KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 9.

10/20/2015 |
KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 9.

LỜI TỰA : Đường Lâm - Sơn Tây - HÀ NỘI là một vùng quê có địa hình còn khá hoang sơ , chưa bị nhiều những công trình xây dựng tàn phá. Đây là quê hương nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, Giang Văn Minh, bà Man Thiện (mẹ của hai Bà Trưng), bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Ngô Quyền và Phùng Hưng. Là một vùng quê có nhiều người thành đạt như vậy nhưng trong khoảng 50 năm gần đây , nhân tài của Đường Lâm hầu như vắng bóng . Lý do nào đưa đến sự việc như vậy ? Chúng ta thử cùng nhau khảo sát về mặt Phong thủy để tìm nguyên nhân. Trong loạt bài này , dienbatn có sử dụng một số tư liệu trên Internet và những tư liệu của dienbatn sau nhiều năm điền dã. Những kết luận riêng của dienbatn còn thô thiển, rất mong được các cao nhân giúp đ. Thân ái. dienbatn.

3. KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐỊA DANH QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI KHU VỰC ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI.
3.7 VIỄN SƠN TỰ.


Viễn Sơn Tự - Ngôi chùa to nhất xứ Đoài.
Đi qua Cam Lâm theo hướng nhà máy Z175 khoảng 1 Km nhìn phía rẽ bên phải về làng Thăng Thắc, bạn sẽ gặp một quả đồi lớn nhất: Đó là chùa Viễn Sơn- Ngôi chùa to nhất xứ Đoài.
Chuyện kể về ngôi chùa Viễn Sơn- Khi bạn đứng ở Viễn Sơn tự, bạn có thể nhìn thấy cả xứ Đoài phía dưới chân mà không bị che tầm mắt do đây là quả đồi lớn nhất vùng, phía xa xa là sông hồng vắt ngang một dải mờ ảo. Phía trước mặt là làng Cam Lâm và Mông Phụ, phía sau là nhà máy Z175 thôn Thăng Thắc và Văn Minh xã Cam Thượng.


Mùa hè nắng cháy da người, khi ngự trên đỉnh đồi Viễn Sơn gió thổi từ phía sông hồng mang lại cảm giác mát mẻ ta cảm thấy thư thái và thanh tịnh như đang du ngoạn trên chốn bồng lai.
Chùa Viễn Sơn được xây dựng rất đẹp và hoành tráng và là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ rất lâu (Cho đến nay không ai biết rõ niên đại, một số nghiên cứu cho rằng nó được xây dựng cùng thời với đền Và- Thờ đức thánh Tản Viên Sơn). Bà tôi kể lại ngày xưa khu đó toàn là rừng cổ thụ và ngôi chùa khuất trong những bóng cây đại ngàn âm u.


Vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp nơi đây là vùng đất cách mạng và lưu giữ rất nhiều tài liệu của chính phủ lâm thời Việt Nam. Để đảm bảo bí mật, người ta đã làm một điều báng bổ đến tâm linh: Phá bỏ chùa Viễn Sơn. Người dân được lệnh và kéo nhau lên thiêu rụi ngôi chùa cổ này. Cũng chính vì điều đó mà nơi dây trở nên khô cằn và nghèo đói xác xơ? ( Khi mà cái antena cao nhất bị phá hủy - Phải chăng nguyên do từ đây ????dienbatn ).
Khi phá chùa, các pho tượng gỗ được chuyển về chùa Mía tại thôn Đông Sàng và ngay bây giờ khi bạn viếng thăm Chùa Mía vẫn thấy khoảng gần 300 pho tượng cổ bằng gỗ này (Bổ sung tư liệu về nguồn gốc các pho tượng cổ chùa Mía mà mọi người vẫn lầm tưởng).
Đầu những năm 90, có một ộng cụ từ đến từ Khâm Thiên, Hà Nội đã lên Viễn Sơn xây dựng lại ngôi chùa. Cụ đã viên tịch và cải táng tại đây. Hiện nay ngôi chùa chỉ là hai ngôi nhà ba gian được quyên góp hảo tâm từ nhân dân thập phương.
Ngôi chùa hiện hại còn giữ được một quả chuông tấn rất to và hai tấm bia hán tự. Một trong hai tấm bia đã bị người ta làm tấm chặn cống thủy nông nên đã mờ hết chữ, tấm còn lại còn nguyên vẹn các bút tích nhưng chưa thấy nhà khảo cổ nào dịch văn bia này. ( http://www.tathy.com/ ).





Sau chùa Viễn Sơn có rất nhiều tảng đá tương truyền là do voi ỉa . hai bên chủa Viễn Sơn cũng có 2 cái giếng là 2 mắt của Long nhưng nay đã bị san bằng thành ruộng.
Hướng chính của chùa Viễn sơn : 115 độ. Tọa Tuất - Hướng Thìn ( Đông Nam ).









Xin theo dõi tiếp bài 10. dienbatn.
Xem chi tiết…

KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 8.

10/18/2015 |
KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 8.

LỜI TỰA : Đường Lâm - Sơn Tây - HÀ NỘI là một vùng quê có địa hình còn khá hoang sơ , chưa bị nhiều những công trình xây dựng tàn phá. Đây là quê hương nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, Giang Văn Minh, bà Man Thiện (mẹ của hai Bà Trưng), bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Ngô Quyền và Phùng Hưng. Là một vùng quê có nhiều người thành đạt như vậy nhưng trong khoảng 50 năm gần đây , nhân tài của Đường Lâm hầu như vắng bóng . Lý do nào đưa đến sự việc như vậy ? Chúng ta thử cùng nhau khảo sát về mặt Phong thủy để tìm nguyên nhân. Trong loạt bài này , dienbatn có sử dụng một số tư liệu trên Internet và những tư liệu của dienbatn sau nhiều năm điền dã. Những kết luận riêng của dienbatn còn thô thiển, rất mong được các cao nhân giúp đ. Thân ái. dienbatn.

3. KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐỊA DANH QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI KHU VỰC ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI.
3.6 ĐÌNH LÀNG MÔNG PHỤ.


"Làng Đường Lâm cổ (nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội) có tên nôm là Kẻ Mía. Tục danh này được bắt đầu từ một cái tên chữ: Cam Giá (Mía ngọt). Cam Giá xưa được chia thành hai tổng: Cam Giá Thượng và Cam Giá Hạ. Cam Giá Thượng là các xã thuộc miền Cam Thượng, Thanh Lũng, Bình Lũng... (nay thuộc về huyện Ba Vì). Còn Cam Giá Hạ là xã Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây).
Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận xét: Đường Lâm là một địa danh có vị thế đắc địa theo thế “Tọa sơn vọng thủy” tức lưng tựa vào núi Tản (núi Ba Vì) - Núi Tổ của Việt Nam, mặt ngoảnh ra sông Hồng - sông Cái, sông Mẹ. Đây cũng là một “tứ giác nước” được bao bọc bởi sông Đà, sông Tích, sông Đáy và sông Hồng. Về phong thủy, cuốn “Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự” viết: Sơn Tây có 36 huyệt chính và 85 huyệt bàng. Riêng đất Đường Lâm có huyệt đế vương.
Xã Đường Lâm hiện gồm chín làng: Mông Phụ, Cam Lâm, Cam Thịnh, Đoài Giáp, Đông Sàng, Hà Tân, Hưng Thịnh, Phụ Khang và Văn Miếu. Trong đó, trọng tâm của làng cổ Đường Lâm được định vị là làng Mông Phụ. Nhìn một cách tổng thể, làng Mông Phụ nằm trên thế đất hình con rồng: Đầu rồng chính là nơi tọa lạc của đình Mông Phụ, hai mắt là hai giếng cạnh đình, râu rồng toả ra các ngõ xóm, đuôi vắt về xóm Sải. Đình Mông Phụ được xây dựng vào năm 1684 (niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê Hy Tông). Ngôi đình này mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt Mường (có sàn gỗ) với những nét chạm khắc tinh tế có một không hai.
Ở Mông Phụ, mỗi xóm đều có một giếng mang tên của xóm. Giếng đào ở vùng đất đá ong nên mạch nước rất trong và mát. Các giếng xóm Hè, xóm Giang xưa kia nổi tiếng nước ngon đi vào tục ngữ: “Nước giếng Hè, chè Cam Lâm” hay “Nước giếng Giang, khoai lang đồng Bường”.
Tương truyền, hai giếng ở hai bên đình Mông Phụ là hai mắt của con rồng chột vì một giếng nước trong vắt còn giếng kia nước bị đục. Con rồng chột này lại tạo nên vị thế đắc địa cho đình Mông Phụ.
Nằm giữa ngã ba trung tâm của làng nhưng người đi ngược, về xuôi không ai quay lưng vào đình cả. Sân đình thấp so với mặt bằng xung quanh. Khi trời mưa nước chảy vào sân, theo hai cống tạo thành hình tượng hai râu rồng. Đây chính là dụng ý nghệ thuật đầy chất lãng mạn của các kiến trúc sư cổ.
Mắt rồng thứ nhất xác định là giếng đình Mông Phụ. Ở hướng Tây đình Mông Phụ có một giếng đá ong khác, miệng giếng nhỏ hơn nhưng sâu hơn nằm khuất trong một con ngõ. Giếng này được đào ở xóm Miễu nên gọi là giếng Miễu.
Giếng Miễu được ví như con mắt rồng còn lại - đối xứng với mắt rồng giếng đình Mông Phụ. Nước giếng Đình trong vắt, còn nước giếng Miễu đục, trở thành một điểm khuyết, là con mắt Rồng mờ. Nước giếng Miễu được sử dụng đối lập với nước giếng Đình, tức là chỉ để tắm giặt chứ không để ăn.



Giếng đình Mông Phụ, mắt sáng của rồng .


Giếng nằm cách đình Mông Phụ không xa và được coi là một trong hai "mắt rồng" của ngôi đình này.

Làng Mông Phụ bao gồm các xóm: xóm Đình giang, xóm Hè, xóm Sui, xóm Chim, xóm Sải, xóm Trại, xóm Trung hậu. Trong các xóm này, xóm Trại là xóm mới được hình thành từ khu trại chăn nuôi thời HTX nông nghiệp trong quá trình giãn dân của làng mấy chục năm qua. Trong đó, xóm Trung hậu là nơi còn tập trung khá nhiều những ngôi nhà cổ xây bằng chất liệu gạch đất nện và tường đá ong. Mỗi xóm xưa kia đều có cổng xóm. Đường đi trong xóm quanh co, nhưng đều có thể ra được trục đường chính của làng và nối thông ra các làng phụ cận. Ở Mông Phụ, mỗi xóm đều có một giếng mang tên của xóm. Các giếng xóm Hè, xóm Giang xưa kia nổi tiếng là giếng có nước rất ngon như hai câu tục ngữ sau đây đã nhắc đến: 
- Nước giếng Hè, chè Cam Lâm 
- Nước giếng Giang, khoai lang đồng Bường 
Giếng ở làng cổ Mông Phụ được cổ nhân đào có đường kính từ 3 - 5 mét, sâu trên dưới 10 mét. Một số giếng không phải xây phần thành giếng vì đào trên nền đá ong, chỉ xây phần cổ giếng. Do đào ở vùng đất đá ong nên mạch nước rất trong và mát. Tương truyền, hai giếng ở hai bên đình Mông Phụ là hai mắt của con rồng chột, một giếng nước trong và một giếng nước hơi đục, chính vì thế đã tạo nên vị thế đắc địa cho ngôi đình Mông Phụ - Nằm giữa ngã ba trung tâm của làng nhưng ở vị trí này người đi ngược về xuôi không ai quay lưng vào đình cả. 
Ngày nay, giếng xóm Giang vẫn còn dùng cùng với các giếng xóm Xui và xóm Xây; các giếng xóm Đình, xóm Sải, xóm Miễu thì không dùng vì đa số nhà dân có giếng khoan nên từ lâu không được nạo vét; còn giếng Hè đã bị lấp từ lâu. Hiện ở Mông Phụ còn lại cái giếng độc đáo là giếng Sui. Nước giếng rất trong, lại có bảng đề chữ nho “Nhất phiến băng tâm”, ý nói tấm lòng người dân Mông Phụ trong trắng như phiến băng. 
Nhìn một cách tổng thể, các giếng ở Mông Phụ tương đối bề thế, nhất là giếng xóm Đình có thành hình tròn xây bằng đá ong nên có dáng vẻ cổ kính và đẹp. 
Người dân làng Mông Phụ hiền lành, chất phác, cư xử rất trọng lễ nghĩa. Cái thiên tính ấy có thể biết được mỗi khi chúng ta giao tiếp với họ. Người làng Mông Phụ nói bằng thứ tiếng nặng nặng của mình. Mông Phụ là một trong bốn làng nằm trên một cái gò đất rộng. Trên cái gò đất ấy, bốn làng cùng chung cả thủy, thổ, vậy mà cách phát âm của mỗi làng ấy vẫn cứ khác nhau. Dân làng Mông Phụ có nếp sống riêng và tiếng nói thô và nặng chất Việt cổ. Đến bây giờ tiếng làng vẫn được dân làng bảo trọng, giữ gìn. Các cụ già trong làng cho rằng, người dân dù tha phương nơi đất khách quê người, dù lưu lạc nơi góc bể chân trời, mà khi trở về quê hương bản quán vẫn nói được tiếng làng là không quên gốc, rất đáng quý trọng.
Trong đó có 5 làng liền kề nhau, mỗi làng có một cái giếng khơi quanh năm nước đầy và trong được xây bằng đá ong loại tốt nhất. Mỗi cái giếng đều nổi tiếng và được định vị bởi những giai thoại rất thú vị. Một cái giếng có tấm bia khá lớn dựng ngay bên cạnh, đề bốn chữ “Nhất phiến băng tâm” nhắc người đời giữ giếng sạch trong như giữ lòng trong sáng. Một cái giếng khác có bia ghi về việc sửa giếng vào năm 1705 mà bài bi ký ấy lại do một vị Tiến sĩ chấp bút. (Ghi lại một việc sửa giếng cũng nhờ tay một ông Nghè, xem thế, đủ biết giếng làng quan trọng đến như thế nào). Còn một cái giếng kia thì lại là khởi nguồn cho một câu chuyện thi vị. Giếng ấy, xưa kia có một cái gầu múc nước dùng chung cho cả xóm. Trai gái làng đã khéo hò hẹn nhau qua một mối dây gầu. Chiều chiều đi gánh nước, người con trai kia đã ngấm ngầm thắt một nút trên sợi dây gầu. Và họ đã nhận ra tín hiệu của nhau. Một mối dây gầu thắt lại, ấy là hò hẹn, là dấu hiệu đêm ấy họ gặp gỡ nhau ở điểm đã hẹn. Đêm ấy, có một cô gái trốn nhà đi chơi. Mối dây gầu như một thông điệp, như thắt chặt mối tình của đôi trai gái yêu nhau nơi thôn dã. Mối dây nên vợ nên chồng, nên ông nên bà cả trăm năm.

Nước giếng Hè, giếng Giang là ngọt hơn cả, nên nhà nào làm đám cưới đều đến lấy nước ở các giếng đó về dùng. Người ta đồn rằng như vậy đôi bạn trẻ kia sẽ hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Khi nghe tôi kể về những cái giếng đá ong trứ danh ấy, một ông bạn của tôi cứ khăng khăng bảo rằng thủy thổ như vậy, tất phải là đất chuộng văn học và phải là nơi phát khoa danh, văn hiến truyền đời."
"Tản Viên Sơn thánh được thờ làm thành hoàng các làng bởi công lao bảo vệ vùng đất này chống lại cuộc chiến của Thủy Tinh và là linh thần mạnh, khiến Cao Biền không thể trấn yểm núi Ba Vì và các vùng đất phụ cận.
Truyền thuyết cho rằng Cao Biền đã dùng pháp thuật đào 100 cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì trong đó có Đường Lâm để triệt long mạch nước ta nhưng y cứ đào gần xong giếng nào thì giếng đó lại bị sập, nên đành phải bỏ cuộc. Cao Biền bị giết năm 887. Đường Lâm không thể trấn yểm, vài chục năm sau đã sinh ra Ngô Quyền, một trong 14 vị anh hùng dân tộc."
"Đình Mông Phụ là một di tích cấp quốc gia ở làng cổ Đường Lâm, nay thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội, Việt Nam.
Đình Mông Phụ được xây dựng trên một khu đất trung tâm và cao nhất của làng, rộng khoảng 1.800 m². Mặt tiền Đại đình ngó ra hướng Tây Nam.
Chưa biết chính xác năm xây dựng ngôi đình. Tuy nhiên, xét về kiểu dáng kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc thì đình được làm vào thời Lê trung hưng. Về sau, đình được tôn tạo, tu sửa vài lần; nhưng vẫn giữ nguyên dạng kiến trúc, điêu khắc ở đầu thế kỷ 19. Trong số ấy, theo tài liệu, thì năm 1858, dưới triều vua Tự Đức, đình được sửa chữa lần thứ nhất. Gần đây (2006 - 2008), đình cũng đã được tu sửa lớn .

Nhà Xích hậu ở phía trước đình Mông Phụ
Diện mạo của ngôi đình hiện nay được xây dựng theo kiểu chữ "Công" (chữ Hán: 工), gồm Nghi môn (cổng chính), sân đình, Tả Mạc (nhà bên trái), Hữu mạc (nhà bên phải) và Đại đình (hay tòa Đại bái, tức tòa đình chính). Ngoài ra, ở bên ngoài đình (phía tay phải từ đình nhìn ra) có nhà Xích hậu. Đây là nơi tiếp khách, và là nơi chuẩn bị lễ trước khi vào đình. Lược kể:
Nghi môn: gồm bốn trụ vuông xây gạch, hai trụ lớn và hai trụ nhỏ. Bốn đầu trụ tạo tác lồng đền hình vuông có chạm nổi tứ linh, trên đỉnh hai trụ lớn có hai con sư tử ngồi nhìn ra phía giữa, đỉnh hai trụ nhỏ đội hai bình hoa. Ba mặt trụ có các câu đối chữ Hán chạm nổi.
Sân đình và Tả Hữu mạc: Sân đình rộng, lát gạch Bát Tràng, hai bên có Tả Hữu mạc, mỗi nhà có năm gian nhỏ. Đây là nơi thờ tổ tiên các dòng họ trong làng và người có công với làng…
Đình chính: gọi là tòa Đại bái gồm năm gian hai chái. Hậu cung (đình trong) là một tòa nhà nối ba gian giữa của đình ngoài kéo dài ra phía sau như cán chày. Hai bên đình có hai cái giếng cổ (tục gọi là hai mắt rồng). Mái đình hình võng nhẹ, lợp ngói mũi hài, hai đầu nóc có chạm hình hai con rồng. Góc mái uốn ngược lên thành hình rồng. Các vì kèo được thiết kế theo kiểu giá chiêng chồng rường, dựa trên sáu hàng chân. Những đầu dư của các xà ở gian chính và những kẻ hiên là những trọng điểm để trang trí. Những mô típ trang trí như rồng, hổ, cá, chim, hoa lá, mây,...đều được chạm nổi, chạm lộng hoặc chạm ren. Đình chính không có tường vách ngăn che, tất cả đều để trống, chỉ có một lan can có chấn song hình con tiện bao quanh ba mặt đến tường của Hậu cung. Đình có sàn ở hai gian bên, ở gian giữa có cửa võng hình lưỡng long chầu nguyệt sơn son thiếp vàng. Một ban thờ lớn trang trí bằng tượng rồng, hổ phù ngậm chữ "Thọ" (chữ Hán: 壽), mây... Hậu cung chỉ có sườn gỗ bào trơn, có tường xây kín ba mặt, Bệ thờ đặt giữa Hậu cung, có ngai và bài vị thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Trong đình thờ thần Tản Viên Sơn Thánh (tức thần Tản Viên), là một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt (Tứ bất tử), làm Thành hoàng làng. Cùng với chùa Mía, đình Mông Phụ là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật ở làng cổ Đường Lâm. Trong nội thất của đình hiện còn bảo lưu được rất nhiều hiện vật quý báu có giá trị. Một trong số ấy là bức hoành phi với 4 chữ Hán: "Dũng cảm cả tưởng" do vua Thành Thái ban tặng cho làng sau một trận săn bắt cướp..." (https://vi.wikipedia.org).



Hướng đình Mông Phụ : 225 độ - Tọa cấn - Hướng Khôn - Phân kim : Mậu Dần - Giáp Thân.




Theo giáo sư Diệp Đình Hồng, làng Mông Phụ là làng cổ nhất ở Đường Lâm (Sơn Tây), có lịch sử trên 4000 năm. Hiện làng vẫn giữ nguyên dáng cổ bởi lời nguyền "Không ai được xây nhà cao hơn mái đình". Đây là sản phẩm văn hoá quý hiếm cần được nhà nước quan tâm bảo tồn.
Mộ phần : Ngoại trừ các thửa ruộng quá thấp nên bị ngập nước thường xuyên, không gian canh tác của làng Mông Phụ có khá nhiều mồ mả được đặt vào những chỗ đất tốt theo quan niệm phong thuỷ. Người quá cố được chôn theo cùng qui tắc với việc định hướng nhà "Toạ sơn vọng thuỷ". Dân làng vẫn nhắc đến mấy câu thơ miêu tả vị trí đắc địa của ngôi mộ thân phụ Phan Kế Toại, theo đúng qui tắc nói trên:"Đầu đội nhành quạt , chân đạp lý ngư: Thượng thư, tổng đốc". 
Theo câu tục ngữ mà nhiều người ở Mông Phụ còn nhớ "Sống ở làng, chết Lồ Cang Áng Độ". Lồ Cang, Áng Độ là hai khu đất có rất nhiều mồ mả. Thông thường dân làng chôn người chết ở Lồ Cang. Đây là khu đất tương đối ẩm thấp nên tử thi tiêu huỷ nhanh. Sau ba năm thì làm lễ cải táng, công việc này được tiến hành vào ban đêm. Xương người chết được bốc nên, rửa sạch bằng nước có hương thơm, rồi bỏ vào một cái tiểu bằng đất nung, thường ở Áng Độ - Một khu đất đồi cao ráo nên xương được bảo tồn khá lâu. Khi việc cải táng xong thân chủ thường làm một bữa cơm mời những người đã tham gia dự. Điều đáng lưu ý là ở Mông Phụ các gia đình công giáo cũng giữ tục cải táng này. 
Vị trí của Đường Lâm : Trước mặt là sông Hồng quanh năm nặng đỏ phù sa với con sông Tích uốn quanh từ chân núi Ba Vì đổ xuống lượn vòng êm ả quanh làng rồi lững lờ chảy về xuôi nhập vào sông Hát. Khắp nơi những quả đồi nối tiếp nhau như bát úp với những cái tên truyền thống đầy tinh thần thượng võ của vùng đất có hai anh hùng dân tộc. Nào là đồi Gầm, trước lăng Ngô Quyền như một con beo nằm phủ phục. Nào là gò Núm Chiêng, Yên Ngựa, đồi Gậy, Mũi Giáo, đồi Gươm, Đầu Trâu, Áng Độ… cùng với hàng chục cái rộc sâu như Vũng Hùm, Cổ Giải… chen lẫn nhau, càng tạo cho Đường Lâm vốn hùng vĩ nay lại có thêm cái thế của một vùng trung du vừa đẹp mắt, vừa hiểm trở.
Tấm bia đá làng Cam Lâm dựng ngày 8 tháng 10 năm Quang Thái thứ ba (1390) đời Trần Thuận Tông còn ghi rõ: “Nguyên xưa kia đất đai xứ này là núi rừng trùng điệp, gọi là Đường Lâm…”.
Đường Lâm còn giữ được nhiều di tích lịch sử và công trình văn hóa cổ đáng quý. Thôn Cam Lâm có đền thờ và bia Phùng Hưng, đền thờ và lăng Ngô Quyền. Mỗi khi tới đây, thế nào khách cũng được nhân dân say sưa kể lại cho nghe những truyền thuyết lý thú về sức khỏe, tài trí và lòng dũng cảm của Phùng Hưng và Ngô Quyền, hoặc tài khéo léo của những nghệ nhân dân gian như Mộc Tôm, Cố Nháy, Ấm Thái…
Đường Lâm, nhất là Mông Phụ, xưa có rất nhiều người học hành đỗ đạt, có nhà cha con nối tiếp nhau đỗ đạt cao và làm quan to dưới thời phong kiến. Bởi vậy, Mông Phụ có 5 quả gò thì cả 5 đều được nhân dân tưởng tượng nên những cái tàn che, những yên ngựa, vòi voi, những rặng duối buộc voi ngoài cổng làng… hình ảnh tượng trưng cho quyền cao chức trọng của thời phong kiến xưa kia. Trong những người hiển đạt, có những người khí tiết khảng khái, như cụ Phan Khắc Dị làm quan đời Hậu Lê (cuối thế kỷ 18) cho đến thời nhà Nguyễn bán nước thì bỏ về chiêu dân lập ấp, mà ngày nay nhân dân làng Phụ Khang còn thờ làm thành hoàng để ghi nhớ công ơn. Như cụ án Nguyễn, làm quan tới chức Hình bộ Thượng thư bộ Hình thời Tự Đức (1848-1883) đã từng vạch mặt bọn quan lại tham nhũng, dâm ô. Nhưng vinh hiển và lẫy lừng hơn cả là cụ Thám hoa họ Giang, mà ngày nay ngôi nhà thờ “Giang Thám Hoa công từ” ở ngay sát đình làng Mông Phụ, còn có bia đá ghi những nét cụ thể về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Nhà thờ họ bằng gạch, mái lợp ngói cổ, tuy không to lắm nhưng vẫn giữ dáng dấp của ngôi nhà cổ chồng diềm 4 mái. Trong nhà câu đối hoành phi treo la liệt, nhưng đáng chú ý là câu đối treo giữa nhà:

Lễ nghĩa bách niên Mông Phụ ấp
Phong thanh thiên cổ Thám hoa môn
Tạm dịch:
Trăm năm lễ nghĩa làng Mông Phụ
Nghìn thuở thanh danh, cửa Thám hoa

Ngọc phả họ Giang và tấm bia đá “Thám Hoa công truy trạng bia” và tấm bia đá “Bản xã tiên hiền bi ký” khắc năm Vĩnh Thọ thứ 1 (1658) đời Lê Thần Tông và những câu chuyện truyền khẩu của bà con trong xã còn kể:
Ông Giang Văn Minh, tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung tiên sinh, sinh ngày mồng 6 tháng 9 năm Nhâm Ngọ (1582) tại làng Mông Phụ, ấp Đường Lâm, huyện Phúc Lộc (nay thuộc huyện Ba Vì), tỉnh Sơn Tây, đời trước tằng tổ, hiệu Đức Biền đã từng làm quan giữ chức Thần vũ vệ úy nhà Lê.
Từ thuở nhỏ, ông tuấn tú, thông minh, học đâu nhớ đấy, văn thơ lưu loát, ứng đối lanh lợi, tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng. Ông thường đi lại chơi bời, vịnh thơ, xướng họa cùng với ông Phùng Công Thế, người thôn Kim Bí, huyện Tiên Phong và ông Lã Công Thời người làng Cam Đà, huyện Minh Nghĩa (nay đều thuộc huyện Ba Vì).
Năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông,` cả ba ông cùng đi dự khoa thi đình. Ông Minh đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh, còn hai ông Thời và Thế cũng đều đậu tiến sĩ.
Ông được bổ ra làm quan, năm Đức Long thứ ba (1631) ông được phong chức Thái bộc tự hương tước Phúc Lộc bá. Đến năm Dương Hòa thứ 4 (1638) ông lại được Thanh đô vương Trịnh Tráng phong cho chức Tả phủ tây quốc công và mùa đông năm ấy, Thanh đô vương Trịnh Tráng cử ông đi trấn thủ Nghệ An.
Cuối thế kỷ thứ 16 sang đầu thế kỷ thứ 17, triều đại phong kiến nhà Minh bước sang thời kỳ suy vong đến cực độ. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra rầm rộ khắp nơi, lôi cuốn hàng triệu nông dân nghèo khổ vào những cuộc đấu tranh mãnh liệt.
Tình hình khủng hoảng và suy yếu cực độ ấy không cho phép nhà Minh trở lại xâm lược nước ta. Tuy vậy, nhà Minh vẫn tận dụng mọi thời cơ để uy hiếp và hạch sách nhũng nhiễu những triều đại phong kiến thống trị bạc nhược của nước ta. Dùng uy thế “Thiên triều”, nhà Minh buộc họ Trịnh phải cắt đất Cao Bằng nhường cho họ Mạc để âm mưu nuôi dưỡng hai thế lực phong kiến thù địch trên đất nước ta. Trước sự o ép của nhà Minh, họ Trịnh phải xin cầu hoà và xin phong cho vua Lê để có đủ danh nghĩa thống trị. Nhà Minh bắt vua Lê hai lần phải lên tận trấn Nam Quan để xét hỏi, nhận mặt và còn sách nhiễu đòi lễ vật và cống nạp người bằng vàng mà nhân dân ta thời đó thường gọi là trả “nợ Liễu Thăng”. Sau nhiều lần cầu phong và xin xỏ, vua Lê mới được nhà Minh phong cho làm An Nam đô thống sứ và ban cho một chiếc ấn bạc (tỏ ý không công nhận nền độc lập của nước ta và chỉ coi nước ta như là một thuộc quốc).
Nhưng chẳng bao lâu, phong trào nông dân khởi nghĩa nổi dậy khắp nơi và nhà Minh đang có nguy cơ bị sụp đổ. Trong lúc đó, vua Lê, chúa Trịnh vẫn một lòng thần phục nhà Minh và vẫn mê muội thi hành chính sách ươn hèn bạc nhược, không còn giữ nổi thể thống của một quốc gia phong kiến độc lập nữa.
Được thể, nhà Minh ngày càng lấn áp và sách nhiễu vua Lê. Sau nhiều năm đã bãi bỏ lệ cống người bằng vàng mà thay bằng đồ cống nạp khác, lúc này nhà Minh lại yêu sách bắt vua Lê mỗi năm phải đích thân lên tận thành Lạng Sơn để “hộ khám” và dâng đồ cống lễ gồm 2 người bằng vàng và bạc, mỗi người đều cao 1 thước 2 tấc và nặng 10 cân cùng nhiều đồ cống vật khác. Có lần chúng không thèm đến nhận lễ, vua Lê phải lủi thủi trở về kinh.
Mùa đông năm Dương Hoà thứ ba (1637), tức là năm Sùng Trinh, thứ 10 của nhà Minh, vua Lê Thần Tông cử một phái bộ do ông Giang Văn Minh làm chánh sứ cùng với các ông Nguyễn Duy Hiếu, Nguyễn Quang Minh, Trần Nghị… đi sứ sang “Thiên triều” để xin cầu phong cho nhà vua.
Khi phái bộ của Giang Văn Minh sang đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) gặp lúc sắp đến tiết khánh thọ nên không được vào bệ kiến ngay, mà phải ăn chờ nằm chực ngoài dịch xá. Bọn đại thần nhà Minh có ý khinh thường sứ thần An Nam nên không thèm tiếp và vin cớ là trong bộ bản không có lệ cũ để tra, nên không phong vương, mà chỉ ban sắc khen thưởng khuyến khích (Lịch triều hiến chương lại chí tập III, trang 150) và chỉ nhận dâng lễ cống. Chúng hạch sách phái bộ đủ điều và đòi bằng được người cống bằng vàng, đòi trả “nợ Liễu Thăng” như đời Mạc đã làm. Chúng còn cho người bao vây theo dõi, thăm dò mọi hoạt động của sứ bộ ngoài dịch xá.
Trước thái độ khinh miệt và coi thường phái bộ An Nam của vua Minh, Giang Văn Minh hết sức căm giận và phẫn uất, ông luôn luôn suy nghĩ cách đối phó với nhà Minh để làm tròn sứ mệnh của vua Lê giao cho.
Cuốn ngọc phả “Giang Thám Hoa phả tộc” và câu chuyện của các cụ già họ Giang còn kể rõ giai thoại thời cụ Thám Hoa đi sứ sau đây:
Một hôm, nhân ngày tiết khánh thọ của vua Minh, tất cả sứ thần các nước có mặt tại dịch xá đều mũ áo chỉnh tề, mang theo lễ vật vào triều kiến “Thiên triều”. Riêng ông Minh không chịu đi và nằm lăn ra mà khóc lóc thảm thiết, cố ý làm sao việc này lọt được đến tai vua Minh.
Được tin báo, vua Minh vừa tức giận, vừa sửng sốt, cho rằng đây là việc không bình thường, bèn cho sứ ra gọi ông Minh vào chầu để xem thực hư ra sao? Được lệnh triệu vào chầu, ông Giang Văn Minh mũ áo chỉnh tề, đàng hoàng tiến vào sân rồng yết kiến vua Minh. Thấy ông Minh có dáng người đi đứng uy nghi lẫm liệt, tài trí thông minh lanh lợi, nói năng hoạt bát, vua Minh liền phán rằng: “Hôm nay là ngày khánh thọ của Thiên triều, cả nước vui mừng, các sứ thần đều phấn khởi vui mừng yến tiệc, cớ sao một mình sứ thần lại không vui mà lăn ra khóc lóc thảm thiết như vậy, là có ý gì? Ông Minh liền dõng dạc tâu rằng: “Theo lệnh vua Lê, sứ thần được sang triều cống quý quốc thấm thoát đã hàng năm lưu lạc trên đất khách quê người nhưng vẫn chưa làm tròn trọng trách, còn lòng dạ đâu mà vui được. Nay đã đến ngày giỗ vị tằng tổ của thần mà thần vẫn chưa được về quê hương đèn hương tưởng niệm, như vậy chẳng là đắc tội với tiên tổ hay sao?”, rồi ông lại ôm mặt mà khóc. Nghe rõ sự tình, vua Minh liền cả cười mà phán rằng: “Nhà ngươi quả là một người trung hiếu vẹn toàn, thật là chí lý. Nhưng tưởng chuyện gì chứ việc ông tổ đã ba đời rồi đến nay còn gì là giàng buộc tình cảm nữa mà phải lo mang tiếng với người đời chỉ vì không về được quê hương tưởng niệm”. Nghe xong vua Minh phán, ông thoáng thấy một ý hay, có thể nhân cơ hội này mà giúp cho nước nhà một việc lớn, ông liền tâu rằng: “Thần cũng nghĩ vậy, nhưng khốn nỗi, người đời có nghĩ thế đâu! Ngay như việc Thiên triều bắt dân tôi năm nay lại phải cống người vàng để trả “nợ Liễu Thăng” mà Liễu Thăng thì đã chết cách hơn 200 năm rồi. Chuyện cũ đã mờ, mà dân tôi hàng năm cũng vẫn còn chưa được Thiên triều xoá bỏ lệ cũ. Hơn nữa vua tôi nhà Lê có tội gì đâu mà hàng năm Thiên triều vẫn đòi lễ cống! Đó chẳng phải là một việc vô lý, trái với đạo lý và thể diện của Quốc vương tôi sao? Ngày nay, Thiên triều khuyên thần đừng thương nhớ người đã quá cố, thì thần cũng xin Thiên triều noi theo mệnh lớn mà từ nay miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống nữa. Đó chẳng phải là một việc tốt để gây lại mối giao hảo bền vững giữa hai nước láng giềng đó sao?”.
Trước lời tâu chân tình, lý lẽ đanh thép và đầy sức thuyết phục đó, vua Minh cũng tự thấy việc bắt dân An Nam hàng năm vẫn phải dâng lệ cống người vàng để trả “nợ Liễu Thăng” là vô lý, nên đã ra lệnh bãi bỏ lệ cống người vàng, và cũng từ đây hàng năm dân ta chấm dứt được cái việc “trả nợ Liễu Thăng” kéo dài từ thế kỷ thứ 15 đến lúc bấy giờ.
Thế rồi, thời gian trôi đi, thấm thoát đã được gần một năm nằm ở dịch xá, nhưng vẫn chưa được “Thiên triều” gọi vào yết kiến.
Một hôm, sau những ngày mưa rơi tầm tã, khí hậu ẩm thấp và rét buốt, nhân được buổi nắng ráo, ông Minh liền đem mũ áo và đồ văn thư nghiên bút ra phơi nắng. Tiện thể ông cởi áo, phanh ngực và bụng ra để sưởi nắng. Bọn cận thần của vua Minh thấy sứ giả An Nam có hành động lạ thường, bèn vào tâu với vua Minh, Minh Tông liền cho mời ông vào chầu và hỏi: “Sau những ngày mưa rét hôm nay trời nắng ấm, theo lệ thường là ngày vui vẻ của toàn dân, mọi người rủ nhau đi chơi ngắm cảnh, thưởng thức những ngày ấm áp trên đất Yên Kinh, sao sứ thần không đi đâu mà lại nằm phanh bụng ra phơi nắng là ngụ ý thế nào?”.
Ông Minh liền tâu: “Chẳng giấu gì Thiên triều, thần từ nhỏ vốn người ham đọc sách thánh hiền, học đâu nhớ đấy nên bao nhiêu bồ chữ trong thiên hạ, thần đã thu về để nằm im trong bụng. Từ ngày sang quý quốc, khí hậu ẩm thấp, thần sợ chữ sách thánh hiền lâu ngày không dùng đến sẽ bị mốc nên nhân ngày nắng ấm, thần vạch bụng ra phơi cho khỏi mốc chữ đó mà thôi!”.
Thấy tài ứng đối lanh lợi lại thông minh và thấy có nhiều điều lạ, biết ông Minh không phải là người thường nhưng để thử tài cao học rộng và trí thông minh của ông đến đâu, vua Minh liền phán: “Đã lâu nay Thiên triều được nghe tin khanh là bậc thông minh, tài giỏi, nhưng trẫm chưa có dịp tiếp kiến. Nay nhân ngày vui vẻ trẫm ra một vế câu đối, khanh thử đối lại xem sao. Rồi vua Minh liền đọc:
Đồng trụ chí kim dài dĩ lục
(Cột đồng trụ tới nay rêu đã xanh).
Trong vế ra, vua Minh cố ý nhắc lại chuyện Mã Viện nhà Đông Hán xưa kia sang đánh nước ta đã dựng một cột đồng trụ để bêu xấu, khinh miệt nhân dân ta.
Nghe xong, căm giận trước sự xúc phạm tới danh dự của dân tộc mình, không cần suy nghĩ lâu, ông kiêu hãnh và dõng dạc đọc luôn vế đối:

Đằng giang tự cổ huyết do hồng
(Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ)

Vế đối thật hoàn chỉnh, lời lẽ đanh thép và đầy khí phách anh hùng của người chiến thắng, cố ý muốn nhắc lại chuyện Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (938), Lê Hoàn đánh tan quân Tống (981) và Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên Mông (1288) trên sông Bạch Đằng, để nhắc lại cái nhục của những quân xâm lược phương Bắc đã bao lần cướp nước Nam ta nhưng đều bị đánh cho tơi bời, tan tác.
Khiếp phục trước tài ứng đối, trí thông minh và lòng tự hào dân tộc của ông Minh, một phần uất ức trước việc sứ thần An Nam dám ngạo mạn nhắc lại cái nhục đi cướp nước của “Thiên triều”, bất chấp cả luật lệ bang giao, vua Minh liền nổi trận lôi đình hầm hầm nét mặt, quát tháo inh ỏi: “Sứ thần An Nam cố ý làm nhục Thiên triều, tội đáng xử trảm”, liền ra lệnh cho quân sĩ lấy trám đường gắn vào hai mắt và bịt miệng ông lại rồi cho mổ bụng ông xem “sứ thần An Nam to gan lớn mật đến chừng nào?”. Ngày ấy là ngày 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Ông Giang Văn Minh bị giết chết năm 57 tuổi.
Sau khi giết hại ông Minh, vua Minh liền sai người lấy thủy ngân hãm vết mổ, cho ông ngậm nhân sâm rồi cho vào quan tài đóng kín có hai lớp gỗ dày (trong quan ngoài quách) rồi trao trả cho sứ bộ mang thi hài ông về nước an táng.
Thế là phái bộ chưa hoàn thành được nhiệm vụ vua giao đã phải lên đường về nước. Sau gần 6 tháng ròng, phái bộ đã phải vượt qua bao nhiêu chặng đường vất vả mới mang được linh cữu ông Giang Văn Minh về đến quê hương và đợi tại quán Đồng Dưa (nay ở gần thôn Phụ Khang) chờ vua Lê và chúa Trịnh về làm lễ an táng.
Được tin sứ thần Giang Văn Minh đã chết một cách anh hùng, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng vô cùng thương tiếc. Đích thân vua Lê và chúa Trịnh đã về tận quê hương để dự lễ an táng ông. Đứng trước linh cữu vị sứ thần dũng cảm và thông minh, không chịu khuất phục trước uy vũ của quân thù để bảo vệ danh dự của Tổ quốc, vua Lê Thần Tông than rằng: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (Tạm dịch: đi sứ không trái mệnh vua, không để nhục nước, xứng đáng anh hùng thiên cổ) và truy tặng ông “Công bộ tả thị lang Minh quận công”. Trong lời văn truy điệu ông, có đoạn viết:

“Thục bất hữu sinh
Sinh như công gia
Sinh ư khoa giáp
Kỳ sinh gia vinh
Thục bất hữu tử
Tử như công gia
Tử ư quốc sự
Kỳ tử do sinh”…
Tạm dịch:
Ai chẳng có sống
Sống mà như ông
Sống nơi khoa giáp
Sống là hiển vinh
Ai chẳng có chết
Chết mà như ông
Chết vì việc nước
Mất cũng như còn

Lễ an táng ông thật là trọng thể. Thi hài ông được bà con mai táng tại xứ Gò Đõng, trước mặt khu đồi Văn miếu của tỉnh.
Hiện nay, ngôi mộ của ông vẫn còn và được bà con họ Giang xây bệ gạch tay ngai, xung quanh có tường hoa để bảo vệ. Còn ngôi quán, nơi làm lễ an táng ông, được nhân dân địa phương gọi là quán Giang để ghi nhớ sự tích của vị sứ thần khảng khái đã làm vẻ vang cho đất nước.
Một số hình ảnh đình làng Mông Phụ ( Trích từ http://dulich360.com.vn/).












"18 đạo sắc phong và một số cổ vật tại đình Mông Phụ (xã Đường Lâm - Sơn Tây - Hà Tây) vừa bị mất cắp. Trong khi người ta ca tụng làng Việt cổ đá ong Đường Lâm và sự ca tụng đó được "hiện thực hóa" bằng một dự án 300 tỉ thì cái quý giá bậc nhất, thường được cảnh báo là dễ mất nhất, lại bị mất cứ như chuyện đùa...
Kẻ trộm đã lấy đi thứ quý nhất của các cụ là 18 đạo sắc phong (chỉ phần lại cho các cụ cái hộp rỗng). Theo tài liệu duy nhất mà ông Nguyễn Tùng và bà K. Nelly ghi lại trong cuốn Mông Phụ - một làng ở đồng bằng sông Hồng thì các đạo sắc phong này ca tụng công đức của thánh Tản Viên, mỗi sắc phong chỉ khác nhau một số chữ được thêm bớt. Tước "dực vấn tán trị thành hoàng" (ghi trong đó) thường được nhắc tới khi cúng tế". Cũng theo tài liệu này thì bản sắc phong cổ nhất có niên đại 1651. Nhưng chưa hết, khi đạo chích trở ra, thấy đôi kỳ lân sơn son thếp vàng nằm chầu trước thượng điện, chúng cũng bóc nốt. Đây là hai con linh vật mặt sư tử, vảy rồng, đuôi quặp như đuôi chó được làm bằng gỗ rất tinh xảo. Trong khi mọi người còn chưa hết tiếc nuối thì ai đó chợt phát hiện cả chiếc trúc bản cũng không cánh mà bay. Đó là chiếc giá đỡ để đặt bài văn tế lên khi hành lễ - bị lấy đi vì chân đế của nó được tạo tác hình đôi kỳ lân rất đẹp.
Khi cổ vật ở đình đã không còn nữa, người ta mới nhớ thêm thứ này thứ nọ bình thường vẫn ở đấy bây giờ đi đâu? Chiếc đỉnh đốt trầm bằng đồng, người thì bảo cả chiếc lư hương nhỏ nữa cũng trước có mà nay không có. May mắn nhất là đôi câu đối. Có người bảo chúng đã dỡ một đôi xuống chở ra ngoài, nhưng thấy cồng kềnh quá lại thôi. Và khi treo trả, bọn "vô đạo", và... vô học ấy đã treo ngược đôi câu đối, vế bên trái sang bên phải và ngược lại." (http://maivang.nld.com.vn/).
"Mông Phụ là một làng nông nghiệp thuần túy. Nguồn sống chính của dân làng vẫn là từ nghề làm ruộng. Mông Phụ và Phụ Khang là hai làng chủ yếu của HTX Nông nghiệp Đường Lâm. Làng cổ, nghề xưa truyền đời nên người dân Mông Phụ có trình độ canh tác, kinh nghiệm cao. Họ thật sự là những lão nông tri điền. Họ có thể giảng giải cho chúng ta một cách tường tận về những trải nghiệm và hiểu biết của mình về đất, nước, cây con và thời tiết, mùa vụ như một chuyên gia thực thụ.
Xưa, ở đây có nhiều sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng đã trở thành phương ngôn:
Dưa hấu, dưa gang là làng Mông Phụ
Nước giếng Giang, khoai lang Đồng Bường.
Đàn bà con gái Mông Phụ không có vẻ đẹp thanh thoát của phụ nữ liễu yếu đào tơ mà họ có khuôn hình chắc khỏe của người con gái trong tranh Tố nữ và trong tác phẩm điêu khắc cổ dân gian. Mặt to, đầy đặn, lông mày dày, ánh mắt hiền hậu, vai rộng, ngực nở và tiếng nói ấm trầm. Đấy là những gì có thể nói về người con gái làng Mông Phụ. Những bà già Mông Phụ mặt vuông chữ điền, mũi to và cao, khiến người ta phải nghĩ rằng đây chắc là vợ hay con gái một ông quan nào đó.
Hy sinh và chịu đựng, chịu thương, chịu khó, nhưng người đàn bà thôn quê này rất hiền hậu, thương chồng yêu con rất mực. Và mỗi người đều mang sẵn trong mình cái mơ ước được “võng anh đi trước, võng nàng đi sau” trở thành bà Thám, bà Nghè, bà Cử. Nhiều người trong số họ được đáp đền xứng đáng.
Đặc biệt làng Mông Phụ có một người phụ nữ được tôn vinh là Hậu thần, được phối thờ cùng Thành hoàng. Đó là bà Giang Thị Thắng, chị gái của sứ thần Giang Văn Minh, một người phụ nữ thông minh, tài đức đã từng được vua vời vào kinh để làm Nhũ mẫu. Bà cùng với chồng là Phù Việt hầu Cao Phúc Diễn (người làng Cam Thịnh) được tôn vinh là Thánh ông và Thánh bà ở đình làng Cam Thịnh, cùng xã. Hiện nay, ở trong đình làng Cam Thịnh còn giữ được một tấm bia lớn “Hậu thần bi ký” dựng năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1712) đời Lê Dụ Tông để ghi nhớ việc ông bà đã cúng 400 quan tiền và 2 mẫu ruộng “thượng đẳng điền” cho làng.
Bà Phan Thị Biên là cháu dâu và các bà Giang Thị Phương, Giang Thị Thưởng là chắt của Thám hoa Giang Văn Minh là những người hưng công và có đóng góp lớn trong việc xây dựng giếng làng được ghi tên trong bia “Tu lý bi ký”.
Ai có về Mông Phụ hôm nay hẳn sẽ cảm thấy rất sung sướng vì được sống trong một không gian Việt trong lành, thuần phác. Không gian ấy là không gian hòa quyện giữa núi xa và đồi gần, giữa ruộng lúa nước và nương khoai đồi, giữa cái bình thản của thế đất và cái san sát của xóm làng, sự hòa quyện của cổ và kim trong kiến trúc, quy hoạch và lối sống cộng đồng. Không gian ấy đích thực là một không gian văn hóa nhiều chiều. Chúng ta sẽ gặp ở đây nét văn hóa của làng xưa chuộng lễ nghĩa, trọng học và sự tiến bộ. Từ xa xưa đến nay, Mông Phụ vẫn cứ là đất mến khách. Đến đây, bạn sẽ được thỏa ước nguyện tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá cho dù bạn là người khó tính hoặc cầu toàn nhất. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của làng Mông Phụ như mách bảo cho bạn biết rằng bạn đã đến một làng văn hóa thực thụ. Làng văn hóa này không phải của riêng Sơn Tây, hay tỉnh Hà Tây mà là của cả nước.
Về với Mông Phụ, cho dù bạn không phải là người con của quê hương ấy thì khi cất bước chân đi bạn cũng sẽ thấy đây là một quê hương của bạn rồi. Vì rằng Mông Phụ có tất cả vẻ đẹp cổ truyền và vẹn nguyên của một làng văn hiến mà hồn của muôn xưa vẫn còn hiện diện đâu đây, trong giọng nói tiếng cười, trong nếp sinh hoạt của người dân hôm nay." ( tusach.thuvienkhoahoc.com).
"Đến Đường Lâm vào thăm làng Việt cổ đá ong, một mình mình nghe tiếng bước châm mình rộn lên trong từng ngõ nhỏ, chắc bạn cũng cảm thấy hình như có một điều kỳ diệu còn tiềm ẩn dưới lớp đá dày trầm mặc đã tích tụ tự bao đời. Ra khỏi cổng làng Mông Phụ (Chiếc cổng duy nhất còn xót lại) mấy chữ đại tự còn in đậm trong lòng: "Thế hữu hưng ngơi đại" (thời nào cũng có người tài giỏi). Phải chăng đó là lời động viên, nhắn nhủ của tiền nhân với chúng ta hôm nay. Vì vậy, chúng ta những thế hệ con cháu đi sau phải cố gắng tiếp bước những dấu chân của ông cha ta đi trước để lại, để cho một Đường Lâm không bao giờ mục nát mà nó sẽ trường tồn cùng thời gian."
Xin theo dõi tiếp bài 9. dienbatn.

Xem chi tiết…

KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 7.

9/26/2015 |
KHẢO SÁT PHONG THỦY ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI. BÀI 7.

LỜI TỰA : Đường Lâm - Sơn Tây - HÀ NỘI là một vùng quê có địa hình còn khá hoang sơ , chưa bị nhiều những công trình xây dựng tàn phá. Đây là quê hương nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, Giang Văn Minh, bà Man Thiện (mẹ của hai Bà Trưng), bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Ngô Quyền và Phùng Hưng. Là một vùng quê có nhiều người thành đạt như vậy nhưng trong khoảng 50 năm gần đây , nhân tài của Đường Lâm hầu như vắng bóng . Lý do nào đưa đến sự việc như vậy ? Chúng ta thử cùng nhau khảo sát về mặt Phong thủy để tìm nguyên nhân. Trong loạt bài này , dienbatn có sử dụng một số tư liệu trên Internet và những tư liệu của dienbatn sau nhiều năm điền dã. Những kết luận riêng của dienbatn còn thô thiển, rất mong được các cao nhân giúp đ. Thân ái. dienbatn.

3. KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐỊA DANH QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI KHU VỰC ĐƯỜNG LÂM - SƠN TÂY - HÀ NỘI.
3.5 MIẾU CỔ VÀ GIẾNG SỮA CAM LÂM.







Sự tích “giếng sữa”
Từ bao đời nay, không chỉ người dân thôn Cam Lâm mà dân làng khắp 8 thôn khác ở xã Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) đều biết đến ngôi miếu cổ và giếng nước có khả năng chữa chứng mất sữa cho sản phụ mới sinh. Người dân trong vùng gọi đó là “giếng sữa ”.
Giếng sữa và ngôi miếu nằm sát dưới chân đồi Cấm ở thôn Cam Lâm, cách vài trăm mét từ lăng vua Ngô Quyền theo hướng Nam. Tương truyền đây là ngôi miếu rất cổ cùng có niên đại tương đương với rặng duối ngàn năm và lăng vua Ngô Quyền.
Vào thời loạn lạc, khi nơi đây vẫn là vùng núi hoang sơ không bóng người ở, một em bé mới chào đời bị bỏ rơi khát sữa khóc ngằn ngặt dưới chân đồi. Một bà lão đi ngang qua chứng kiến nhưng không biết làm thế nào để cháu bé nín. Bà chỉ biết bế cháu bé trên tay đi dọc đường với hy vọng tìm được nhà dân để xin nước.
Đi mãi cũng không thấy bóng người, tới một thung lũng dưới chân đồi Cấm, bà thấy một mạch nước róc rách chảy từ trong hang đá bèn mớm miếng nước cho cháu bé. Đứa bé bỗng nhiên ngừng khóc và thiếp ngủ trên tay bà. Từ đó, bà dựng lều ở tại đây nuôi đứa trẻ. Khi mất, người dân trong vùng lập miếu thờ bà và gọi là “miếu mẹ” bên mạch nước thiêng gọi là “giếng sữa”.
Mạch nước sau đó trở nên thiêng liêng và được nhiều người biết đến khi vào mùa khô, tất cả giếng làng đều bị cạn trơ đáy thì thấy mạch nước vẫn đầy ăm ắp, trong vắt. Họ cùng nhau ra gánh nước về ăn, càng lấy nước càng trong càng đầy.
Từ đó, nhiều người dùng đá ong che chắn xung quanh để giữ nước. Cũng từ ngày dựng miếu, trong làng luôn có một người "có căn số" trông coi và bảo vệ miếu và “giếng sữa".


Bà Phan Thị Sót (SN 1948), người hiện trông coi “miếu mẹ” và “giếng sữa” cho biết: “Tôi trông miếu mẹ nhiều năm nay nhưng cũng không biết đức mẫu tên thật là gì và ngôi miếu có từ bao giờ. Các cụ trong làng cũng không ai rõ, chỉ biết ngôi miếu rất thiêng, đặc biệt có thể gọi sữa cho những sản phụ bị tắc sữa, ít sữa sau sau sinh. Hiện nay, hàng ngày có nhiều ông bố bà mẹ khắp nơi về đây xin sữa về cho con bú”.
Miếu mẹ nhỏ bé nằm trọn dưới tán cây bạc lộc cổ thụ hướng ra cánh đồng làng. Trước cửa miếu mẹ lệch hướng Đông là giếng sữa được kè bằng gạch đá ong. Đường kính lòng giếng nhỏ, chỉ khoảng 60 cm, sâu 1 m. Nhìn xuống dưới đáy giếng chỉ thấy một ang nước nhỏ trong vắt. Nhìn thấu đáy có một tảng đá ong cổ đã bạc màu. Mực nước luôn luôn giữ ở mức lưng chừng.
Bà Sót cho biết, mực nước như vậy hầu như không thay đổi qua các mùa, các năm. Dù mùa mưa, nước ở cánh đồng dâng lên cao hay mùa cạn nứt toác cánh đồng thì nước trong giếng vẫn vậy. Nhiều năm trước, từng có đoàn người ở Hà Nội hàng trăm người về dùng can, thùng xin nước liên tục kéo dài ra tận đầu ngõ. Nhưng múc mãi nước cũng không hao đi chút nào.



Xin sữa cho sản phụ
Bà Sót giải thích chuyện giếng cổ có thể xin sữa cho sản phụ tưởng như chỉ có trong truyền thuyết nhưng đây là sự việc có thật. Những người tới xin sữa tại đền mẫu này hầu hết là các bà mẹ gặp phải chứng tắc sữa, ít sữa. Những sản phụ này không hẳn phải tự đến mà chồng, mẹ chồng hay người thân trong gia đình cũng có thể tới xin hộ.
Gọi là "lễ" nhưng cũng rất đơn giản. Người tới xin sữa chỉ cần thành tâm đọc rõ tên tuổi, địa chỉ bố mẹ và cháu bé thiếu sữa kèm theo thẻ hương trái oản và vài đồng tiền lẻ. Ông bố thì để lại 7 đồng, bà mẹ thì để lại 9 đồng tiền lẻ tại miếu và ra giếng tự tay múc nước cho vào chai.
Nước mang về rót một lần ra cốc cho sản phụ uống hết không được đổ bỏ. Số còn lại mang đi nấu cháo hoặc đun lên cho sản phụ dùng. Một hai ngày sau, sữa mẹ sẽ về.
Bà Lê Toán (64 tuổi), trú ở xã Thụy An (Ba Vì, Hà Nội) có con dâu mới sinh được 3 tháng nhưng ít sữa, cháu bé vì thế hay khóc, chậm lớn hơn trẻ cùng lứa. "Nhiều người mách, tôi cùng con trai tới tới giếng sữa ở miếu mẹ xin về cho cháu. Xin nước về cho con dâu uống chỉ một ngày, mẹ cháu đã căng đầy sữa cho con bú", bà Toán cho hay.
Nhiều bà mẹ ở xa thiếu sữa cho con cũng tìm tới đây. Cách đây vài ngày có một bà mẹ tên Lan ở Phú Thọ về đây xin sữa khi trời đã tối và có mưa giông. Chị Lan cho biết tình trạng thiếu sữa cả tháng trời khiến gia đình phải dùng sữa bột thay thế nhưng con trai không chịu ăn. Sợ nhờ người thân đi xin sữa ở miếu mẹ không linh ứng, chị Lan tự đi một mình lên đây.
Cảm thông tấm lòng người mẹ, bà Sót mặc áo mưa ra giếng xin nước cho người phụ nữ đó. Hôm sau sữa về, chị Lan mừng rỡ gọi điện lên.
"Có những bà mẹ ở rất xa vùng Hà Nam, Nam Định, Thái Bình gọi điện về xin sữa. Tôi ra miếu xin cho họ theo thông tin cá nhân được cung cấp. Miếu mẹ cũng cho các sản phụ sữa ngay sau đó. Nhiều người lặn lội từ dưới đó lên cảm tạ", bà Sót kể.
Ông Dương Hữu Phương, Trưởng thôn Cam Lâm cho biết, trước đây, ngôi miếu rất nhỏ giữa rừng cây um tùm. Cách đây 10 năm, người dân trong thôn cùng xây gạch đá ong tôn lên cao bao quanh bảo vệ giếng, từ miếu ra giếng được xếp gạch chỉ cẩn thận. Mới đây, mái miếu được tu sửa lại chống dột.
"Chuyện ngôi miếu mẹ có giếng cổ xin được sữa là có thật từ bao đời nay ở thôn. Ngôi miếu và giếng có từ lâu đời, các cụ thân sinh của tôi cũng chỉ nói lại như vậy", ông Phương cho hay.  ( Hoàn Nguyễn ).


3.6 ĐỀN THỜ MẪU Ả LAN CAM LÂM .


Gần cạnh Giếng Sữa ở Cam Lâm có một khu Đền thờ khá là hoang vắng . Hiện nay chỉ còn một ngôi miếu nhỏ như hình trên. Theo cụ Thủ Đền thờ Bố Cái Đại Vương là Kiều Văn Lương thì đó là Đền thờ mẫu Ả Lan và hiện nay có 2 bà thủ Đền trông coi. dienbatn khảo sát khu vực này khá kỹ trong nhiều năm và nhận thấy đây là khu vực đã kết Huyệt khá mạnh . Khi ngồi Thiền tại khu vực này, điển về áp rất mạnh . Đây chính là khu vực kết Huyệt của vùng Cam Lâm - Đường Lâm - Sơn Tây. Tuy nhiên theo đánh giá của dienbatn , khu vực này chỉ có thể làm nơi thờ cúng Tâm linh chứ không thể đặt mộ được vì dòng Khí ở đây khá sát.



Tham khảo tài liệu , dienbatn thấy có những tư liệu sau :
"Lê Thị Lan - Tướng quân: Khởi nghĩa ở Đường Lâm - Sơn Tây. Được Trưng Vương phong là Nhu Mẫn công chúa, lĩnh ấn Trấn tây tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Hán trung. Hiện ở Hạ Hoà, Vĩnh Phúc có miếu thờ. "
Đền thờ nữ tướng Lê Ngọc Lan (thờ hai Bà Trưng) um xùm cây cối. Cây ôm đền trong lòng, từ xa chỉ nhìn thấy một vòm xanh nối giữa một vùng đỏ đất. Có những gốc đa to 3- 4 người ôm, rễ thả to như cuốn bắp bám thẳng vào lòng đất. Biết bao bộ phim đã được quay tại đây, đã chọn nơi này để dựng lại lịch sử."
Đền Nghè - Đình Đông được xây dựng theo kiến trúc cổ tự nhiều đời nay tại khu vực bãi nghè thuộc khu 3 thôn Đông Thành xã Văn Lang nằm sát quốc lộ 32.
Về vị trí đất đai: Dải đất xã Văn Lang nói riêng và Hạ Hòa nói chung qua sử sách ghi lại thì miền đất này thuộc bộ Văn Lang, thời Hán, thế kỷ thứ 2 trước công nguyên đến thế kỷ thứ 3, thuộc huyện Mê Linh - quận Giao Chỉ, đến thế kỷ thứ 10 thuộc huyện Đức Hòa - Phong Châu. Đến dời Lê - Lý - Trần thuộc miền đất Hạ Hòa, đạo Châu Giang, lộ Tam Giang. Thời Hậu Lê, đầu Nguyễn thuộc Hạ Hòa, phủ Thao Giang, trấn Sơn Tây, và từ cuối thế kỷ 19 có tên gọi là xã Văn Lang, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ
Sự kiện nhân vật lịch sử của di tích: Đền Nghè là nơi thờ 2 vị tướng tài thời Hai Bà Trưng đã có công đánh giặc cứu nước. Tương truyền thời Tây Hán (Trung Quốc) ở xứ Đường Lâm thuộc Sơn Tây có 2 vợ chồng ông Lê Tuân và Đặng Thị Thẹ thuộc dòng dõi Thế Phật Châm Anh, ông làm nghề dạy học và làm thuốc, bà thì lao động cần cù sống lương thiện không làm gì hại ai nên nhân dân xa gần ai cũng tôn trọng. Khi hai ông bà tuổi đã cao nhưng chưa có con đã đem của cải đi phân phát cho người nghèo đồng thời đi lễ các đền miếu để cầu con. Có lần đi du ngoạn đến Văn Lang thấy có một ngôi miếu linh thiêng (nay là miếu Nam Sang) liền sửa lễ cầu con...và kết quả đến ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Dần ông bà sinh được một bọc gồm một trai, một gái. Người con gái ra trước nên được gọi là chị. Ba năm sau các con đã lớn ông bà đặt tên cho con gái là Ả Lan, con trai là Anh Tuấn. Ít sau cha mẹ qua đời, 2 chị em làm lễ an táng cho cha mẹ. Sau 3 năm đoạn tang, hai chị em đã khôn lớn cũng là lúc đất nước có nhà Đông Hán Trung Quốc.
Tô Định là thái thú quận Thao Giang cai trị rất tàn ác đã giết hại Thi Sách là chồng của bà Trưng Trắc cùng bao dân lành khác. Với nợ nước, thù nhà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã đứng dậy phất cờ khởi nghĩa đánh giặc được nhân dân đi theo rất đông.
Ở xã Đường Lâm 2 chị em Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn đã kết nghĩa với nhiều người nay nghe theo lời linh của hai bà Trưng đã chiêu mộ được hơn hai nghìn binh sỹ về Mê Linh yết kiến hai bà. Lê Ả Lan được phong là Nội Thị Tướng Quân, Lê Anh Tuấn được phong là Chỉ Huy Xứ Đại Tướng Quân và cử hai chị em Tuấn phòng chấn thủ miền Thao Giang kiêm Truy Bộ Điển phòng thủ đánh giặc, qua nhiều ngày đêm hành quân hai chị em kéo quân đến đất Văn Lang thấy nơi đây có địa thổ đẹp bèn đóng trại lập ấp làm căn cứ đánh giặc và nuôi quân sỹ, đồng thời mổ trâu ngựa để yết cáo với trời đất sơn thủy bách thần, khao thưởng quân sỹ và ban phát cho dân làng (vào ngày 13 tháng 3 âm lịch).
Vào một ngày có lệnh của Hai Bà Trưng hai chị em về yết kiến để bàn mưu đánh giặc. Khi các chủ tướng và binh sỹ đã tề tựu đông đủ, lệnh hai bà truyền: nam tướng nam binh, nữ tướng nữ binh thẳng hướng đánh thành Hà Bắc, là thủ phủ của thái thú Tô Định. Quân giặc thua to phải chạy về Đông Hán. Quân hai bà Trưng thắng lớn thu hồi 6 tỉnh thành trì cùng toàn cõi đất nước.
Từ đó nhân dân tôn Trưng Trắc làm vua và trị vì thiên hạ. Nói về hai vị tướng quân: bà Lê Ả Lan và ông Lê Anh Tuấn trong trận đánh do hai người chiến đấu dũng cảm, giết được nhiều giặc... hai chị em được Trưng vương ban thưởng đạo Tây Sơn, thực ấp địa đầu Thao Giang, luyện sỹ an dân. Văn Lang ngày càng được mở rộng và củng cố vững chắc. Cuối cùng hai chị em cùng từ trần ở Văn Lang.
Dân gian truyền lại rằng: hai chị em đều hóa (tức chết) tại cánh đồng Sang, dưới chân núi Am Thuộc xã Văn Lang vào ngày 25/8 âm lịch.
Sau khi hai vị mất, dân trong khu đã báo về kinh đô Trưng nữ vô cùng thương tiếc và xuống chiếu cho Văn Lang trang lập miếu thờ và ra sắc phong cho hai vị:
- Nhất phong Ả Lan Nương Đức Hạnh Đoan Trang Công Chúa và tặng phong "Hằng Nga Uyển Mỵ Trinh Phụ Phu Nhân"
- Phong thần hiệu cho Lê Anh Tuấn : Lê Anh Tuấn Hiển Vinh Uy Dũng Đại Vương và tặng phong: "Tế Thế Hộ Quốc An Dân, Phu Vạn Quảng Đại Cao Minh, hiệu Hựu Hùng Chấn Đại Vương Thượng Đẳng Thần"
Từ đó về sau các đời triều gia phong như sau :
Đời Trần Nhân Tông có sắc phong: "Đức Vua Bà Ả Lan Nương Ngọc Phận Hằng Nga Công Chúa"
"Đức Vua Ông Hiển Hựu Trợ Thuận An Uy Hùng Tuấn Đại Vương Thượng Đẳng Thần"
Đời Lê Thái Tổ có sắc phong: "Ả Lan Nương Huê Hòa Đức Hạnh Trinh Thục Công Chúa"
" Phả Kế Cương Nghị Hùng Kiệt Tuấn Khanh Đại Vương"
Từ đó về sau để tỏ lòng tôn kính hai vị tướng quân nên nhân xã Văn Lang có ban khánh tiết giúp địa phương quản lý, bảo vệ trông coi và tổ chức tế lễ hương khói các ngày tuần ngày tiết. "Lễ tiệc và hèm tục" cụ thể như sau :
1. Ngày mùng 10 tháng Giêng: "Lễ cầu phúc rước nước" lễ lấy nước để phục vụ cho việc thờ cúng quanh năm. Trong Rước nước có gắn hèm tục là đánh trận giả để diễn lại tình trò quân Hai Bà Trưng đánh giặc
2. Lễ tiệc ngày sinh hai vị: vào ngày 12 tháng Giêng (âm lịch)
hèm tục cúng lợn đen múa hát 3 ngày liền
3. Lễ tiệc khao quân: vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch)
Hèm tục: là mổ trâu đen "gọi là bì oa trữ nhục" tức là lấy da trâu căng làm nồi nấu thịt
4. Ngày hoá 25/8: Tục truyền hai vị thần đi thăm doanh trại các tướng lĩnh tại khu núi Am, bất chợt gặp một cơn đại phong, ác vũ, mưa bão, sấm sét dữ dội ai ở đâu chỉ biết có đó... chỉ trong khoảnh khắc cơn mưa đã tan các tướng sỹ đi tìm thủ lĩnh ở chân núi Am chỉ thấy hỡ vạt áo và hình tích của hai vị. Sau khi nhận tin hai vị đã mất vua đã phong: "sinh vi tướng, tử vi thần" và chỉ sắc cho Văn Lang trang lập hai vị thành hoàng từ đó. Như vậy: Đền Nghè là nơi thờ tưởng niệm, lưu niệm sự kiện nhân vật lịch sử có thật, là hai vị tướng giỏi thời hai bà Trưng đã có công với dân với nước. Sự nghiệp đấu tranh dựng và giữ nước của tổ tiên ông cha ta qua hàng ngàn năm lịch sử đã hun đúc nên đức tính cao đẹp, bản lĩnh và năng lực sáng tạo của dân tộc Việt Nam. " ( http://hahoa.phutho.gov.vn/ )



* 4 chữ Triện trên là NGUYÊN - HANH - LỢI - TRINH. ( 元 亨 利 貞 ).
Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh là 4 đức của Trời. Thể theo tính lý này mà Thánh-nhân đặt ra 4 đức của người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.
Thời thượng-cổ Thánh-nhân bắt đầu vạch ra tám quẻ, đạo của ba tài đủ rồi, nhân đó lại trùng điệp lên cho đủ hết các sự biến đổi của trời đất. Thế nên sáu vạch thành một quẻ kép. Hai quẻ Kiền đơn họp lại thành Bát-thuần Kiền. Kiền tức là Trời: chữ “Trời” chỉ về hình thể của trời, chữ “kiền” chỉ về tính-tình của trời. Kiền nghĩa là mạnh, mạnh mà không nghỉ gọi là Kiền.
Nguyên, Hanh, Lợi,Trinh là 4 đức tính củaTrời: 
- Nguyên là muôn vật bắt đầu.
- Hanh là muôn vật lớn lên.
- Lợi là muôn vật được thoả.
- Trinh là muôn vật đã thành.
* Bức ảnh thứ 2 ghi : " Thời tại Bính dần niên , Quý Xuân Nhâm Tý nhật , Mão khắc động thổ bình cơ , Ất Mão nhật , Dậu thời kiên trụ thượng lương cát."
( Chu Xuân Giao dịch hộ dienbatn.).
Dịch nghĩa ra là Giờ Mão, ngày Nhâm Tý ( Quý Xuân :  Tháng 3 - 三月:Quý xuân - 季春 ), năm Bính Dần động thổ , san nền ( Bình cơ 平  基) . Giờ Dậu ngày Ất Mão thượng lương cát.
Cũng theo Chu Xuân Giao , 2 bản khắc trên có niên đại tương đối gần , chỉ khoảng vài chục năm. Tra lại lịch ta có năm Bính Dần là các năm : 1926 , 1986 . Tháng 3 Thìn năm Bính dần 1926 không có ngày Nhâm Tý, chỉ có tháng 3 ( Nhâm Thìn ) 1986 Bính Dần có ngày 30 là ngày Nhâm Tý .
Như vậy thời gian xây hay trùng tu Đền này rất có khả năng vào tháng 3 năm Bính Dần 1986. 
Long mạch khu vực Giếng Sữa và Đền mẫu Ả Lan.




Xin theo dõi tiếp bài 8. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *