trú chủ yếu của dân tộc Mông là những vùng đồi núi cao, có độ dốc lớn. Cư
trú ở địa bàn núi cao nên sản xuất chủ yếu của người Mông là làm nương rẫy, trồng
các loại cây lương thực như lúa, nếp, ngô,… Trước đây, khi chưa được khai hóa,
người Mông trồng thuốc phiện khá nhiều, diện tích cây thuốc phiện được họ canh
tác trong rừng sâu gây khó khăn cho việc phá bỏ của các cấp chính quyền. Ngày
nay, do được tuyên truyền sâu rộng, nên người Mông đã bỏ dần tập quán này, chuyển
đổi dần sang việc trồng rừng mang lại kinh tế cao; Chăn nuôi gia súc gia cầm
khá phát triển; Nghề thủ công truyền thống cũng khá phát triển như rèn đúc, làm
giấy, mộc, đan lát,…
Tổ chức xã hội của người Mông theo mô hình làng bản. Các gia
đình thường sống gần nhau, quây tụ khoảng từ vài ba chục nóc nhà thì lập thành
làng. Đứng đầu làng là trưởng làng, người điều hành mọi công việc trong làng,
tiếp đó là trưởng họ. Những gia đình cùng dòng họ thường quần tụ, sống gần nhau
tạo thành làng, thành bản. Trong đời sống tín ngưỡng người Mông đặc biệt chú trọng
lễ cúng ma làng vào tháng giêng hàng năm. Vì quan niệm mọi loại vật đều có linh
hồn nên ngoài cúng ma làng đồng bào Mông còn cúng nhiều loại ma như: ma trâu
(nhiu dáng), ma nhà (xủa cá), ma cửa (xìa mình), ma lơn (bùa dáng), ma bếp (hú
sinh),…
Người Mông có nền văn hóa nghệ thuật khá giàu có, đặc biệt
là truyện kể và âm nhạc, nổi bật trong kho tàng truyện kể của đồng bào là tác
phẩm “Tiếng khèn của Gia Ba Sử”, “Vừ Lin Thoong và Lỳ Ta Xa”, “Truyện Vừ Lông Pốc”,…
Âm nhạc của người Mông cũng khá phát triển với các điệu hát nổi tiếng, đóng dấu
như là “thương hiệu” riêng của họ như là: điệu Cử xia, lù tẩu, vàng hủa, xến, xằng
lề,....
Văn hóa của người Mông ở Nghệ An hiện nay là sự đan xen giữa
văn hóa truyền thống với văn hóa hiện đại. Những giá trị tốt đẹp của văn hóa
truyền thống được lưu giữ, bảo tồn không chỉ bám rễ trong sinh hoạt văn hóa
truyền thống mà còn ảnh hưởng, thâm nhập vào đời sống văn hóa mới, tạo nên sự
phong phú, bổ ích cho sinh hoạt văn hóa hiện nay của đồng bào.
Mỗi cộng đồng dân tộc đều có một nền văn hóa khác nhau và
chính sự khác nhau đó đã làm nên sự đa dạng cho nền văn hóa Nghệ An nói riêng,
Việt Nam nói chung. Tuy đa dạng nhưng là một thể thống nhất trong từng sắc thái
văn hóa của cộng đồng các dân tộc, làm phong phú và tạo nên tính đoàn kết cao,
là nền tảng để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Đồng bào Mông ở Nghệ An có trên 6926 hộ/33.716 khẩu, cư trú ở
91 bản, thuộc 28 xã, thị trấn của 3 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong;
trong đó có 5 xã thuần người Mông. Địa bàn cư trú rải rác nằm trên các sườn núi
cao dọc theo vùng biên giới Việt - Lào. Người Mông cư trú tại 3 huyện rẻo cao dọc
biên giới Việt - Lào là: Kỳ Sơn, Tương Dương và Quế Phong. Kỳ Sơn có 5 xã thuần
Mông là Mường Lống, Huồi Tụ, Nậm Cắn, Tây Sơn, Đoọc Mạy và 3 xã Người Môngchiếm
đa số là Bắc Lý, Na Ngoi, Mường Típ. Tương Dương có 6 xã có người Mông là Nhôn
Mai, Tam Hợp, Mai Sơn, Lưu Kiền, Xá Lượng và Hữu Khuông. Quế Phong chỉ có ở xã
Tri Lễ và Nậm Giải.
Đặt chân đến các huyện miền núi phía Tây Nghệ An như Kỳ Sơn,
Tương Dương, Quế Phong, ta dễ dàng nhận ra những bản làng người Mông ẩn mình giữa
mây ngàn. Những ngôi nhà trình tường vững chãi, mái lợp gỗ pơ mu bạc màu theo
năm tháng, tựa lưng vào núi, hướng mặt ra những thung lũng xanh mướt. Cách bố
trí không gian sống, từ gian bếp ấm áp đến nơi thờ cúng tổ tiên trang trọng, đều
phản ánh sự gắn kết mật thiết với thiên nhiên và lòng biết ơn đối với những người
đi trước.
Bản sắc văn hóa Mông ở Nghệ An còn được thể hiện một cách
sinh động qua những âm thanh và sắc màu. Tiếng khèn Mông trầm bổng, da diết,
không chỉ là nhạc cụ mà còn là phương tiện giao tiếp, là tiếng lòng của cộng đồng
trong những dịp lễ hội, cưới hỏi hay đơn giản là lúc nghỉ ngơi sau một ngày lao
động vất vả. Những điệu múa uyển chuyển, nhịp nhàng theo tiếng khèn càng làm
tăng thêm sự cuốn hút cho những buổi sinh hoạt cộng đồng.
Không thể không nhắc đến những bộ trang phục truyền thống rực
rỡ, được tạo nên bởi đôi bàn tay khéo léo của những người phụ nữ Mông. Từ việc
trồng lanh, dệt vải, nhuộm màu bằng các loại cây rừng đến thêu thùa, trang trí
những họa tiết tinh xảo, tất cả đều là một quá trình tỉ mỉ, công phu, chứa đựng
những giá trị thẩm mỹ và biểu tượng văn hóa sâu sắc. Mỗi đường kim mũi chỉ, mỗi
gam màu đều kể một câu chuyện về lịch sử, về niềm tin và khát vọng của cộng đồng.
Nét văn hóa tiêu biểu của người Mông diễn ra trong các ngày
tết như Tết Năm mới, Tết Đoan ngọ (mồng 5 tháng 5 âm lịch), lễ mừng cơm mới,...
Trong các ngày lễ, đồng bào dân tộc Mông tổ chức các hoạt động văn hóa với các
trò chơi dân gian như: Ném còn, bắn tên, đẩy gậy, kéo co, chơi khèn (vừa thổi vừa
múa). Các loại kèn lá, kèn môi thường xuyên được sử dụng trong các đợt sinh hoạt
tập thể. Văn hóa người Mông còn được thể hiện qua trang phục của người phụ nữ rất
cầu kỳ với nhiều màu sắc và nhiều loại trang sức đẹp.
Cộng đồng người Mông
và văn hóa tâm linh.
Đơn vị cư trú sơ khai của người Mông là "giào", một
tổ chức tương tự như bản của người Thái hay thôn, xóm của người Kinh, song quy
mô hộ gia đình thường nhỏ gọn hơn, dao động từ 15 đến 20 hộ, gắn kết bởi huyết
thống dòng họ. Mỗi giào tự quản bằng luật tục riêng và nổi bật tinh thần tương
thân tương ái. Người đứng đầu giào là ông "Lùng thầu", một nhân vật
uy tín được dân bầu chọn. Khi cần thiết, hai ba giào có thể liên kết thành
"liên giào", dưới sự lãnh đạo của "Nại bản". Đến cấp cao
hơn, khoảng 10 đến 15 giào hợp thành "phống", do "Tà Xẻng"
đứng đầu, chức danh này về sau được gọi là Lý trưởng. Những người có vị thế
trong xã hội Mông thường thuộc các dòng họ lớn, sở hữu uy quyền đáng kể và
không ít người kiêm nhiệm vai trò thầy cúng. Dẫu vậy, họ vẫn duy trì lối sống
lao động trực tiếp và mối quan hệ gần gũi với cộng đồng.
Trong văn hóa Mông, quan hệ dòng họ có một vị trí thiêng
liêng. Dù cách xa về địa lý hay chưa từng quen biết, những người cùng dòng tộc
vẫn chia sẻ những quy ước chung về giao tiếp, thờ cúng, tang ma,... Mỗi dòng họ
mang tên một loài vật, đi kèm những điều kiêng kỵ mang đậm dấu ấn tô tem, tương
tự như tín ngưỡng của người Thái, người Khơ Mú: họ Vừ, họ Và tránh ăn tim lợn;
họ Lỳ kiêng ăn lá lách của động vật bốn chân,... Gia đình Mông truyền thống là
gia đình phụ quyền bền vững, hiếm khi xảy ra tình trạng ngoại tình hay ly hôn.
Cộng đồng có những hình thức xử lý nghiêm khắc đối với những gia đình bất hòa.
Khi người chồng qua đời, tục lệ "nối dây" quy định chị dâu phải kết
hôn với em trai chồng. Con trai trong gia đình được giáo dục về lao động và lễ
nghi từ thuở ấu thơ: mười tuổi đã quen thuộc với việc bắn nỏ và làm nương rẫy,
mười lăm tuổi đã thông thạo các bài cúng tổ tiên và thành thạo nghề thủ công
truyền thống. Sau nghi lễ "thành đinh", các chàng trai được đổi tên
và có thể tiến hành tục "cướp vợ" theo phong tục của dân tộc. Dấu vết
của chế độ mẫu hệ vẫn còn khá rõ nét trong xã hội Mông, thể hiện qua vai trò
quan trọng của người cậu trong việc dựng vợ gả chồng cho cháu gái, tương tự như
người cha thứ hai. Theo quan niệm của người Mông, thế giới tồn tại vô vàn loại
ma như ma trâu, ma lợn, ma nhà, ma cửa,... và đồng bào tin rằng mọi vật đều có
linh hồn.
Giữ lửa văn hóa nơi
biên cương.
Sống trên những vùng đất biên giới, người Mông ở Nghệ An
không chỉ đối diện với những khó khăn về kinh tế, xã hội mà còn phải nỗ lực để
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trước sự giao thoa và
tác động của cuộc sống hiện đại. Các phong tục tập quán, lễ hội truyền thống
như Tết Nguyên đán, lễ hội xuống đồng, lễ cúng bản… vẫn được duy trì và trao
truyền qua các thế hệ.
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực đáng ghi nhận, việc bảo tồn
bản sắc văn hóa Mông ở Nghệ An vẫn còn nhiều thách thức. Sự mai một của tiếng
nói, trang phục truyền thống trong giới trẻ, sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa
ngoại lai… đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa từ các cấp chính quyền, các tổ chức văn
hóa và đặc biệt là ý thức tự tôn văn hóa của chính cộng đồng người Mông.
Hướng tới tương lai,
giữ gìn cội nguồn.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa của người Mông ở Nghệ An trên các rẻo cao biên giới Việt -
Lào không chỉ là trách nhiệm của riêng cộng đồng mà còn là nhiệm vụ chung của
toàn xã hội. Cần có những chính sách, chương trình cụ thể để hỗ trợ việc dạy và
học tiếng Mông, khôi phục và phát triển các nghề thủ công truyền thống, bảo tồn
các lễ hội văn hóa đặc sắc và thúc đẩy du lịch cộng đồng gắn với văn hóa Mông.
Bản sắc văn hóa của người Mông ở Nghệ An là một viên ngọc
quý trong bức tranh văn hóa đa dạng của Việt Nam. Việc trân trọng, giữ gìn và
phát huy những giá trị văn hóa độc đáo này không chỉ góp phần làm phong phú
thêm đời sống tinh thần của cộng đồng mà còn tạo động lực cho sự phát triển bền
vững của vùng đất biên cương. Hãy cùng nhau chung tay để tiếng khèn Mông mãi
ngân vang, sắc màu thổ cẩm mãi rực rỡ trên những rẻo cao Nghệ An.
Nhắc đến huyện Kỳ Sơn là nói đến một huyện huyện miền núi
cao, biên giới phía Tây tỉnh Nghệ An với
4 hệ dân tộc cùng sinh sống là: Thái, Khơ Mú, Mông, Kinh và Hoa với những đặc trưng văn hóa khác nhau tạo nên
sự đa dạng, phong phú, giàu bản sắc. Kỳ Sơn có 6 xã thuần Mông là Mường Lống,
Huồi Tụ, Nậm Cắn, Tây Sơn, Nậm Càn, Đoọc Mạy và 4 xã có dân tộc Mông sinh sống
là Bắc Lý, Mỹ Lý, Na Ngoi, Mường Típ. Tổng số nhân khẩu dân tộc Mông trên địa
bàn huyện là hơn 34 nghìn người.
Nhằm phát triển du lịch theo Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên địa bàn tỉnh
Nghệ An giai đoạn 2017 - 2030, Huyện Kỳ Sơn đã xây dựng, phê duyệt và đang thực
hiện Đề án “xây dựng và phát triển du lịch
huyện Kỳ Sơn giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030”; Trong đó tập trung
xây dựng các tuyến du lịch gắn với việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá truyền
thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện Kỳ Sơn nói chung và
dân tộc Mông nói riêng. Với những cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, những điểm
săn mây lý tưởng, khí hậu mát mẻ thì bản sắc văn hoá của đồng bào dân tộc Mông
cũng là điểm nhấn, thu hút và tạo nên tính tò mò muốn khám phá, hoà mình vào
văn hoá đời sống của đồng bào.
Nói đến văn hóa của dân tộc Mông tại huyện Kỳ Sơn người ta
thường nhớ đến bộ trang phục với màu sắc rực rỡ, nét hoa văn riêng biệt, nổi bật,
sự đa dạng và phong phú của bản sắc văn hoá dân tộc Mông được thể hiện qua các
phong tục tập quán, quan niệm về trời đất và con người, vạn vật. Hàng năm công
tác tổ chức các lễ hội truyền thống mang ý nghĩa tốt đẹp về đạo lý “uống nước
nhớ nguồn”; hoạt động văn hoá, văn nghệ, trò chơi dân gian của dân tộc được
Mông được tổ chức tạo không khí vui tươi sôi nổi như:
Về hoạt động ngày lễ: Trong các ngày lễ, đồng bào dân tộc
Mông tổ chức các hoạt động văn hóa với các trò chơi dân gian như: Ném pao tìm bạn
tình đây là một hoạt động giao lưu giữa các vùng, miền đồng thời thông qua hoạt
động này các bạn trẻ nam, nữ tìm đến nhau kết duyên thông qua tần suất ném pao
cho nhau, hay những điệu múa khèn xoay chuyển độc đáo với những làn điệu hát cự
xia riêng biệt…hoạt động này khách du lịch sẽ được hoà mình để cùng trải nghiệm.
Còn vào các ngày tết như: Tết Năm mới thường diễn ra hoạt động
bò chận, trâu chận...đây là những hoạt động văn hoá dân gian truyền thống có từ
lâu đời và vẫn được lưu giữu cho đến hôm nay, điều này đã tô điểm thêm nét văn
hoá tạo nên đa dạng và lưu truyền cho các thế hệ mai sau.
Để sâu hơn, nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư qua các biến động
lịch sử như cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc (1850-1864), tìm đất sống tự do. Ở
Nghệ An, Kỳ Sơn có hơn 34.000 người Mông, với 6 xã thuần. Du lịch cộng đồng ở
Mường Lống phát triển, kết hợp văn hóa Mông.
5.2. Văn Hóa Vật Thể
Độc Đáo.
Trang phục truyền thống.
Thổ cẩm đa sắc màu: Phụ nữ Mông nổi tiếng với trang phục
thêu hoa văn thổ cẩm rực rỡ và tinh xảo, phản ánh sự khéo léo và thẩm mỹ.
Sử dụng bạc: Trang phục được trang trí bằng các đồng xu bạc ở
thắt lưng và vòng cổ, tượng trưng cho vẻ đẹp và giá trị.
Y phục nam giới: Trang phục nam giới khá đơn giản với áo
khoác và mũ, thường được sử dụng trong các dịp lễ, Tết hoặc đám tang.
Văn hóa ẩm thực.
Đặc sản địa phương: Ẩm thực Mông phong phú với các sản phẩm
như rượu ngô, rượu sắn, bánh ngô, bánh dày, thịt gác bếp, rau cải Mông, dưa
Mông và nếp cẩm.
Món ăn tốt cho sức khỏe: Gà đen nấu sâm đất là một món ăn đặc
trưng với hương vị thơm ngon, rất tốt cho sức khỏe.
Nhà ở trình tường vững chãi, thích ứng với núi cao. Thổ cẩm
từ lanh, nhuộm màu tự nhiên, hoa văn kể chuyện lịch sử.
5.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Tiếng Khèn Và Lễ Giỗ Họ.
Văn hóa tâm linh và
tín ngưỡng.
Thờ cúng tổ tiên: Người Mông rất coi trọng việc thờ cúng tổ
tiên, coi đó là sự báo hiếu và cầu mong sự che chở từ ông bà.
Ma bếp: Ma bếp là một yếu tố tâm linh quan trọng, người phụ
nữ lớn tuổi thường là người giữ mối quan hệ với ma bếp, cầu xin sự phù hộ trong
việc nấu nướng và cuộc sống.
Giỗ họ: Đây là một nét văn hóa độc đáo, là dịp để các thành
viên trong dòng họ sum họp, tưởng nhớ cội nguồn và báo hiếu tổ tiên, với các
nghi thức cúng tế trang trọng.
Lễ giỗ họ (Tết họ) là hoạt động tâm linh độc đáo, mỗi dòng họ
có ngày riêng, thường sau đám tang hoặc Tết. Theo Báo Quân đội Nhân dân, giỗ họ
ở Nghệ An là dịp sum họp, cúng tế, ăn uống, giữ đoàn kết dòng tộc. Ở Kỳ Sơn, giỗ
họ kết hợp múa khèn, ném còn.
Tiếng khèn là ngôn ngữ giao tiếp độc đáo, trầm bổng, dùng
trong lễ hội, đám tang. Nghệ thuật chế tác khèn từ tre, đồng, với 6 ống, tạo âm
thanh đa dạng. Múa khèn (Tha Khềnh) uyển chuyển, xoay chuyển, biểu diễn ở chợ
phiên, đám giỗ. Theo Báo Tuyên Quang, khèn là thông điệp tâm tư, linh thiêng nối
mường trời mường đất.
Lối sống và lễ hội.
Gắn bó với thiên nhiên: Dân tộc Mông sống gắn bó với núi rừng,
điều này thể hiện qua các phong tục và kiến trúc nhà cửa truyền thống.
Các lễ hội: Lễ hội là dịp để người Mông thể hiện các giá trị
văn hóa và truyền thống của dân tộc.
Du lịch cộng đồng.
Phát huy giá trị văn hóa: Hoạt động du lịch cộng đồng đã
giúp người Mông nâng cao ý thức giữ gìn văn hóa, bảo vệ cảnh quan.
Phát triển kinh tế: Du lịch cộng đồng còn góp phần xây dựng
homestay, phát triển các sản phẩm thủ công và nông nghiệp, tạo thu nhập cho người
dân.
Bảo tồn: Dạy tiếng Mông, khôi phục nghề thủ công, du lịch cộng
đồng ở Kỳ Sơn.
Chương 6: Dân Tộc Ơ Đu – Tấm Thảm Văn Hóa Đang
Dần Phai Màu Với Lễ Chăm Phtrong Và Nỗ Lực Bảo Tồn Ngôn Ngữ.
6.1. Nguồn Gốc và Thực
Trạng.
Bản sắc văn hóa của Dân tộc Ơ Đu tại Nghệ An thể hiện qua
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, lễ hội «Tết mừng tiếng sấm» (Chăm Phtrong), phong
tục hôn nhân phức tạp, tập quán sinh sống trong nhà sàn với hai bếp và quan niệm
về «ma nhà». Tuy nhiên, bản sắc này đang đối mặt với nguy cơ mai một, cần sự
quan tâm, bảo tồn từ các cấp chính quyền.
Tương Dương là nơi duy nhất ở Việt Nam nói chung và Nghệ An
nói riêng có dân tộc Ơ Đu cư trú. Mặc dù là dân tộc ít người nhất trong cộng đồng
54 dân tộc Việt Nam và 5 dân tộc thiểu số ở Nghệ An nhưng dân tộc Ơ Đu có lịch
sử hình thành và cư trú khá lâu đời.
Dân tộc Ơ Đu thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me, họ có ngôn ngữ,
tiếng nói riêng mặc dù hiện nay những nét văn hóa độc đáo đó đang bị đồng hóa,
mất dần do đặc thù sống xen kẽ với các dân tộc khác của người Ơ Đu. Họ sống tập
trung ở ven sông Nậm Mộ và Nậm Nơn với 3 trung tâm lớn là vùng Xốp Tăm (Tà Kạ
và Keng Đu huyện Kỳ Sơn hiện nay), Mường Lâm (Hữu Khuông huyện Tương Dương hiện
nay), Mường Mèn (Yên Hòa huyện Tương Dương hiện nay). Ở nơi này, đời sống của
người Ơ Đu phát triển khá phồn thịnh với nghề đánh cá, buôn bán dọc các con
sông,… Tuy nhiên, do gặp thời kỳ loạn lạc, cùng sự chèn ép của các dân tộc khác
di cư ồ ạt sang nên dân tộc Ơ Đu bị dồn vào những nơi hẻo lánh đầu nguồn con suối,
hoặc những vùng núi cao, hiểm trở. Thậm chí để an toàn, một bộ phận không nhỏ
người Ơ Đu phải thay đổi tên họ, giọng nói, tập quán của dân tộc mình sống đan
xen, phụ thuộc vào các dân tộc khác.
Mặc dù là dân tộc ít người nhưng lịch sử hình thành của người
Ơ Đu khá lâu đời, bên cạnh đó ý thức về dân tộc của họ vẫn rõ nét nên họ có đời
sống văn hóa độc đáo, riêng biệt và đậm đà bản sắc. Tuy nhiên việc nghiên cứu,
bảo tồn và lưu giữ cũng đang đặt ra nhiều vấn đề đối với các nhà nghiên cứu
cũng như các cơ quan ban ngành liên quan, quan tâm. Trình độ canh tác, sản xuất
của người Ơ Đu được duy trì cho đến ngày hôm nay, họ sống nửa cày ruộng, nửa
làm nương với trình độ kỹ thuật tương đối cao. Ngoài ra, người Ơ Đu còn biết dệt
vải, thêu, đan lát và tận dụng lợi thế sống ven sông nên tổ chức buôn bán tấp nập,
sầm uất.
Người Ơ Đu chỉ có một họ duy nhất là họ Lò và được chia làm
hai chi là Lò Văn và Lò May. Gia đình của người Ơ Đu là gia đình nhỏ phụ quyền,
phân định thứ trưởng rất rõ ràng. Tư tưởng phụ quyền trong gia đình của người Ơ
Đu được thể hiện trong vài trò của người đàn ông trong gia đình. Họ là chủ gia
đình, có quyền quyết định mọi việc, đàn bà không có quyền thừa tự, và chỉ có bổn
phận chăm sóc chồng con, không được quyết định những việc trong gia đình từ việc
nhỏ đến việc lớn và khi về nhà chồng, người phụ nữ được gọi theo tên chồng và họ
chồng. Tuy nhiên, người Ơ Đu có phong tục ở rể trong 3 - 4 năm đầu mới cưới lại
thể hiện tư tưởng mẫu hệ là tàn dư trước đây để lại.
Phong tục, tập quán của người Ơ Đu khá phong phú và đặc sắc,
trong đó tiêu biểu là phong tục cưới xin và lễ đón tiếng sấm đầu năm. Điều đặc
biệt trong hôn nhân của người Ơ Đu là tục ở rể. Sau đám cưới, thường con rể sẽ ở
trong nhà vợ khoảng từ 3-4 năm, nếu có tiền Klay Glây (tiền giá đầu của người
con gái) nộp cho nhà gái thì chỉ phải ở rể trong 1 năm. Trong thời gian ở rể
này người con trai hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào nhà gái, thậm chí tên họ
cũng phải gọi theo tên họ của vợ. Người Ơ Đu tính năm mới bắt đầu từ khi có tiếng
sấm đầu tiên nên lễ đón tiếng sấm được tổ chức khá trọng thể.
Cũng giống như nhiều dân tộc thiểu số khác, đồng bào quan niệm
con người ta ngoài thể xác còn có phần hồn, phần hồn thường nằm ở chỏm tóc, đỉnh
đầu nên đồng bào rất kiêng xoa đầu trẻ con. Xuất phát từ quan niệm đó mà người
Ơ Đu cho rằng có rất nhiều loại ma và tổ chức thờ cúng rất nhiều loại ma, đặc
biệt là ma nhà và các vị thần là các Then như Then Luông, Then Vi, Then Bắc,
Then Na,… Mặc dù các Then này mang yếu tố của dân tộc Thái, nhưng nó cũng thể
hiện đời sống tâm linh đa dạng và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh
thần của bà con đồng bào Ơ Đu.
Dân tộc Ơ Đu là một trong những cộng đồng dân tộc ít người
nhất Việt Nam, người Ơ Đu sống theo gia đình nhỏ, tính phụ quyền bộc lộ rõ rệt
trong gia đình nhiều hơn các dân tộc khác.
Người Ơ Đu còn có tên gọi khác là người Tày Hạt, thuộc dân tộc
ít người, Ơ Đu là một trong 5 dân tộc ít người nhất của Việt Nam (Brâu, Rơ Măm,
Pu Péo, Si La, Ơ Đu), cư trú chủ yếu ở huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Đồng
bào Ơ Đu có khoảng 600 người họ sống xen kẽ với đồng bào Thái, Khơ Mú và người
Mông.
Tiếng Ơ Đu thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ Me, ngữ hệ Nam Á, nhưng
các thế hệ người Ơ Đu còn lại đến giờ quên gần hết tiếng nói. Họ quên cả phong
tục, tập quán. Một số rất ít ỏi đều trên 80 tuổi còn nói khoảng 100 từ cả những
từ họ còn nhớ đã có sự pha trộn của cả ngôn ngữ Thái và Khơ Mú. Vì thế, những
người còn nói được tiếng thì cộng đồng vô cùng coi trọng. Khi về già, người ơ
Đu còn có ý thức học lại ngôn ngữ dân tộc để tìm về cội nguồn.
Người Ơ Đu sống theo gia đình nhỏ, tính phụ quyền bộc lộ rõ
rệt trong gia đình nhiều hơn các dân tộc khác. Người đàn ông toàn quyền quyết định
các việc trong gia đình, đàn bà không được hưởng quyền thờ tự. Xưa kia người Ơ
Đu sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá và muông thú.
Người Ơ Đu ở nhà sàn, kiến trúc nhà ở của họ thường có 4
mái, lợp bằng nứa hoặc tranh, đầu nhà quay vào núi, cột nhà chôn xuống dưới đất.
Ngôi nhà thường có 4-8 cột, tương ứng với nhà từ 1-3 gian. Khi dựng nhà bao giờ
người Ơ Đu cũng dựng cột chính trước. Theo quan niệm của họ thì đó là cột góc
ma ở. Sau mới đến các cột góc khác theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống
dưới.
Trong nhà, bếp của người Ơ Đu có 2 bếp, Phong tục tập quán của
người Ơ Đu ngày xưa là phải có 2 bếp. Bếp đặt ngoài là bếp tiếp khách, không được
nấu nướng, kể cả rau củ quả, thịt… cũng không được nấu mà chỉ được phép nấu
cơm, tiếp khách và sưởi ấm. Còn bếp trong là bếp nấu nướng phục vụ bữa ăn gia
đình. Phía trên gác bếp thường hay để đồ đan lát, dụng cụ nứa, tre mang trên rừng
mà chưa kịp chẻ, đan sản phẩm thì bó lại để trên gác bếp cho khô.
Trước kia, người Ơ Đu cư trú 2 bên bờ sống Nậm Mộ, Nậm Nơn,
thuộc dãy Trường Sơn, dọc theo biên giới Việt Lào của tỉnh Nghệ An, nhưng do
nhiều biến cố lịch sử nên họ phải dời đi nơi khác hoặc phải ở lẫn vào dân tộc
khác. Hiện nay họ sống rải rác trong nhiều bản của vùng sâu vùng xa thuộc thuộc
huyện Tương Dương của tỉnh Nghệ An, nhưng tập trung ở 2 bản Kim Hòa, Sốp Phột,
xã Kim Đa.
Bà Mạc Thị Tím, trưởng bản Văng Môn, xã Nga My huyện Tương
Dương, cho biết: "Hiện tại mấy cụ già thì biết nói tiếng Ơ Đu, còn những
người trẻ hầu hết nói toàn tiếng Thái. Nhưng khi chuyển đến đây rồi thì chúng
tôi cũng mở được lớp dạy tiếng Ơ Đu, những tiếng chào hỏi, giao tiếp, mời ăn
cơm, mời uống nước thì cũng được học và truyền dạy lại cho con cháu."
Người Ơ Đu sống theo gia đình nhỏ, tính phụ quyền bộc lộ rõ
rệt trong gia đình nhiều hơn các dân tộc khác. Người đàn ông toàn quyền quyết định
các việc trong gia đình, đàn bà không được hưởng quyền thừa tự. Xưa kia người Ơ
Đu sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá và muông thú. Bà Mạc Thị Tím cho biết:
"Trước đây các cụ sống trên rừng. Thịt lợn, thịt gà thì thi thoảng mới có
và thường ở dưới xuôi. Còn sóc, chuột là thức ăn hàng ngày trong mỗi bữa cơm do
thành viên gia đình tự đi kiếm săn bắt hái lượm về cho nên là ngày lễ trong mâm
cơm cúng không thể bỏ được những món ăn này. Vì đó là những món ăn quan trọng
hàng ngày nên buộc phải có trong mâm cơm cúng."
Người Ơ Đu ở nhà sàn, kiến trúc nhà ở của họ thường có 4
mái, lợp bằng nứa hoặc tranh, đầu nhà quay vào núi, cột nhà chôn xuống dưới đất.
Ngôi nhà thường có 4-8 cột, tương ứng với nhà từ 1-3 gian. Khi dựng nhà bao giờ
người Ơ Đu cũng dựng cột chính trước. Theo quan niệm của họ thì đó là cột góc
ma ở. Sau mới đến các cột góc khác theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống
dưới.
Trong nhà, bếp của người ơ Đu có 2 bếp. Ông Lò Văn Cự ở xã
Nga My cho biết: "Phong tục tập quán của người Ơ Đu ngày xưa là phải có 2
bếp. Bếp đặt ngoài là bếp tiếp khách, không được nấu nướng, kể cả rau củ quả,
thịt… cũng không được nấu mà chỉ được phép nấu cơm, tiếp khách và sưởi ấm. Còn
bếp trong là bếp nấu nướng phục vụ bữa ăn gia đình. Phía trên gác bếp thường
hay để đồ đan lát, dụng cụ nứa, tre mang trên rừng mà chưa kịp chẻ, đan sản phẩm
thì bó lại để trên gác bếp cho khô."
Về Tôn giáo tín ngưỡng của người Ơ Đu, họ gọi hồn là mẹ, ma
là bụa, ma nhà là bụa rinh, chi phối mọi hoạt động của gia đình. Khi bị đau ốm
họ cùng xin ma nhà đi bước nữa, tức cưới ma khác để vui không làm hại đến mọi
người trong gia đình.
Văn hóa truyền thống của đồng bào Ơ Đu ở tỉnh Nghệ An là một
phần không thể thiếu trong bức tranh văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Chính những nét văn hóa riêng có ấy làm phong phú đời sống tinh thần của đồng
bào Ơ Đu, tạo nên sự độc đáo cần được gìn giữ.
Văn hóa truyền thống của người Ơ Đu hiện nay tồn tại như những
hoài niệm. Nhưng điều đó chưa hẳn là những tín hiệu buồn. Bởi nếu nhìn một cách
tích cực, rõ ràng người Ơ Đu đã tìm ra những cách thích ứng phù hợp trong lịch
sử phát triển của mình.
Nhận diện văn hóa
truyền thống của người Ơ Đu.
Gia đình người Ơ Đu sống theo chế độ phụ quyền, người đàn
ông là người có quyền quyết định cao nhất trong nhà, và cũng được coi là trụ cột
gia đình. Cũng như các tộc người khác, người Ơ Đu cũng tuân thủ quy tắc ngoại
hôn để không làm suy thoái nòi giống. Người đàn ông chủ động đi hỏi vợ, và trước
đây, họ có tục ở rể trong vòng 1 năm sau đó mới đón vợ con về nhà nội. Dòng họ
của người Ơ Đu rất ít. Hiện chỉ thấy có một họ là họ Lo được chia thành hai
nhánh là Lo anh và Lo em.
Làng bản của người Ơ Đu gọi là Plung, trước đây chủ yếu ở
các khu vực đầu nguồn khe suối nên có nhiều bản gọi theo tên khe như bản Xốp Pột
gọi theo nơi khe Pột và khe Com gặp nhau; bản Xốp Cháo gọi theo tên là khe
Cháo; Bản Com gọi theo tên là khe Com; Bản Pủng gọi theo tên khe Pủng…. Nhà cửa
của người Ơ Đu chủ yếu quay vào hướng núi.
Người Ơ Đu sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nương rẫy, chăn
nuôi nhỏ và một vài nghề thủ công cơ bản. Kỹ thuật sản xuất của họ còn hạn chế
hơn nhiều so với các cộng đồng xung quanh. Họ trồng lúa trên nương, là loại cây
trồng chủ yếu. Bên cạnh đó còn trồng thêm các loại cây khác như bông, đay, ngô,
các loại rau cỏ. Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, chó, một số gia đình ở gần suối
còn nuôi thêm ngan, vịt để bổ sung thực phẩm cho gia đình. Nhìn chung, nền kinh
tế nông nghiệp của người Ơ Đu phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Năm thuận
lợi thì sẽ sung túc hơn và năm thời tiết khắc nghiệt thì lại đói kém. Họ cũng
còn dựa nhiều vào kinh tế săn bắt, hái lượm. Thủ công nghiệp của người Ơ Đu chủ
yếu là dệt vải thô, đan lát đồ tre mây để phục vụ nhu cầu trong gia đình và một
vài nghề thiết yếu khác.
Người Ơ Đu chủ yếu ăn đồ nếp. Ngoài cơm thì còn có thịt từ
chăn nuôi hoặc săn bắt trong rừng và rau cỏ trồng hoặc lấy từ rừng. Họ có nhiều
món ẩm thực đặc trưng của dân tộc mình. Người Ơ Đu uống nước nấu lá rừng và uống
rượu cần. Trang phục truyền thống của người Ơ Đu do họ tự dệt và may, thường tối
màu và dày, thô.
Cũng như các cộng đồng khác, người Ơ Đu cũng có nhiều nét
văn hóa tinh thần đặc sắc. Từ các phong tục tập quán đến dân ca, dân vũ cũng
như các lễ hội dân gian. Tiêu biểu là lễ hội đón tiếng sấm đầu năm. Tuy nhiên,
theo thời gian, các yếu tố văn hóa của người Ơ Đu đã thay đổi theo hướng mai một
dần các yếu tố văn hóa truyền thống.
Sự mai một các yếu tố
văn hóa truyền thống.
Cho đến hiện nay, các yếu tố văn hóa truyền thống của người
Ơ Đu đã bị mai một, mất mát đi rất nhiều. Từ kết cấu làng bản, nhà cửa đến các
sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần đều thay đổi. Các phương thức mưu sinh
cũng thay đổi và ngày càng được hiện đại hóa. Không những vậy, các yếu tố văn
hóa vật thể và phi vật thể cũng mai một, mất mát nhanh chóng và thay vào đó là
những yếu tố văn hóa mới.
Trước hết là kết cấu làng bản và nhà cửa. Hiện nay, chỉ còn
bản Văng Môn là bản người Ơ Đu riêng biệt (dù có một vài hộ gia đình người Thái
sống xen kẽ cùng), còn lại là các hộ gia đình sống rải rác ở các thôn bản bên cạnh
người Thái và Khơ Mú. Riêng ở bản Văng Môn, là bản tái định cư nên được lựa chọn
địa điểm dựng bản khá thuận lợi khi nằm ngay cạnh đường lớn. Các ngôi nhà cũng
được xây dựng kiên cố hơn. Nhưng các ngôi nhà hiện nay cũng không hướng vào núi
như trước kia nữa, mà chủ yếu hướng ra đường. Các trang thiết bị cũng thay đổi,
và cả cảnh quan nương vườn cũng như chuồng chăn nuôi gia súc. Ngày trước, các bản
của người Ơ Đu thường ở đầu khe, đầu suối, khá sâu xa và khó khăn hơn trong việc
đi lại thì hiện nay bản Văng Môn lại ở ngay đường chính. Còn những hộ gia đình
sống xen kẽ ở các bản Thái hay Khơ Mú thì kết cấu nhà cửa cũng khá giống với những
gia đình xung quanh, chủ yếu là ở nhà sàn.
Trang phục truyền thống của người Ơ Đu cũng bị mai một dần.
Hiện nay còn rất ít người biết dệt may đồ truyền thống. Trong một thời gian
dài, họ đổi lấy trang phục của người Thái hoặc Khơ Mú để mặc. Còn giờ họ chủ yếu
mua áo quần ngoài thị trường để sử dụng. Gần đây có một số dự án đang muốn khôi
phục lại trang phục truyền thống nhưng chưa đạt hiệu quả mấy.
Một trong những mất mát lớn nhất chính là ngôn ngữ Ơ Đu hiện
nay gần như không còn nữa. Ở bản Văng Môn hiện nay chỉ còn một người đàn ông biết
nói tiếng Ơ Đu, thì cũng đã lớn tuổi. Còn lại không biết gì nhiều về tiếng Ơ
Đu. Có những lần, Ban Dân tộc tỉnh đã mời người Ơ Đu từ Lào qua để giao lưu và
mong muốn mời họ tham gia giúp đỡ để khôi phục lại tiếng Ơ Đu nhưng chưa thể thực
hiện được. Hiện nay, người Ơ Đu chủ yếu nói tiếng Kinh, tiếng Thái và cả tiếng
Khơ Mú.
Hầu hết các yếu tố văn hóa truyền thống từ vật thể đến phi vật
thể đều không còn lại bao nhiêu. Những bài dân ca, dân vũ hiện nay không còn mấy
người biết được. Lễ hội cũng bị mất mát hết, gần đây người ta nỗ lực khôi phục
lại lễ hội đón tiếng sấm của người Ơ Đu nhưng vẫn còn nhiều vấn đề phải xem xét
lại. Những phong tục tập quán cũng không còn được thực hành nhiều trong cuộc sống
nữa.
Quá trình tiếp xúc và
biến đổi văn hóa của người Ơ Đu.
Văn hóa Ơ Đu có hai cuộc tiếp xúc và biến đổi mạnh mẽ. Cuộc
tiếp xúc đầu tiên là với các cộng đồng sinh sống bên cạnh mà chủ yếu là người
Thái và Khơ Mú. Cuộc tiếp xúc thứ hai là với văn hóa người Kinh.
Trong cuộc tiếp xúc văn hóa với người Thái và Khơ Mú, văn hóa
Ơ Đu bị biến đổi nhiều. Nhiều yếu tố văn hóa của người Thái đã ảnh hưởng mạnh
và có tính chi phối đối với các yếu tố văn hóa Ơ Đu. Người Thái có dân số đông
hơn và trình độ phát triển cũng cao hơn người Ơ Đu nên tác động mạnh đến văn
hóa Ơ Đu. Trong suy nghĩ của người Thái thì người Ơ Đu là thấp kém hơn. Họ gọi
người Ơ Đu là Tày Hạt, nghĩa là người đói rách, và xem đó như là thân phận
“cuông”, “nhóc”. Người Thái và người Ơ Đu cũng có quan hệ hôn nhân với nhau.
Chính vì tiếp xúc gần với một cộng đồng dân cư đông đúc hơn và phát triển hơn
nên người Ơ Đu cũng tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa của người Thái. Họ chủ yếu
nói tiếng Thái, tiếp thu và thực hành một số phong tục tập quán của người Thái.
Mua trang phục của người Thái để mặc. Và người Ơ Đu cũng biết hát các bài hát
truyền thống của người Thái. Trong một khoảng thời gian dài giao lưu, tiếp xúc
văn hóa, người Ơ Đu dần tiếp nhận các yếu tố văn hóa Thái và nó lấn át dần các
yếu tố văn hóa truyền thống của mình. Đây có thể coi là quá trình Thái hóa văn
hóa Ơ Đu, nó diễn ra vào khoảng giữa nửa sau thế kỷ 20 trở về trước.
Bên cạnh người Thái thì người Khơ Mú cũng có ảnh hưởng đến
văn hóa của người Ơ Đu. Có nhiều hộ gia đình Ơ Đu sinh sống giữa những người
Khơ Mú cũng dần tiếp nhận các yếu tố văn hóa Khơ Mú từ ngôn ngữ, trang phục cho
đến các phong tục tập quán. Dù không phổ biến và mạnh mẽ như ảnh hưởng của người
Thái nhưng cũng không thể phủ nhận được tác động của văn hóa Khơ Mú đến văn hóa
Ơ Đu. Những người Khơ Mú khi về làm dâu Ơ Đu cũng đã mang nhiều yếu tố văn hóa
Khơ Mú về theo, nhất là những tri thức về canh tác nương rẫy, về chăn nuôi hay
tri thức về chăm sóc sức khỏe.
Cuộc tiếp xúc với văn hóa người Kinh ở miền xuôi lên đối với
người Ơ Đu cũng vô cùng mạnh mẽ. Dù chỉ mới hơn nửa thế kỷ nhưng hệ quả của nó
thì vô cùng to lớn. Tiếp xúc với văn hóa người Kinh cũng gắn liền với quá trình
hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Từ những năm 1960 đến những năm 1980 là giai đoạn
người Kinh di cư lên mạnh mẽ nhất. Ban đầu họ sinh sống chủ yếu ở các thị trấn.
Càng về sau thì sự di dân cả tự giác lẫn tự phát trở nên nhiều hơn nên người
Kinh cũng xen lẫn vào sinh sống trong các làng bản. Tiếng Kinh trở thành phổ
thông nên các dân tộc hầu hết đều phải học thông qua các chương trình giáo dục
của Nhà nước. Rồi đến yếu tố thị trường cũng như những con đường khác mà dần
văn hóa người Kinh trở nên phổ biến ở vùng dân tộc và ảnh hưởng đến hầu hết các
cộng đồng tộc người thiểu số. Hiện nay, hầu hết người Ơ Đu biết nói tiếng Kinh,
mặc trang phục giống người Kinh và tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa của người
Kinh mà họ coi đó là hiện đại hóa.
Tóm lại, ngày nay chúng ta quan tâm nhiều đến các bản sắc
văn hóa của các dân tộc thiểu số rất ít người như Ơ Đu. Nhưng mọi nền văn hóa đều
vận động và biến đổi. Người Ơ Đu cũng không ngoại lệ. Nhìn nhận lại quá trình
biến đổi văn hóa của người Ơ Đu cũng có thể thấy bên cạnh không ngừng nỗ lực giữ
gìn những giá trị văn hóa truyền thống vốn luôn đối diện với nhiều thách thức,
họ còn tìm cách tích hợp các giá trị văn hóa mới một cách năng động để phục vụ
cuộc sống của mình. Đây là một tín hiệu quan trọng./.
Theo các nhà nghiên cứu, người Ơ Đu có ngôn ngữ riêng, với bản
sắc văn hóa phong phú và đặc sắc. Thời hưng thịnh, người Ơ Đu sống độc lập,
không xen kẽ với dân tộc nào; thường giao thương với người Kinh, Thái, Khơ Mú.
Đối với người Ơ Đu, năm mới được bắt đầu từ ngày có tiếng sấm đầu tiên trong
năm (lễ Chăm phtrong). Lễ mừng tiếng sấm là lễ hội lớn nhất trong năm của người
Ơ Đu, thường kéo dài từ 3 đến 7 ngày.
Nghi lễ đầu tiên trong ngày diễn ra lễ Chăm phtrong là phong
tước cho các chức sắc trong bản như trưởng họ, già làng. Những nhà có người chết
trong năm thì mời thầy mo về nhà làm lễ tiễn linh hồn người chết về với tổ
tiên, đồng thời tiến hành nghi lễ bỏ tang cho người góa bụa để sau lễ mừng tiếng
sấm, họ có thể đi bước nữa. Tại lễ này, những đứa trẻ sinh ra trong năm sẽ được
đặt tên và làm lễ nhập họ.
Ngoài lễ đón tiếng sấm đầu năm, người Ơ Đu còn tổ chức lễ rước
hồn lúa và ăn cơm mới, về sau này còn ăn cả Tết Nguyên đán theo người Kinh. Người
Ơ Đu cũng ở nhà sàn như người Thái. Song, kiến trúc nhà sàn của họ thường có 4
mái, lợp bằng nứa hoặc tranh, đầu nhà quay vào núi, cột chôn, một ngôi nhà thường
có 4-8 cột, tương ứng với nhà 1 gian hoặc 3 gian. Khi dựng nhà bao giờ người Ơ
Đu cũng dựng cột chính trước, sau đó mới đến các cột khác theo thứ tự từ trái
sang phải, từ trên xuống dưới.
Người Ơ Đu cũng quan niệm thế giới bên kia giống người Thái,
song ngoài các then Luông, then Vi, then Bắc còn có thêm then Na cai quản ruộng
nương vì họ cho rằng những người bị hổ báo ăn thịt hoặc mất tích trong rừng là
do then Na bắt đi làm người hầu trông coi ruộng nương. Người Ơ Đu cũng kiêng
không được xoa đầu trẻ con vì họ cho rằng, nếu làm vậy linh hồn sẽ sợ đi mất,
trẻ con sẽ ốm đau. Theo chế độ phụ quyền nên người đàn ông Ơ Đu có quyền quyết
định tất thảy mọi việc trong nhà, phụ nữ không được hưởng thừa tự.
Chia sẻ những hiểu biết của mình về bản sắc văn hóa của người
Ơ Đu, bà Hoàng Thị Quỳnh Anh, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
Nghệ An cho biết: Dân tộc Ơ Đu đã từng có một quá khứ huy hoàng với nền văn hóa
đặc sắc, song trải qua bao thăng trầm của lịch sử, các thế hệ con cháu người Ơ
Đu theo hệ ngôn ngữ Phrom Ơ Đu, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á)
đã "quên" hết tiếng nói, phong tục tập quán của tộc người mình. Kể cả
người già nhất (còn 5 cụ trên 80 tuổi) cũng chỉ còn nhớ bập bõm, song đã bị pha
trộn với tiếng nói, văn hóa của dân tộc Thái, Khơ Mú.
Những năm qua, để bảo tồn văn hóa truyền thống của tộc người
Ơ Đu, ngành văn hóa huyện Tương Dương đã mở lớp dạy tiếng Ơ Đu bằng hình thức
truyền miệng, nhưng việc bảo tồn gặp rất nhiều khó khăn do người dân Ơ Đu chưa
có ý thức dùng tiếng nói của mình để giao tiếp trong sinh hoạt. Điều đáng báo động
là các quan hệ xã hội, văn hóa của người Ơ Đu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ văn hóa
Thái, Khơ Mú, như sử dụng thành thạo các nhạc cụ của hai dân tộc này, trang phục
mặc theo kiểu người Thái, người Kinh.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến không gian văn hóa, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng, ngôn ngữ của người Ơ Đu đang bị mất dần, thay vào đó là
không gian văn hóa lai tạp với người Thái, người Khơ Mú là ở ý thức bảo tồn nòi
giống của người Ơ Đu còn nhiều hạn chế và nguồn lực đầu tư chưa có, phương pháp
tiến hành bảo tồn chưa đúng và thiếu đồng bộ. Nhất là việc bảo tồn và phát triển
tộc người Ơ Đu mới chỉ dừng lại ở mặt nâng cao đời sống vật chất, còn yếu tố
văn hóa thì diễn ra quá chậm, không hiệu quả.
Thiết nghĩ, để bảo tồn và phát triển văn hóa của tộc người Ơ
Đu, rất cần có sự quyết tâm từ Trung ương đến địa phương, trước hết là khôi phục
lại không gian văn hóa người Ơ Đu bao gồm quy hoạch lại bản Văng Môn theo cấu
trúc không gian làng bản truyền thống của người Ơ Đu cổ xưa và phục dựng một số
lễ hội quan trọng như lễ Chăm phtrong, lễ ăn cơm mới, rước hồn lúa và mừng nhà
mới.
Đồng thời, UBND tỉnh Nghệ An cần giao cho huyện Tương Dương
thực hiện đề tài khoa học nghiên cứu, biên soạn giáo trình, tài liệu để dạy người
Ơ Đu nói tiếng dân tộc mình trên cơ sở tham khảo tiếng Ơ Đu của người Ơ Đu ở bản
Khạp, huyện Mường Khum (Lào). Bên cạnh đó, ngành văn hóa cần thường xuyên tổ chức
các hoạt động giao lưu văn hóa với người Ơ Đu (Lào) ở bản giáp biên để người Ơ
Đu Nghệ An dần có ý thức phục hồi và sử dụng tiếng nói của dân tộc mình, học lại
nghề dệt thổ cẩm để mặc trang phục truyền thống.
Về lâu dài, các cấp, các ngành cũng cần có cơ chế, chính
sách đặc thù để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất; bố trí
sử dụng cán bộ tộc người Ơ Đu đã tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học, trung
học chuyên nghiệp để thông qua đội ngũ này có thể bảo tồn được một tộc người
đang đứng trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa, phong tục, tín ngưỡng của dân
tộc mình...
Dân số khoảng 600 người, nguy cơ mai một cao. Lịch sử phồn
thịnh ở ven sông, nhưng biến cố dẫn đến phân tán.
6.2. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Lễ Chăm Ph trong Và Nỗ Lực Bảo Tồn Ngôn Ngữ.
Tín ngưỡng và Lễ hội.
Tết mừng tiếng sấm (Chăm Ph trong): Đây là lễ hội quan trọng
nhất, lấy tiếng sấm làm tín hiệu bắt đầu năm mới. Lễ hội bao gồm việc phong chức
cho các chức sắc trong bản, đổi tên cho người trưởng thành và tổ chức lễ nhập họ
cho trẻ em.
Thờ cúng tổ tiên: Các nghi lễ cúng tổ tiên đóng vai trò quan
trọng, thể hiện lòng kính trọng và sự kết nối với cội nguồn.
Phong tục và Tập quán.
Hôn nhân: Theo truyền thống, người Ơ Đu không được kết hôn với
nhau trong cùng dân tộc, do đó con dâu, con rể thường là người dân tộc khác.
Quan niệm «ma nhà» (bụa rinh): Người Ơ Đu tin rằng «ma nhà»
chi phối mọi hoạt động gia đình. Khi gặp vấn đề, họ có thể «xin ma nhà đi bước
nữa», tức là cưới một «ma nhà» khác để thay thế.
Kiến trúc nhà sàn: Nhà của người Ơ Đu có kiến trúc 4 mái, lợp
bằng nứa hoặc tranh, với hai bếp riêng biệt: một bếp ngoài để tiếp khách và sưởi
ấm, bếp trong để nấu nướng.
Tình trạng hiện tại.
Giảm sút: Do sống xen lẫn với các dân tộc khác, bản sắc văn
hóa riêng biệt của người Ơ Đu có nguy cơ bị đồng hóa và mai một.
Bảo tồn và phát huy: Cần có sự quan tâm của các cấp chính
quyền thông qua các chính sách giữ gìn, khôi phục và phát huy những giá trị văn
hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu.
Lễ Chăm Phtrong là lễ lớn nhất, kéo dài 3-7 ngày, với nghi
thức phong tước, bỏ tang, nhập họ. Theo VietnamPlus, lễ tính năm mới theo tiếng
sấm, độc đáo, phản ánh gắn bó thiên nhiên. Ở Tương Dương, lễ được khôi phục, với
thầy mo dẫn dắt.
Nỗ lực bảo tồn ngôn ngữ: Mở lớp dạy tiếng Ơ Đu truyền miệng ở
Văng Môn, giao lưu với Ơ Đu Lào ở bản Khạp. Theo Báo Biên phòng, ngôn ngữ riêng
nhưng quên hết, chỉ còn 100 từ pha trộn. Dự án từ Sở Văn hóa, biên soạn giáo
trình, khuyến khích sử dụng hàng ngày. Ý thức bảo tồn thấp, cần chính sách đặc
thù.
Tổng Kết: Sức Mạnh Từ
Sự Hòa Quyện và Tiềm Năng Phát Triển Bền Vững.
Văn hóa của sáu dân tộc ở Nghệ An là bức tranh đa sắc, với sự
giao thoa tạo sức mạnh đoàn kết. Từ Ví Giặm Kinh đến cồng chiêng Thổ, múa Au eo
Khơ Mú, khèn Mông, Chăm Phtrong Ơ Đu, tất cả làm phong phú văn hóa Việt Nam. Nỗ
lực bảo tồn qua lớp học, lễ hội, du lịch là cần thiết. Nghệ An có tiềm năng du
lịch văn hóa, từ biển Cửa Lò đến sinh thái Pù Mát, kết nối lịch sử và dân tộc.
Điện bà Tây Ninh xin gửi lời tri ân sâu sắc đến những người
bạn xứ Nghệ đã đồng hành trong hành trình nghiên cứu này. Xin cảm ơn quý độc giả
đã kiên nhẫn theo dõi. Hãy cùng đón chờ Bài
10 : Tổng kết và tiềm năng phát triển.
Tiêu đề: Sức hấp dẫn
không thể chối từ: Tiềm năng du lịch Nghệ An.
Nội dung: Tổng kết lại các điểm nổi bật của 9 bài viết trước.
Nhấn mạnh Nghệ An không chỉ có bề dày lịch sử mà còn sở hữu tài nguyên du lịch
phong phú, từ du lịch biển (Cửa Lò, Bãi Lữ) đến du lịch văn hóa - lịch sử và du
lịch sinh thái (Vườn quốc gia Pù Mát). Thân ái. Điện bà Tây Ninh.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét