LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 10.

4/09/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. 
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.
II / PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.
ĐI TÌM NGUỒN GỐC PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN. 
SỰ TRUYỀN THỪA CỦA PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.

CÁC TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC CỦA THẤT SƠN THẦN QUYỀN.( Tiếp ).


dienbatn tu tập tại Núi Két .

Tư liệu 2 .
Huyền thoại về Thất Sơn Thần Quyền

 Trên Thiên Cấm sơn.
Năm 1859, Pháp bắt đầu đánh chiếm Nam kỳ Lục tỉnh (Nam bộ). Một giai đoạn bi thảm bắt đầu trên vùng đất mới khẩn hoang chưa lâu lắm. Triều đình nhà Nguyễn bất lực trước sự xâm lăng ngang ngược của thực dân Pháp đã lên tục nhượng bộ cắt đất, bất lực ngồi nhìn súng đạn thực dân thôn tính miền Nam, sau đó thôn tính và đặt ách đô hộ lên toàn nước Việt. Nhiều bậc trung quân ái quốc tức giận kháng mệnh triều đình. Nhiều chí sỹ tựu quân kháng chiến cứu nước.
Vùng Bảy Núi, tức Thất Sơn (hiện nay thuộc tỉnh An Giang) trở thành căn cứ địa của các lực lượng nghĩa quân Nam Bộ. Thật ra, Thất Sơn có đến 10 ngọn núi nhưng thời vua Tự Đức chỉ đặt tên cho 7 ngọn tượng trưng cho 7 linh huyệt gồm: Anh Vũ Sơn (Núi Kéc), Thiên Cẩm Sơn (Núi Cấm), Ngũ Hồ Sơn (Núi Dài), Liên Hoa Sơn (Núi Tượng), Thủy Đài Sơn (Núi Nước), Ngoạ Long Sơn (Núi Dài Văn Liên), Phụng Hoàng Sơn (Núi Tô).
Do địa điểm hiểm trở, dãy nối dãy, ngọn liền ngọn, rừng rậm hoang vu nên vùng núi này có nhiều loại thực vật, động vật cực kỳ bí hiểm. Cọp beo, rắn rết cùng những loại cây ăn thịt (dân gian gọi là ngãi) đã khiến nhiều người bỏ mạng mất xác khi cố tình thâm nhập. Trước sức mạnh vũ khí hiện đại của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân chỉ có binh khí thô sơ và lòng quả cảm. Những người chỉ huy phải sử dụng đến “vũ khí tâm linh”. Võ phái Thất Sơn thần quyền ra đời từ đó. Để giữ bí mật nơi trú ẩn, nghĩa sỹ kháng chiến đã lợi dụng sự kỳ bí của tự nhiên, lợi dụng địa thế hoang vu hiểm trở của rừng rậm, núi cao thêu dệt nên những câu chuyện linh thiêng nhằm để tiếp thêm sức mạnh cho binh sỹ và uy hiếp kẻ thù.
Hiện nay, truyền nhân duy nhất và cuối cùng của Thất Sơn Thần Quyền là võ sư Hoàng Bá, cư ngụ tại cầu Tầm Bót, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang. Đã hơn 75 tuổi, gần 20 năm nay, võ sư Hoàng Bá đóng cửa võ đường, không thu nhận đệ tử nữa. Điều đáng tiếc là võ Sư Hoàng Bá, tuy là truyền nhân nhưng không phải là chưởng môn nên không lĩnh hội được hết tuyệt chiêu của Thất Sơn Thần Quyền. Ông cho biết, người trưởng môn duy nhất và cuối cùng của võ phái, nắm giữ tất cả tuyệt chiêu là ông Đạo Ngựa tu luyện ở núi Sam, Châu Đốc.
Võ sư Hoàng Bá chỉ là truyền nhân của một bản sao Thất Sơn Thần Quyền. Vì vậy, ông chỉ lĩnh hội được một số tuyệt kỹ thuộc về phần “dương công” của Thất Sơn Thần Quyền, chứ không nắm không nhiều những bí quyết về phần “âm công”. Võ sư Hoàng Bá đánh giá: “Thất sơn thần quyền là một môn phái cận chiến thực dụng, chỉ hữu ích trong chiến đấu thuở gươm đao xưa. Người võ sinh có những phương pháp luyện tập dị biệt. Vì bài quyền không có lời thiệu nên bị tam sao thất bổn. Ngoài quyền cước, võ sinh còn được trang bị thêm niềm tin huyền bí để tạo sự tự tin, bình tĩnh. Trong chiến đấu, sự tự tin, bình tĩnh chiếm 50% thắng lợi”. Thất Sơn Thần Quyền chính tông là một phái võ đặc dị gồm 2 phần: Quyền và Thuật. Quyền là phần “dương công” gồm những thế võ cận chiến tay không và giáp chiến binh khí. Thuật là phần “âm công” huyền bí, dùng năng lượng siêu nhiên trợ lực. Vì môn qui, người đệ tử duy nhất được chọn kế thừa trưởng môn mới được sư phụ truyền dạy phần “âm công”. Tương truyền, võ sinh Thất Sơn Thần Quyền chính phái có tuyệt chiêu gọi hồn nhập xác. Khi giáp chiến võ sỹ chỉ sử dụng quyền thế trong dương công để tấn công đối phương. Nếu gặp đối thủ lợi hại, võ sỹ dùng huyền thuật gọi hồn một vị thần giỏi võ nhập xác vào võ sỹ trợ giúp.
Vào năm 1967, những người cao niên sinh sống dưới chân Núi Sam (Châu Đốc, An Giang) vẫn còn thấy một đạo sỹ gầy, râu tóc bạc phơ, tu luyện trong rừng sâu trên đỉnh núi. Hàng ngày, vị đạo sỹ này cưỡi ngựa xuống núi trao đổi lương thực với người dân quanh vùng.
Vị đạo sỹ này rất kiệm lời nên không ai biết thân thế, tên tuổi của ông. Ông không bao giờ rời lưng ngựa. Điều đáng quan tâm là, hình dáng ông trông rất ốm yếu, lại cưỡi ngựa không yên cương. Dốc núi gập ghềnh đá, ông phải có sức mạnh phi thường mới có thể cưỡi ngựa lên đỉnh xuống vồ. Vì thế, người dân địa phương gọi đùa là ông Đạo Ngựa.
Một lần dong ngựa xuống núi đổi rau củ lấy gạo, bắt gặp một toán cướp dùng súng uy hiếp người dân, ông xuống ngựa can thiệp. Đó là lần đầu tiên người ta thấy ông rời lưng ngựa. Toán cướp thấy ông ốm yếu xông vào toan đánh đập. Không ngờ chỉ bằng một ngón tay, ông đã khiến một tên cướp trợn dọc mắt, ngã lăn bất tỉnh. Tên cướp khác toan nổ súng. Ông rùng mình một cái rồi sau đó như điên loạn.
Ông bay vèo đến cạnh tên cướp tước súng rồi vung chân múa tay đánh gục hết những tên còn lại. Ông ung dung lên ngựa trở về núi. Một ông già ốm yếu đánh gục toán cướp khỏe mạnh lại có vũ khí trong tay khiến nhiều thanh niên thán phục. Họ rủ nhau lên núi tìm ông xin học võ. Không ai tìm được nơi trú ẩn của ông. Tuy nhiên, có một người thanh niên quyết tâm tìm ông cho được. Người thanh niên này bò lên đỉnh núi Sam tìm nơi ngồi thiền lâm râm khấn: khi nào gặp được sư phụ mới chịu xuống núi. Sau hai ngày chịu nắng mưa, đói khát giữa rừng sâu núi thẳm, người thanh niên ấy ngất xỉu. Khi tỉnh lại thì thấy mình nằm trong một hang động. Kể từ ngày đó, người thành niên ấy trở thành đệ tử chân truyền của Đại sư Đạo Ngựa. Ngoài Hoàng Sơn còn có một tiểu đồng tên Ba giúp ông Đạo Ngựa nhang khói. Trong những ngày thụ đạo, người thanh niên ấy mới biết sư phụ mình là đệ tử kế thừa trưởng môn Thất Sơn Thần Quyền của Nam Cực Đường. Nam Cực Đường của Đại sư Bảy Do lập năm từ đầu thế kỷ 20 đào tạo nghĩa sỹ kháng Pháp. Năm 1917, quân Pháp bao vây bắt Đại sư Bảy Do đày ra Côn Đảo. Năm 1926, tạo nhà lao Côn Đảo, Đại sư Bảy Do cắn lưỡi cho máu chảy đến chết. Học được gần 1 năm, đã hết phần “dương công” chuẩn bị bước sang phần “âm công”, người thanh niên ấy xin về nhà giỗ cha. Giỗ cha xong, khi trở lại núi Sam, người thanh niên không tài nào tìm được hang động cũ. Nghĩ rằng sư phụ muốn lẩn tránh mình, người thanh niên ấy đành lại tạ hư không rồi xuống núi. Từ ngày đó cũng không ai còn thấy bóng dáng ông Đạo Ngựa một lần. Ông mất hút giữa rừng núi thiêng. Người thanh niên ấy chính là lão võ sư Hoàng Sơn. Năm 1960, trong một trận thi đấu tranh giải võ thuật khu vực Đông Nam Á, võ sỹ Hoàng Sơn đại diện đoàn Việt Nam đấu với võ sỹ Kh’mer tên là Nosar. Vào hiệp một, chỉ sau vài chiêu giao đãi, võ sỹ Sonar xin dừng trận đấu vì nhận ra đồng môn. Hóa ra, Nosar cũng là đệ tử của Thất Sơn Thần Quyền. Năm 1970, ông Nosar trở thành Phó Chủ tịch Hội đồng võ thuật Campuchia đã đào tạo ra những võ sỹ “thần quyền” nổi tiếng Campuchia như Nosar Long, Nosar Lieng. Hóa ra Nosar là truyền nhân mấy đời của ông Cử Đa ở Tà Lơn.

Trên Thiên Cấm sơn.
Thời điểm đó, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh đang sưu tầm tuyệt kỹ công phu của các môn phái võ Việt Nam đã phát hiện võ sỹ Hoàng Sơn là truyền nhân của Thất Sơn Thần Quyền. Năm 1968, đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh tìm đến tận nhà Hoàng Sơn đề nghị qui tựu những người hiểu biết về Thất Sơn Thần Quyền để sưu tầm một môn phái đã bế truyền.
Do chưa được truyền thụ phần “âm công” tức phần “thần” mà chỉ biết phần “dương công” tức phần “quyền” nên Hoàng Sơn chỉ dám trương cờ Thất Sơn Võ Đạo tại Long Xuyên. Lá cờ nên đó có thêu hình 7 ngọn núi màu đen. Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh đứng chân tạo đó làm cố vấn cho Thất Sơn Võ Đạo.
Mục đích của Thất Sơn Võ Đạo là quy tựu các đồ đệ đồng môn tứ tán khắp nơi về để thống nhất các chiêu thức, các bí thuật “âm công” và truyền dạy lại cho thế hệ sau. Chỉ trong một thời gian ngắn, 10 võ sư từ các nơi nghe tin đã quy tựu về góp sức, gồm: Nguyễn Thành Diệp, Phùng Vũ Châu (Tư Tiếp), Nguyễn Giầu, Nguyễn Thọ, Nguyễn Thôi, Lê Đình Tây, Trần Văn Tủy, Lê Minh Nho, Sáu Rẩm, Hoàng Bá (trẻ tuổi nhất).
Trong số 12 thành viên, Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh và đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp cao niên nhất. Đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp là người may mắn nắm giữ được nhiều bí quyết phần “âm công” nhất. Tiếc rằng, đại lão võ sư Nguyễn Thành Diệp chưa kịp hệ thống lại các bí quyết thì qua đời năm 1970. Những bí ẩn của Thất Sơn Thần Quyền xem như chìm vĩnh viễn vào hư vô.
Tuy không còn lưu giữ được các bí thuật huyền diệu nhưng kể từ ngày thành lập, Thất Sơn Võ Đạo cũng đào tạo được rất nhiều võ sỹ nỗi tiếng khắp Châu Á. Tất cả những trận thư hùng khu vực giữa các võ đường danh tiếng Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaixia, Indo, Philipin đều có mặt võ sỹ Thất Sơn Võ Đạo.
Trận giao đấu tốn nhiều giấy mực của các ký giả thể thao miền Nam lúc ấy là trận Hoàng Thọ, đệ tử của võ sư Hoàng Sơn (môn phái Thất sơn Võ Đạo) đấu với võ sỹ Tinor (Môn phái Trà Kha) vào năm 1973 trong đại hội võ thuật tại Sài Gòn. Tinor là võ sỹ Lào được báo chí đặt cho biệt danh “Cọp bay” bởi chiêu song cước. Nhiều võ sỹ đã phải đo ván bởi cú đá bay nhanh như chớp và chính xác như công thức của võ sỹ này.
Trận trước, “Cọp bay” Tinor thi đấu với võ sỹ Dương Văn Me (sau này là võ sư Huỳnh Tiền). Khi mới vào kẻng, võ sỹ Dương Văn Me chưa kịp chuẩn bị, “Cọp bay” Tinor đã bay người tung cú đá từ phía sau. Dương Văn Me bị gãy xương sườn, trọng tài xử thua.
Dưới khán đài, một cuộc ẩu đả xảy ra giữa hai phe cổ động viên. Bất phục, võ sỹ Hoàng Thọ nhảy lên võ đài thách đấu với “Cọp bay” Tinor (lúc ấy luật thi đấu võ thuật cho phép thách đấu). Cuộc thách đấu được các đại lão võ sư cả hai phía chấp nhận thiết lập để vãn hồi trật tự dưới khán đài. Do đó là trận thách đấu nên được Ban Tổ chức thu xếp vào ngày cuối cùng và năm ngoài giải đấu.
Khi võ sỹ Hoàng Thọ và “Cọp bay” Tinor thượng đài, ai cũng ái ngại cho Hoàng Thọ. Lúc đó, Hoàng Thọ chỉ là một võ sỹ chưa tên tuổi lại thấp hơn “Cọp bay” Tinor một cái đầu.
Vào hiệp 1, “Cọp bay” Tinor xông lên áp đảo Hoàng Thọ vào góc đài. Chờ Hoàng Thọ lúng túng trong góc chết, “Cọp bay” Tinor tung một cú đá thốc từ dưới bụng lên. Hoàng Thọ dính đòn bật ngửa. Ai cũng tưởng Hoàng Thọ nằm vĩnh viễn trước cú đá bạt sơn của võ phái Trà Kha nỗi tiếng về chuyện mình đồng da sắt.
Không ngờ Hoàng Thọ tung mình đứng lên, mặt đỏ au, mắt trợn ngược, tóc tai dựng đứng, tay chân vung đánh loạn xạ không theo một bài bản nào. “Cọp bay” Tinor vừa chống đỡ vừa lùi ngược. Hoàng Thọ thét một tiếng rồi vung chân đá thẳng vào hàm Tinor. Tiếng xương hàm vỡ phát ra cùng lúc với tiếng kẻng kết thúc hiệp 1. Tinor đầu hàng.
Ngay trong ngày, Tinor được đưa về võ quán ở Lào để điều trị rồi chết sau đó vài tháng. Hoàng Thọ trở nên nổi tiếng với bài “Thần quyền giáp chiến” của Thất Sơn Võ Đạo. Đó là một trong số 3 bài quyền còn nguyên vẹn phần quyền (võ) lẫn thuật (phép).
Lần theo sử liệu

Bàn thờ trăm họ trên Thiên cấm sơn.
Theo hướng dẫn của võ sư Hoàng Bá, chúng tôi tìm đến Học Lãnh Sơn để gặp một đạo sỹ chỉ có cái tên duy nhất là ông Ba. Ông Ba cất một cái am u tịch giữa lưng chừng ngọn Học Lãnh Sơn để luyện đạo. Ông Ba đã 99 tuổi. Thuở thiếu niên ông Ba làm tiểu đồng cho ông Đạo Ngựa để học đạo. Sau vài câu giao đãi, ông Ba trầm ngâm lần tràng hạt, suy tưởng về quá khứ.
Ông cho biết, ông không học võ thuật mà chỉ học đạo. Ông xác nhận vào thời gian theo ông Đạo Ngựa học đạo có một người tên Sơn được ông Đạo Ngựa truyền thụ “võ thần”. Tuy không học võ nhưng ông Ba được sư phụ kể cho nghe về xuất xứ môn võ này.
Ông Ba khẳng định, những tổ sư môn võ thần này không đặt tên gọi nhưng do có xuất xứ từ vùng 7 núi linh thiêng nên người đời gọi là Thất Sơn Thần Quyền. Môn võ này có 4 phần luyện là tam đạo nhất thần: Tu tâm dưỡng tính gọi là tâm đạo, định thần dưỡng khí gọi là thể đạo, luyện thân tráng kiện gọi là quyền đạo. Phần luyện thứ tư gọi là luyện thần.
Ông cho biết thêm, tổ sư của môn phái võ này chính là Chàng Lía, một lãnh tụ kháng chiến chống triều đình trước thời kháng Pháp. Chàng Lía chỉ huấn luyện cho nghĩa binh phần tam đạo chứ chưa có phần nhất thần.
Khi phong trào kháng chiến của Chàng Lía bị triều đình đàn áp, giải tán, một đại đệ tử là Hải Đề Long dẫn một số đệ tử chạy trốn từ phía Bắc vào Nam trú ở vùng núi Tô Châu lánh trần tu tịnh. Trong số đệ tử có một người tên Nguyễn Văn Đa rất giỏi.
Thời Thiệu Trị cuối cùng, Nguyễn Văn Đa thi đậu võ cử nên được gọi là Cử Đa.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng. Tỉnh An Giang mất vào tay Pháp vào ngày 22 tháng 6 năm 1867. Trần Văn Thành không hàng Pháp mà mang quân qua Rạch Giá, hỗ trợ kháng chiến quân của Nguyễn Trung Trực.
Trần Văn Thành sinh năm 1920 ở ấp Bình Phú, làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, quận Châu Phú Hạ, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Năm 1840, ông gia nhập quân đội nhà Nguyễn được cử làm suất đội trong chiến dịch giải giáp Nặc Ông Đôn (em vua Cao Miên, khởi quân chống lại Việt Nam). Năm 1845, ông được thăng làm Chánh quản cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam.
Tháng 6 năm 1968, Nguyễn Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Do địch được trang bị vũ khí vượt trội nên Nguyễn Trung Trực rút lui ra Hòn Chông, còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh – Bảy Thưa dựng trại, khai hoang, luyện quân và rèn đúc vũ khí chờ thời cơ. Đó là khoảng thời gian hình thành môn phái võ Thất Sơn Thần Quyền.
Khi triều đình nhu nhược trước quân Pháp, ông Cử Đa thất vọng từ quan về vùng Thất Sơn đứng dưới cờ kháng chiến của nghĩa quân Trần Văn Thành (quản cơ Trần Văn Thành) vào năm 1862. Lúc ấy nghĩa quân Trần Văn Thành trú đóng dưới chân núi Liên Hoa Sơn (căn cứ Láng Linh – Bãi Thưa) lập căn cứ kháng chiến lâu dài.
Láng Linh – Bãi Thưa là hai cánh đồng rộng nằm liền kề, có nhiều đầm lầy, lau sậy và vô số cây thưa um tùm tăm tối. Căn cứ chính của Trần Văn Thành có tên là Hưng Trung doanh, đặt tại trung tâm rừng Bãi Thưa (nay thuộc xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, An Giang).
Ông Cử Đa trở thành người huấn luyện võ thuật cho quân kháng chiến. Trong khi quân Pháp sử dụng vũ khí hiện đại, quân kháng chiến chỉ có các loại đao, thương và súng tự chế. Để trấn an tinh thần nghĩa quân, thủ lĩnh nghĩa quân Trần Văn Thành giao cho Ngô Lợi huấn luyện phép thuật.
Nhằm tạo niềm tin, thu hút nhiều quần chúng tham gia kháng chiến, Ngô Lợi đem nền tảng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lập một tôn giáo mới có tên gọi là Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Những tín đồ được Ngô Lợi phát bùa đeo nhằm… chống đạn. Ông Ngô Lợi còn dùng sấm truyền để tín đồ tin rằng sắp đến ngày tận thế (đồng khởi), ma quỷ (quân Pháp) đã hiện ra đầy đường và núi Cấm sắp mở hội “Long Hoa”.
Chỉ trong một thời gian ngắn, người dân khắp đồng bằng bồng bế gia đình kéo về vùng kháng chiến Láng Linh nườm nượp. Ngô Lợi phải chia đất cho tín đồ cất nhà, lập làng và tổ chức khai hoang lập ruộng sản xuất lấy lương thực nuôi quân. Theo lệnh của Quản cơ Trần Văn Thành, ông Ngô Lợi còn bày cách cho tín đồ đóng ghe nhiều chèo phục vụ cho chiến đấu.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm 1872, Trần Văn Thành chính thức phất cờ chống Pháp, lấy hiệu là Binh Gia Nghị. Nghe tin, Pháp cử chủ tỉnh người Việt tên Trần Bá Lộc đưa mật thám xâm nhập căn cứ.
Năm 1873, sau khi nắm rõ tình hình nghĩa quân, Trần Bá Lộc dẫn quân Pháp đánh vào Bảy Thưa. Ông Trần Văn Thành tử trận. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Quân Pháp tàn sát, giết hại, đốt làng của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Ông Ngô Lợi thoát nạn, sau này quay trở về Láng Linh tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân dưới danh nghĩa tôn giáo chờ thời cơ. Khi quân Pháp càn quét vào vùng căn cứ, một trong những đệ tử của Bổn sư Ngô Lợi đã dùng một chiếc ghe nhiều mái chèo theo sông Cái ra biển đào thoát về tận vùng núi Long Sơn ở Bà Rịa lập nên đạo Ông Trần.
Riêng ông Cử Đa cải trang thành một vị sư lấy tên là Sư Bảy, giả điên khùng, lưu lạc nhiều nơi để tránh sự truy lùng của quân Pháp. Có lúc ông phái lánh sang Campot,Campongtrach, đến núi Tà Lơn tức Bokor (Campuchia).
Đến năm 1896, ông Cử Đa mới dám trở về vùng núi Cấm lập am ẩn danh. Năm 1896, khi rời Campuchia về nước, ông Cử Đa tìm gặp Đức Bổn sư Ngô Lợi để bàn chuyện tiếp tục đánh Pháp. Nhưng vị tu sỹ này từ chối do chưa đến thời cơ. Thất chí Cử Đa về vùng rừng Tri Tôn lập chùa Năm Căn qui ẩn.
Riêng làng An Định, nơi được xem là thủ phủ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với ngôi chùa Tam Bửu và Phi Lai do chính Ngô Lợi tạo dựng, quân Pháp bố ráp xóa làng 5 lần nhưng không xóa được lực lượng nghĩa quân này.
Sau khi Ngô Lợi bị bệnh qua đời, những kháng chiến quân trong đội ngũ tín đồ vẫn tiếp tục rèn luyện võ nghệ chờ thời cơ đánh Pháp. Nhưng do không còn người lãnh đạo, lực lượng này mai một dần.
Một thời vang bóng
Khi nhập môn, võ sinh của Thất Sơn Thần Quyền học bài vỡ lòng là bài khấn tổ: Nam mô tổ sư tam giáo đầu sư Dương Gia, Chàng Lía, cha Hồ, chúa Nhẫn, tổ sư Hải Đề Long núi Tô về cảm ứng nhậm lễ chứng miên cho đệ tử…”.
Sau đó, người võ sỹ được học những bài chú kêu gọi các đấng siêu nhiên nhập xác (như lên đồng) ứng chiến gọi là chú “thỉnh tổ”: “Nam mô thập hương chư phật, chư vị đại thần đại thánh đại hải, chư vị bồ tát…thập bát la hán, bát quái tổ sư… Án Lỗ ban tiên sư phù, Lỗ Ban đại sát, dụng hưng yên bất dụng hương đăng hoa quả vật thực chơn hình trợ kỳ đệ tử thần tự…hội Tà Lơn Thất Sơn, 5 non, 7 núi, rừng rú, tổ lục, tổ lèo, tổ xiêm, tổ mọi, tổ chà đồng lai đáo hạ hộ giá quang minh, chấp kinh trì chú cứu thế trợ dân cấp cấp như luật lịnh sắc”.
Điều này cho thấy các nghĩa quân kháng chiến ngày xưa đã áp dụng bùa Lỗ Ban có xuất xứ từ Trung Quốc vào hệ thống “âm công” của Thất Sơn Thần Quyền.
Về quyền thế, Thất Sơn Thần Quyền có nhiều bài hay như: Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Mãnh hổ tọa sơn… Vào thập niên 1960, Thất Sơn Thần Quyền kể như không tồn tại nữa mà chuyển thể thành Thất Sơn Võ Đạo. Thất Sơn Võ Đạo là những quyền thế dương công của Thất Sơn Thần Quyền. Tuy không còn yếu tố huyền linh nữa nhưng Thất Sơn Võ Đạo cũng tạo được tiếng vang trong làng võ Nam Bộ thời ấy.
Thời điểm này, phong trào võ thuật vùng Nam Bộ rất sôi động, nơi nào cũng có võ đường Thần Quyền: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy Biển ở Kiên Giang; Ba Hoằng ở Long Xuyên. Nhiều võ sư tạo được tiếng vang nhờ đào tạo được những võ sỹ vô địch trong các trận đấu võ đài. Đến tận ngày nay, những võ sư ấy vẫn còn được nhiều người nhắc như: Hai Diệp, Mười Nho, Nguyễn Mách, Út Dài, Thiên Đường.
Họ thường tổ chức thi đấu tại Chợ Lớn (quận 5) mang tính giao hữu với các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Hồng Kông. Trong những cuộc đấu giao lưu ấy, nhiều võ sỹ Việt Nam đã tạo được sự thán phục của các võ sư, võ sỹ nước ngoài.
Báo chí thể thao dạo ấy đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ Thần Quyền như: Võ sỹ Minh Sang có đường quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn có cú đấm nhanh như chớp và cú húc chỏ “hồi mã thương”, võ sỹ Chhit Sarim (người Campuchia theo học Thần Quyền).
Trong một trận thư hùng giữa võ sỹ Trần Mạnh Hiền Việt Nam đấu với võ sỹ Hồng Kông là Châu Đạt Vinh Hồng Kông, môn đệ của Vịnh Xuân Quyền xảy ra năm 1973 khiến báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần Mạnh Hiền đã thắng tuyệt đối bằng một cú đá thần sầu ở hiệp ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở ấy đã trở thành đại võ sư.
Ngày nay, Thất Sơn Thần Quyền chỉ còn là ký ức của những võ sư miệt đồng bằng sông Cửu Long. Dù không ai chứng minh được sự mầu nhiệm của môn phái này nhưng xuất xứ của Thất Sơn Thần Quyền gắn liền với một trang sử hào hùng, bất khuất của dân tộc Việt. Đó là điều cần ghi nhận.
 Nông Huyền Sơn
Trên Núi Cô Tô.
Tư liệu thứ 3.
Một huyền thoại về môn phái võ Thất Sơn Thần Quyền
          Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là "võ bùa" hay "thần quyền". Người theo môn võ ấy không cần luyện tập quyền cước mà chỉ cần thổi hương, uống bùa, gọi thần chú là có sức mạnh muôn người khôn địch... Bởi cách thức có phần thần bí đó mà nhiều môn phái khác đã tìm các lò dạy võ bùa để tìm hiểu thực hư, phân tài cao thấp. Sự "truy sát" ấy, cùng nhiều lý do khác nữa nên chỉ ít thời gian sau, võ bùa phải lui vào ẩn dật.
Gần đây, trước sự nở rộ trở lại của phong trào học võ, lại có lời đồn võ bùa đang "tái xuất giang hồ". Chúng tôi đã đi tìm hiểu thực hư xung quanh môn võ này.
Cao nhân ẩn tích
Sau màn ra mắt vào những năm 80 của thế kỷ trước, võ bùa bỗng dưng mất hút một cách khó hiểu trên "chốn giang hồ". Không ai biết đệ tử của võ bùa ở đâu, hiện đang sống như thế nào, còn lao tâm khổ tứ tập luyện hay không?
Gần đây, một lần lang thang trên mạng, tôi tình cờ đọc được thông tin của một môn sinh "chánh phái" nói rằng, trước đây có hai cao thủ phái Thất Sơn đem võ bùa về dạy ở Hà Nội và chính họ là những sư phụ đầu tiên của môn phái ở đất Kinh kỳ. Thông tin trên mơ hồ, chỉ nói người thứ nhất tên Thành, làng võ vẫn gọi là Thành "vuông", người thứ hai tên là Chín, giang hồ gọi là Chín "cụt".
Liên hệ với một số cao thủ võ lâm ngoài Bắc thì được biết, Thành "vuông" tên đầy đủ là Nguyễn Văn Thành, từng sống ở khu vực Ô Chợ Dừa (Hà Nội), giờ đã qua Nga lập nghiệp. Người thứ hai là Chín "cụt", tên đầy đủ là Ngô Xuân Chín, là thương binh, hiện không biết phiêu dạt phương nào.
Thông tin trên làm tôi nhớ lại lần trò chuyện với võ sư Chu Há, Chủ nhiệm võ đường Hồng Gia. Võ sư Há cho biết, thuở trước Chín "cụt" có tham gia một số phong trào thể thao của người khuyết tật và ngay từ buổi đầu tiên ấy, Chín cùng đệ tử đã từng dùng võ bùa để giành huy chương vàng tại một hội khỏe năm 1986.
Nhờ manh mối này, tôi vội tìm đến ông Vũ Thế Phiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Thể thao người khuyết tật Việt Nam. Từ số điện thoại ông Phiệt cho, tôi đã tìm được "cao nhân" ẩn tích bấy lâu nay – ông Chín.
Phận duyên tiền định
Vợ chồng ông Xuân Chín hiện đang sống ở một khu đô thị yên ả trên đường Lạc Long Quân (Hà Nội). Trò chuyện, Xuân Chín bảo, Thất Sơn Thần Quyền với ông như có duyên trời định.
Thời trai trẻ, Chín là lính trinh sát đóng quân ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Khi còn ở quê nhà, bởi hiếu động nên Chín từng theo đám trai làng lăn lộn học quyền cước của mấy võ sư vườn, cũng lận lưng dăm ba miếng phòng thân. Bởi thế, khi hay tin trong trung đoàn có một đồng đội thường diễu quyền, phóng cước sau khi xong xuôi việc nhà binh, Chín muốn tìm đến xem "mặt mũi" thế nào và nhân thể thử tài luôn để phân cao thấp.
Sau nhiều lần hò hẹn, "thằng cha" đó cũng nhận lời thách đấu. Thế nhưng sau 2 lần "tỉ thí", Chín đều thua không kịp vuốt mặt. Chín đấm, đá cật lực mà cứ như đánh vào bị bông, đối thủ chẳng hề đổi thay sắc mặt. Đánh nhiều đuối sức, chùn tay, nên đành phải xin thua.
Từ sau trận quyết đấu đó, hai người trở thành bạn. Lúc này Chín mới biết người kia theo học Thần Quyền của phái Thất Sơn, từ một sư phụ ở quê nhà, xã Văn Khúc, huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ. Những câu chuyện mà người bạn kể về môn phái lạ lùng đã khiến Chín mê mệt. Anh ước ao có ngày được về quê bạn bái vị sư phụ ấy làm thầy.
Và rồi cái ngày anh mong mỏi ấy cũng đến. Được sự giới thiệu, ngay đêm hôm ấy, anh đã được diện kiến kỳ nhân. Người ấy là danh sư Nguyễn Văn Lộc, một nông dân chân chất, cũng chỉ hơn anh cỡ trên chục tuổi.
Thế nhưng hôm ấy, ý nguyện, mơ ước của anh đã không thành. Dù đã cố nài nỉ hết nước hết cái nhưng vị danh sư ấy vẫn không chịu thu nạp Chín làm đệ tử. Tuy mưu sự không thành nhưng anh vẫn không thôi hy vọng của mình.
Chừng tháng sau, anh lại tay nải từ Cao Bằng tìm về Phú Thọ. Lần này, thứ mà anh nhận được vẫn chỉ là những cái lắc đầu. Thế rồi, một lần (năm 1981), lúc đi làm nhiệm vụ, anh bị thương phải cắt bỏ hoàn toàn chân phải. Khi vết thương liền da, nhớ miền quê Văn Khúc và ông thầy võ... khó tính, anh lại lóc cóc tìm về.
Đi cùng anh lần này có cả Thành "vuông", một chàng trai Hà Nội, nghe tiếng vị sư phụ kỳ lạ mà háo hức muốn được tỏ tường. Gặp mặt, vị danh sư nói thẳng thừng: "Anh lành lặn tôi còn không nhận, huống chi nay đã là người tàn phế! Anh không học võ được đâu!". Câu nói đó đã làm ruột gan Chín quặn thắt. "Đau" hơn khi bạn đồng hành với anh, Thành "vuông", lại được sư phụ thu nạp.

Một kỷ niệm của dienbatn với Thàng vuông.
Uất ức, trước khi ra về anh... thề: "Sư phụ nhận tôi thì 6 tháng tôi xuống một lần! Không nhận thì tháng nào tôi cũng xuống!". Tháng sau, một mình, anh xuống thật. Lần này, thấy anh lóc cóc chống nạng vượt quãng đường hơn 25 cây số từ ga Phú Thọ sang, vị danh sư đã động lòng trắc ẩn. Ông đã đồng ý truyền võ cho anh nhưng với điều kiện chờ ngày tốt, về Bắc Giang ông mới dạy.
Võ phái kỳ lạ
"Ngày tốt" ấy là ngày 09/10/1984. Đã hẹn trước, anh Chín có mặt tại nhà một người quen của sư phụ ở làng Mỹ Độ, sát thị xã Bắc Giang. Đến được ít phút thì sư phụ anh cũng xuất hiện. Ngay chiều hôm ấy, anh đã thành người của phái Thất Sơn. Cũng ngay ngày hôm ấy, anh mới tường tận về môn phái của mình.
Theo lời thầy Lộc thì "thủ phủ" của Thất Sơn Thần Quyền nằm ở Huế, do tông sư Nguyễn Văn Cảo nắm quyền chưởng môn. Sáng tổ Nguyễn Văn Cảo học Thần Quyền từ một vị cao tăng người Ấn Độ. Cao tăng lưu lạc sang Việt Nam từ khi nào thì đến giờ vẫn không ai biết rõ. Tới Việt Nam, ông chọn vùng Bảy Núi (An Giang) làm chốn tu hành (có lẽ bởi bậc thánh nhân tu luyện nơi non thiêng này nên thầy Cảo đã đặt tên môn phái của mình là Thất Sơn).
Dựa trên những căn bản mà vị tu sĩ lạ lùng ấy truyền dạy, thầy Cảo đã truyền dạy thần quyền cho nhiều người khác. Thần quyền học nhanh, do vậy chỉ trong thời gian ngắn, ở Huế đã có rất nhiều người trở thành môn đồ của võ phái này.
Khi nhập môn, môn đồ của môn phái phải đứng trước ban thờ thề đủ 9 điều (càng học cao thì số lời thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người sẽ được sư phụ mình phát cho hai lá bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái.
Trước khi truyền thụ những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được đem đốt, lấy tro hòa vào nước cho người mới nhập môn... uống cạn. Thần chú của môn phái thì có rất nhiều, gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương... Đã được truyền thần chú thì môn sinh cứ tự mình gọi chú mà xin sức mạnh, mà tập quyền cước.
Tuy thế, trước khi tập, người luyện thần quyền phải được sư phụ mình khai thông tất cả các huyệt đạo trên cơ thể. Việc ấy, các sư phụ của Thất Sơn thường làm bằng cách dùng nắm nhang đang nghi ngút khói thổi vào huyệt đạo của đệ tử. Với môn sinh là nam giới thì dùng 7 nén nhang thổi 7 lần vào mỗi huyệt đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần. 
Thần chú vào... võ công ra
Anh Chín kể, hôm ấy, xong nghi thức nhập môn, sư phụ Lộc đã kéo anh ra sân và chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ, ông đã truyền thụ xong xuôi cho anh lời chú xin quyền.
Theo lời của sư phụ Lộc, lời chú ấy anh không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai nếu chưa được phép của những người đứng đầu môn phái. Truyền chú xong, sư phụ anh bảo, cứ nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc... ra đến đó.
Thấy thầy dạy mình quá nhanh, anh hết sức ngạc nhiên. Cứ nghĩ, có lẽ bởi gượng ép khi thu nạp nên thầy Lộc mới dạy anh một cách sơ sài đến vậy. Sau này, khi trình độ bản thân được nâng cao, anh mới biết, với anh cuộc truyền thụ kỹ năng cơ bản của môn phái như vậy là quá lâu.
Thường thì khi truyền chú cho đệ tử khác, thầy Lộc chỉ làm trong thời gian vỏn vẹn 15 phút là xong. Anh cũng vậy, khi được phép dạy đệ tử, anh cũng chỉ mất ngần ấy thời gian là đã... hết bài. Còn học như thế nào, luyện như thế nào, trình độ đạt đến đâu là cơ duyên của mỗi người chứ thầy không chỉ bảo được.
Ngay chiều hôm ấy, thầy Lộc đã kéo anh ra khoảng sân rộng, bắt đầu luyện tập quyền pháp. Trước khi tập, thầy lấy nắm nhang nghi ngút khói thổi vào tất cả những huyệt đạo trên cơ thể anh. Làm xong, thầy bảo anh nhẩm đọc chú để... gọi võ về. Thật ngạc nhiên, khi vừa đọc chú xong, anh bỗng thấy mình lâng lâng như người say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng, lúc thì thấy nặng như đang khuân cả khối sắt trăm cân.
Chín kể, khi đã "nhập đồng", cứ thấy nhẹ bên tay nào là "chưởng" đánh ra tay ấy. Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến anh lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng tưng trên không, lao đầu vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết.
Tỉ thí tranh tài
Hết nghỉ phép, Xuân Chín về nơi an dưỡng. Vì đang chờ chế độ nên anh có nhiều cơ hội để luyện tập môn võ mà mình vừa được học. Cứ đêm đến, anh lại một mình chống nạng lên quả đồi ở gần đó luyện tập. Sáu tháng sau, anh quay lại Văn Khúc để thầy Lộc kiểm tra "trình độ".
Sau bữa cơm chiều, thầy Lộc bảo ông sẽ không trực tiếp kiểm tra mà nhờ thầy "cao tay" hơn thẩm định. Vị ấy tên Cư, nhà ở gần bến phà Tình Cương, cách nhà thầy Lộc chừng 15 cây số. Thần Quyền ở Văn Khúc chính là do ông Cư mang từ trong Huế ra truyền dạy.
Tối hôm đó, hai thầy trò đã đèo nhau đến nhà ông Cư. Biết Chín muốn thử trình độ của mình, ông Cư đã gọi hai đệ tử to như hộ pháp đến. Trước khi đánh, ông Cư giới thiệu, hai đệ tử của ông được gọi là những “cây đấu” của Thất Sơn. Những ai muốn "khẳng định thương hiệu" của riêng mình thì đều phải đánh với hai "cây đấu" ấy.
Ngay phút khởi động, một “cây đấu” đã táng thẳng vào mặt Chín cú "thôi sơn" khiến anh nổ đom đóm mắt. Nhưng ngay sau cú đánh ấy, anh thấy mình tự dưng lùi ra, quay hẳn lưng vào đối thủ. Chẳng cần để mắt động tác khó hiểu của anh, người tấn công lại ngay lập tức lao vào. Thế nhưng, vừa vào gần đến nơi thì bỗng nhiên tay phải Chín vung ra một cú đòn cực mạnh. Một tiếng “bốp” chát chúa vang lên, “cây đấu” ấy bị đánh văng ra góc sân và nằm bất động.
Thấy đệ tử mình bị hạ nhanh một cách khó hiểu, ông Cư vội vàng chạy đến xem thực hư thế nào. Cậu học trò cưng nằm im, mồm miệng be bét máu. Phần thắng đã thuộc về Chín.
Sắp xếp công việc, ít lâu sau, anh Chín lại theo thầy Lộc vào Huế để nhờ tông sư môn phái kiểm tra trình độ thật sự của mình. Chưởng môn phái Nguyễn Văn Cảo (phường Phú Cát, Huế) đã đón hai thầy trò anh rất thân tình.
Hôm ấy, nhà thầy Cảo có một đệ tử học Thần Quyền được 10 năm, từ Quảng Bình vào thăm. Thầy Cảo bảo Chín đấu với người này. Kịch bản của trận đấu ở Phú Thọ đã được lặp lại. Vào trận, ngay màn dạo đầu, Chín dính đòn tới tấp. Thế nhưng, trong lúc nguy nan, tự nhiên anh thấy chân mình mềm oặt. Xoay lưng lại đối thủ, anh quỳ xuống như người bị trúng đòn chí mạng. Đối thủ thấy vậy thừa thắng lao lên...
Nhưng, như có phép tiên, dù chỉ còn mỗi chân trái mà anh vẫn bật vút lên, lộn trên không một vòng rồi tung cú "thiết cước" vào thẳng bụng đối thủ. Cú đá ấy đã làm vị kia văng ra, thầy Cảo ngay lập tức cho dừng trận đấu. Sau trận đấu đó, bởi quá khâm phục sự tiến bộ kỳ lạ của anh, thầy Cảo đã cân nhắc để anh được thăng đai vượt cấp.
Thế nhưng, điều đó chưa từng có tiền lệ trong môn phái nên thầy đành để anh ở đai đỏ xuất sư. Người đeo đai đó thì đã có thể làm thầy, truyền thụ võ công cho những môn sinh khác. Sáu tháng sau, vào lại Huế, lần này chưởng môn Nguyễn Văn Cảo đích thân ra chợ mua chỉ về se đai tím cho anh.
Dựng nghiệp bất thành
Rời quân ngũ, anh Chín về quê sinh sống, thỉnh thoảng ra Hà Nội gặp gỡ bạn bè. Những năm ấy, phong trào chấn hưng võ thuật cổ truyền ở thủ đô đang ở cao trào, thấy Thất Sơn Thần Quyền của mình chưa có một tên tuổi trong làng võ Việt, anh và một số người bạn đã quyết tâm gây dựng môn phái.
Để khẳng định sức mạnh của Thần Quyền, Hội khỏe Phù Đổng năm 1986 được tổ chức ở Hà Nội, các bạn anh đã tiến cử anh tham gia. Chuẩn bị cho sự kiện này Chín đã lặn lội lên Cao Bằng, tìm cậu bé mà trước đây anh đã ngẫu hứng truyền thụ võ công, đưa về Hà Nội cùng mình biểu diễn. Cậu bé ấy tên Điệp, khi ấy vừa tròn 6 tuổi. 
Tại sân vận động Hàng Đẫy, với tiết mục Thần Quyền của mình, hai thầy trò một tàn phế, một tóc còn để chỏm đã dinh về hai tấm huy chương vàng trước sự trầm trồ, thán phục của mọi người.
Sau màn ra mắt, được sự "chỉ đường mách lối" của cố võ sư Đỗ Hóa, anh cùng các bạn đã tìm đến một chức sắc ở Hội Võ thuật cổ truyền Hà Nội nhằm đưa môn phái "phát dương quang đại". Thế nhưng, nhiều người cho rằng Thất Sơn Thần Quyền là tà thuật, mê tín dị đoan nên mong ước của anh đã không thể thành hiện thực.
Dựng phái không thành, anh em tan rã mỗi người một nơi, Xuân Chín đâm nản. Tuy thế, sau này, tham gia phong trào thể thao người khuyết tật, anh vẫn đem thần quyền đi biểu diễn ở khắp nơi.
Năm 2004, tại một cuộc liên hoan võ thuật tại Hàn Quốc, anh đã được ban tổ chức trao tặng huy chương vàng cho tiết mục Thần Quyền độc đáo của mình. Càng hạnh phúc hơn khi ngay sau đó, hình ảnh của anh, một người cụt chân đang thăng hoa cùng quyền thuật đã được ban tổ chức in lên lịch lưu niệm tặng các vận động viên tham gia.
Cũng từ dạo ấy, bởi cuộc mưu sinh anh đã xin thôi và không tham gia phong trào thể thao nữa. Thần quyền anh cũng ít tập hơn và cũng không truyền dạy bí kíp võ công này cho bất kỳ ai...
Lời thề của môn phái Thất Sơn Thần Quyền:
Một lòng hiếu thảo với cha mẹ; Không phản môn phái; Không phản thầy; Không phản bạn; Coi bạn như anh em ruột thịt; Không cưỡng bức kẻ yếu; Không làm điều gian ác; Không ham mê tửu sắc;Không nản chí khi luyện tập; Không thoái lui lúc nguy hiểm; Luôn bảo vệ kẻ yếu; Nhịn kẻ mất lòng ta; Thi hành nghiêm chỉnh những lời thầy dạy; Ôn hòa trong tình bạn; Không tự cao tự đắc; Cứu người trong lúc nguy nan...
Theo: www.nhantrachoc.net.vn;
Nguyễn Minh Huệ nói...
" Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, Tình Cương là một trong những “cái nôi” của phong trào tập luyện võ thuật theo phái Thất Sơn Thần Quyền (dân gian gọi là “võ bùa”). “Vị tên Cư” trong bài viết này tên thật là Nguyễn Phong Cư, sinh năm 1950, nhà ở chỗ lưng chừng dốc Chủ Chè, làng Tình Cương, xã Tình Cương. Từ năm 1980 – 1985 cao thủ Nguyễn Phong Cư đã huấn luyện được một số “đệ tử”, trong đó có 12 “môn sinh” đã có đẳng cấp khá cao (7 người ở Cẩm Khê, 3 cán bộ công an, 1 bộ đội và 1 ở Hải Phòng). Theo những người rành về môn này cho biết: “Thầy Cư” theo học “Thầy Cảo” (Nguyễn Văn Cảo, ở Huế) từ năm 1976 khi ông còn là công nhân xây dựng cầu đường ở miền Trung. Sau khi “đắc đạo”, Nguyễn Phong Cư về quê Tình Cương sinh sống và góp phần truyền bá môn “võ bùa” này cho khá nhiều người.
Một vị cao thủ thứ 2 ở Tình Cương tên là Nguyễn Trần Cương, nhà ở xóm Chùa, làng Tình Cương, xã Tình Cương (kém ông Cư vài ba tuổi, nhà ở phía sau Tổ Đình Long Khánh hiện nay). Ông Cương khá kín tiếng và cũng đã chiêu nạp được một số “đệ tử” rồi huấn luyện “võ bùa”, ngồi thiền,… 
Những năm 1985 – 1986, có khá đông người từ khắp các nơi tụ tập về Tình Cương theo học môn Thất Sơn Thần Quyền do ông Cư và ông Cương hướng dẫn. Bên cạnh “cái được” của Thất Sơn Thần Quyền ở Tình Cương là xây dựng được phong trào tập luyện võ thuật nâng cao sức khỏe, tu thân tích đức,… thì cũng xuất hiện “cái chưa được” đó là “làm ảnh hưởng đến sản xuất và phong trào xây dựng nếp sống mới, gây mất trật tự an ninh ở địa phương”. Tháng 6 năm 1986, Công an huyện Cẩm Khê cho gọi 7 người có mặt ở các xã trong huyện đã vào “hội võ bùa” đến để giáo dục, kiểm điểm và cam kết từ bỏ. Phong trào tập luyện “võ bùa” từ đây không còn tấp nập như trước.
Ngày nay, thầy Nguyễn Văn Cảo cũng đã “ra đi cùng tiên tổ”, môn Thất Sơn Thần Quyền có còn hoạt động ở Tình Cương nữa hay không, có lẽ chỉ có ông Nguyễn Phong Cư và ông Nguyễn Trần Cương đều ở làng Tình Cương, xã Tình Cương mới chọn được câu trả lời chính xác.".


Xin theo dõi tiếp bài 11. dienbatn.
Xem chi tiết…

NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG.

4/09/2014 |
NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG.


NAM MÔ LẠC LONG QUÂN PHỤ - HỒNG BÀNG TIÊN MẪU - QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG - TRĂM QUAN THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN CẢM ỨNG CHỨNG MINH CHO ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM QUỐC THÁI DÂN AN - MƯA THUẬN GIÓ HÒA.
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 9.

4/08/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. 
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.
II / PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.
ĐI TÌM NGUỒN GỐC PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN. 
SỰ TRUYỀN THỪA CỦA PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.( Tiếp ).


Trên dải đất phương Nam , từ khi Chúa Nguyễn Hoàng nghe theo câu " Hoành Sơn nhất đái - Vạn Đại dung thân " của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, trải qua các triều của các Vua Nguyễn, người dân Nam mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, mang theo hồn Thiêng của sông núi , mang theo những kiến thức Huyền môn của miền Bắc và Trung , đấu tranh liên lục mở mang bờ cõi . " Từ thủa mang gươm đi dựng nước - Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long " ( Huỳnh Văn Nghệ ). Đất Việt Nam địa linh , nhân kiệt mang hình chữ S tạo nên một bức địa đồ có hai mảng âm - dương kết hợp kỳ bí , là một Thánh địa Long tàng hổ phục. Nơi đây đã , đang và sẽ sinh ra biết bao nhiêu nhân tài , là điểm tập kết và hội tụ của rất nhiều hệ phái Huyền môn của nhân loại qua các dòng chảy của văn hóa, giao thương, truyền Đạo....
Huyền môn của Trung Hoa đã tập trung ở miền Bắc từ hàng ngàn năm trước . Các phái Huyền môn Trung Hoa như : Lỗ Ban, Mao Sơn , Chúc Do Khoa, Lỗ Ban Thái Thượng , Lỗ Ban sát Thần phù , Lỗ Ban 12 cửa, Lỗ Ban Cửu Khiếu, Lỗ Ban độc trùng ( Từ Vân Nam truyền vào ) , Lỗ Ban Cửu Thiên, Lỗ Ban Ngũ hành , Phù thủy....
Các dân tộc thiểu số miền núi phía bắc Việt Nam như Thái , HMông, Dao, Mường, Mán, Khơ Mú, Rục,  ....đều có những Thày Mo, Thày Tào nắm rất chắc các thuật Huyền môn như Nèm, Chài, Thư , Thuốc, Trù, Ếm ...
Các phái Huyền môn phát xuất từ phương Bắc và các dân tộc thiểu số miền bắc Việt Nam, ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa, của các câu chú Đà La ni bằng chữ Phạn hay Tây tạng, các hình ảnh Phật, các chủng tử...được các nhà Huyền môn chế tác kết hợp với Đạo giáo Trung hoa thành ra trong Huyền môn miền Bắc , thường sử dụng những câu chú là chữ Hán , kết hợp với tiếng địa phương của mình, các lá Bùa bao giờ cũng kèm theo các ký tự hán ngữ theo kiểu chữ Bùa.
Trong đoàn quân Nam tiến của Chúa Nguyễn Hoàng ngày xưa, không thiếu những vị Pháp sư, Phù thủy, Đông y , mang trong mình những thuật Huyền môn của miền Bắc, khi vào Nam đã tiếp thu những tinh hoa Huyền môn từ các dân tộc Chăm , Ba Na, Ê Đê,  vân Kiều , Cờ Ho , Cơ Tu , Ra rai , KhMer  .... Khi vào tới Nam bộ , lại giao thoa với những phái Huyền môn của Phật giáo Nam tông ( Therevada ) . Những phái Huyền môn của Phật giáo Nam tông có thể du nhập vào Nam bộ qua vùng rừng núi giáp ranh với Việt Nam như Lào, Campuchia, có thể đi theo thương thuyền từ Thái Lan, In đô nê chia, Phi lip pin, Singapo... Các nước theo Phật giáo Nam tông trong Huyền môn thường hay sử dụng chú ngữ PaLi và Bùa Điển ( Không có các Hán tự ). Ta có thể kể đến những môn phái của Huyền môn Nam tông như : Lục cà Tha, Lục Giây, Mẹ Sanh, Mẹ Lục, Mẹ Đất, Mẹ Sroc , Gồng Trà Kha, Năm Ông , Ngũ công Vương Phật, Mẹ Ngũ hành ,  Phật Đen, Tổ Tóc Đanh, Tổ Xì Bích , Tổ vắt Khăn .....
Lại có những môn phái tại vùng Châu Giang là người Chăm có chú thuật bằng kinh Cô Ran cổ , dùng luyện Ngải, luyện thư , ếm. Một số môn phái còn tiếp thu những bí thuật từ Phi Líp Pin , In đô nê chia thờ Mẹ Đất , Thần Rừng, Thần Núi hay thờ những vị nửa người , nửa thú , kết hợp cả động thực vật thành một sức mạnh kỳ bí như Ắp Pla kết là thuật kết hợp giữa tinh tre gai và Thần Đất , Bo gẹt là kết hợp giữa râu con cọp và măng rừng tạo nên những liều thuốc cực độc, Chiêm Niền là thuật kết hợp giữa gai cá Ngạnh và lá rừng. 
Ta hãy so sánh hai lá Bùa của nam Tông và Bắc tông sẽ thấy rất rõ nguồn gốc của chúng.

1/ BÙA BẮC TÔNG.

                       Bài Chú Chúc Quan Phù Sứ 
 Triệu Thỉnh Thượng Giới Thiên Tiên Trực Phù Sứ, Trung Giới Địa Tiên Trục Phù Sứ, Hạ Giới Ngoại Tiên Trực Phù Sứ, Kim Thời Phụng Sự Trực Phù Sứ, Thiên Lý Tầm Phù Danh Hương Thỉnh, Phi Vân Tẩu Vụ Ngoại Đàn Tiên, Đệ Tử Tâm Hương Thông Tam Giới, Thông Vấn Tam Giới Trực Phù Thần, Khoái Đổ Cửu Năng Tụ Thủ, Cá Cá Hàm Châu, Đồng Đầu  Thiết Cảnh, Bất Úy Cường Ngư,  Song  Thủ Mỹ Ngọc, Mãn  Phúc Văn  Chương,  Kinh  Thiên  Vĩ  Địa,  Tả  Hữu  Diện  Khổng,  Nhật  Nguyệt Tranh Quang, Tả Cước Kính Thiên, Phi Vân Tùy Chi Hữu Tước Kính Thiên Tẩu Lộ Tùy Chi, Thủ Chấp Khai Văn Kiêm Đồng  Phù  Sứ, Túc Vãng Tiên Cung, Cảm Thỉnh Thần Tiên, Phùng Thánh Túc Yêu, Ngộ Tà Tứ Sát, Cao Tại Thanh Thiên Chi Thượng, Thâm Nhiệm Tàng Hải Chi Trung, Cận Tại Kỉ Tịch Chi Tiên, Viên Tại Cửu Châu Chi Ngoại. 
2/ BÙA NAM TÔNG.


 BA ÔNG TỔ LỚN NHẤT.
Ề hế tế dá mặc mặc.
Ề hế thế dái mặc mặc.
Ề hế Bi li mặc mặc.
Bùa và chú Nam tông thường đơn giản và hiệu quả hơn.
Tới đây chúng ta có thể kết luận rằng : Phái Thất sơn Thần quyền là một môn phái Võ - Đạo của Việt Nam , xuất phát từ miền Thất Sơn - An Giang , được các vị Thày của các tông phái Phật giáo miền Nam ( Bửu Sơn Kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo...) tiếp thu tinh hoa của nhân loại , kết hợp với các hệ phái Huyền môn Nam tông bắt nguồn từ các nước Thái Lan, Lào, Cam Pu Chia, Mã lai, Phi Lip Pin, In đô ne chia ....tạo thành một phái Võ - Đạo mang đậm bản sắc địa phương.  Phái Thất sơn Thần quyền là một môn phái Võ - Đạo của Việt Nam, hoàn toàn không phải là của Trung Quốc.

CÁC TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC CỦA THẤT SƠN THẦN QUYỀN.
Tư liệu 1 : 
" Đi tìm dấu vết võ học Thất Sơn: Thần quyền
Thất Sơn thần quyền là một trong những võ phái ra đời rất sớm ở vùng Thất Sơn (Bảy Núi, An Giang ). Ngoài quyền cước thông thường, người học võ còn luyện “thần quyền”. 
Võ sư sáng lập
Theo một vài ghi chép, Thất Sơn thần quyền (TSTQ) do võ sư Trần Ngọc Lộ, từng là Bí thư Đại Việt cách mạng quận bộ Phú Thứ (Huế), sáng lập nên. Tuy là người gốc Huế, nhưng Trần Ngọc Lộ là một trong “thập nhị hiền thủ” - đệ tử dưới trướng của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Vốn là người giỏi võ, lại đức độ, võ sư Trần Ngọc Lộ không thể lập giáo phái vì sợ mang tiếng phản thầy, phản giáo, nên ông lập võ đạo. Để ghi nhớ công ơn của thầy đã truyền dạy và khoảng thời gian ẩn cư tại vùng Bảy Núi, võ sư Trần Ngọc Lộ đã lấy tên TSTQ đặt cho võ phái của mình.
  

Di ảnh của võ sư Hoàng Bá - truyền nhân cuối cùng của Thất Sơn thần quyền ở An Giang - Ảnh do gia đình cung cấp
Đệ tử TSTQ nhập môn ngoài học quyền cước còn được học cả đạo. Võ là để rèn luyện thân thể, sức khỏe dẻo dai, bảo vệ chính nghĩa, giúp đỡ kẻ yếu. Còn đạo là đạo đức, đạo lý sống ở đời. Thêm vào đó, đệ tử TSTQ còn có thêm niềm tin rằng nếu ra sức luyện tập, đến một lúc nào đó có thể luyện thành “thần quyền”, có sức mạnh siêu phàm có thể “hô phong, hoán vũ”, có thể 1 đánh 10, thậm chí vài chục người. Chính đức tin này đã thu hút rất nhiều người tìm đến học TSTQ. Tuy nhiên, không phải đệ tử nào cũng được học “thần quyền”. Tương truyền, chỉ có người được chọn kế thừa Trưởng môn mới được chân truyền “thần quyền” để trấn môn.
Cho đến bây giờ, người dân vùng Bảy Núi vẫn còn truyền miệng câu chuyện về một đạo sĩ già có phàm danh “ông Đạo Ngựa”. Do hành tung ông rất bí ẩn nên không ai biết chính xác danh tính của ông, cũng không biết nơi ông sinh sống. Chỉ biết rằng mỗi tháng một lần, ông cưỡi ngựa xuống chân núi Sam (Châu Đốc) để đổi gạo. Một lần chứng kiến cảnh dân nghèo bị cướp, ông ra tay can thiệp. Nhìn thấy một ông lão gầy nhom, râu tóc bạc phơ, bọn cướp phá lên cười. Thế nhưng khi bọn chúng vung dao xông vào vây chém thì ông lão gầy guộc trở nên hết sức nhanh nhẹn. Vừa tránh những đường dao chí mạng, tay nắm dây cương ngựa, chân liên tục tung cước khiến cả bọn té sấp dưới đường. Bọn cướp tháo chạy, ông thoắt lên lưng ngựa, ngược dốc núi trở về và biến mất giữa rừng già. Về sau, người ta mới biết ông chính là một trong những đệ tử chân truyền của TSTQ đã mai danh ẩn tích, tu tại một hang động bí ẩn ở núi Sam. Nhưng cũng từ đó ông “Đạo Ngựa” không còn xuất hiện và không ai tìm được ông nữa.
  

Võ sư Phan Thanh Thuận, đệ tử cuối cùng của võ sư Hoàng Bá - Ảnh do nhân vật cung cấp
Truyền nhân cuối cùng
Chúng tôi cất công lần theo dấu vết truyền thuyết trên khắp vùng Bảy Núi trong một thời gian dài, nhưng vẫn không gặp được truyền nhân nào của TSTQ. Trong khi lân la trò chuyện với các võ sư thuộc Trung tâm huấn luyện TDTT tỉnh An Giang, chúng tôi được biết có một vị võ sư già trước đây là đệ tử của phái Thất Sơn. Theo chỉ dẫn, chúng tôi tìm đến tận nhà thì tiếc là vị võ sư ấy đã qua đời ở tuổi 71 (năm 2010). Đó chính là võ sư Hoàng Bá (tên thật Trần Kim Truyền), nhà ở cầu Tầm Bót, P.Mỹ Phước, TP.Long Xuyên. Ông chính là đệ tử chân truyền cuối cùng của võ phái TSTQ ở An Giang.
Võ sư Hoàng Bá vốn rất nổi tiếng trong giới võ thuật miền Nam từ những năm trước 1975. Ông Bảy Sang (85 tuổi, chú ruột võ sư Hoàng Bá) cho biết dòng họ ông không có truyền thống võ đạo. “Thuở nhỏ, cha nó bắt phải đi học chữ, nhưng do mê võ nên thằng Truyền chỉ học chữ buổi sáng, đến buổi chiều nó lén đi học võ với các sư phụ Tư Ngộ, Hai Tỷ ở gần nhà. Năm 16, 17 tuổi, nó đã đi thi đấu võ đài”, ông Bảy Sang nói.
Mặc dù võ nghệ đã khá, chàng thanh niên Trần Kim Truyền vẫn lén gia đình tìm đến vùng Bảy Núi tầm sư học võ và trở thành đệ tử chân truyền chính tông cuối cùng của TSTQ. Tuy nhiên, thuở sinh tiền, võ sư Hoàng Bá cho biết ông chưa lĩnh hội được “thần quyền” thì sư phụ đã cho xuất sơn xuống núi. Biết “duyên phận” chỉ đến đó nên ông cũng không thể cưỡng cầu. Sau đó, ông về mở võ đường, thu nhận đệ tử tại Long Xuyên, lấy tên là Hoàng Bá. Những năm từ 1958 đến 1960, lò võ Hoàng Bá nhanh chóng nổi tiếng trong giới võ thuật miền Nam, cả nước và thậm chí khu vực Đông Nam Á qua các cuộc thượng đài. “Hồi đó lên võ đài là phải ký giấy sinh - tử, 2 cái hòm (quan tài) được để sẵn bên hông. Mặc dù người học võ không được phép đánh chết người, nhưng vì quyền cước không có mắt nên phải làm như vậy. Bởi vậy, cha thằng Truyền không đồng tình cho nó theo nghiệp võ”, ông Bảy Sang nhớ lại.
Năm 1960, trong một trận đấu tranh giải khu vực Đông Nam Á, võ sư Hoàng Bá bất ngờ đối mặt đồng môn là võ sĩ Nosar của Campuchia - một truyền nhân của TSTQ. Trận đấu sau đó đã được dừng lại vì trong 9 điều thệ của đệ tử TSTQ có cấm đồng môn tương sát. Cũng từ đó, đệ tử TSTQ khắp nơi tề tựu về Long Xuyên để chấn hưng lại môn phái. Trong số 10 võ sư gạo cội thì chỉ có 1 người được truyền thụ “thần quyền”, nhưng chưa kịp truyền dạy cho đệ tử nào thì ông này đã qua đời. Riêng võ sư Hoàng Bá sau đó lấy tên lò là Thất Sơn Võ Đạo, thu nhận rất nhiều đệ tử. Có một thời gian dài, võ sư Hoàng Bá còn làm huấn luyện viên môn võ cổ truyền cho các võ sĩ tại Trung tâm TDTT tỉnh An Giang đi thi đấu đạt nhiều thành tích cao. Đệ tử cuối cùng của võ sư Hoàng Bá là anh Phan Thanh Thuận, hiện cũng đang là huấn luyện viên võ cổ truyền tại trung tâm này. Anh Thuận theo học tại nhà võ sư Hoàng Bá từ năm 1991-1994. Lúc này, võ sư Hoàng Bá đã đóng cửa võ đường và Thuận là đệ tử cuối cùng. Anh Thuận cho biết, những thế võ anh theo học có rất nhiều bài quyền cận chiến hay như Mãnh hổ tọa sơn, Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Xí mứng, Phá xí mứng, Pha bốc bế... " - Mai Tuyết.
* Theo tài liệu của dienbatn về vấn đề này như sau : ( Đây chỉ là tài liệu chép lại - Không phải là quan điểm của dienbatn ).
Thất sơn Thần quyền có tại Việt nam từ cuối thế kỷ 19 , nhưng sự ra đời và phát triển bước đầu tại Huế . Người sáng lập và truyền bá các bí quyết của môn phái là Võ sư Ngọc Lộ - tự là Ngọc Sơn - Sinh tại làng Ngọc Anh - Phú Vang - Huế. Đầu năm 1958, vào 14/2 , võ sư Trần Ngọc Lộ được Thần linh tại miếu Ngọc Quối báo mộng : Con có thiện duyên được nhiều vị Thần hỗ trợ , phải đích thân tầm sư học Đạo ".
Tiếp đến ngày 15/4 cùng năm , vị Thần lại xuất hiện và báo mộng lần thứ 2. Sau lần này Ngọc Lộ tự phát nguyện ra đi tìm Sư phụ học Đạo.
 Sau ngiều ngày tìm tòi , ngày 20/5/1958. Trần Ngọc Lộ đã đến khu vực Thất Sơn - thuộc An Giang . Trước khi vào núi quy y thọ phái, Ngọc Lộ đã đứng tại khu vực Núi Cấm 3 ngày cầu Đạo và cuối cùng đã được một phật tử của Phật Thày Tây An tiếp nhận và đưa vào Núi Sam. Tại đây , Thày đã có thiện duyên gặp Phật , thày có kể lại những giấc mộng của mình và Phật Thày cũng đã biết trước được những gì Thày định kể. 
Trong thời gian thọ giáo tại Núi Sam, Ngọc Lộ đã quyết tâm , miệt mài tiếp thu những bùa phép huyền bí của bản môn do Phật Thày Tây An truyền thụ. Trong vòng 6 năm , Ngọc Lộ đã quán triệt được hầu hết chương trình học tập của Phật Thày chỉ dạy và Phật Thày đã quyết định cho Ngọc Lộ hạ sơn . Ngày 16 tháng Chạp năm Giáp Thìn ( 1964 ) , Phật Thày đã cho Ngọc Lộ hạ sơn và trở về quê quán.
Về đến quê, Ngọc Lộ vẫn âm thần luyện tập , tu luyện tại miếu cây Ngọc Quối làng Vĩ Dạ - Thành phố Huế. Chưa đầy một năm từ khi về quê, Ngọc Lộ nóng lòng muốn truyền thụ pháp thuật của bản môn nên đã thu nhận một số đệ tử . Rất nhiều chướng ngại đã đến với Ngọc Lộ và gia đình , nhưng thày vẫn chấp nhận hy sinh cuộc đời của mình , được cứu khổ cho con em , đồng bào mình, hy vọng những học trò của mình sẽ trở thành những người có đức độ , cứu khổ cho xã hội.
 Ngày rằm tháng 2 là một đêm tối trời, Ngọc Lộ cùng gia đình đã được chứng kiến cảnh một vầng hào quang sáng rực từ ngoài bay đến bàn thờ Phật . Đó chính là lúc Phật bà nhập nội, đúng như Phật Thày Tây An truyền dạy khi Ngọc Lộ hạ sơn. Ngọc Lộ phát nguyện lập bàn thờ Phật bà, bàn thờ Tổ , nguyện tịnh trai và đặt tên môn phái là THẤT SƠN THẦN QUYỀN. Từ ngày lập ban thờ và tịnh trai, mọi kiếp nạn của Ngọc Lộ đều qua hết. Chỉ trong vòng 10 tháng, số môn sinh ở Huế đã lên tới 600 người , chưa kể ở những nơi khác. Ban huấn luyện lúc đó bao gồm :
* Anh Việt là trưởng tràng , phụ trách huấn luyện lúc Thày đi vắng.
* Anh Thắng huấn luyện tập sự tại bàn thờ Tổ.
* Bác Chiên là huấn luyện viên tập sự kiêm thủ quỹ của môn phái.
* Chú Bích là thư ký và là tùy viên của Thày.
Ban huấn luyện tập trung phát triển tại bàn Tổ, còn những việc ở xa là do Thày và anh Việt phụ trách. Ngày giỗ Tổ đầu tiên được chọn là 3 ngày 14- 15-16 tháng 12 âm lịch năm  Kỷ Mùi ( 1967 ). Suốt 3 ngày đó , môn sinh đông đúc đã làm náo động thành phố Huế. Tiếp đó ngày 25 cúng Tổ xong, Thày và đệ tử vào Thuận An để thiết lập bàn thờ Tổ của chi nhánh thứ 2 cho các môn sinh miền duyên hải do anh Trọng đảm nhiệm.
Ngày 30/12 năm 1967, các đệ tử ở 4 phương đều đến Tết Thày và lần lượt trở về nhà.
Tuy nhiên từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 7 tết Mậu Thân, thành phố Huế chìm trong máu lửa của cuộc tổng tấn công . Tới ngày mùng 8 Tết chiến sự mới tạm ngưng.
 Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy tại Huế này, võ sư Trần Ngọc Lộ , bác Đoàn Văn Thiên ( ở La Hỉ  - là một huấn luyện viên ), anh Trần Văn Việt là trưởng tràng, anh Đỗ Viết Thắng phụ trách bàn thờ Tổ đều ra đi trong kiếp nạn của mình, bỏ lại đằng sau một sự nghiệp vừa mới hình thành , một lớp đệ tử còn non nớt. Sau biến cố Mậu Thân 1968, võ sư Trần Ngọc Lộ chỉ còn để lại cho lớp đệ tử của mình một ban thờ Tổ để các môn đệ lễ Phật, lễ Tổ, một khuôn in Bùa thức ăn và 1 khuôn in khăn ấn tối thượng , toàn bộ sổ sách , binh thư ghi chép bí quyết thần bí của môn phái Thất Sơn Thần quyền. Tất cả những vật đó được con trai của Thày là Trần Ngọc Khoa ở thành phố Huế lưu giữ.



Xin theo dõi tiếp bài 10. dienbatn.
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 8.

4/07/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 8.
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.



II / PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.
ĐI TÌM NGUỒN GỐC PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN. ( Tiếp ).



Phật Thày tây An.

Nguồn gốc  võ dân tộc
Kể từ đầu lịch sử, người Việt  luôn phải đấu tranh chống lại nạn ngoại xâm, nhất là những đạo quân của các triều đại Trung Quốc. Hàng lọat cuộc chiến  đấu chống ngoại xâm,  đòi lại chủ quyền đất nước  từ thời   Hai Bà Trưng và Bà Triệu, chống Tống ( năm 981 và 1077) chống Nguyên Mông ( năm 1258, 1285,  1288), chống Minh ( từ  1418-đến  1428) và chống Thanh ( năm 1789).  Chính vì  những cuộc chiến đấu đó, mà võ   Việt và tinh thần thượng võ   hình thành.   Võ là phương tiện cho người Việt chống  các  nạn  ngoại xâm  được mệnh danh là võ ta.
Võ sư Võ Kiểu  (nguyên tổng thư ký Liên đoàn Quyền thuật miền Trung): cho rằng Võ ta đã gắn bó với dân tộc ta từ hàng ngàn năm qua, nó mang một vẻ đẹp không môn phái nào trên thế giới có được, nó không chỉ là một môn võ phòng thân, chống lại bao giặc thù hàng ngàn năm qua mà còn là một lối sống, một nhân sinh quan, một tư tưởng vô cùng quan trọng trong hệ thống tư tưởng Việt . Đánh mất tên gọi “võ ta”, là chúng ta đã vô tình đánh mất luôn cả cái hệ tư tưởng Việt quý giá ẩn chứa trong môn võ vô cùng đẹp này!
Quá trình phát triển võ dân tộc.
Dần dà   võ ta  mặc lấy cái tên Võ cổ truyền Việt.
Võ cổ truyền Việt  được dùng để chỉ những hệ phái võ thuật lưu truyền trong suốt trường kỳ lịch sử của dân tộc Việt , được người Việt sáng tạo và bồi đắp qua nhiều thế hệ, hình thành nên kho tàng những đòn, thế, bài quyền, bài binh khí, kỹ thuật chiến đấu đặc thù. Với những kỹ pháp võ thuật này, người Việt  đã dựng nước, mở mang và bảo vệ đất nước suốt trong quá trình lịch sử Việt
 Bộ võ khí bằng đồng hiện được trưng bày trong bảo tàng lịch sử Việt có thể giúp ta hiểu thêm về nhiều loại võ khí  thuộc  lãnh vực Võ cổ truyền Việt  . Những thứ vũ khí này gồm dao găm, rùu gươm và giáo. Đó là những thứ võ khí được sử dụng trong khi đánh giáp lá cà. Sử dụng những thứ võ khí này đòi hỏi phải có sự can đảm, sức dẻo dai, sự khéo léo và kỹ thuật  thành thạo.. Chính những yếu tố này đòi hỏi  người  Việt phát triển các hình thức chiến đấu nhằm tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả sữ dụng vũ khí
Võ cổ truyền Việt  không những nhằm giỏi võ thuật mà còn nhằm tự kiểm soát, hoàn thiện mình và rèn luyện những bí kíp về thần , khí, ý và lực.
Đặc điểm  của Võ thuật cổ truyền:
Thường là võ trận, sử dụng trong trận mạc, chiến đấu chống ngoại xâm, chinh phục thiên nhiên hoang dã, chống trả và săn bắt hổ, lợn rừng, bảo vệ nhà cửa, làng xóm, chống trộm cướp.
Thích hợp với nhiều loại địa hình.
Thực dụng, linh hoạt.
Dĩ công vi thủ, dĩ nhu chế cương, dĩ đoản chế trường.
Các bài quyền đều có lời thiệu bằng thơ, phú
Muốn luyện thành thạo phải luyện với thiên nhiên nơi có khí trong lành, để tăng khí công trong người, khi đó ra đòn sẽ mạnh hơn.
Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, võ thuật tồn tại ở hai cấp độ: bình dân ( tại các lễ hội) và triều đình ( chương trình chuyên rèn luyện và thi võ).....
Nhóm Nam Bộ ở miền nam.



Đức Thày.
Các phái võ Nam Bộ xuất hiện cùng với quá trình định cư của nhóm người Việt ở miền nam trong thế kỷ 18-19. Sau khi đứng chân ở nam  Trung Bộ, các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng lãnh thổ xuống phía nam và di dân từ Quảng nam, Đà nẵng, Quy Nhơn vào khai khẩn đất hoang tại đồng bằng sông Cửu Long. Triều Nguyễn con lưu đầy nhiều tội phạm vào nam. Vì thế, nhiều người Việt ở miền nam xuất thân từ  các vùng có truyền thống võ nghệ, và bản thân họ cũng rất thành thạo nghệ thuật chiến đấu.
Cuối thế kỷ 18, bị bại trận trước  quân  khởi nghĩa Tây Sơn, tàn quân nhà nguyễn bỏ chạy xuống phía nam, rồi quy tụ về vùng Đồng nai. Tại đây, họ tuyển mộ các võ sư để rèn luyện binh sĩ phục thù. Sau khi nhà nguyễn được thành lập năm 1802, nhiều người vùng này vượt qua được  các kỳ thi võ của triều đình và theo đuổi binh nghiệp.
Võ nam Bộ có nguồn gốc khác nhau: Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ An, đồng bằng sông Hồng và trung Quốc. Đó là sự pha trộn của nhiều môn phái với những kỹ thuật được biến cải cho phù hợp với điều kiện cụ thể ờ miền nam, trong đó có nhu cầu tự vệ trước thú dữ và khai khẩn đất  canh tác mới. Các phái võ Nam Bộ thường gọi là võ miền rừng hay võ vườn, bao gồm các môn phái sau đây:
Phái võ này duy trì được  gần như tất cả những miếng võ cơ bản của phái Tây Sơn:trong đó cò những bài quyền như Ngọc Trản, lão mai, Thần Đồng, các bài tập như Tấn Nhứt, Tứ Môn. Tuy nhiên, các võ sư đã điều chỉnh các kỹ thuật và đòn thế để phù hợp hơn nữa với vùng đất mới. Các kỹ thuật được cải tiến cho nhanh và hiệu quả hơn. Những lời chỉ dẫn có vần điệu nguyên gốc dùng để dạy võ sinh được trau chuốt và cũng có cả những câu mới được bổ sung.
 Phái võ  Bà Trà đã đóng góp nhiều kỹ thuật mới như  Đổng Nhi và Thái Sơn vào kho tàng võ thọc  truyền thống của dân tộc.
1/- Tần Khánh-Bà Trà
Sau khi vua Gia Long, được quân Pháp hậu thuẫn đánh bại nhà Tây Sơn ( 1778-1802), nhiều người dân đất Tây Sơn bị buộc phải di cư vào nam để trốn tránh sự thảm sát của vương triều mới. Họ lập ra làng Tân Khánh ( nay là thị trấn Tân-Phước –Khánh, huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương) Họ mang theo trong mình truyền thống võ thuật của quê hương Tây Sơn Bình Định tới vùng đất mơí và tiếp tục phát triển nó.
Đến giữa thế kỷ 19, dưới triều vua Tự Đức (1848-1883) một sự kiện  diễn ra, phản ảnh rõ tinh thần bất khuất của dân làng Tân Khánh: một cuộc khởi nghĩa nổ ra chống lại đám quan lại thối nát địa phương. Một người phụ nữ tên Trà, vốn giỏi võ Tây Sơn, lãnh đạo cuọc khởi nghĩa suốt 10 năm trời, từ 1850 đến khi người Pháp xâm lược 3  tỉnh miền đông Nam Bộ. Vì vậy, khu vực  này được gọi là  đất Bà Trà.)
Sau sự kiện lịch sử này, người dân gọi phái võ truyền thống  phát triển ở Tân-Khánh là phái võ Bà Trà-Tân Khánh. Thời đó, rất ít phái võ truyền thống Việt có tiếng ở miền nam.
Từ phái võ này đã sản sinh ra nhiều võ sư tiếng tăm của miền nam. Trong số đó có hai anh em Hai Ất và Ba Giá, nổi tiếng dám đánh cọp. Những võ sư nổi tiếng khác  là Sáu Trực, Năm Nhị, Bảy Phiên và Năm Quy. Mỗi người đều có phong cách riêng với rất nhiều  thành tích. Sáu Trực, một học trò của Hai Ất, tiếp nối truyền thống rực rỡ của thầy đã truyền thụ được cho rất đông môn sinh. Trong số này có hai nhà yêu nước  Nguyễn An Ninh và Phan văn Hùm. Năm Nhị làm cho phái võ Bà Trà nổi tiếng khắp Nam Kỳ. Trong khi đó, Bảy Phiên và Năm Quy đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của phái võ  Bà Trà bằng cách đào tạo những võ sinh cho các cuộc đấu võ do người Pháp tổ chức vào năm 1930-1940 và còn cho cả các phong trào chống Pháp trong vùng.
Nhưng năm 1950, phái võ Bà Trà bước sang giai đoạn mới. Thời kỳ này, võ sư Hồ văn Lành ( biệt danh Từ Thiện) mọt môn đệ xuất sắc của Bảy Phiên rời làng lên Sàigòn để tham gia Tổng Liên Đoàn Võ Việt. Tại đây, ông đã giúp hòa nhập và phổ biến các kỹ thuật của phái võ Bà trà-TânKhánh vào cộng đồng võ thuật miền nam. Thời thanh niên, ông đã giành chiến thắng tại 7 cuộc  thi đấu võ thuật.
Năm 1984, võ sư Hồ văn Lành đã đào tạo được  400 võ sĩ chuyên nghiệp –trong đó có 100 là phụ nữ- và hàng vạn môn sinh khác. Một số người như Từ Thanh Ngữ, Từ trung Tín, Từ Y Vân đã từng thi đấu với các võ sĩ vô danh địch của Thái Lan, Indonêxia, Camphuchia và Trung Quốc. Nhiều người khác đã tham dự các giải đấu võ quốc gia, giành được nhiều giải thưởng. Trong số đó phải kể đến những người gianh huy chương vàng như Từ Thanh Nghĩa, và Hồ ngọc Thọ, huy chương bạc  Từ Thanh Tùng, Từ duy Tuấn và Hồ  Thanh Phương, huy chương đồng Từ Hoàng Út.
Phái võ Bà Tra- Tân Khánh tiếp tục khẳng định mình trong nền võ học Việt nhờ những cống hiến của các vị võ sư và số lượng môn sinh ngày càng đông trong và ngoài nước. Sự phát triển của phái võ này giúp làm sống mãi ký ức và truyền thống của một thời kỳ oai hùng trong lịch sử Việt-triều Tây Sơn.
Phái võ Bà Tra- Tân Khánh tiếp tục khẳng định mình trong nền võ học Việt nhờ những cống hiến của các vị võ sư và số lượng môn sinh ngày càng đông trong và ngoài nước. Sự phát triển của phái võ này giúp làm sống mãi ký ức và truyền thống của một thời kỳ oai hùng trong lịch sử Việt-triều Tây Sơn.
2/ Thất Sơn quyền.



Đức Bổn sư núi Tượng.
Thất Sơn thần quyền (TSTQ) do võ sư Trần Ngọc Lộ, sáng lập Trần Ngọc Lộ là đệ tử dưới trướng của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Vốn là người giỏi võ, lại đức độ, võ sư Trần Ngọc Lộ không thể lập giáo phái vì sợ mang tiếng phản thầy, phản giáo, nên ông lập võ đạo., lấy tên TSTQ đặt cho võ phái của mình
Đệ tử TSTQ nhập môn ngoài học quyền cước còn được học cả đạo. Võ là để rèn luyện thân thể, sức khỏe dẻo dai, bảo vệ chính nghĩa, giúp đỡ kẻ yếu. Còn đạo là đạo đức, đạo lý sống ở đời. Thêm vào đó, đệ tử TSTQ còn có thêm niềm tin rằng nếu ra sức luyện tập, đến một lúc nào đó có thể luyện thành “thần quyền”, có sức mạnh siêu phàm có thể “hô phong, hoán vũ”, có thể 1 đánh 10, thậm chí vài chục người. Chính đức tin này đã thu hút rất nhiều người tìm đến học TSTQ. Tuy nhiên, không phải đệ tử nào cũng được học “thần quyền”. Tương truyền, chỉ có người được chọn kế thừa Trưởng môn mới được chân truyền “thần quyền” để trấn môn    võ sư Hoàng Bá (tên thật Trần Kim Truyền), nhà ở cầu Tầm Bót, P.Mỹ Phước, TP.Long Xuyên. Ông chính là đệ tử chân truyền cuối cùng của võ phái TSTQ ở An Giang. ông mở võ đường, thu nhận đệ tử tại Long Xuyên, lấy tên là Hoàng Bá.
Những năm từ 1958 đến 1960, lò võ Hoàng Bá nhanh chóng nổi tiếng trong giới võ thuật miền Nam, cả nước và thậm chí khu vực Đông Nam Á qua các cuộc thượng đài. “Hồi đó lên võ đài là phải ký giấy sinh - tử, 2 cái hòm (quan tài) được để sẵn bên hông. Mặc dù người học võ không được phép đánh chết người, nhưng vì quyền cước không có mắt nên phải làm như vậy. võ sư Hoàng Bá lấy tên lò là Thất Sơn Võ Đạo, thu nhận rất nhiều đệ tử. Đệ tử cuối cùng của võ sư Hoàng Bá là anh Phan Thanh Thuận, hiện là huấn luyện viên võ cổ truyền. Anh Thuận theo học tại nhà võ sư Hoàng Bá từ năm 1991-1994. Lúc này, võ sư Hoàng Bá đã đóng cửa võ đường và Thuận là đệ tử cuối cùng. Anh Thuận cho biết, những thế võ anh theo học có rất nhiều bài quyền cận chiến hay như Mãnh hổ tọa sơn, Linh miêu đoạt thạch, Tam sơn trấn ải, Xí mứng, Phá xí mứng, Pha bốc bế... 
Thất Sơn thần quyền là một trong những võ phái ra đời rất sớm ở vùng Thất Sơn (Bảy Núi, An Giang. " ( Trích từ Quá trình phát triển võ dân tộc của Phạm X Khuyến ).


Đức Phật Trùm.


Có rất nhiều tài liệu nói về xuất xứ của phái Thất sơn Thần quyền , nhưng theo dienbatn thì có một số điều chính như sau :
* Thứ nhất : Đây là một võ phái của Việt Nam , tiếp thu và phát triển những tinh hoa về võ học và Huyền môn của nhân loại , nhất là của các hệ phái Huyền môn Nam tông.
* Thứ 2 : Có rất nhiều tài liệu nói phái Thất Sơn Thần quyền xuất phát từ Trung Quốc. Nhưng theo dienbatn, điều này hoàn toàn không có cơ sở vì tuy võ phái căn bản dựa trên hiện tượng cầu Thần nhập xác, nhưng việc này không chỉ có ở trung Quốc mà còn có ở hầu khắp các phái Huyền môn trên thế giới. Mặt khác các chữ bùa và câu chú của phái Thất Sơn Thần quyền đều là sử dụng tiếng Pali hoặc săngkit , các chữ bùa hầu như không xử dụng chữ Hán mà chủ yếu theo chữ Điển vô vi.
* Thứ 3 : Thất Sơn Thần quyền ngay bản thân tên gọi của nó đã chỉ ra xuất xứ của nó. Đây là một môn phái không chỉ là võ học mà căn bản của nó vẫn là Đạo học. " Đệ tử của Thất Sơn không chỉ được học quyền mà còn học pháp, Quyền chỉ là phương tiện để dẫn pháp, chứ không phải để đi đánh nhau ,Tất nhiên lúc đánh vì mục đích chính nghĩa thì cũng vô cùng huyền diệu, một đòn vào người, dù đối phương không thấy đau lắm, nhưng về nhà cũng đủ thối da thối thịt. Đệ tử nhập môn, bao giờ cũng phải học quyền. Nhiều người học quyền mãi mà chẳng thăng tiến về tâm, về pháp nên cứ tưởng là cứ giỏi quyền là đã thành tựu. 
Cao hơn quyền, nhiều đệ tử phát triển về pháp. Pháp trong môn cũng vi diệu là khó tin đối với quảng đại quần chùng. Nếu muốn biết về một người, dù cách cả ngàn cây số, cũng có thể biết người ấy đang nghĩ gì, có gặp sự cố gì không. Pháp của môn có thể cầu nắng thành mưa, có thể cầu người sắp chết được sống.
Có thể xin thần linh thổ địa, đuổi trừ tà ma, chữa người điên thành lành... Tất cả những điều này, người trong môn vẫn đang thực hành. Pháp thì cao, nhưng không phải lúc nào cũng làm. Làm thế có mà loạn. Lúc nào ra tay giúp người, lúc nào không, cái gì đáng làm, cái gì không, mỗi đệ tử trong môn phải tự định đoạt (nói những người có khả năng thôi). Nếu không, đều có thể phải trả giá. Để có pháp. không phải cứ khổ công tu luyện hay đọc chú là được. 
Tuỳ vào tâm đức vào kiếp trước của anh đã tinh tiến đến đâu thì khả năng phát triển đến đó. Điều này vô cùng quan trọng. Do đó, đệ tử lâu năm trong môn không có nghĩa là người giỏi. Giỏi hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào tâm đức và sự khai mở từ những kiếp trước. Và vì phụ thuộc nhiều vào tâm đức, nên có những tên tuổi ngày trước đã lẫy lừng, mang tính huyền thoại, thì giờ, do làm nhiều việc phạm, do làm nhiều việc không có tâm đức, đã mất hẳn quyền pháp, trở nên vô dụng. Cái sự khó trong khi tu tập trong môn là như vậy nên tìm được đệ tử chân truyền là cực hiếm.
Người này hôm nay có thể có tâm tốt, ngày mai có thể hỏng. Mà cái khó nhất là nhiều khi sai mà không biết mình sai. Phạm lỗi nhiều mà tự mình ko thể nhận biết mà sửa chữa. Hậu quả nặng nhất mà một đệ tử có thể phải chịu khi phạm lỗi tất nhiên là bị đuổi ra khỏi môn. 
Nhẹ hơn thì mất hết quyền, pháp. Khi sư phụ chọn đệ tử, là sư phụ đã biết đệ tử ấy kiếp trước đã tu tập đến đâu, tâm đức đong được mấy thúng. " 


Ông Ba Thới.
Thất sơn Thần quyền chính là một môn Võ Đạo của người Việt Nam được hình thành từ thế kỷ 19 , do các Đạo giáo của vùng Thất sơn ( Bửu sơn kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Cao đài, Hòa hảo...), dựa trên những sở học về Huyền môn của nhân loại , nhất là các phái Huyền môn Nam tông (Phật giáo nguyên thuỷ- Nam tông (Theravada) có bề dày lịch sử rất lâu đời, sự truyền thừa được các sử gia thừa nhận là không bị gián đoạn. Điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia nào vẫn giữ được nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống khác rất hiếm có. Phật giáo nguyên thuỷ hiện nay có mặt ở những quốc gia: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia,Nepal, Ấn Độ v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống Nguyên thuỷ, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ , tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một buổi, không ăn phi thời. ). 
Tuy cùng một nguồn là Thất sơn Thần quyền, nhưng do quá trình truyền thụ , tam sao thất bản mà hiện nay tùy theo vùng , miền mà môn phái Thất sơn Thần quyền rất khác nhau .  Không chỉ nguồn gốc của môn mà ngay các thủ tục, quy cách trong quá trình tu học cũng bị “tam sao thất bản” rất nhiều nên phổ biến trong nhân gian những thủ tục khá rườm rà khi nhập môn, dẫn đạo và thực hành công năng.
SỰ TRUYỀN THỪA CỦA PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.
Có nhiều tài liệu nói về nguồn gốc của phái Thất sơn Thần quyền tại nhiều nơi như tại vùng Bảy Núi - An Giang, Huế, Bình Định, Quảng Trị , Đà Nẵng ,Thái Nguyên, Hà Nội ....nhưng theo dienbatn tất cả những nơi đó đều có nguồn gốc xuất phát từ khu vực vùng Bảy Núi - An Giang . Môn phái Thất Sơn Thần Quyền tôn Quán Thế Âm Bồ Tát là Tổ sư và thêm 8 vị thần đại diện sư tổ trong công tác dạy các môn đồ. Các môn sinh gia nhập môn phái thì phải: đứng trước bàn thờ tổ (Quan Thế Âm Bồ Tát) xưng tên họ và thề 9 điều ( Tùy theo các vị sư phụ chọn từ 9-55 điều trong các lời thề. Mỗi câu thề là một giềng mối đạo đức giúp tăng năng lực tâm linh rất cao, tác động linh ứng rất mạnh , vì vậy người nào giữ được những lời thề đó sẽ có hiệu quả rất lớn khi thực hiện các phép thần bí )  : 
1. Hết lòng hiếu thảo với cha mẹ 
2. Không phản thầy 
3. Không phản bạn, xem bạn như anh em ruột thịt 
4. Không phản lại môn phái Thất Sơn Thần Quyền 
5. Không ỷ mạnh hiếp yếu 
6. Không ham mê tửu sắc 
7. Không cưỡng bách những người đàn bà đã có chồng con 
8. Hết lòng làm việc nghĩa 
9. Không phản đạo 
"Nếu con không làm tròn 9 điều thề trên thì con sẽ bị phanh thây làm muôn mảnh". Ðó là 9 điều tâm niệm của môn đồ Thất Sơn Thần Quyền. 
Xin theo dõi tiếp bài 9. dienbatn.
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 7.

4/06/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 7.
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.
II / PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN.
ĐI TÌM NGUỒN GỐC PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN. ( Tiếp ).
2/ Lễ hội Xiên Lình tại Tân Chậu - An Giang. ( Bài của Nộng Huyền Sơn ).


Chiếc ghế kiệu đang lưu giữ tại am Đường Công với hàng đinh tua tủa.
" Từ rất lâu, trong giới pháp sư huyền thuật Việt Nam đã bí mật rỉ tai nhau về một lễ hội hành xác đặc dị ở Việt Nam diễn ra vào giữa tháng Giêng âm lịch nhưng họ luôn giữ bí mật về địa điểm. Họ cho rằng, những ai có "căn, cơ, duyên" mới được biết "thánh địa" diễn ra lễ hội. Những pháp sư huyền thuật có "căn, cơ, duyên" dự lễ hội sẽ có cơ hội nhận được sức mạnh vô hình nhưng rất vô biên. Và hàng năm, cứ mỗi dịp tết đến, các pháp sư lại lục tục đi tìm, dò hỏi địa điểm bí mật đó để tham dự.
Tình cờ, qua một tài liệu của đại sư H "điện bà" ở Hà Nội, chúng tôi phát hiện ra địa điểm đó ở Tân Châu, An Giang. Thông tin duy nhất chúng tôi có được là: Lễ hội hành xác diễn ra tại một ngôi "Am chư vị Năm Ông" ở ấp Long Thị B. Ngày nay, ấp Long Thị B đã trở thành khóm Long Thị B vì thị trấn Tân Châu đã được nâng cấp thành thị xã.
Đi tìm địa chỉ cuộc hành hương kỳ bí
Tại bến xe Tân Châu, tôi nhờ một người chạy xe ôm chở đi khắp khóm Long Thị B để tìm "nơi diễn ra lễ hội hành xác" suốt gần một buổi sáng nhưng công cốc. Anh xe ôm không biết ngôi "Am thờ chư vị Năm Ông" ở đâu đã đành, những người lớn tuổi ở khóm Long Thị B cũng lắc đầu khi được hỏi thăm.
Một số người lấm lét nhìn quanh rồi bảo: Làm gì có lễ hội mê tín dị đoan đó. Sau này, tôi được biết, tất cả những người được hỏi thăm đều biết rất rõ địa chỉ tâm linh đó nhưng ngại chúng tôi là "lực lượng mật" chuyên "bắt" những người hành nghề mê tín, dị đoan nên không chỉ đường. Họ đã cố bảo vệ niềm tin tâm linh của họ một cách yếu ớt bởi chính quyền địa phương cho phép thực hiện lễ hội nhưng cấm tuyên truyền. Có người đã bị phạt vì quay phim lễ hội hành xác rồi chép ra đĩa để bán. Đó là lý do cơ bản nhất khiến lễ hội độc đáo biến thành "bí mật". Sự "bí mật" đó được một số pháp sư thổi lên thành "huyền bí". Vô tình, chính quyền địa phương biến một lễ hội đặc sắc thành một sản phẩm "vô cùng bí mật".
Sau một buổi sáng thất bại, người chạy xe ôm khuyên tôi nên ghé miếu thờ ông Quan Đế đốt hương khấn vái xin giúp đỡ. Anh ta cho biết, người dân địa phương đều làm như vậy mỗi khi "phần đời" gặp bế tắc. Với anh ta, Quan Công là một vị thánh có khả năng giải quyết tất cả mọi chuyện khó khăn mà người đời bó tay. Lời khuyên thật hiệu nghiệm. Tại đó, không cần vào khấn Quan Công, tôi đã gặp một người trợ lễ tên Kiệt. Anh ta xác nhận: "Anh đã tìm đúng chỗ". Nhờ anh Kiệt, tôi đã gặp gỡ nhiều nhân vật "trong cuộc" và mọi chuyện trở nên sáng tỏ.
Nơi diễn ra lễ hội là một toà kiến trúc kiểu cổ xưa nhưng mới được xây dựng lại toạ lạc tại khu chợ cũ Tân Châu, ven mép thượng nguồn sông Tiền. Tấm biển hiệu ghi là "Quan Đế miếu".
Anh Kiệt cho biết, ngày xưa ngôi miếu nằm ở sát mé sông, do sạt lở, chính quyền đã cấp nền đất mới để xây ngôi mới.
Tại đây, cứ đến dịp rằm tháng Giêng hàng năm, theo nghi lễ truyền thống có từ hàng thế kỷ trước lưu truyền lại, những người được chọn sẽ tắm dầu đun sôi, dùng que sắt đâm xuyên người, dùng chuỳ gai tự đánh đập mình đến toé máu để ban phước cho cộng đồng. Không ai biết nguyên nhân từ đâu, khi nào và vì sao xuất hiện một lễ hội độc đáo như vậy tại địa phương mình.


Quan Đế miếu ở Tân Châu, An Giang - nơi diễn ra lễ hội hành xác hàng năm.

Lễ hội Thaipusam kiểu Việt Nam?
Hàng năm, cứ đến mùa chay tháng Giêng, cả thế giới rùng mình chứng kiến những màn hành xác kinh dị của một số tín đồ dự lễ hội Thaipusam ở một số địa điểm: Động Batu ở Kuala Lumpur (Malaysia), đảo PhuKet (Thái Lan), đền Sri Srinivasa Perumal (Singapore), đền Kochi (Ấn Đo)…^. Những nơi diễn ra lễ hội này đã thu hút hàng ngàn lượt khách du lịch đến xem va…` ngất xỉu. Liệu lễ hội hành xác ở Tân Châu có liên quan đến lễ hội Thaipusam?
Ông Hứa Trí Hùng - Trưởng ban bảo quản, được coi là "chủ chùa" - cho biết: "Chỉ biết người xưa làm sao, bây giờ chúng tôi làm y vậy, chứ chúng tôi không biết xuất phát từ đâu".
Theo thông lệ, ở Tân Châu, lễ hội diễn ra suốt 4 ngày từ 13 đến 16 tháng Giêng âm lịch.
Để chuẩn bị lễ hội, từ ngày mùng 4 tết cổ truyền, ban tế tự thực hiện một nghi lễ gọi là lễ "thỉnh Ông". Sau khi bày hương án, 4 vị chức sắc cao cấp nhất trong ban tế tự làm chủ tế đồng loạt đốt hương khấn thỉnh rồi xin keo. Keo là 2 miếng gỗ hình móng ngựa tượng trưng cho lưỡng nghi âm dương. 4 người chủ tế ném keo xuống nền gạch. Nếu cả 2 miếng keo cùng nằm sấp hoặc cùng nằm ngửa tức "Ông" chưa về. Nếu 1 miếng keo nằm sấp và 1 miếng nằm ngửa là "Ông đã về". Trống mừng được gióng lên dồn dập. Các tổ múa lân đang trong tư thế chuẩn bị nhận được tín hiệu "mừng" bắt đầu múa "nghinh Ông".
Đến ngày 13 vào lễ "đạp đường". Sau khi bày hương án, 4 vị chủ tế quỳ hầu xin keo chờ "Ông khai lễ". Khi nhận được tín hiệu, một vị chủ tế vung dùi đánh 3 hồi trống "lệnh khai hội".
Tiếng trống "lệnh khai hội" vừa dứt, một số người dự lễ hội sẽ rơi vào trạng thái vô thức nhập xác lên đồng. Những người này được gọi là "xác căn". Theo các bô lão địa phương thì "xác căn" là do "Ông" chọn đại trong số những người hành hương dự lễ. Họ là những người lao động bình thường, không liên quan đến pháp sư huyền thuật. Có nghĩa là, họ chưa từng học hành, tu luyện hay nhập môn, bái sư bất cứ loại tà thuật nào. Có người hành nghề bán vé số, có người chạy xe ôm, có người là tiểu thuơng…+
Ông D., 72 tuổi, cư ngụ tại khóm Long Thị C, đã từng được "nhập xác" khẳng định: "Trong thời gian nhập xác, tôi hoàn toàn không hay biết chuyện gì xảy ra đối với mình. Trạng thái như bất tỉnh. Khi tỉnh dậy thì mới biết mình được “Ong”^ chọn làm “xác can”( qua lời kể những người chứng kiến". Ông D. không theo tôn giáo nào, chưa từng học võ nghệ hay luyện bất kỳ loại bùa chú nào. Ông sinh sống bằng nghề làm rẫy. Không phải ai cũng thích làm "xác căn".
Ông X. - một chủ lò bánh ở gần miếu đã từng được "Ông" chọn làm "xác căn". Để trốn tránh, cứ đến những ngày diễn ra lễ hội ông X. phải rời khỏi địa phương cho đến khi hết lễ hội mới dám về. Năm 2009, một thiếu niên 15 tuổi cư ngụ ở xã Long Châu, cùng huyện đến xem lễ hội đã bất ngờ được "Ông" chọn làm "xác căn". Đến mùa lễ hội năm sau, gia đình phải đưa cậu ta sang địa phương khác để trốn tránh.
Ông Hai Nhung, 85 tuổi, cư ngụ ở khóm Long Thị B kể, sau khi "nhập xác", các "xác căn" phải bước qua một bãi than cháy rực để vào miếu chầu “Ông". Ai bước qua bãi than bị bỏng sẽ bị cộng đồng tẩy chay ngay vì đó là "xác căn" dỏm.
"Xác căn" vào miếu chầu "Ông" phải xưng danh. Thông thường, "xác căn" xưng danh 5 ông gồm: Đường Công, Bửu Công, Lãng Công, Chí Công và Hoá Công. Quang cảnh xưng danh của 5 ông Công diễn ra rất rùng rợn, kinh dị bởi những pha ra oai mà ai yếu tim sẽ ngất xỉu: Vừa xưng danh vừa đấm vào người thùm thụp hoặc liên tục đâm đầu vô cột miếu đến phun máu; Có ông rút cây đại đao trên bệ thờ nặng gần chục ký múa bài thảo vùn vụt hoặc dùng dao sắc chém vào người bình bịch (nhưng không hề hấn), có người yêu cầu đun sôi dầu đe…^? tắm. Ngoài 5 ông, còn có một số “Ong”^, “Bà" lạ như: Bà Cố hỷ, Hoả Công Thần tuớng…+
Điều lạ là, có nhiều người dáng vẻ ốm yếu nhưng khi "nhập xác" thì mạnh mẽ phi thường. Ở địa phương, ai cũng từng chứng kiến bà Tư Dề đã 92 tuổi vẫn được "Ông" chọn  xưng danh "Bà Cố hỷ". Ngày thường, bà yếu đến nỗi khi đi phải có con cháu dìu 2 bên. Bà rất thích lễ hội nên năm nào cũng đến để được "Ông" chọn làm "xác căn".
Kết thúc nghi thức xưng danh, các "xác căn" được người dân đưa lên kiệu. Trên kiệu đặt sẵn một chiếc ngai cắm đinh tua tủa (nếu "xác căn" là đàn ông) hoặc cắm những hàng dao bén (nếu "xác căn" là phụ nữ). Kiệu được người dân xúm nhau công kênh đi diễu hành khắp các đường phố. Trên chiếc ngai kiệu, "xác căn" vừa ngồi nhún nhảy trên hàng chông hoặc dao vừa dùng thanh sắc nhọn xiên quai (đâm xuyên qua cổ họng, môi, gò má), dùng kiếm tự cắt lưỡi hoặc dùng chuỳ gai sắt tự đánh vào lưng mình. Tất cả những hành động hành xác trên phố đều phun máu.
Để đón phước, mỗi gia đình bày hương án trước hiên nhà, trên đó có bày sẵn tờ giấy để nhận máu của "xác căn". "Xác căn" sẽ đi từng nhà thấm máu của mình vào tờ giấy. Người dân địa phương cho rằng "xác căn" hành hạ mình để dùng máu chuộc lỗi với cõi trên.
Ngai kiệu công kênh "xác căn" đi ban máu từng nhà dài đến một ngôi am thờ ở rải rác trong khu dân cư. Am là một gian thờ trong một ngôi nhà dân.
Suốt 2 ngày 14 và rằm tháng Giêng, các "xác căn" và dân địa phương quây quần tại am. Ai có bệnh, có chuyện buồn đều đến nhờ "căn" giải trừ.

Ông Hai Nhung, người thủ từ am Đường Công.

Am thờ ngũ vị công
Ngày xưa, ở vùng này chỉ có 5 cái am thờ 5 ông Công. Nhưng ngày nay, vì nhiều lý do, người ta chỉ còn biết 2 cái am. Am thờ Đường Công ở số 1271/, đường Nguyễn Công Nhàn, khóm Long Thị B đặt tại nhà cụ Hai Nhung, 85 tuổi.
Cụ Hai Nhung là người kế vị thủ từ ngôi am này từ đời ông nội truyền xuống. Cụ không rõ ngôi am này có từ lúc nào và cũng không hiểu vì sao mình lại thờ "nhất vị" Đường Công. Tuy giữ am nhưng cụ và con cháu trong nhà chưa từng được "Ông" chọn là "xác căn". Mỗi năm đến lễ, các "xác căn" từ nơi khác đến "trấn ngự" ông phải đứng ra chăm sóc và tổ chức tế lễ. Những người dân cùng xóm cũng góp tiền của để ông thực hiện tế lễ. Đến kỳ lễ hội, ngoài "xác căn" Đường Công còn có một số "xác căn" xưng danh khác cùng đến đây dự tiệc.
Am thứ hai thờ Bửu Công ở một địa chỉ gần ngôi chùa Gò Mối thuộc khóm Long Thạnh B. Còn 3 ngôi am thờ Lãng Công, Chí Công và Hoả Công không ai biết ở đâu.


Một "xác căn" đang vào lễ hành xác (ảnh tư liệu gia đình chú Hai Chương).
Ngoài 5 ngôi am thờ ngũ vị Công, tại địa phương còn có hàng chục ngôi khác thờ "Bà Cố hỷ", Hoả Công Thần tuớng…+.
Sau 2 ngày tế lễ tại các am, sáng ngày 16, các "xác căn" được dân đưa ngai kiệu trở về Quan Đế miếu để làm lễ "tống tàu". Những chiếc tàu mô hình được dân địa phương chung tay kết thủ công dài khoảng 5 mét. Trên đó, người ta chất đầy đầu heo, bánh trái, gạo, muối. Lễ "tống tàu" được giải thích là "tống tiễn điều xấu xa ra khỏi địa bàn". Những "xác căn" có nhiệm vụ nhảy xuống sông đẩy "tàu" ra xa bờ, càng xa càng tốt.
Nếu so với lễ hội Thaipusam và cách hành lễ hành xác trong lễ hội "cúng Ông" ở Tân Châu có nhiều điểm tương đồng, kể cả việc xuất hiện 5 vị thánh nhập xác. Nói cách khác, lễ hội hành xác ở Tân Châu chính là lễ hội Thaipusam diễn ra hàng năm ở các nước. Điều khác biệt tìm thấy trong lễ hội tại Tân Châu là nhân vật Quan Đế, tức Vân Trường - Quan Công xuất hiện "chỉ huy" tất cả các vị thần "nhập xác" và 5 vị Công thánh. Ngoài ra, tuy lễ hội ở Tân Châu và các nước diễn ra cùng tháng Giêng nhưng khác nhau ngày khởi hội.
5 vị Công thánh ở lễ hội hành xác tại Tân Châu chính là 5 vị Phật Xiêm - Một tín ngưỡng dị biệt xuất hiện ở Thái Lan cùng thời điểm với đức Phật Thích Ca.
Trong thời gian tìm hiểu, người viết đã phát hiện phong trào yêu nước kháng Pháp từ thế kỷ XIX đã "dẫn lối" cho lễ hội Thaipusam du nhập vào Việt Nam. Khi vào đến Việt Nam, lễ hội đã biến thể chút ít và xuất hiện thêm Quan Công và một số vị thần khác.
Với người dân Tân Châu, lễ hội hành xác còn quan trọng hơn tết cổ truyền. Thiết nghĩ, chính quyền địa phương cần tổ chức mời các nhà khoa học về xã hội, văn hoá nghiên cứu nghiêm túc lễ hội độc đáo này. Bởi đó không chỉ là một nét văn hoá tín ngưỡng truyền thống mà còn là chỉ dấu của lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước trước thế lực ngoại xâm của tiền nhân "
3/ Đồng Thiếp
A.- Định nghĩa:- 
“Đi thiếp” là một hiện tượng siêu tự nhiên, là một loại “Pháp Thuật” của Đạo Giáo, làm cho một người nào đó, linh hồn xuất ra khỏi thân thể, đi xuống cõi âm để tham quan, gặp gỡ thân nhân, hoặc truy xét nguồn gốc đầu thai của mình.
Đi thiếp rất phổ biến trong các cộng đồng người Hoa. Tiêu biểu nhất là tác phẩm “Địa Ngục Du Ký” do một người đi thiếp kể lại mà chép thành.
Hiện tượng nầy thì chưa có phương pháp đánh giá tính chân xác của nó, nhưng trong thực tế xã hội thì được ca tụng, tán thán rất nhiều.
Hiện nay , ở Đài Loan phổ biến rộng khắp, có những hội đoàn, tập thể, tổ chức thành nhóm hẵn hoi, kết quả được đánh giá cao bởi quần chúng.
Về phía các Nhà Thôi Miên, thì họ cho rằng, đi thiếp cũng là một hình thức của “Thuật Thôi Miên” mà thôi.
B.- Thuật Quán Linh :- 
“Đi thiếp” là từ để chỉ cho một người nào đó, thông qua pháp thuật của vị đạo sĩ, “xuất hồn” ra khỏi xác, xuống chốn âm ty để tìm người thân, trong khi xác còn ngồi hoặc nằm tại cõi thế.
Đây là một trong những pháp thuật của phái “Quán Linh Thuật”, khu vực phía Nam Đài Loan gọi là “Quán Tam Cô”. Khi người nào đó đang trong tình trạng đi thiếp, họ không thể nhìn thấy rõ ràng cảnh vật xung quanh, mà chỉ có thể gặp và giao tiếp với người thân mà thôi. Tuy nhiên, phải nói rằng đầu óc của người đi thiếp vẫn tỉnh táo, phân biệt đúng sai. Thân thể của người đó chỉ hơi âm ấm, hơi thở rất nhẹ. Nói chung, người đi thiếp sử dụng được thị giác, vị giác, thính giác và khứu giác. Trong sách vở xưa nay chưa thấy chỗ nào nói về nguồn gốc xuất xứ của nó một cách cụ thể. Nhưng thực tế thì vẫn lưu truyền trong dân gian từ đời nầy qua đời khác một cách âm thầm, bí mật, dường như có, dường như không. Thỉnh thoảng lại nổi lên một chỗ nào đó, được mọi người hoan nghênh, thành thử biết pháp nầy vẫn còn tồn tại và có giá trị nhất định của nó, chứ không hẵn hoàn toàn hư huyền vô bổ.
*Người muốn tham dự cuộc đi thiếp thì không giới hạn chủng loại, giới tính, nam nữ, tôn giáo… nào cả. Về địa điểm thì cũng rất linh động, du di, không nhất thiết phải là nơi qui định. Có thể là tại chùa, ở Miếu, hoặc tại nhà người nào đó …Thời điểm có hiệu quả cao nhất là buổi chiều tối.
C.- Những điều cấm kỵ khi đi thiếp :-
-người quá sáu mươi tuổi không nên tham dự.
-người bị huyết áp cao, bệnh tim hoặc bệnh nặng khác.
-phụ nữ đang trong thời kỳ kinh nguyệt.
-người vừa đi thăm sản phụ thời gian chưa quá một tháng.
-người đi xem, không được đứng, ngồi trên ngạch cửa cái hoặc cửa hậu.
-phải giữ im lặng tuyệt đối trong quá trình đi thiếp của người đó, không nên nói chuyện cười đùa.
D.- Những điều cần chú ý khi tham gia cuộc đi thiếp :-
-người đi thiếp ngồi thoải mái, buông xả. Hai mắt nhắm tự nhiên, giữa hai chân mày có dán đạo linh phù, chữ phù nằm ở phía ngoài. (có khi bịt hai mắt lại, tùy theo môn phái) 
-cỡi giày dép ra, đặt hai chân không trên đất, hai tay buông thả tự nhiên hai bên hông, không nắm lại, không gồng cứng.
-trong tâm không nghĩ tưởng tạp niệm hay mong cầu.
-khi pháp sư thi hành thuật pháp (niệm chú, họa phù…) những cảnh tượng hiện ra trước mắt như hào quang, phong cảnh lạ, hình tượng Thần, Phật …người tham gia phải chấp tay làm lễ. Đừng chấp cứng cho rằng đây chỉ là “cảnh tượng huyễn hoặc” mà không chấp tay, bỏ mất cơ hội tốt để tiếp xúc.
NHỮNG MỤC ĐÍCH CỦA “NGƯỜI ĐI THIẾP
A.- Thăm Cung Nguyên Thần:- 
Cung Nguyên Thần còn gọi là Cung Bổn Mệnh. Trong cung nầy có một cái nhà “Nguyên Thần” của cá nhân người đi thiếp nầy.
Trong nhà, hiện ra cảnh trạng căn nhà, cách trang trí, những đồ dùng sinh hoạt … lúc đầu là để chỉ cho tiền kiếp của mình, sau đó, biến đổi chuyển sang kiếp hiện tại, rồi biến sang kiếp vị lai. Đồng thời cũng hiện ra tất cả những chi tiết về số con cháu, tình trạng công danh sự nghiệp ba đời của người đi thiếp, nếu người nầy cứ sống bình thường như lâu nay, nghĩa là không có sự tác động của “nghiệp lành” hay “nghiệp ác” khác.
* Khi ấy, nếu người đi thiếp khởi tâm nghĩ đến một điều lành, cảnh vật sẽ biến đổi theo hướng tốt đẹp hiện ra. Ngược lại, nếu người ấy khởi tâm nghĩ đến một điều ác, cảnh vật cũng hiện ra biến đổi theo hướng xấu ác.
*Đến đây, người đi thiếp tự mình biết rất rõ là “Phải làm sao để có được kết quả tốt” , khỏi cần ai giảng giải dài dòng. Nhất là , tuyệt đối tin vào “Nhân quả ba đời” không còn chút nghi ngờ gì nữa !
B.- Thăm thân nhân quá cố :-
Người đi thiếp cũng có thể xin gặp gỡ những thân nhân như :- cha mẹ, cô bác cậu dì, anh chị em, bạn bè, con cháu … đã qua phần trước đây.
Hai bên tùy ý han hỏi trò chuyện, trao đổi lẫn nhau về những tâm nguyện, điều mong cầu, việc cần làm để hỗ trợ cho vong linh người quá cố được chuyển đổi tốt đẹp hơn v.v…
Lúc bấy giờ, Pháp Sư tại đạo tràng “ nghe ,thấy, biết” nội dung trao đổi của hai bên (dĩ nhiên người ngoài không nghe thấy) mà đốt những “vàng bạc, tiền, đồ dùng thường ngày” (bằng đồ mã) để người đi thiếp trao tặng cho vong linh.
C.- DẠO CHƠI CÕI LINH GIỚI 
Sách nói :- “Thượng cùng bích lạc, hạ huỳnh tuyền” (trên đến tận trời xanh thẩm, dưới xuống tận suối vàng) là để chỉ cho việc đi du lịch cõi trời và cõi âm.
Việc nầy làm thỏa mãn tánh hiếu kỳ của con người, là được đi vào một không gian khác cõi người. Những cõi nầy phong cảnh hết sức khác thường, không bút nào tả xiết.
Du khách được cỡi ngựa, hay ngồi trên chiếc kiệu đi dọc theo những con đường nhỏ, tha hồ quanh ngang rẽ dọc, đi vào những vườn hoa đẹp, nghỉ chân nơi những nhà mát cổ sắc cổ hương, hay vào trong cung điện hoành tráng mỹ lệ.
Nơi Thành Phong Đô có mười hai khu phố, trong đó khu phố thương mại là tấp nập nhất. Ở đây có đủ thứ đồ vật, quán rượu, tiệm trà sẵn sàng chiều ý khách, tha hồ thưởng thức. Du khách đích thân đi dạo tùy thích, lúc ấy năm giác quan đều có tác dụng rõ ràng cụ thể:- mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều thọ nhận cảm giác thực sự, chứ không phải mơ hồ bàng bạc như chiêm bao.
Nguồn bài viết lấy từ Diễn đàn công đồng tứ phủ hoangbo.vn 
 4/  Nói tiếng Thiên và Chữ Thiên .
a/ Nói tiếng Thiên .





b/ Chữ Thiên .


Còn rất nhiều ví dụ về việc về cầu xin Thần linh trợ giúp và đó là những tục lệ có gốc rễ sâu thẳm trong đời sống tâm linh của nhân loại . Tục cầu Thần nhập xác là thần bí nhất trong văn hóa Thần bí phương Đông mà Thần quyền là một hiện tượng tiêu biểu và đặc sắc nhất. Có hiểu được những tài sản chung về văn hóa Tâm linh của nhân loại , ta mới có cái nhìn tổng quát hơn về xuất xứ của môn phái Thất Sơn Thần Quyền của Việt Nam.
Xin theo dõi tiếp bài 8 - dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *