GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 3.

6/21/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. 
BÀI 3.
Miếu Triệu Tường.
BÀI 3.
I. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
1.TƯ LIỆU :
Nguyễn Kim là người đặt nền móng cho các chúa Nguyễn sau này. Sinh thời ông không tự xưng danh chúa nhưng được con cháu chúa Nguyễn sau này tôn miếu hiệu Triệu Tổ và được phong thụy hiệu Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương xem như là chúa. Tuy nhiên ông không được xem là vị chúa Nguyễn đầu tiên. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh hoàng đế (貽謀垂裕欽恭惠哲顯祐宏休濟世啟運仁聖靖皇帝).
Năm 1545, khi Nguyễn Kim mất được đưa đến án táng tại núi Thiên Tôn. Năm 1803 vua Gia Long cho xây gần đó một miếu 3 gian 2 chái thờ Nguyễn Kim và để thờ vọng Nguyễn Hoàng (1558 – 1613). Miếu được đặt tên là Nguyên miếu (sau còn gọi là miếu Triệu Tường). Cạnh đó còn có miếu thờ Trừng Quốc Công thân phụ Nguyễn Kim. Năm 1808, Gia Long đặt tên cho khu mộ Nguyễn Kim là lăng Trường Nguyên (lăng này không có dấu vết rõ ràng nên chỉ xây nên một nền vuông để bái yết và cúng tế).
Làng Gia Miêu trước kia thuộc huyện Tống Sơn (Hà Trung ngày nay) là quê hương gốc rể cội nguồn của Hòang tộc Nguyễn ở Thanh Hóa. Vì tính chất thiêng liêng đặc biệt ấy nên nhà Nguyễn gọi Gia Miêu là đất Quý Hương (tên Nôm gọi là Bái Đền), gọi huyện Tống Sơn là Quý Huyện.

Lăng Triệu Tường. - Tên lăng chính thức là Trường Nguyên. Lăng tọa lạc tại vùng núi Triệu Tường nên thường gọi là lăng Triệu Tường, nơi hợp táng ông bà Nguyễn Kim (tức Triệu Tổ Tĩnh Hòang Đế và Hòang hậu triều Nguyễn - thân sinh và thân mẫu của chúa Tiên Nguyễn Hòang).

Khu Lăng miếu Triệu Tường (ảnh tư liệu).
Miếu Triệu Tường.- Với các vua nhà Nguyễn, có lăng (nơi chôn) luôn có miếu (nơi thờ) kèm theo. Đã có lăng Triệu Tường thì phải có Miếu Triệu Tường. Lăng và miếu thường xây dựng gần nhau, cùng trong một khu vực. Nhưng không hiểu sao, lăng Trường Nguyên (lăng Triệu Tường) táng trong vùng núi Triệu Tường còn Miếu Triệu Tường lại xây dựng ở cánh đồng tại thung lũng chân núi, cách khu vực lăng trên dưới 1 km, sát con đường Thành phố Thanh Hóa đi huyện miền núi Thạch Thành.
Hình ảnh miếu Triệu Tường trước năm 1945.
Trục Thần đạo Lăng Triệu tường.
Miếu Triệu Tường đã được quy hoạch, phục dựng lại.
Lăng Trường Nguyên - nơi an táng Chiêu Huân Tĩnh công Nguyễn Kim.
Trừng Quốc Công miếu (miếu thờ Trừng Quốc Công): Ở ngay phía tả nguyên miếu. Nhà chính và nhà ngoại đều 3 gian. Gian chính giữa thờ Trừng Quốc Công (là con của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế), quay về hướng nam. Gian tả phối (thờ phụ thêm) Lỵ Nhân Công, quay về hướng tây. Hàng năm tế lễ theo như Nguyên miếu. Miếu này dựng lên từ năm Gia Long thứ ba"
Như vậy, Nguyên miếu là nơi thờ Nguyễn Kim (Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế) và Nguyễn Hoàng (con Nguyễn Kim - tức Gia Dụ Hoàng Đế), còn Trừng Quốc Công miếu là nơi thờ Nguyễn Hoằng Dụ - thân phụ Nguyễn Kim và Nguyễn Văn Lang - thân phụ Nguyễn Hoằng Dụ (tức Lỵ Nhân Công).
Di tích Lăng miếu Triệu Tường được vua Gia Long cho xây dựng năm 1803, tại thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, là nơi phát tích của 9 chúa, 13 vua triều Nguyễn. Đây là công trình kiến trúc tưởng niệm - miếu thờ của vương triều Nguyễn, được xây dựng với quy mô lớn, có giá trị đặc biệt về kiến trúc và nghệ thuật trang trí điêu khắc. Trải qua những biến động của lịch sử, Lăng miếu Triệu Tường đã bị san phẳng, nay chỉ còn dấu tích nền móng. Qua các cuộc khai quật thám sát khảo cổ đã cho cái nhìn tổng thể về quy mô, loại hình, kiểu kiến trúc cũng như diện tích xây dựng của khu di tích. Điều đó giúp công tác tôn tạo, phục dựng lại di tích có đầy đủ cơ sở khoa học trả lại cho di tích có được hình hài vốn có của nó.
9 ĐỜI CHÚA NGUYỄN.
Theo lịch sử, triều Nguyễn có 9 đời chúa và 13 đời vua. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng là vị chúa Nguyễn đầu tiên đặt nền móng cho vương triều Nguyễn và Bảo Đại là vị vua cuối cùng, trong khoảng thời gian gần 400 năm bắt đầu từ năm 1558 và kết thúc vào năm 1945.
9 chúa nhà Nguyễn cùng an giấc nghìn thu ở một xã.
Xã Hương Thọ (thị xã Hương Trà, Thừa Thiên Huế) là nơi được người xưa chọn đặt lăng của 9 chúa Nguyễn và 2 vị vua triều Nguyễn.
1.     Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên hay Tiên vương (1525–1613), con út của Triệu Tổ Nguyễn Kim, xưng chúa năm 1558, có 10 con trai và hai con gái. Một người con gái lấy chúa Trịnh Tráng. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế. Ông là vị chúa Nguyễn đầu tiên.Lăng của Chúa Nguyễn Hoàng ở làng La Khê – Huyện Hương Trà – HUẾ. Lăng Trường Cơ (chữ Hán: 長基陵), tức lăng của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế - Nguyễn Hoàng, là vị chúa Nguyễn đầu tiên của 9 đời Chúa Nguyễn. Gia Long hoàng đế đã truy tôn ông và xây dựng lăng tẩm. Lăng thuộc địa phận xã La Khê, huyện Hương Trà (nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Nguyên trước lăng được lập ở núi Thạch Hàn, huyện Vũ Xương, tỉnh Quảng Trị, về sau mới dời đến vị trí này. Lăng nằm bên tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 300m, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10 km đường chim bay về phía Tây- Nam.
Lăng Trường Cơ của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế Nguyễn Hoàng (1525-1613), nằm tại trung tâm thôn La Khê.Lăng cách bờ sông Hương chừng 300 m, xoay mặt về hướng chính Bắc.

Toàn cảnh công trình lăng chúa Nguyễn Hoàng được trùng tu - Ảnh: P.T.H
2.  Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Sãi, Chúa Bụt hay Sãi vương (1563–1635), con trai thứ sáu của chúa Tiên, kế nghiệp năm 1613 vì các anh đều chết sớm và một anh bị chúa Trịnh giữ tại Đàng Ngoài, có 11 con trai và bốn con gái. Chúa Sãi là người đầu tiên trong dòng họ mang họ Nguyễn Phúc. Tương truyền lúc mẹ ngài có thai chiêm bao thấy có vị thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ "Phúc". Lúc kể lại chuyện, mọi người chúc mừng bà và đề nghị đứa bé ra đời được đặt tên là "Phúc". Nhưng bà nói rằng, nếu chỉ đặt tên Phúc cho đứa bé thì chỉ một mình nó hưởng, để cho nhiều người trong dòng họ được hưởng phúc, bà đề nghị lấy chữ này làm chữ lót. Và khi thế tử ra đời bà đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hy Tông Hiếu Văn hoàng đế. Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên qua đời năm 1635, ở ngôi chúa 22 năm, hưởng thọ 73 tuổi. Ban đầu, ông được an táng tại Sơn Phận, huyện Quảng Điền, sau được cải táng về vùng núi Hải Cát, Hương Trà, Thừa Thiên (nay thuộc thị xã Hương Trà, Thừa Thiên Huế). Tên lăng là Trường Diễn. Đời vua Gia Long, ông được truy tặng miến hiệu Hy Tông.

Lăng Trường Diễn của Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635), nằm ở thôn Hải Cát.Lăng ở phía tả ngạn sông Hương, cách bờ sông khoảng 350m, xoay về phía Tây Nam.




3.     Nguyễn Phúc Lan tức Chúa Thượng hay Thượng vương (1601–1648), con trai thứ hai của chúa Sãi, kế nghiệp năm 1635 vì anh trưởng chết sớm, có ba con trai và một con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thần Tông Hiếu Chiêu hoàng đế.Cuộc chiến lần thứ 4 với quân Trịnh, Chúa Phúc Lan đã phải tự cầm quân ra hỗ trợ. Sau Chúa thấy trong người không được khỏe, mới trao binh quyền cho con trai là Nguyễn Phúc Tần và tướng Nguyễn Hữu Dật chỉ huy còn mình thì rút về. Ðến phá Tam Giang thì Chúa mất, hưởng thọ 48 tuổi. Lăng mộ táng tại làng Chiêm Sơn, gò Cốc Hùng, Quảng Nam. Tên lăng là Vĩnh Diên.Con trai ông là Nguyễn Phúc Tần lên kế nghiệp, tức Hiền vương.
Lăng Trường Diên của Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế Nguyễn Phúc Lan (1601-1648), nằm ở thôn La Khê Trẹm.Lăng nằm gần phía dòng Hữu Trạch của sông Hương, cách bờ sông khoảng 300 m, xoay mặt về hướng Bắc. Hiện lăng Trường Diên xuống cấp nghiêm trọng, bờ thành ngoài bị vỡ, bên trong cây cỏ mọc um tùm.
4.   Nguyễn Phúc Tần tức Chúa Hiền hay Hiền vương (1620–1687), con trai thứ hai của chúa Thượng, kế nghiệp năm 1648 vì cả anh lẫn em đều chết sớm, có sáu con trai và ba con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế. Lăng được đặt tên là Trường Hưng lăng (長興陵), thụy hiệu của ông là Công Cao Đức Hậu Dũng Triết vương (功高德厚勇哲王). Vào đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, ông được tặng miếu hiệu là Nghị Tổ (毅祖), thụy hiệu cải thành Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Chánh Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết vương (宣威建武英明莊正聖德神功孝哲王).
Lăng Trường Hưng của Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Đế Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), dân gian quen gọi là lăng Chín Chậu, nằm ở thôn Hải Cát.Lăng ở tả ngạn sông Hương, cách bờ sông khoảng 800 m, xoay mặt về hướng Đông Bắc.

5.     Nguyễn Phúc Thái tức Chúa Nghĩa hay Nghĩa vương (1650–1691), con trai thứ hai của chúa Hiền, kế nghiệp năm 1687 vì anh trưởng chết sớm, có năm con trai và năm con gái. (Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả thì chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Thái, còn Nguyễn Phúc Trăn không có, mà chỉ có Nguyễn Phúc Trân, em kế của chúa tức Cương quận công). Chúa Nghĩa là người dời đô đến Huế. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế. Mùa xuân năm 1691, chúa Nghĩa ốm nặng, ông triệu thế tử là Tộ Trường hầu Nguyễn Phúc Chu đến và căn dặn: "Ta vâng theo mối trước, vẫn mong sao nối theo được chí, làm theo được việc. Con nay kế nghiệp, nên noi công đức của tổ tông, cầu hiền đãi sĩ, yêu dân thương quân, đừng tin lời nói gièm pha, đừng bỏ những người ngay thẳng, để xây dựng nghiệp lớn, đó là điều đại hiếu". Cùng ngày, chúa Nghĩa qua đời, thọ 42 tuổi.  Lăng mộ táng tại núi Kim Ngọc (Định Môn, Hương Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Mậu. Thế tử Phúc Chu lên kế nghiệp, tức Chúa Minh.Sau này, Nhà Nguyễn truy tôn ông miếu hiệu là Anh Tông, thụy là Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa hoàng đế.
Lăng Trường Mậu của Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thái (1650-1691), nằm ở thôn Kim Ngọc.Lăng ở phía tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 1,5 km, trên một quả đồi cao, xoay mặt về hướng bắc, trước mặt lăng có hồ rộng.
6.     Nguyễn Phúc Chu  tức Chúa Minh hay Minh vương (còn gọi là Quốc chúa, chữ Hán: 國主) (1675–1725), con trai trưởng của chúa Nghĩa, kế nghiệp năm 1691, có 38 con trai và bốn con gái. Chúa Minh là người đầu tiên sai sứ sang nhà Thanh để xin phong vương nhưng không được công nhận vì nhà Thanh vẫn xem vua Lê của Đàng Ngoài là vua của toàn xứ Việt lúc đó. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế. Lăng mộ táng tại Kim Ngọc, Hương Trà, Thừa Thiên. Tên lăng là Trường Thanh .Về sau, nhà Nguyễn truy tôn ông là Hiển Tông, thụy là Anh Mô Hùng Lược Thánh Minh Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh hoàng đế.
Lăng Trường Thanh của Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu (1675-1725), nằm ở thôn Kim Ngọc. Lăng ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông 800 m,  xoay mặt về hướng Đông Nam, trước mặt là đồng ruộng.

7.     Nguyễn Phúc Chú  tức Chúa Ninh hay Ninh vương (1697–1738), con trai trưởng của chúa Minh, kế nghiệp năm 1725, có ba con trai và sáu con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế. Ở ngôi chúa 13 năm, chúa Nguyễn Phúc Chú qua đời vào ngày 20 tháng 4 năm Mậu Ngọ (7 tháng 6 năm 1738) lúc 42 tuổi.Chúa Ninh được an táng tại lăng Trường Phong nằm trong khu Thiên Thọ Lăng (Lăng Gia Long) ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Triều thần dâng thụy hiệu cho chúa là Đại đô thống Tổng quốc chính Vũ Hiếu Ninh vương. Năm Bính Dần (1806), vua Gia Long lại truy tôn là Hiếu Ninh hoàng đế, miếu hiệu là Túc Tông, đưa long vị vào thờ tại Thái Miếu, án thứ ba bên phải . Chúa Nguyễn Phúc Chú được đánh giá là người đã có công trong việc thiết lập đơn vị hành chính mới, giữ gìn và mở mang vùng đồng bằng sông Cửu Long .
Lăng Trường Phong của Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Chú (Thụ) (1697-1738), nằm ở thôn Định Môn.Lăng ở bên cạnh khe Trường Phong, cách bờ sông Hương gần 2 km, xoay mặt về hướng chính Đông  Bắc.

 
8.    Nguyễn Phúc Khoát tức Chúa Vũ hay Vũ vương (1714–1765), con trai trưởng của chúa Ninh, kế nghiệp năm 1738, có 18 con trai và 12 con gái. Vì năm 1744 vào dịp Tết Nguyên Đán có một cây sung nở hoa và một lời sấm 'Bát thế hoàn trung đô'. Đến lúc này chúa Trịnh đã xưng vương nên Nguyễn Phúc Khoát cũng gọi mình là Vũ vương vào năm 1744 và xem Đàng Trong như một nước độc lập. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thế Tông Hiếu Vũ hoàng đế. Ngày 7 tháng 7, năm 1765, Chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát qua đời, thọ 51 tuổi. Ông được táng tại Trường Thái lăng ở làng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên). Đến đời Gia Long, Chúa Võ được thờ tại Thái Tổ Miếu (tức Thái Miếu trong Hoàng thành Huế), án thứ tư bên tả.Nguyễn Phúc Thuần, con trai thứ 16 của Chúa Võ lên ngôi, dâng thụy hiệu cho cha là: Trí Hiếu Vũ Vương. Năm Bính Dần (1806), Vua Gia Long truy tôn là: Trí Hiếu Võ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thế Tông.
Lăng Trường Thái của Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765), nằm ở thôn La Khê.Lăng ở núi La Khê, xoay về hướng chính Bắc, trước mặt là đồng ruộng.

9.   Nguyễn Phúc Thuần tức Chúa Định hay Định vương (1754–1777), con trai thứ 16 của Vũ vương, kế nghiệp năm 1765, không có con. Khi còn sống, Vũ vương đã có ý định cho con trai thứ chín là Nguyễn Phúc Hiệu nối ngôi. Sau khi Nguyễn Phúc Hiệu chết, và con ông này hãy còn quá nhỏ, Vũ vương định cho con trai thứ hai của mình là Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn, là cha của Thế Tổ Cao hoàng đế Gia Long sau này) nối ngôi. Khi Vũ vương chết, một quyền thần trong triều là Trương Phúc Loan đã giết Nguyễn Phúc Luân rồi lập Nguyễn Phúc Thuần, lúc đó mới 12 tuổi, lên ngôi để dễ kiềm chế. Năm 1777, ông bị nhà Tây Sơn giết khi ở tuổi 26, chưa có con nối dõi. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế.
Lăng Trường Thiệu của Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thuần (1754-1777), ở thôn La Khê. Lăng ở tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông chừng 400 m, gần lăng Trường Cơ.

Mười ba vua .
Nhà Nguyễn được thành lập sau khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và chấm dứt khi vua Bảo Đại thoái vị năm 1945, trải tổng cộng 143 năm, có 13 vị vua thuộc 7 thế hệ.
Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn năm 1804 dưới triều vua Gia Long. Năm 1839 vua Minh Mạng đổi tên nước thành Đại Nam với ngụ ý một nước Nam rộng lớn, quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945 khi vua Bảo Đại đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam.
Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19, trải qua hai giai đoạn chính:
- Từ năm 1802–1858 là giai đoạn độc lập, từ khi vua Gia Long thống nhất đất nước đến các đời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.

- Từ năm 1858–1945 là giai đoạn bị Pháp xâm lăng và đô hộ, kể từ khi quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào tháng 8 năm 1945.
Trong bài có sử dụng tư liệu của Võ Thạnh .
( Còn tiếp - dienbatn ).
Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 2.

6/19/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. 
BÀI 2. ĐÔI ĐIỀU VỀ TÊN GỌI SÔNG TẢ - HỮU TRẠCH CỦA KINH THÀNH HUẾ.
Sông Hương hay Hương Giang (Hán Nôm 香江) là con sông chảy qua thành phố Huế và các huyện, thị xã: Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang đều thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam.
Sông Hương có hai nguồn chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn.Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về phía bắc khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác và vượt qua phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.
Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao hơn mấy so với mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trản, sắc nước sông Hương xanh hơn – đây là địa điểm Điện Hòn Chén. Tại đây có một vực rất sâu.
1/TẢ TRẠCH . 
+ Điểm đầu: Ngã tư Cây Xăng.
+ Điểm cuối: Xã Hương Lộc .
Là một con sông tại tỉnh Thừa Thiên Huế có chiều dài khoảng 70 km . Sông được bắt nguồn từ dãy Bạch Mã, huyện miền núi Hoà Vang, Đà Nẵng. Từ đây, sông chảy theo hướng Tây vào huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế; đến địa phận thị trấn Khe Tre, Nam Đông, sông đổi hướng chảy theo hướng Tây Bắc qua Phú Lộc, Hương Thủy, Hương Trà và hợp lưu với sông Hữu Trạch tại xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà đổ vào sông Hương .Sông chảy qua và làm một đoạn ranh giới tự nhiên giữa các huyện, Thị: Hương Thủy và Phú Lộc, Hương Thủy và Hương Trà.
Sông Tả Trạch: Là nhánh sông chính bắt nguồn từ vùng núi trung bình huyện Nam Đông với độ cao tuyệt đối 900m. Sông chính chảy theo hướng chung Nam Đông Nam - Bắc Tây Bắc cho tới ngã ba Tuần thì hội nhập với sông Hữu Trạch và trở thành sông Hương. Từ đây sông Hương uốn lượn quanh co qua kinh thành Huế và đến Bao Vinh lại chuyển hướng Tây Nam - Đông Bắc để rồi sau đó hội lưu với sông Bồ tại ngã ba Sình trước khi đổ ra phá Tam Giang và chảy ra biển theo hai cửa Thuận An và Tư Hiền. Tính đến Dương Hoà, chiều dài dòng chính là 54km, diện tích lưu vực là 717km2 và độ dốc bình quân lòng sông chính là 16,5m/km. Nếu tính đến nơi đổ ra phá Tam Giang, sông chính có chiều dài là 104km, diện tích lưu vực là 2.830km2 và độ dốc bình quân lòng sông là 8,65m/km.
2/HỮU TRẠCH.
Sông Hữu Trạch là phụ lưu hợp thành của sông Hương, chảy ở tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam .
Sông có chiều dài khoảng 50 km, đi qua và làm ranh giới tự nhiên giữa huyện A Lưới và thị xã Hương Thuỷ.
Sông bắt nguồn từ xã vùng núi A Roàng, huyện A Lưới. Từ đây sông chảy theo hướng đông đến địa phân tiếp giáp với thị xã Hương Thủy, đổi hướng sang hướng bắc chảy đến xã Bình Thành (thị xã Hương Trà) đổi sang hướng đông và hợp lưu với sông Tả Trạch tại xã Hương Thọ thị xã Hương Trà thành sông Hương .
Theo các từ điển tiếng Việt ta có :
Tả ngạn - Bờ bên trái một con sông tính từ đầu nguồn trở xuống.
Hữu ngạn - Bờ bên phải một con sông tính từ đầu nguồn trở xuống.
 ( Wiktionary tiếng Việtvi.wiktionary.org )
Nói một cách đơn giản : nếu nhìn theo dòng chảy của con sông , thì bờ phía tay trái là bờ Tả Ngạn , Bờ phía tay phải là bờ Hữu Ngạn.
 Hãy nhìn trên bản đồ vệ tinh :
Theo dienbatn : Hình như 2 con sông TẢ TRẠCH và HỮU TRẠCH phải đổi tên cho nhau mới đúng.????? Có lẽ các cụ ngày xưa nhìn về đầu nguồn và đặt tên như vậy chăng ????
Xin theo dõi tiếp BÀI 3. dienbatn.
Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 1.

6/18/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN.

Theo wikipedia  : “Kinh thành Huế hay Thuận Hóa kinh thành (chữ Hán: 順化京城) là một tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của triều đại nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ 1802 đến khi thoái vị vào năm 1945. Hiện nay, Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới.
Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Hiện nay, Kinh thành Huế có vị trí trong bản đồ Huế như sau: phía Nam giáp đường Trần Hưng Đạo và, Lê Duẩn; phía Tây giáp đường Lê Duẩn; phía Bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía Đông giáp đường Phan Đăng Lưu.
Bên trong kinh thành, được giới hạn theo bản đồ thuộc các đường như sau: phía Nam là đường Ông Ích Khiêm; phía Tây là đường Tôn Thất Thiệp; phía Bắc là đường Lương Ngọc Quyến và phía Đông là đường Xuân 68.
Từ thời các chúa Nguyễn, Huế đã từng được chọn làm thủ phủ xứ Đàng Trong: năm 1635-1687 Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng phủ ở Kim Long; đến thời Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Khoát đã dời phủ về Phú Xuân trong những năm 1687-1712; 1739-1774. Đến thời Tây Sơn, Huế vẫn được vua Quang Trung chọn làm thành kinh đô cho vương quốc của ông. Năm 1802, khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho Vương triều Nguyễn kéo dài suốt 143 năm, một lần nữa lại chọn Huế làm nơi đóng đô.
Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc Vauban.  Kinh thành Huế có 3 vòng thành lần lượt là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm Thành. Ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đã tiến hành khảo sát chọn vị trí xây thành mới, cuối cùng ông đã chọn vùng đất rộng bên bờ Bắc sông Hương gồm phần đất của các làng Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hoà, An Mỹ, An Bảo, Thế Lại cùng một phần của hai con sông Bạch Yến và Kim Long làm nơi xây thành . Về mặt phong thuỷ, tiền án của kinh thành là núi Ngự Bình cao hơn 100 mét, đỉnh bằng phẳng, dáng đẹp, cân phân nằm giữa vùng đồng bằng như một bức bình phong thiên nhiên che chắn trước kinh thành. Hai bên là Cồn Hến và Cồn Dã Viên làm tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ (rồng xanh bên trái, hổ trắng bên phải) làm thế rồng chầu hổ phục tỏ ý tôn trọng vương quyền. Minh đường thủy tụ là khúc sông Hương rộng, nằm dài giữa hai cồn cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho đô thành. Kinh thành Huế được đích thân Gia Long chọn vị trí và cắm mốc, tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chình vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh Thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài trong suốt 30 năm dưới hai triều vua.
Kinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt về hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha. Kinh Thành và mọi công trình kiến trúc của Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều xoay về hướng Nam, hướng mà trong Kinh Dịch đã ghi "Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ" (ý nói vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ).
Vòng thành có chu vi gần 10 km, cao 6,6m, dày 21m được xây khúc khuỷu với những pháo đài được bố trí cách đều nhau, kèm theo các pháo nhãn, đại bác, kho đạn; thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời Gia Long mới bắt đầu xây gạch . Bên ngoài vòng thành có một hệ thống hào bao bọc ngay bên ngoài. Riêng hệ thống sông đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức năng giao thông đường thủy có chiều dài hơn 7 km (đoạn ở phía Tây là sông Kẻ Vạn, đoạn phía Bắc là sông An Hòa, đoạn phía Đông là sông Đông Ba, riêng đoạn phía Nam dựa vào sông Hương).
Thành có 10 cửa chính gồm:
Cửa Chính Bắc (còn gọi cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh Thành).
Cửa Tây-Bắc (còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây).
Cửa Chính Tây
Cửa Tây-Nam (cửa Hữu, bên phải Kinh Thành).
Cửa Chính Nam (còn gọi cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố - nhà để đồ binh khí, lập thời Gia Long).
Cửa Quảng Đức.
Cửa Thể Nhơn (tức cửa Ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành con đường dành cho vua ra bến sông).
Cửa Đông-Nam (còn gọi cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàu ngựa nằm phía trong cửa).
Cửa Chính Đông (tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây).
Cửa Đông-Bắc (còn có tên cửa Kẻ Trài)
Ngoài ra kinh thành còn có 1 cửa thông với Trấn Bình Đài (thành phụ ở góc Đông Bắc của Kinh Thành, còn gọi là thành Mang Cá), có tên gọi là Trấn Bình Môn. Hai cửa bằng đường thủy thông Kinh Thành với bên ngoài qua hệ thống Ngự Hà là Đông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Chính giữa mặt trước thành có cột cờ, được gọi là Kỳ Đài.” ( https://vi.wikipedia.org).
BÀI 1.GIẢI MÃ ĐIỀU BÍ ẨN THỨ NHẤT.
1/ TƯ LIỆU : Theo ( https://vi.wikipedia.org) : “Kinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt về hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha. Kinh Thành và mọi công trình kiến trúc của Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều xoay về hướng Nam, hướng mà trong Kinh Dịch đã ghi "Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ" (ý nói vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ). “
Thực ra Kinh thành Huế không nằm theo trục Tọa Bắc triều Nam như đồng chí ( https://vi.wikipedia.org) nói. Điều này không theolẽ thường tình của thuật Phong thủy .
Theo cuốn “ 100 BÍ MẬT KINH ĐÔ HUẾ “ ( Minh Châu và DSC ) ‘ Trước khi xưng Đế , Vua Gia Long bắt đầu cho xây dựng Hoàng thành ( tức Đại nội ) từ tháng 4 năm Nhâm Tuất ( 1802 ). Đúng 2 năm sau , song song với kiến trúc Hoàng thành , Vua hạ lệnh cho xây Cung thành ( tức Tử Cấm thành ). Lại đúng 1 năm sau ( 1804 ) Vua bắt đầu cho xây Kinh thành ( còn gọi là Phòng thành hay Hộ thành ). Như vậy 3 hạng mục Cung thành , Hoàng thành và Kinh thành phần chính tạo ra kiến trúc Kinh thành Huế ngày nay ….
…Trước khi Vua Gia Long cho xây thành mới , ở Phú Xuân đã có thành cũ của các Chúa Nguyễn để lại , hay thành của Tây Sơn dựng lên . Nhưng thấy các tòa thành cũ kia quá nhỏ hẹp , nên Vua nghiên cứu địa bàn để mở rộng phạm vi cho kiến trúc mới. Đại Nam thực lục chính biên viết trong “ Kinh đô Thuận Hóa “ , Vua thân hành đi xem xét các địa điểm từ các làng Kim Long  đến Thanh Hà ( Bao Vinh ngày nay ) , đích thân đưa ra tiêu chuẩn và kích thước cần thiết để xây dựng thành lũy . Vua Gia Long cho ngăn chặn hoặc lấp một số đoạn của hai nhánh sông Kim Long và Bạch yến , và cũng lợi dụng một số đoạn của hai nhánh sông này để làm 2 con sông đào , một ở trong và 1 ở ngoài thành . Cả 2 con sông ấy đều được đào vào năm khở công Kinh thành ( 1805 ) , nhưng qua đến thời Minh Mạng , Vua mới đặt cho chúng 2 cái tên đẹp và chính xác : Ngự Hà và Hộ thành Hà ..
Khởi đắp năm 1805, Kinh thành choán hết địa phận của 8 làng : Phú Xuân , Vạn Xuân , Diễn Phái , An Vân , An Hòa , An Mỹ ,Thế Lại và An Bủu.Làng Phú Xuân bị mất đất nhiều hơn cả nên được Vua ban cho số bạc bồi thường , cộng thêm ruộng đất ở xung quanh huế và đến cả Quảng Trị và Quảng Bình . Tháng 3 , 1804 ,Vua xem xét địa thế từ làng Kim Long đến Thanh Hà thân chế kiểu thành rồi mới giao cho lính ở Kinh và dân các tỉnh mộ về làm . Ngoài những vật dụng tại chỗ , lại phải chở thêm rất nhiều đá từ Thanh Hóa vào.
Huế trước năm 1805 sông Hương có hai khúc sông nhánh là Bạch Yến và Kim Long , mảnh đất giũa sông Kim Long và sông Hương gọi là Vương đảo , nơi các Chúa Nguyễn đặt Kinh đô , cũng là nơi mà thành Huế được dựng lên , nhưng có thể lệch đi chút ít….
…Việc chọn đất định Đô xét về mặt Phong thủy , là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự ổn định và hưng thịnh  cho cả Triều đại và Quốc gia . Vì thế sau ngày lên ngôi, Vua Gia Long đích thân nghiên cứu tìm hướng tốt và cuộc đất phù hợp để xây dựng Kinh thành Huế.
Tổng thể Kinh thành Huế được đặt trong khung cảnh rộng, núi cao , thế đẹp , Minh đường lớn và có sông uốn khúc rộng.
Núi Ngự Bình cao hơn 100 m , đỉnh bằng phẳng , dáng đẹp , tọa lạc giữa vùng đồng bằng . Hai bên là Cồn Hến và Cồn Dã Viên vào thế Tả Thanh Long , Hữu Bạch Hổ - Là một thế đất lý tưởng theo tiêu chuẩn Phong thủy.
Minh đường Thủy tụ là khúc sông Hương rộng nằm giữa 2 Cồn , cong như một cánh cung , mang lại Sinh Khí cho Đô thành .
Do quan niệm “ Thánh nhân Nam diện nhi thính Thiên hạ “ ( Thiên tử phải quay mặt về hướng Nam để cai trị Thiên hạ ), đồng thời phải tân dụng được thế đất đẹp , nên Kinh thành và các công trình trong đó được bố trí đối xứng qua trục Dũng Đạo .
Quay mặt hơi chéch về hướng Đông Nam một góc , nhưng vẫn giữ được tư tưởng chính của thuyết Phong thủy . Đây là cách sáng tạo và linh hoạt của người quy hoạch trong việc vận dụng thuyết Phong thủy.
Mặt khác để tạo Phong thủy tốt , các nhà quy hoạch không chỉ xem hướng công trình mà cần xem xét ảnh hưởng của bố trí nội thất , các bộ phận và kết cấu trong công trình như chiều dài , rộng , cao , các cột , cửa.
Ví dụ : các bộ phận của Ngọ môn đều dựa vào những con số theo nguyên tắc của Dịch học như số 5, số 9 , số 100.
Năm lối vào Ngọ môn tượng trưng cho Ngũ hành , trong đó lối đi của Vua thuộc hành Thổ , màu vàng. Chính bộ mái của lầu Ngũ Phụng , biểu hiện con số 5 và 9 trong hào Cửu Ngũ ở Kinh dịch , ứng với mạng Thiên tử.
100 cột là tổng của các con số Hà Đồ ( 55 ) và Lạc Thư ( 45 )…Các con số này ta lại gặp ở sân Đại triều nghi với 9 bậc cấp ở phần sân dưới và 5 bậc cấp ở phần sân trên .Trên mỗi mái Điện Thái Hòa đều được đắp nổi 9 con rồng trong các tư thế khác nhau, và trong nội thất cũng tương tự ( 9 con rồng trong Long sinh cửu phẩm ).
Về vị trí và Phong thủy của Kinh thành Huế , các Sử quan triều Nguyễn đã nhận xét “ Kinh sư là nơi miền núi miền biển đều hợp về , đứng giữa miền nam , miền Bắc , đất cao ráo , non sông phẳng lặng.
Đường Thủy thì có cửa Thuận An , cửa Tư Hiền sâu hiểm, đường bộ thì có Hoành sơn , Ải Hải Vân ngăn chặn , sông lớn giữ phía trước , núi cáo giữ phí sau , Rồng cuốn Hổ ngồi , hình thế vững chãi ấy là do Trời Đất xếp đặt , thật là thượng Đô của nhà Vua “.
Theo sử sách , Gia Long chọn ngày tốt vào tháng 4 âm lịch ( 9/4/1804 ) để bắt tay vào xây dựng vòng trong thành ( vòng trong của Đại Nội ) với tổng chu vi 4 cạnh là 307 trượng, 3 thước 4 tấc ( 1.229 m ), thành bằng gạch xây cao 9 thước 2 tấc ( 3,68 m ) và dày 1 thước 8 tấc ( 0,72 m ) . Sau đó công việc tiếp tục qua nhiều giai đoạn , song nhìn toàn cục Kinh thành Huế quay mặt về hướng Đông Nam ( Cung Tốn ), thay vì hướng chính Nam như các Vua ,Chúa thường chọntheo thuật Phong thủy để xây dựng cung điện của mình.
Vì sao Vua Gia Long lại quyết định chọn hướng như thế ? Nguyễn Đăng Khoa đề cập đến trong “ Kỷ yếu Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam số 7/1991 rằng : những công trình kiến trúc của Kinh thành Huế được tiến hành theo một hệ thống các quy tắc hết sức nghiêm ngặt của các hình thế núi sông , Long mạch “ mặt bằng và độ cao thấp của địa hìnhđược người xưa quan niệm đó là văn của đất , có cao thấp , có sông suối , đầm , núi , tạo ra những nhịp điệu riêng của từng vùng – Những nhịp điệu lớn chung của nhiều vùng nhỏ tạo ra những đại cuộc đất “
Theo nhà nghiên cứu lý số , Phong thủy học giả Vĩnh Cao có 4 ý chính , nguyên văn :
” 1/ Kinh đô theo quan niệm Phong thủy ngày xưa đều hướng về Nam , nhưng ngay tại vùng Thừa Thiên , mạch núi  Trường sơn , đặc biệt là quần Sơn kề cận Kinh đô cho đến dãy Bạch mã, đều chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam . Dựa vào thế đất ấy , Kinh thành nhìn về hướng Đông Nam là tốt nhất.
2/Theo thuật Phong thủy bất cứ một ngôi nhà hay cung điện  gì thì phía trước gọi là Chu tước ( chim sẻ đỏ ) , thuộc hướng Nam, hành Hỏa. Phía trái ( từ ngoài nhìn vào ) gọi là Bạch Hổ (hổ trắng ) thuộc hướng Tây – Hành Kim . Phía phải thuộc Thanh Long ( rồng xanh ) thuộc hướng Đông – Hành Mộc . Phía sau thuộc Huyền vũ ( rùa đen ), thuộc hướng Bắc – hành Thủy . Đặt Kinh thành dựa theo hướng Thiên nhiên , dùng Ngũ hành mà sinh , khắc , chế,hóađể sửa đổi , tạo thế quân bình , rồi dùng Ngũ hành mà tạo Lục thân để đoán vị và quy hoạch , bố trí cung điện.
3/Phong thủy cũng quan niệm rằng : phía Tây thuộc về chủ, phía Đông thuộc về Thê thiếp, bạn bè, nô bộc , vật giá, châu báu , kho đụn , vật lại …tức là những thứ mà chủ sai khiến , sử dụng . Phía sau thuộc về Tử tôn , môn sinh , trung thần , lương tướng . Từ đó việc bố trí các cung điện , dinh thư …trong Kinh thành , Hoàng thành , Tử cấm thành cũng dựa vào nguyên tắc này mà phân bố chức năng .
4/ Kinh thành Huế xây dựng ở vùng đất có nước phủ bốn bề , theo Phong thủy là nơi tụ Thủy , đất phát tài . Nhưng phía Tây Kinh thành lại có núi Khí xung sát , sông Hương uốn khúc , vì thế hành Kim rất vượng . Điều này sẽ bất lợi cho phía Đông , chủ hành Mộc ( Kim khắc Mộc ) . Mộc yếu sẽ dẫn đến sự hạn chế cho của cải , dân chúng , thương mại …Kim động sẽ gây ra hại cho Dương trạch nên dễ sinh tật bệnh , tổn hại gia đạo . Vì thế cần phải có chùa , miếu ở phía tây để trấn. Đó là lý do ra đời Văn Miếu , chùa Thiên Mụ ở phía Tây Kinh thành Huế.
Bốn điều do học giả Vĩnh Cao lưu ý trên , theo nhận định của Trần Đức Anh Sơn đều xuất phát từ sự vận dụng Dịch lý và thuật Phong thủy vào địa hình cụ thể của Huế . Trước hết , hướng của Kinh thành Huế quay về hướng Đông Nam là do địa hình chi phối, vì nếu quay về hướng chính Nam như thường thấy , Huế sẽ  lập với con sông Hương chảy theo hướng Tây Nam – Đông Bắc , ngang qua Kinh thành Huế một góc 45 độ , khiến các yếu tố Phong thủy  sẽ không còn giá trị . trong khi đó , quay mặt về hướng Đông Nam , Kinh thành Hếu sẽ có con sông Hương làm vai trò Minh đường tụ Khí và được hưởng tính chất tốt của 2 hòn đảo nhỏ tức Cồn hến và Cồn Dã Viên . Thật vậy , theo GS Nguyễn Thiệu Lâu, đảo Thanh long và đảo Bạch Hổ cùng quay đầu về Kinh thành để các luồng âm và dương thổi qua bảo vệ .” (Trần Đức Anh Sơn ).
2/ PHẦN KIẾN GIẢI CỦA DIENBATN.
Trước hết ta nhìn Kinh thành Huế theo bản đồ google map sau :
1/ Trục Thần đạo (trục chính tâm, trục thiêng) của Kinh thành Huế.
Theo ( TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 73, số 4, năm 2012 ) :
“Đó là trục không gian. Dưới thời Gia Long kiến trúc đô thị Huế bắt đầu được hình thành rõ ràng, bài bản trong việc tổ chức các lớp không gian kiến trúc. Một trong những giá trị của kiến trúc truyền thống mà nhà Nguyễn đã để lại cho chúng ta là phương thức tổ chức không gian theo trục tạo lớp không gian. Phương thức này đã được áp dụng linh hoạt trong quá trình xây cất công trình và tạo dựng cảnh quan đô thị Huế. Tổ chức lớp không gian theo trục tạo sự định hướng, hình thành nên đặc trưng trong bố cục không gian đô thị.
Tổ chức không gian lớp trên trục thần đạo ở kinh thành Huế được tạo ra do quá trình thích ứng với khí hậu nhiệt đới gió mùa, công năng sử dụng, yếu tố phong thuỷ, quy luật thẫm mỹ, điều kiện văn hoá, các giai đoạn phát triển lịch sử,… Trục thần đạo là đặc điểm rất quan trọng trong kiến trúc truyền thống Huế và được sử dụng rất nhiều trong kiến trúc cung điện, lăng tẩm, đình chùa Huế...Vị trí Kinh thành Huế được lựa chọn cẩn thận, bao gồm đầy đủ các đặc trưng địa lý như là: sông, núi, đất đai bằng phẳng và các nét cảnh quan đặc trưng. Theo nguyên tắc phong thuỷ, dòng sông Hương và núi Ngự Bình đóng vai trò minh đường và bình phong cho Kinh thành; cồn Hến và cồn Dã Viên là hai yếu tố tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ hình thành nên các lớp không gian trong tổng thể đô thị Huế.” (Võ Ngọc Đức - Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế ).


Toàn cảnh Hoàng thành Huế năm 1932 với trục thần đạo chạy dọc theo bức ảnh. Ảnh: Aavh.org.
Các lớp không gian trên trục thần đạo từ Kỳ đài,Ngọ Môn, điện Thái Hoà .
PHẦN TÍNH TOÁN CỦA DIENBATN.
Hầu như tất cả các tư liệu đều không nói chính xác phân kim của Kinh thành Huế. Theo tính toán của dienbatn thì trục Thần Đạo của Kinh thành Huế nằm ở 145 độ .
Cung Tốn (Ðông-nam) có các sơn: 
a.     Thìn: nằm trong giới hạn từ 112.5 đến 127.4 độ. Chính Thìn 120 độ ,
b.     Tốn: nằm trong giới hạn từ 127.5 đến 142.4 độ. Chính Tốn 135 độ .
c.     Tỵ: nằm trong giới hạn từ 142.5 đến 157.4 độ. Chính Tỵ 150 độ .
Tọa Hợi – Hướng Tị. HỮU THỦY ĐẢO TẢ RA  QUÝ SỬU.
1.LẬP HƯỚNG THEO THỦY.
(Trích từ Địa lý chính tông và Ngũ quyết ).
Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân ,
Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Khởi trường sinh tại Tị đi thuận.
THỦY RA QUÝ – SỬU.
Là Kim cục , Thủy ra Mộ phương. Lập được 4 Hướng : Trường sinh – Đế vượng – Tử - Tuyệt.
Hữu Thủy đảo tả.
1/ Lập hướng Trường sinh :
Tọa Càn – Hướng Tốn.
Tọa Hợi – Hướng Tị.

2. LẬP HƯỚNG THEO LONG NHẬP THỦ.

1/CẤN LONG NHẬP THỦ .
Cấn Long là Long mạch tốt, lập được nhiều hướng nhất gồm 8 Hướng.
1/ Quý Sơn – Đinh Hướng.
2/ Nhâm Sơn – Bính Hướng.
3/ Giáp Sơn – Canh Hướng.
4/ Ất Sơn – Tân Hướng.
5/ Mão Sơn - Dậu hướng.
6/ Càn Sơn – Tốn Hướng.
7/ Hợi Sơn – Tị Hướng.
8/ Sửu Sơn – Mùi Hướng.
Hợi Sơn – Tị Hướng.
Cấn Long nhập thủ,bên hữu lạc mạch , lập Huyệt Hợi Sơn – Tị Hướng , ghé sang bên hữu chút ít. Lấy Mậu Dần làm chính Khí của Cấn, mạch xuyên vào eo lưng bên tả, Huyệt này có phú mà không có quý ( Giầu mà không sang ).
Thôi quan Thiên không có thơ .
·        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
-         Kiêm Càn Tốn : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị. ( 147,5 độ )
-         Kiêm Nhâm Bính : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị. ( 152,5 độ )
·        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
-         Kiêm Càn Tốn : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị.
-         Kiêm Nhâm Bính : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị.
2/ DẬU LONG NHẬP THỦ.
Gồm có 3 Hướng .
1/ Tọa Khôn – Hướng Cấn.
2/ Tọa Càn – Hướng Tốn.
3/ Tọa Hợi – Hướng Tị.
Lấy Kỷ Dậu làm chính Khí.
Tọa Hợi – Hướng Tị.
Dậu Long nhập thủ, lạc mạch ở hữu. Lập Huyệt Tọa Hợi – Hướng Tị, hợp xê dịch quan tài về Thanh long , gia Canh 1 phân. Lấy Kỷ Dậu làm chính Khí của Đoài, mạch xuyên qua tai hữu.
Thôi quan Thiên có thơ .
Kim kê lai bạc Thiên môn đề.
Khí xung hữu nhĩ Thiên cứu hư.
Vi gia Thiên hán ,Thủy sa triều.
Thiếu niên nhất cử , đăng khoa đệ.
Nghĩa : Dậu long ( Kim kê ) lại ghé vào Hợi ( Thiên môn ) mà đứng . Khí xung vào tai hữu tức Càn ( Thiên cứu ) là hư. Phải gia chút ít vào Canh ( Thiên hán ), có Sa Thủy triều tu, tất tuổi trẻ 1 lần đi thi đã đỗ cao.
•        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
-        Kiêm Càn Tốn : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị. ( 147,5 độ )
-        Kiêm Nhâm Bính : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị. ( 152,5 độ )
•        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
-              Kiêm Càn Tốn : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị.
-              Kiêm Nhâm Bính : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị.
Như vậy trục Thần Đạo của Kinh thành Huế phải theo 2 phân kim :
·        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
-         Kiêm Càn Tốn : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị. ( 147,5 độ )
-         Kiêm Nhâm Bính : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị. ( 152,5 độ )
·        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
-               Kiêm Càn Tốn : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị.
-               Kiêm Nhâm Bính : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị.
3/ PHÂN KIM THEO HƯỚNG PHÁT VI.( Giảng nghĩa Thủy pháp )
Trong 12 Sơn , 12 Hướng , mỗi Hướng có đủ 12 Thủy khẩu. Hướng nào cát , hướng nào hung, Trường sinh , Thủy pháp đều biện kỹ càng , xét đoán không sợ sai lầm. ( Triệu Cửu Phong ).
CÀN SƠN – TỐN HƯỚNG ; HỢI SƠN – TỊ HƯỚNG.
1/ Thủy ra Bính Ngọ. Thủy cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Tuyệt . Tả Thủy đảo hữu ra Tuyệt phương, hợp Văn khố tiêu Thủy, Dương công cứu bần, Tiến thần Thủy pháp. Thư nói Lộc tồn lưu tận bội kim ngư. Chủ phát phú quý , phúc thọ gồm hai. Hơi sai sơn là tuyệt ngay, không được khinh thường, phải là chân Long đích Huyệt mới dùng.
2/ Thủy ra Đinh Mùi . Mộc cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Bệnh. Phạm thoái thần, Bệnh hướng xung Quan đới không nên lập, có hại cho kẻ nam thông minh , nữ xinh đẹp , yểu tử , gia đạo lắm bệnh tật hiểm nghèo.
3/ Thủy ra Khôn Thân . Mộc cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Bệnh. Xung phá trên hướng Lâm quan, chủ tổ thương trẻ nhỏ thành tài , thọ ngắn , chết non không con nối dõi , nghèo khổ bất lợi.
4/ Thủy ra Canh Dậu . Mộc cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Bệnh. Cách này là Xung Sinh phá Vượng, chủ khốn cùng. Buổi đầu cũng có nhân đinh sau này bại tuyệt.
5/ Thủy ra Tân Tuất. Hỏa cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Lâm quan . Phạm 10 cách thoái thần linh như quỷ. Hướng Lâm quan không nên lập, không bại thì tuyệt , đa hung.
6/ Thủy ra Càn Hợi . Hỏa cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Lâm quan . Cũng gọi là : Giao như bất cập. Phần nhiều chủ bại tuyệt, đất sơn cước đại hung vì trước cao sau thấp.
7/ Thủy ra Nhâm Tý . Hỏa cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Lâm quan . Là cách Giao như bất cập, chủ đoản thọ , đại hung , bại tài.
8/ Thủy ra Quý Sửu . Kim cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Trường sinh. Hữu Thủy đảo tả ra chính Mộ phương, chính là Sinh hướng, hợp Vượng khứ nghinh Sinh , Dương công tiến thần, cứu bần Thủy pháp, Ngọc đới triều yêu , Kim thành Thủy pháp . Thư nói : Thập tứ tiến thần gia nghiệp hung . Chủ vợ hiền con hiếu , ngũ phúc lâm môn, phú quý đủ điều, mọi ngành đều phát. Kim cục Tị - Dâu – Sửu . Trường sinh ở Tị . Đế vượng tại Dậu . Mộ tại Sửu . Lập hướng Tọa Hợi – Hướng Tị là Trường Sinh Hướng.
9/ Thủy ra Cấn Dần . Kim cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Sinh. Phạm thoái thần : Tình quá nhi cang. Buổi đầu có phát nhân đinh, có thọ không có tài , công danh không lợi.
10/ Thủy ra Giáp Mão . Kim cục.
Thủy ra Thai – lập hướng Sinh. Phạm xung phá Thai thần . Buổi đầu cũng hơi lợi về đinh tài , thọ cao. Lâu dần trụy thai , chết non , nghèo khổ vì Thủy không về Khố.
11/ Thủy ra Ất Thìn . Thủy cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Tuyệt. Hữu Thủy đảo tả ra chính Mộ phương , là Tá khố tiêu thủy, Tuyệt xứ phùng Sinh , Tữ Sinh hướng , hợp Dương công cứu bần , Tiến thần Thủy pháp. Không luận là xung phá Dưỡng vị. Chủ phát phú quý , thọ cao , nhân đinh đại hưng vượng , trước phát ngành út. Nếu Long , sa đẹp thì cũng phát ngành trưởng trước.
12/ Thủy ra Tốn Tị. Thủy cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Tuyệt, nước bên hữu dài , lớn đảo tả ra chính chữ Tốn , không phạm chữ Tị, ngoài 100 bộ có Sa ngăn Thủy đó, tất xuất đại phú quý , nam nữ thọ cao, ví như Long Huyệt sai thì bại tuyệt ngay, chớ nên khinh thường, hậu quả khó lường.
Biện về đồ hình 12 : Càn sơn – Tốn hướng , Hợi sơn – Tị hướng. Nếu nước tả dài lớn đảo hữu, theo trên Tốn Tị mà ra , tức phạm Mộ khố xung Sinh, táng xong bại tuyệt ngay. Không được lầm là trên hướng trước tiêu Thủy, tất sinh hung. Biện rõ để khỏi lầm lận.
LƯU Ý : Nếu sau này con sông đổi dòng , Long mạch dời đi , Thủy khứ dịch chuyển chỉ cần căn cứ vào 12 trường hợp trên mà xét.
TÓM LẠI : Kinh thành Huế sẽ có Trục Thần Đạo theo 1 trong 2 phân kim là :
Tọa Hợi – Hướng Tị.
 Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
-         Kiêm Càn Tốn : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị. ( 147,5 độ )
-         Kiêm Nhâm Bính : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị. ( 152,5 độ )
·        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
-  Kiêm Càn Tốn : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị.
-  Kiêm Nhâm Bính : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị.
Sông Hương chảy qua Kinh thành Huế đến Trục Thần Đạo , Hữu Thủy đảo Tả ra Quý Sửu . Đây là Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân ,Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Trường sinh tại Tị - Đế vượng tại Dậu - Mộ tại Sửu.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Trường sinh. Hữu Thủy đảo tả ra chính Mộ phương, chính là Sinh hướng, hợp Vượng khứ nghinh Sinh , Dương công tiến thần, cứu bần Thủy pháp, Ngọc đới triều yêu , Kim thành Thủy pháp . Thư nói : Thập tứ tiến thần gia nghiệp hung . Chủ vợ hiền con hiếu , ngũ phúc lâm môn, phú quý đủ điều, mọi ngành đều phát. Kim cục Tị - Dâu – Sửu . Trường sinh ở Tị . Đế vượng tại Dậu . Mộ tại Sửu . Lập hướng Tọa Hợi – Hướng Tị là Trường Sinh Hướng.
Đây là lời giải thích cho nhận định của Phong thủy học giả Vĩnh Cao " Kinh thành Huế xây dựng ở vùng đất có nước phủ bốn bề , theo Phong thủy là nơi tụ Thủy , đất phát tài . Nhưng phía Tây Kinh thành lại có núi Khí xung sát , sông Hương uốn khúc , vì thế hành Kim rất vượng . Điều này sẽ bất lợi cho phía Đông , chủ hành Mộc ( Kim khắc Mộc ) . Mộc yếu sẽ dẫn đến sự hạn chế cho của cải , dân chúng , thương mại …Kim động sẽ gây ra hại cho Dương trạch nên dễ sinh tật bệnh , tổn hại gia đạo . Vì thế cần phải có chùa , miếu ở phía tây để trấn. Đó là lý do ra đời Văn Miếu , chùa Thiên Mụ ở phía Tây Kinh thành Huế."
PHẢI CHĂNG CON RỒNG VÀNG - KIM LONG đã nói về điều đó ?
Xin theo dõi tiếp bài 2. dienbatn.
Xem chi tiết…

72 XUYÊN SƠN.

5/25/2020 |
72 XUYÊN SƠN.
( Dùng để tính toán Long Nhập Thủ và dùng Chính Châm Địa bàn ).


72 mạch xuyên sơn tức là 72 mạch để phân kim còn gọi là Địa Kỷ . Xuyên sơn là Can Chi xác định mạch đến , phân kim chỉ phân vị phương hướng . Nó sử dụng Địa bàn chính châm .Phép sắp xếp mâm bàn 72 mạch là mỗi sơn xếp 3 mạch vị - Như vậy 24 sơn có 72 mạch vị phân kim.
Sắp Giáp Tý từ chỗ giao nhau vị trí Nhâm và Tý của bàn Chính châm . Sắp xếp bát can và Tứ Duy không phân kim , chỉ dùng 12 Địa chi.
Âm Dương sai lệch có các vị trí : Nhâm Tý, Giáp Tý, Quý Sửu , Ất Sửu , Giáp Dần, Bính Dần Ất Mão , Đinh Mão ,Bính Thìn , Mậu Thìn, Đinh Tị, Kỷ Tị, Mậu Ngọ, Canh Ngọ , Kỷ Mùi, Tân Mùi, Canh Thân , Nhâm Thân, Tân Dậu , Quý Dậu,Nhâm Tuất , Giáp Tuất ,Quý Hợi, Ất Hợi ( Những phân kim sát vùng Không vong sai Thố đều là Can Chi , Âm Dương sai lệch.)
DƯƠNG CÔNG NGŨ KHÍ .
1.Tuần Giáp Tý là Cô Hư : mạch khí lạng bao gồm : Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão , Mậu Thìn , Kỷ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi , Nhâm Thân , Quý Dậu , Giáp Tuất , Ất Hợi ( Những phân kim đầu tiên liền kề ngay với đầu Không vong sai thố ).
2.Tuần Bính Tý – Là Vượng Tướng , mạch Khí chính bao gồm : Bính Tý , Đinh Sửu, Mậu Dần,Kỷ Mão , Canh Thìn , Tân Tị , Nhâm Ngọ , Quý Mùi , Giáp Thân , Ất Dậu, Bính Tuất , Đinh Hợi ( Phân kim từ 2 từ Không vong sai Thố ).
3.Tuần Mậu Tý – ( Diệu sát , Sai thố không vong ) – Mạch khí bại bao gồm : Mậu Tý, Kỷ Sửu , Canh dần, Tân Mão, Nhâm Thìn , Quý Tị, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu , Mậu Tuất , Kỷ Hợi ( Phân kim thứ 3 hay ở giữa ).
4.Tuần Canh Tý Vượng tướng – Mạch khí gồm : Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần,Quý Mão , Giáp Thìn , Ất Tị, Bính Ngọ , Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu , Canh Tuất , Tân Hợi ( Phân kim thứ 4).
5. Tuần Nhâm Tý là Cô Hư – Mạch khí thoái gồm : Nhâm Tý, Quý Sửu , Giáp dần , Ất Mão , Bính Thìn , Đinh Tị , Mậu Ngọ, Kỷ Mùi , Canh Thân , Tân Dậu , Nhâm Tuất , Quý Hợi ( Vị trí thứ 5 ).
6. Tuần chính là Địa Không vong- Tuần này không cách , chỉ nằm trên chữ Thiên Can.
Như vậy 2 Tuần Giáp Tý và Nhâm Tý đều là Cô Hư không dùng được . Tuần Mậu Tý là Diệu Sát thuộc Sai Thố Không vong , tương xung 12 địa chi nên không thể dùng.
Tuần chính xung thuộc Quy giáp Không vong , chính xung với bát Can và Tứ Duy , Khí này phòng thẳng , cứng rắn như mai rùa , nói chung Khí không nên kiên cường quá , không nên dùng.
Tuần Bính Tý và Canh Tý đều là Vượng Tướng , Long mạch kết Huyệt chọn dùng được tốt . Sở dĩ 72 phân kim chỉ có 24 phân kim Tuần Giáp Tý và Nhâm Tý có thể dùng, còn lại không dùng được.
Trong bàn 72  Long Xuyên sơn , chỉ dùng 12 chữ của Địa Chi làm chính. Mỗi 1 Sơn ( 45 độ ) chia ra làm 3 phần , như vậy 24 Sơn chia ra thành 72 Long, tương ứng với 72 Thời Hậu ( Mỗi Thời Hậu quản 5 ngày , 72 Thời hậu là 360 ngày của Âm lịch ).
Trong 8 Thiên Can và Tứ Duy đều không có Long tốt . 12 chữ Địa Chi thì được 2 Long tốt 2 bên ( Trên La kinh là chữ đỏ ), chính giữa luôn luôn là Sai Thác Không vong .
Các chữ Đại Không vong , Quy Giáp Không vong , Âm Dương sai thác , Cô Hư các sách dùng không thống nhất nhưng Tuần Vượng Tướng thì luôn chính xác .
Phàm Tọa Huyệt ( Hướng Đầu Mộ ) gặp Đại Không vong , Quy Giáp Không vong , Âm Dương sai thác , Cô Hư thì chủ về suy bại , nhân đinh bất an , tai họa không dứt.
Phàm Tọa Huyệt ( Hướng Đầu Mộ ) gặp Tuần Vượng Tướng thì nhân đinh hưng vượng , tài lộc dồi dào , phúc lộc nhiều ,mọi chuyện bình an.
Ví dụ : Dần Long lai mạch nhập Huyệt thì Mậu Dần khí Xuyên sơn là Khí Vượng . Nếu Nhâm Dần lai Long nhập thủ thì Khí mạch là Tướng .
Lời của Dương Quân Tùng : Tôi được Thày truyền rằng : Lên núi xét Long hành , phải nhân rõ Khí vào Huyệt , đều căn cứ lấy 72 Long làm chủ . Muốn xét nghiệm họa phúc về dĩ vãng , cái lành hay dữ về tương lai của người ta , thì phải ở nơi chủ tinh đó làm căn cứ không được sai ly hào . Người ta muốn kinh nghiệm điều đó phải biết Long khí vòng Giáp Tý là Cô Hư thì hạ Huyệt vào đó là bại tuyệt . Cái Long khí của vòng Bính Tý là khí Vượng , đặt Huyệt vào đó thì phát phú quý .
Trên đây chỉ nêu 2 vòng làm ví dụ, các vòng khác tương tự. 72 Long phối 64 quẻ Dịch thành Hỗn Thiên nạp Giáp để quyết định năm nào phát phúc và tuổi mệnh .
PHÉP NẠP GIÁP HỖN THIÊN.
Lục thập hoa giáp của phân kim La kinh , giống như 60 Hoa giáp của vòng 1 năm. Từ quan hệ phối hợp tuần hoàn của 10 Thiên Can và 12 Địa chi tìm ra tốt xấu của Can Chi , tức hàm nghĩa tốt xấu của phân kim. Từ đó có thể lựa chọn phân kim thích hợp .
Trong quan hệ Bát quái phối hợp 10 Thiên can là lấy quan hệ bát quái nạp Giáp – Cái đó gọi là nạp Giáp Hỗn Thiên. Nạp Giáp dùng sự biến đổi Âm Dương của mặt Trăng để kết hợp với Bát quái và 60 hoa Giáp .Quan hệ trong nạp Giáp bát quái như sau :
Bảng nạp giáp của bát quái:
- Càn nạp (nhận vào) Giáp.
- Khôn nạp Ất.
- Khảm nạp Quý, Thân, Thìn.
- Chấn nạp Canh, Hợi, Mùi
- Cấn nạp Bính.
- Tốn nạp Tân
- Ly nạp Nhâm, Dần, Tuất.
- Đoài nạp Đinh, Tỵ, Sửu.
Ứng dụng: Ứng dụng vào phép lập hướng thì:
- Càn long nhập thủ ==> lập ==> Giáp hướng.
- Giáp long nhập thủ ==> lập ==> Càn hướng.
- Khảm, Quý, Thân và Thìn long nhập thủ ==> lập ==> Ly, Nhâm, Dần và Tuất hướng.
- Ly, Nhâm, Dần và Tuất long nhập thủ ==> lập ==> Khảm, Quý, Thân và Thìn hướng.
Sở dĩ 10 Thiên can ứng dụng khái niệm Âm Dương ,Cô Hư, Vượng Tướng ta thấy .
·        Giáp , Nhâm quan hệ với quẻ Càn là cô Dương.
·        Ất , Quý quan hệ với quẻ Khôn là Cô Âm.
·        Mậu , Kỷ có quan hệ với quẻ Khảm , Ly là Không vong .
Cô Hư , Không vong đều là vô tình, là đường xấu , cho nên không thể dùng. Mà Canh tân , Bính Đinh có qun hệ với Chấn , Tốn, Đoài , Cấn là Âm Dương cùng phối hợp là hữu tình , thuộc Vượng tướng nên dùng nó rất tốt.
CÁCH SỬ DỤNG:
Đặt La kinh ở nơi lai Long quá hiệp ( Thúc Khí ) . Nếu như cuộc đất không có thúc khí , có thể đặt ở chỗ lai Long nhấp nhô , bó hẹp , nơi phân Thủy sang 2 bên mà đặt La kinh. Nếu cuộc đất không tìm ra 2 vị trí trên thì đặt La kinh vào chỗ kết Huyệt mà định lai Long . Xem Long nào nhập thủ thì dùng nạp Âm Ngũ hành mà suy đóan , xem tương sinh , tương khắc mà đoán kiết hung.
Sau khi biết Long mạch từ phương nào đến , thuộc Can Chi nào , Ngũ hành nạp Âm là Gì , từ đó ta có thể dùng quan hệ sinh khắc với Vong mệnh , với Thủy , với nạp Âm Phân kim mà luận cát hung.
Trong quá trình ứng dụng xem phương hướng của lai Long nhập Huyệt , trước hết ta chọn 1 đỉnh đồi hay núi cao nhất khu vực đó , từ điểm đó dẫn mạch vào nhập Huyệt – Đó chính là lai Long ta cần tìm .  Sau đó xem 24 Sơn là chữ gì ? 72 Long gặp Long gì rồi lấy đó làm cơ sở mà luận .
Ví dụ : Bính Long lai mạch , phải chọn Khí Bính Long xuyên thẳng vào chữ Nhâm Ngọ , ngắm thẳng chỗ kết Huyệt mới là chính xác,
Nếu như Dần Long lai mạch , phải chọn Mậu Dần hay Nhâm Dần là Vượng tướng.

dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *