GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 7..

6/25/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. 
BÀI 7.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG. ( Tiếp ).
PHÂN KIM LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
Theo tài liệu cũ : “Trong chỉ dụ, vua viết: “Các thánh đế minh vương đời xưa muốn cầu nhiều phước đều có dự định đất tốt vạn niên để mong trời cho cơ đồ dài lâu. Kể từ đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta khôi phục miếu xã, xây dựng các lăng, lại dự kế cất để nghìn muôn năm, năm Gia Long đã từng hạ sắc cho bầy tôi tìm kiếm ngôi Vạn niên cát địa. Nay trẫm kính lo đường kế thuật, may gặp buổi thái bình, việc phần mộ không thể không dự tính trước. Vậy hạ lệnh cho đình thần cùng với Khâm thiên giám đi đến miền núi thuộc các xã Kim Ngọc, Định Môn, lựa trước ngôi “Vạn niên đại cát địa” và ngôi “Vạn niên cát địa”, cho được gần chốn khí thiêng mà để lại phước ấm về sau. Các khanh đều nên hết lòng nhận kỹ, c ốt cho thoả hợp, rồi vẽ địa đồ dâng trình, đợi trẫm thân đến lựa chọn”.
Sau khi các quan đi khảo sát trở về có những ý kiến khác nhau. Một số người tiến cử ngôi đất ở xứ Cổ Dụng, xã Kim Ngọc tọa Mùi hướng Sửu kiêm hướng Quý ba phân làm ngôi “Vạn niên đại cát địa” và ngôi đất xứ Gia Phước, xã Định Môn tọa Bính hướng Nhâm, kiêm hướng Hợi làm ngôi “Vạn niên cát địa”.
Tuy nhiên các quan ở Khâm thiên giám như Nguyễn Danh Giáp và Trần Văn Hân thì nhận xét rằng ngôi đất ở xứ Gia Phước minh đường chật hẹp, không có chỗ nước tụ và nước sông chảy lệch nên chưa phải là tốt. Ý kiến này được một số vị quan khác đồng tình.
Sở dĩ việc ngôi đất không có chỗ nước tụ khiến các quan còn ngờ là vì trong bài Địa đạo diễn ca, một bài ca tổng kết các kiểu đất và hình thế đất kết, cụ Tả Ao đã viết: “Huyệt cát nước tụ vào lòng; Đôi bên long hổ uốn vòng chiều lai; Huyệt hung minh đường bất khai; Sơn tà thủy xạ hướng ngoài tà thiên”.
Sau đó quan Lê Công Tường tiến cử một ngôi đất ở xứ Nhự Mai, phường An Bằng được quan Khâm Thiên giám là Nguyễn Danh Giáp và Hoàng Công Dương đều khen là toạ Tuất, hướng Thìn, kiêm hướng Tân Ất, là ngôi đất tốt. Nhiều vị quan khác trong nhóm được cử đi tìm đất cũng đều khen ngợi ngôi đất này.
Tuy nhiên một số quan như Nguyễn Văn Bảng, Nguyễn Huy Tá và Phan Cử lại thấy ngôi đất ở Nhự Mai không thấy chỗ mạch khí dồn thắt. Sở dĩ việc mạch khí không dồn thắt khiến các quan lo ngại là vì trong khoa địa lý, sách vở chỉ dẫn rằng bắt buộc phải có nút thắt mới có huyệt kết.
Như trong bài "Địa đạo diễn ca" của cụ Tả Ao, cụ đã nhiều lần nhấn mạnh về việc phải có nút thắt. Câu 51 cụ viết: “Thắt cổ bồng phồng ra huyệt kết” và câu 59 lại nhấn mạnh “Thắt cuống cà phì ra mới kết”.
Vì các quan có nhiều ý kiến bất đồng nên vua lại sai Kiến An công Đài, Định Viễn công Bính cùng với các đại thần là Trần Văn Năng, Phan Văn Thuý và Lương Tiến Tường, đi phước duyệt lần nữa. Khi về họ đều nói : “Trải xem các kiểu đất chỉ có xứ Lẫm Sơn đáng là ngôi “Vạn niên đại cát địa” và xứ Kiều Long đáng là ngôi “Vạn niên cát địa”, ý kiến đều giống nhau.
Nhân thế nhà vua nói : “Trẫm vì kế ức muôn năm của nhà nước từng đã sắc dụ các quan tìm chọn đất tốt, nay đã bàn kỹ trình xem. Lại nghĩ Dao cung (đây chỉ chỗ Thái hậu ở) yên vui, tuổi thọ còn dài, cái lòng tôn thân đều mong được lên tiếng chúc thọ mãi mãi ; vậy ngôi “Vạn niên đại cát địa”, lòng trẫm chưa yên, không nên bàn vội. Duy ngôi “Vạn niên cát địa” thì cũng nên bắt chước đời xưa, dần dần xây dựng, đợi sau này lần lượt xuống chỉ thi hành cũng là phải”.
Tuy nhiên theo Wikipedia, việc xây lăng cho mình, vua Minh Mạng còn cân nhắc suốt 14 năm, đến năm 1840 mới quyết định cho xây dựng lăng ở núi Cẩm Khê (tức là cuộc đất ở xứ Nhự Mai).
Theo "Đại Nam thực lục", năm 1840 vua Minh Mạng đặt tên núi Cẩm Khê thành Hiếu Sơn. Vua đích thân ngự đến đấy xem và bảo thị thần rằng: “Núi này phong thuỷ rất tốt từ trước chưa ai xem ra. Nay mới xem được chỗ đất tốt ấy, thực đáng vui mừng”.
Theo Wikipedia, cuộc đất ở núi Cẩm Kê này gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành sông Hương, cách kinh thành Huế 12 km. Việc xây lăng được tiến hành đến tháng 8/1840 thì vua lên kiểm tra thấy không vừa ý nên đình chỉ công việc và giáng chức quan trông coi. Một tháng sau đó mới lại cho tiếp tục công việc trở lại.
Tuy nhiên công việc xây lăng tiến hành chưa bao lâu thì tháng 1/1841 vua Minh Mạng qua đời. Sau đó vua Thiệu Trị nối ngôi đã sai các đại thần huy động gần 1 vạn lính và thợ thi công tiếp lăng cho vua cha theo đúng bản vẽ đã được Minh Mạng chuẩn y. Ngày 20/8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành nhưng việc xây lăng thì mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất.
Lăng Minh Mạng được đánh giá là một công trình kiến trúc đẹp, cân bằng đối xứng trên diện tích 18 ha. Ngày nay đây là một trong những điểm du lịch rất thu hút du khách, chỉ sau lăng Tự Đức. “
Theo bản đồ Google map ta thấy :






Ta thấy trục Thần Đạo của toàn bộ khu Lăng Mộ là 97 độ.
Cung Chấn (Ðông) có các sơn:
a.     Giáp: nằm trong giới hạn từ 67.5 đến 82.4 độ. Chính Giáp 75 độ .
b.     Mão: nằm trong giới hạn từ 82.5 đến 97.4 độ. Chính Mão 90 độ .
c.     Ất: nằm trong giới hạn từ 97.5 đến 112.4 độ. Chính Ất 105 độ .
Như vậy ta thấy nếu lập tuyến này sẽ phạm vào Tiểu Không vong.
Ta tạm tính hướng của Trục Thần Đạo là Tọa Dậu – Hướng Mão . Hữu Thủy đảo Tả ra Giáp Mão.
KIỂM TRA BẰNG KIẾN THỨC PHONG THỦY.
Mão là Thiên Nguyên Long, Ất là Nhân Nguyên Long.
Những tuyến nằm ở phần giữa 2 sơn, nhưng 1 sơn thuộc Thiên nguyên Long, 1 sơn thuôc Nhân nguyên Long: thì chỉ có tuyến vị chính giữa 2 sơn mới bị coi là tuyến Tiểu không vong mà thôi. Tuy nhiên trên thực tế thì những tuyến Tiểu không vong này đều vô hại. Lý do là vì trong cùng 1 hướng thì sơn thuộc Thiên nguyên Long bao giờ cũng cùng âm-dương với sơn thuộc Nhân nguyên Long. Mà vì đã nằm trong cùng 1 hướng, lại cùng 1 khí âm hoặc dương, nên dù có nằm chồng lên đường phân giới giữa 2 sơn cũng vẫn không sợ khí bị pha tạp hay hỗn loạn.
LẬP HƯỚNG THEO THỦY. (Trích từ Địa lý chính tông và Ngũ quyết ).
TRỤC THẦN ĐẠO 97 độ - HỮU THỦY ĐẢO TẢ RA GIÁP MÃO
KIM CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân , Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Khởi trường sinh tại Tị đi thuận.
1/ THỦY RA QUÝ – SỬU.
Là Kim cục , Thủy ra Mộ phương. Lập được 4 Hướng : Trường sinh – Đế vượng – Tử - Tuyệt.
•        Hữu Thủy đảo tả.
1/ Lập hướng Trường sinh :
Tọa Càn – Hướng Tốn.
Tọa Hợi – Hướng Tị.
2/ Lập hướng Tuyệt:
Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
•        Tả Thủy đảo hữu.
1/ Lập hướng Đế vượng.
Tọa Giáp – Hướng Canh.
Tọa Mão – Hướng Dậu.
Ấy là Sinh lai hội Vượng, chính Vượng hướng. Công danh hiển đạt , nam thanh nữ tú , phú quý toàn lai.
2/ Lập hướng Tử.
Tọa Bính – Hướng Nhâm.
Tọa Ngọ - Hướng Tý.
Ấy là tá khố tiêu thủy, hóa tử vi Vượng, Hiệp Dương công cứu bần, tiến Thần Thủy pháp. Nam thanh nữ tú , đinh tài phú quý, lộc vị đắc vượng.
2/ THỦY RA CẤN DẦN.
Là Kim cục , Thủy ra tuyệt phương, lập được 3 Hướng : Mộ - Dưỡng – Tuyệt .
•        Hữu Thủy đảo Tả.
1/ Lập hướng dưỡng.
Tọa Tân – Hướng Ất.
Tọa Tuất – Hướng Thìn.
Là Quý nhân Lộc mã thượng ngự giai, chính dưỡng hướng. Đinh tài lưỡng vượng , phúc thọ toàn lai, mọi ngành đều phát.
•        Tả Thủy đảo hữu.
1/ Lập hướng Mộ.
Tọa Đinh – Hướng Quý.
Tọa Mùi – Hướng Sửu.
Là lưỡng Thủy hiệp xuất, ra Tuyệt phương là chính Mộ hướng. Đinh tài lưỡng vượng, phú quý toàn lai. Thơ rằng “ Quý vi Cấn vị quý văn chương là đây.
2/ Lập hướng Tuyệt.
Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
Là dương diện xuất Thủy chi pháp. Hướng này cũng phát đại phú quý.
3/ THỦY RA GIÁP MÃO.
Là Kim cục , Thủy ra Thai phương , lập được 4 Hướng.
•        Hữu Thủy đảo Tả. ( Thủy ra Giáp chẳng phạm vào Dần )
1/ Lập hướng Mộc dục.
Tọa Nhâm – Hướng Bính.
Tọa Tý – Hướng Ngọ.
Là Mộc dục tiêu thủy, Lộc tồn lưu tận bội kim ngư. Phát phú quý , đại vượng nhân đinh.
•        Tả Thủy đảo hữu. ( Thủy ra Giáp , chẳng phạm vào dần ).
2/ Lập hướng Tuyệt.
Tọa Khôn hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
Hiệp Dương công cứu bần thủy pháp, Lộc tồn tiêu thủy. Phát nam thanh nữ tú , phú quý lại thọ cao.
3/ Lập hướng Suy.
Tọa Ất – Hướng Tân.
Tọa Thìn – Hướng Tuất.
Là Lộc tồn tiêu thủy cát cục.
4/ Lập hướng Thai.
Tọa Canh – Hướng Giáp.
Tọa Dậu – Hướng Mão.
Là Thai hướng Thai thủy.
Ta nhận thấy không thể đặt theo hướng Tọa Dậu – Hướng Mão khi có KIM CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân , Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Khởi trường sinh tại Tị đi thuận.

Ta cũng không thể hiểu ngày xưa các nhà Địa ly đặt mộ Vua Minh Mạng ra sao , nhưng dienbatn thấy đặt Trục Thần Đạo như vậy có lẽ chưa ổn.
Ta tính theo cuộc đất ở xứ Nhự Mai do quan Lê Công Tường tiến cử.
Sau đó quan Lê Công Tường tiến cử một ngôi đất ở xứ Nhự Mai, phường An Bằng được quan Khâm Thiên giám là Nguyễn Danh Giáp và Hoàng Công Dương đều khen là Toạ Tuất - Hướng Thìn, kiêm hướng Tân Ất, là ngôi đất tốt. Nhiều vị quan khác trong nhóm được cử đi tìm đất cũng đều khen ngợi ngôi đất này.
Tuy nhiên theo Wikipedia, việc xây lăng cho mình, vua Minh Mạng còn cân nhắc suốt 14 năm, đến năm 1840 mới quyết định cho xây dựng lăng ở núi Cẩm Khê (tức là cuộc đất ở xứ Nhự Mai).
Toạ Tuất - Hướng Thìn, kiêm hướng Tân Ất .
Sách Phong Thủy âm trạch có 24 tọa Sơn nhưng thực tế chỉ có 19 tọa Sơn là có thể đặt mộ. 5 tọa Sơn không có Huyệt mộ là : Thìn – Tuất – Ngọ - Mùi – Thân.
HƯỚNG : TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG.( Thổ sơn tá Kim cục ) - Kiêm Ất Tân 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn.(117,5 độ ).
Vòng 1 : Tiên Thiên bát quái : ĐOÀI.
Vòng 2 : Hậu Thiên bát quái : TỐN.
Vòng 3-4 : Hướng và độ số hậu thiên : Đông Nam - 4.
Vòng 5-6 : Tam nguyên Long , âm dương , độ số kiêm hướng : Địa nguyên Long -6.
Vòng 7 : Cửu tinh Đế ứng tứ viên cục : Phá quân.
Vòng 8-9 : 24 sơn hướng chính châm và phân âm dương Long : Thìn - Dương Long.
Vòng 10 : Nạp Giáp : Khảm
Vòng 11 : Phương Kiếp sát : Sửu.
Vòng 12 : Bát sát Hoàng tuyền : Dậu.
Vòng 13: Vòng trung châm nhân bàn : Thìn.
Vòng 14: Vòng phùng châm Thiên bàn : Ất.
Vòng 15 : Hoàng tuyền : Tốn.
Vòng 16 : Bạch hổ hoàng tuyền : Đinh - Mùi.
Vòng 17 : 60 Long thấu địa : Canh Tuất - Giáp Thìn .
 Vòng 18 : Bát môn lâm hướng ( KMDG) : H/1.
Vòng 19-20 : Tam kỳ - Tứ cát : 7658.
Vòng 21 : 24 Tiết khí : Cốc Vũ.
Vòng 22-29 : Bát biến du niên ( bát trạch phối hậu thiên ) : Y – NGŨ – LỤC – HỌA – SINH – TUYỆT – PHÚC.
Vòng 30 : 72 Xuyên sơn : Bính Tuất - Canh Thìn.
Vòng 31 : Vòng Phúc đức : Cô quả.
Vòng 32-33 : Vòng Tràng sinh ( Vòng âm và vòng dương thuận nghịch ) : Mộ.
Vòng 34 : 64 quẻ Hậu thiên : Lôi Trạch quy muội.
Vòng 35 : 120 Phân kim : Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn.
Vòng 36 : Nhị thập bát tú : Cang.

KIM CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân , Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Khởi trường sinh tại Tị đi thuận.
THỦY RA CẤN DẦN.
Là Kim cục , Thủy ra tuyệt phương, lập được 3 Hướng : Mộ - Dưỡng – Tuyệt .
·        Hữu Thủy đảo Tả.
1/ Lập hướng dưỡng.
Tọa Tân – Hướng Ất.
Tọa Tuất – Hướng Thìn.
Là Quý nhân Lộc mã thượng ngự giai, chính dưỡng hướng. Đinh tài lưỡng vượng , phúc thọ toàn lai, mọi ngành đều phát.
TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG.
Thủy ra Cấn Dần. Kim cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Dưỡng. Hữu Thủy đảo tả ra phương Tuyệt , chính là Dưỡng hướng , gọi là cách : Quý nhân Lộc Mã thượng giai. Đinh tài đại vượng, công danh hiển đạt, phát phúc lâu dài, con chau trung hiếu hiền lương, nam nữ thọ cao, các ngành phát đạt , thường sinh con gái tú lệ.
TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG.
•        Tuất Sơn – Thìn Hướng , Gia Tốn.   
Dùng Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn ( 122,5 độ ) phân kim. Tọa sao Khuê 14 độ, ấy là Nhâm Tuất Hỏa độ , bình phân Canh Tuất. Chủ người mạng Kim , mạng Thổ quý, người mạng Mộc , mạng Thổ phú , ba đời vinh hoa , mọi ngành đều phát .
•        Tuất Sơn – Thìn Hướng , Gia Ất .
Dùng Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn ( 117,5 độ ) phân kim. Tọa sao Lâu 2 độ , ấy là Bính Tuất Kim độ , bình phân Canh Tuất , chủ ngành trưởng đại phú quý , đinh tài đều vượng , ngành 3 hơi kém, ngành trưởng và giữa phát trước . Người mạng Mộc , Hỏa vượng nhất , nuôi con cũng tốt . Phân kim qua Nhâm Thìn vượng ngành út , nhưng bị hỏa ôn , bệnh tật .
•        Tuất Sơn – Thìn Hướng , chính châm.
Dùng Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn ( 122,5 độ ) phân kim . Tọa sao Khuê 17 độ - Hướng sao Giác 6 độ làm Thổ cục ( Thủy Thổ Trường sinh tại Thân ). Cục này hậu đầu Thác lạc sơn cao dày . Tân sơn ( Văn Xương ) phương có núi cao lớncác ngành đinh tài đại vượng. Cục này ít xuất quan cao , lộc hậu . Nếu Hợi phương có núi cao lớn , trưởng phòng nhiều nam ít nữ . Ất phương có núi cao lớn lai triều các phòng đều hưng vượng phát đại phú đại quý . Quý phương có núi cao lớn chủ ngành trưởng nhân đinh hưng vượng , các ngành khác tốt thứ hạng . Hữu Thủy đảo tả ra Cấn là Kim Cục Dưỡng Hướng Thủy quy Tuyệt , hay phát nhanh chóng , đinh tài đại vượng . tả Thủy đảo hữu ra Tốn Tị là Thủy cục , chính Mộ Hướng , Tuyệt Thủy lưu khứ , chủ đại phát phú quý .
Phản cục : Giáp Mão ( Tử ) phương có núi cao lớn tất phạm quan phi khẩu thiệt , con trai bệnh về mắt . Bính Ngọ ( Thai ) phương có núi cao lớn ngành 3 tổn đinh , tuyệt tự cô quả. Tốn Tị phương ( Tuyệt ) có núi cao lớn ngành 3,6 gia tài thối bại . Giáp phương có núi cao lớn cũng bất lợi cho ngành 3,6, chủ có nhân đinh không tiền của , bần cùng khổ sở . Sửu ( phương Suy ) có Thủy lai là Tứ Khố tương phá , tên là phá Âm Thủy , chủ tổn đinh thối tài . Mão phương Thủy lai là Lục hại Thủy chủ thối tài . Hữu Thủy đảo tả ra Giáp Mão phương , xung phá hướng thượng , tên là Xung Lộc tiểu Hoàng tuyền , chủ bần cùng yểu vong , xuất quả phụ .
•        Tuất Sơn – Thìn Hướng , kiêm Càn Tốn.
Dùng Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn ( 122,5 độ ) phân kim. Tọa sao Khuê 13 độ - Hướng sao Giác 3 độ làm Kim cục .
Càn , Khôn , Cấn , Tốn vốn không có Lộc , lấy Thìn , Tuất , Sửu , Mùi phối là đắc Lộc , nghinh Lộc , tọa Lộc . Lộc Mã triều nguyên quý cách . Nếu Cục – Hướng chân đích , Kim – Thủy hành Long , Quán châu khiên liên , hậu có Thác lạc , có Tam Thai tên là Lưu hoa Tam đảo , xuất Trạng Nguyên chi cục . Lại được Tham lang ( phương Sinh và Dưỡng ) có Văn bút nhọn đẹp , chủ xuất người trung lương , xuất quan đầu bảng .
Canh dậu là Vượng phương có núi cao lớn là Võ Khúc chiếu ứng , đại lợi cho khoa giáp . nếu như núi không nhọn đẹp cũng được học hành giỏi giang , tiểu quý hiển . Thìn , Tốn , Tị là cung Dưỡng Sinh có Thủy lai triều , đinh tài đều vượng . Canh , Dậu , tân phương là phương Vượng có Thủy lai thực lộc vạn chung . Kim cục thì Hướng Ất Thìn là Dưỡng Hướng , nước nên phóng Cấn dần là Thủy quy Tuyệt , phát lớn về tài lộc , đại phú quý .
Phản cục : Bính , Ngọ , Đinh là Mộc dục Thủy chảy lại , xuất người dâm loạn . Hợi , Nhâm , Tý là Bệnh Tử có Thủy chảy lại là phụ nữ trụy thai , nuôi con nuôi nối dõi . Nếu Sửu , Cấn , Dần , Giáp cung Tuyệt phương có núi cao lớn sinh người trộm cắp tù đày . Nếu Mão Ất phương có núi cao lớn bệnh tật chẳng dời thân . Càn , Hợi , Nhâm , Tý ( Bệnh , Tử ) có Thủy chảy lại quy Quý Sửu xuất khứ , đinh tài đều bại .
Nếu Đinh Mùi , Khôn Thân xuất khứ là Mộc cục Suy  hướng đại hung , giáng quan giáng chức , đinh tài suy bại , tuyệt tự . nếu Thủy chảy ra Tân Tuất là Hỏa cục, phạm Thoái thần quan sát, nếu có phú quý vinh hoa cũng không được lâu dài .
TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG.( Thổ sơn tá Kim cục )
1/Kiêm Ất Tân 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn.( 117,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Tân Dậu  – Hướng Tân  Mão.
Tú độ : Tọa sao Lâu 3 độ - Hướng sao Giác 10 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Bính Tuất  – Hướng Canh Thìn.
Thấu địa 60 Long : Tọa Canh Tuất – Hướng Giáp Thìn,  nạp âm thuộc Kim.
Độ tọa Huyệt : Canh Tuất Bình phân , Kim  độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Hỏa Thiên đại hữu.
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục –  Tọa Tam sát hung.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tài cục thứ cát .
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tiết cục bình.
2/Kiêm Càn Tốn 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn.( 122,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Bính Tuất  – Hướng Bính Thìn.
Tú độ : Tọa sao Khuê 14 độ - Hướng sao Giác 2 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Canh  Tuất  – Hướng Giáp Thìn.
Thấu địa 60 Long : Tọa Nhâm Tuất – Hướng Bính Thìn , nạp âm thuộc Thủy.
Độ tọa Huyệt : Ất Bình phân , Mộc  độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Thủy Thiên Nhu.
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục –  Tọa Tam sát hung.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tài cục thứ cát .
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tiết cục bình.
3/ Chân lịch số .
·        Tiết Thanh Minh , Thái Dương đến Tuất. Hội 2 phương Dần , Ngọ  đều cát .
·        Tiết Hàn Lộ : Thái Dương đến Hướng Hướng, chiếu Tuất  tốt.
·        Tiết Sương Giáng: Thiên Đế đến Tuất  tốt.
Khai môn : Nên Thìn  hợp chất khố tốt.
Phóng Thủy : Nên dùng Giáp ,Ất  phương  tốt. Tả Thủy đảo hữu hung , Hữu Thủy đảo tả tốt.
Hoàng Tuyền : Sát tại Tốn , Tị , Bính  phương .Không nên khai môn phóng Thủy.
Tạo táng : Tuất Sơn – Thìn  Hướng, Không nên dùng năm tháng ngày giờ Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục là phạm Tam sát hung.
3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục Tọa Tân  – Hướng Ất.
Tháng Giêng ( Dần ) : Ất , Đinh , Tân , Kỷ, Quý – Dậu bình. Bính Ngọ tốt.
Tháng 2 ( Mão ) : Tọa Tam sát hung không dùng.
Tháng 3 ( Thìn ) : Thìn , Tuất xung phá sơn không dùng.
Tháng 4 ( Tị ) : Giáp ,Mậu , Canh – Ngọ tốt. Ất ,  Kỷ , Quý – Sửu , Ất ,  Kỷ , Tân, Quý - Dậu thứ.
 Tháng 5 ( Ngọ ) : Giáp ,Bính,Mậu , Canh– Dần tốt, Giáp ,Bính,Mậu , Canh–  Thân thứ cát.
Tháng 6 ( Mùi ) : Tọa Tam sát hung không dùng.
Tháng 7 ( Thân ) : Không có ngày tốt . Bính , Mậu – Thân. Ất ,  Kỷ , Tân, Quý - Dậu , Bính Tý bình.
Tháng 8 ( Dậu ) : Giáp , Mậu , Canh– Dần tốt . Giáp ,Bính,Mậu , Canh–  Thân thứ cát.
Tháng 9 ( Tuất ) : Bính, Canh - Dần tốt . Bính , Canh – Ngọ, Giáp Mão , Giáp dần tốt.
Tháng 10 ( Hợi ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 11 : Giáp,Bính,Mậu , Canh – Dần tốt . Giáp,Bính,Mậu , Canh, – Thân thứ cát .
Tháng 12 ( Sửu ) : Giáp , Bính,  Canh –, Dần, Thân  tốt . Giáp ,Bính,  Canh– Ngọ thứ cát.
4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Bình, Sửu – Bình , Dần –Cát , Mão – Hung. Thìn – Phá , Tị - Bình, Ngọ - cát. Mùi – Hung . Thân – Bình, Dậu – Bình . Tuất – cát , Hợi – Hung.
TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG.
1/ Tuất Sơn – Thìn Hướng.
Kiêm Tân Ất 3 phân – Tên là Thiên Đình Long.
Thiên Đình Long cung rất hữu tình,
Điền trang lục súc đầy thôn trang.
Tăng địa tấn tài nhiều điềm cát ,
Theo gió gia thanh gần Đế kinh.
Long ấy đa phú quý , ứng đắc của hoạnh tài .
Như hạ Huyệt 7 phân Tuất sơn – Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn – Thổ Long , Thổ Hướng , Dương lai Dương cấu.
Thủy lưu xuất khứ tại Tốn Tị - Là Thủy cục , Mộ Hướng , Tuyệt Thủy lưu , thượng cát . Nếu như có Lộc , Mã ứng làm Thiên thê , như Nhâm Quý Thủy triều lai ( Vượng Thủy ) , cùng được Đinh Mùi ( Dưỡng ) , Khôn Thân ( Sinh ) lai triều tương hợp , 3 năm đã phát , 12 năm hưng vượng , năm Thân – Tý – Thìn sinh quý tử , 18 năm song song khoa cử, cháu con phú quý lâu dài .
Nếu gặp Giáp Mão ( Tử ) Thủy lai triều , Phạm Liêm Trinh Hoàng tuyền , chủ ly hương bệnh tật , đại bại . nếu đảo ra Đinh Mùi , Khôn Thân là Bệnh Hướng phá Tham lang , cũng có phú chứ không quý , phần nhiều chết trẻ bại tuyệt . An táng hướng này sai Thủy pháp rất hung , phải thận trọng.
2/ Tuất Sơn – Thìn Hướng.
Chính Hướng – Tên là Du Đãng Long.
Long tên Du Đãng phá gia thanh,
Nam thì trộm cắp , nữ điếm đàng.
Dẫu có tư tài dư trăm vạn,
Đáo đầu chẳng khỏi thọ nạn tai.
Long này chủ du đãng , phá gia chi tử , tù đày hình thương,  trưởng phòng tuyệt trước , trung và út bình bình.
Như hạ Huyệt Tuất sơn – Tọa Mậu Tuất – Hướng Mậu Thìn – Mộc Long , Mộc Hướng , Dương giáng , Dương thăng, Thủy xuất khứ Giáp mão là Kim cục – Là xung phá Thai thần , chủ bần tiện . Bính Ngọ xuất khứ phạm quan phù Thủy cục , chủ lưu đày , kiện tụng , chết trẻ.
Như Kim cục lập hướng Dưỡng Thủy ra Cấn Dần là Thủy quy Tuyệt , Quý nhân , Lộc , Mã thượng ngự giai , cũng được phú quý nhưng không lâu dài.
3/ Tuất Sơn – Thìn Hướng.
Kiêm Càn Tốn 3 phân – tên là Kim Long.
Kim Long cung quan quý có dư,
Lại thêm con cháu giỏi thi thư.
Đăng khoa , cập đệ tên kim bảng.
Phú quý song toàn rạng gia môn.
Long này phú quý đời đời , cập đệ khoa cao , nhiều điền trang ruộng đất trâu ngựa, trưởng nam đại vượng trước.
Như hạ Huyệt 7 phân Tuất sơn – Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn – Kim Long , Kim Hướng , Thủy lưu xuất Cấn Dần là thượng cát .Vì Kim cục , Dưỡng Hướng, Thủy quy Tuyệt – Là Quý nhân Lộc , Mã thượng giai , thượng cát .
Ất làm truy , Giáp làm lộc , Cấn ngự vệ . Sách rằng :
Tứ cá Lộc Tồn loan loan khứ.
Nhi tôn văn võ bái đan bình.
Nếu được thêm nước Tốn Tị Tham Lang Thủy dài lai triều là thượng cách . Ngọc kho vàng đống , tiền bạc đầy kho . Nữ nhân cũng đắc tài lộc , xuất quan cưỡi ngựa. Năm Hợi – Mão – Mùi phát đạt , năm Tị - Dậu – Sửu sinh quý tử , 18 năm đại vượng tài lộc , 24-36 năm con cháu nhập Triều đường, 7 đời vinh hoa.
Nếu Thủy từ Tốn Tị là bệnh của Mộc cục , lưu xuất ra Khôn Thân  là Suy Hướng , Tuyệt Thủy lưu thì nhân suy , tài tán , khó đương nổi, phạm nghịch Long , khi an táng nên xem xét cẩn thận Thủy pháp này.
  Về phân kim mộ của Vua Minh Mạng thì vẫn là một bí mật lớn cho đến ngày nay. Ta đọc lại “ Hồi ký của Phạm Quỳnh “ viết về điều đó như sau : “Nơi Hiếu Lăng này ở khuất núi , cái địa thế không được rại rễ như nơi Thiên Thụ, nhưng có cái vẻ u sầm hơn . Chung quanh bịt tường kín cả , rõ ra một cái thành rộng. Vào trong trông cảnh tượng khác hẳn ở Lăng Gia Long . Cây cối um tùm , Đình , Ta , Lâu đài rải rác khắp mọi nơi. Dây là hồ Tân Nguyệt, kia là cầu Thông Minh , nọ là núi Tam tài , xa kia là Đình Điếu Ngư, lại xa nữa là quán Nghênh Lương . Tẩm Điện thì ở giữa, trước Lăng chứ không phải bên cạnh . Gọi là Điện Sùng Ân, ở trên cái gò tên là núi Phụng Thần. Trong Điện bày biện cũng như Điện Minh Thành Gia Long , nhưng nhiều đồ hơn. Đại khái thì các Lâu đài , Đình , Điện chính đặt ở giữa cả , thẳng vào Lăng . Sau Điện đến cái Bi Đình , trong dựng bia “ Thánh đức Thần công “ . Phía Đông có núi Viên Trạch , trên dựng Linh phương  các . Núi Đức Hóa trên dựng Thuần Lộc Hiên , núi Đạo Thống trên dựng Quan Lan Sở . Phía Tây có đảo Trấn Thủy , trên dựng Hư Hoài tạ, sau một ít thì đặt nhà Thần Khố . Lại có núi Tĩnh Sơn dựng Tả Tòng phòng , núi Ý Sơn dựng Hữu Tòng Phòng . Cứ đọc bấy nhiêu tên , cũng đủ biết chốn này là cơ ngơi của một ông Vua thượng văn , chớ không phải thượng võ như đức Vua cha là đức Gia Long . Trước mặt Lăng có đặt những khu giồng hoa , xây dọc xây ngang hình chự triện trông rất xinh . Lại có 1 cái cửa nghi môn bằng đồng hình cái bài phường , rồi đến cái cầu, đi thẳng vào thì bước lên bực đá , trên là cái thành tròn , trong cây mọc như rừng , không biết nấm mộ ở chỗ nào . Vì từ đời đức Minh Mạng thì theo lệ cổ , khi chôn Vua phải chôn mật , đào đường tụy đạo đem quan vào, xong lấp lại không cho ai biết chỗ. Phong cảnh ở đấy biệt ra một khí vị riêng , như âm thầm , như u uất. Chỗ này mới thực là cảnh tiêu sắt như cảnh mùa thu. Xem cảnh đoán người thì biết ông Vua nằm đấy thực là mang cái tư cách , tính tình một nhà văn sĩ thi nhân vậy.” .
Hay như trong “Trong bài diễn thuyết về “ Các Lăng Tẩm nhà Vua ở Huế “ đọc tại hội Trí tri Hà Nội ngày 10/10/1936 ( In lại trong quyển “ Lược khảoMỹ thuật Việt Nam” – Quốc học thư xã Hà Nội , 1942 trang ( 111-113 ) ông Từ lâm Nguyễn Xuân Nghi có tường thuật một buổi lễ khai Bửu thành môn như sau :
“ Thường lệ , trước ngày lễ Thanh minh 2 ngày , các quan Tham tri, Thị lang bộ Lễ và bộ Công lên Hiếu Lăng ( Minh Mệnh ), Xương Lăng * Thiệu Trị ) hội đồng với các quan Thủ hộ phó sứ, phụng hộ chánh sư , lãnh binh để khai Bửu thành.
Bửu thành là cái tường quý . Các nhà du lịch cung chiêm các Lăng thường để mắt tới một bức tường gạch xây chung quanh một quả núi đất , chỉ có 1 cửa ra vào , nhưng có cánh cửa đồng , then đồng , khóa đồng , lại có một mảnh giấy hội đồng niêm kỹ lưỡng. Vậy những sự bí mật bên trong là những gì ? Một người lính một tay cầm cái thanh la, một tay nắm dùi gõ một hồi lâu , làm rung động cả vùng. Tiếng thanh la đồng kêu vang nơi vắng vẻ , dùi đã buông mà tiếng còn văng vẳng.
Trên một cái chiếu , quan Thủ hộ phó sứ trong chiếc áo thụng bằng the màu đen , hai tay cung kính chắp lên ngực vấn vị “ Hiếu sôn Thần “, xin phép mở cửa Bửu thành để cho lính vào dọn dẹpcỏ dại , cây lau …Khấn xong , Quan phó sứ lạy mấy lạy, lễ tuy giản dị , nhưng cảnh ấy , điệu ấy , lễ bạc mà nghiêm. Các quan Tham tri, Thị lang phó sứ …bước lên đến 40 bực đá mới đến trước cánh cửa đồng , trên có miếng đá chạm trong khắc chữ “ Bửu thành môn “. Lính bóc niêm cũ , trình các quan xem chữ ký y nguyên , rồi mới mở khóa mở then , ấn 2 cánh cửa đồng vào 2 bên .Quan lãnh chỉ huy bọn lính cầm dao, cào , cuốc vào trong dọn cỏ và chặt những cây dại mọc trên con đường hẹp độ một thước tây khít vệ đường.Nói nôm , đây là một cái nấm của nhà Vua , nhưng không phải là một nấm đất , chính là một hòn núi đất có cổ thụ , cành lắm lá nhiều, cỏ cây chen nhau , vì mỗi năm mới có 1 lần chân người bước tới . Nếu lần tường theo phía bên trong mà đi , sẽ không biết mình đi được đến đau , vì là một con đường đi vòng quanh , nhưng đối với cửa ra vào về phía bên kia , có xây một chiếc bình phong , mới biết mình đi được nửa đường . Nơi này tất nhiên nhiều rắn rết . Quả trên cây rụng xuống lại mọc thành cây , vì không ai vào được mà hái . Có người quả quyết khi xưa đã có cọp , nhưng họ nói đấy là ông Cọp về chầu. Khi các lính làm xong công việc, một hồi thanh la lại nổi lên . Ai có phần việc vào trong Bửu thành phải vội ra. Rồi cửa cài then , khóa và niêm.
Cách niêm như sau vầy : Bản niêm do một viên thư ký biên bằng chữ Nho, các quan đứng trong hội đồng chỉ việc thảo một chữ ký. Xong lính lấy vải xô dán lên trên khe 2 cánh cửa đồng , xong dán bảng niêm lên trên , dán toàn bằng nhựa cây sung .
Cửa Bửu thành đã niêm xong , quan Thủ hộ phó sứ lại vậnáo thung đen , xá mấy xá lễ tạ . Đến đây việc khai Bủu thành xong , các quan biệt phái ung dung trở về.
Trước Bửu thành thường có nhà Minh Lâu, trên có gác dựngtrước chỗ toại Đạo dẫn vào Huyền cung để canh phòng đạo tặc.
Huyền cung là nơi mai táng thi hài Vua , nhưng không có nấm mộ . Chỉ có một toại Đạo thật dài đưa vào , nên chỗ Huyệt nằm ở đâu không thể biết được . Làm như thế để phòng ngừa sự xúc phạm đến chỗ yên nghỉ cuối cùng của nhà Vua.
Trên đây chỉ kể những kiến trúc chính , trong thực tế tại mỗi Lăng , nhất là Hiếu Lăng và Khiêm Lăng khi xưa còn nhiều nhà cửa , Đình , Tạ khác , có cả thư Lâu, Hí viện , Tạ , Tẩm , Đình cầu …phần nhiều nhà này đã bị đổ nát trong trận bão năm Giáp Thìn ( 1904 ) hoặc trong mấy chục năm chiến tranhsau này và đã bị triệt giải.
Ngày xưa trong một chu vi lớn rộng quanh các Lăng , dân chúng không được phép lấy đá, đốn củi và đốt than vì sợ làm đứt Long mạch hay làm cháy cây cối. Cho đến dưới triều Bảo Đại vùng cấm địa xung quanh Lăng Gia Long hãy còn rộng đến 2875 mẫu tây. Quanh các Lăng Minh Mạng , Triệu Trị là 475 mậu và quanh Lăng Tự Đức là 25 mậu. Để đề phòng hỏa hoạn , mỗi năm triều đình phải dành một ngân khoản để chặt cây và dọn cỏ. Về mùa hè , lính phải cầm thanh la đi vào các con đường có nhiều thông , vừa đi vừa gõ để nhắc lại mệnh lệnh cấm đốt lửa . Nếu rủi ro núi bị cháy thì các ông chánh , phó sứ Hộ Lăng phải còng tay giải về Kinh chịu tội.
Kẻ nào xây mộ phần cũng phải tùy theo chức phận và phẩm trật của người chết mới được làm to hay nhỏ.
Theo lệ trước , ông Hoàng , bà Chúa và các quan Nhất phẩm được đắp một trên một thửa đất chu vi rộng nhất là 360 bộ , nói nôm là 360 bước chân , Nhị phẩm 320 bộ , Tam phẩm 280 bộ , Tứ phẩm 240 bộ , Ngũ phẩm 200 bộ , Lục phẩm dĩ hạ 80 bộ, còn thường dân chỉ được 36 bộ, nghĩa là bằng 1/10 Nhất phẩm “
 Xin theo dõi tiếp BÀI 8. dienbatn. 
Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 6.

6/25/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 6.


I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
Minh Mạng (1791-1841) có tên huý là Nguyễn Phúc Đảm, là Hoàng tử thứ tư của Vua Gia Long và Hoàng hậu Thuận Thiên. Minh Mạng là vị Vua xây dựng chế độ phong kiến tập quyền tiêu biểu, mọi quyền lực tuyệt đối đều thuộc nhà Vua. Ông cũng là người hoàn thiện thể chế chính trị hành chính quốc gia, xây dựng nhiều công trình quân sự, kinh tế, văn hoá, giáo dục quan trong như Kinh đô Huế, kênh rạch phục vụ sản xuất nông nghiệp, mở các khoa thi tuyển chọn nhân tài….làm vua 20 năm Minh Mạng đã có những đóng góp nhất định trong việc cũng cố chế độ quân chủ tập quyền triều Nguyễn và ổn định bờ cõi:
– Chia nước thành 31 tỉnh và phủ Thừa Thiên. Hoàn thành xây dựng kinh đô Huế cùng hệ thống phòng thủ ở các địa phương trong nước, đổi tên nước là Đại Nam.
– Lập Cơ mật viện để bàn việc quốc sự, tổ chức lại bộ máy nhà nước thống nhất từ trung ương tới làng xã.
– Nhằm tránh sự chuyên quyền của tướng lĩnh và sự lộng hành của hậu cung, nhà Vua chủ trương thành lập tứ bất lập ( không lập Tể tướng, không lập Hoàng hậu và Thái tử, không lấy Trạng nguyên). Đối với thái giám nhà vua ban chỉ dụ chỉ được hầu hạ trong cung chứ không cho giữ chức quyền.
– Về nông nghiệp, nhà Vua khuyến khích phát triển nông nghiệp, giảm tô tức cho nông dân, hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, quay đê lấn biển, đẩy mạng khai hoang ở miền Nam, hoàn thiện kênh đào Vĩnh Tế… ngoài ra nhà Vua quan tâm đến phát triển kỹ thuật đóng tàu, trong thời kì này nước ta đóng thành công tàu chạy bằng máy hơi nước.
– Về văn hoá nhà Vua coi trọng tuyển dụng nhân tài, mở khoa thi hội thi đình khắc tên những người đỗ tiến sĩ trên bia Văn miếu, lập Quốc sử quán sưu tầm và biên soạn sách . Hoàn thành việc xây dựng Kinh đô Phú Xuân.
– Chính sách ngoại giao đối với nhà Thanh, nhà Vua hết sức nể trọng và tiếp thu đường lối trị quốc của nhà Thanh . Đối với Ai Lao và Chân Lạp, Đại Nam đóng vai trò lớn trong việc bảo vệ hai nước này và xây dựng nước ta là một trong những nước hùng mạnh nhất Đông Nam Á thời bấy giờ.
Trong cuộc sống chăn gối đời thường Vua Minh Mạng là vị Vua nổi tiếng có sức khoẻ dẻo dai, bền bỉ. Có lẽ nhà Vua nhờ vào tao thuốc đặc chế tên gọi là “ Minh Mạng thang” hay chăng?
Hưởng dương 51 tuổi nhưng Minh Mạng có tới 142 người con trong đó có 78 Hoàng nam, 64 Hoàng nữ. Bình nhật khi nghỉ ngơi có tới 5 bà hầu hạ, sau 5 canh thì danh sách các bà được chuyển qua phủ Tôn Nhơn để tiện theo dõi việc ra hoa kết nhị của các bà sau này. Hiệu quả của Minh Mạng thang là “nhất dạ ngũ dao sinh tứ tử” quả danh bất hư truyền!
Vua Minh Mạng qua đời ngày 28 tháng 12 năm Canh Tý, tức ngày 20 tháng 1 năm 1841 tại điện Quang Minh, hưởng thọ 50 tuổi, ở ngôi 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ (聖祖).Thụy hiệu do vua Thiệu Trị đặt cho ông là Thể thiên Xương vận Chí hiếu Thuần đức Văn vũ Minh đoán Sáng thuật Đại thành Hậu trạch Phong công Nhân Hoàng đế (體天昌運至孝純德文武明斷創述大成厚澤豐功仁皇帝). Lăng của ông là Hiếu Lăng, tại làng An Bằng, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Ông được thờ ở Tả Nhất Án Thế Miếu trong Đại Nội kinh thành Huế.

Lăng Minh Mạng nhìn từ không ảnh.
Lên làm Vua được 7 năm Minh Mạng cho người đi tìm đất xây Lăng cho mình, quan địa lí Lê Văn Đức đã tìm vị trí tốt tại núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lăng , nơi hợp lưu của hai nguồn tả hữu Trạch tạo nên sông Hương. Nhưng mãi 14 năm cân nhắc vua mới quyết định chọn nơi này. Tháng 4/1840 Vua xem chỗ đất và đổi tên vùng núi Cẩm Khê thành núi Hiếu Sơn . Vua sai các quan đại thần khảo sát địa thế đo đạc đất đai và vẽ toàn bộ núi đồi, khe suối, sông ngòi ở đây cùng sơ đồ dự án kiến trúc La Thành, Bửu Thành, điền, lầu, đình, tạ, đường, viện cho đến nơi đào hồ làm cầu dựng cửa… Đích thân nhà vua phê chuẩn , xem xét đồ hoạ thiết kế của các quan. Tháng 9/1840 triều đình huy động 3000 lính và thợ điều chỉnh mặt bằng và xây dựng vòng la thành xung quanh khu vực kiến trúc trên khu đất 14 ha. Tất cả các công trình đăng đối theo trục dọc thể hiện sự bền vững. Sau 8 tháng thi công công trình 1/1841 nhà Vua băng hà giữa lúc ông 50 tuổi.
Một tháng sau Vua Thiệu Trị tiếp tục xây lăng và sai các quan đại thần Tạ Quan Cự , Hà Duy Phiên, Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Đường đứng ra lo liệu công tác ấy. Triều đình điều 1 vạn lính và thợ bộ binh và bộ công lên làm việc: 7 viên quan , 140 viên suất đội , 7000 biền lính . Trong không khí oi bức của mùa hè năm ấy, tại công trình đã có 3000 người bị kiết lị cùng một lúc. Nhà vua bắt Thái Y Viện phải đem tất cả các y sinh và thuốc men trong viện lên chữa cho bằng được. Ngay sau khi bệnh dịch được dập tắt, việc xây dựng lăng được tiếp tục . Quan tài Vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành bằng con đường toại đạo vào 8/1841 và tấm bia “Thành Đức Thần Công” mới hoàn tất theo đồ án của vua Minh Mạng để lại.
Theo sách "Đại Nam thực lục", năm 1826, vua Minh Mạng dụ cho văn võ đình thần đi tìm hai ngôi đất là “Vạn niên đại cát địa” và “Vạn niên cát địa” để dùng làm nơi an táng cho mẹ vua và vua.
Trong chỉ dụ, vua viết: “Các thánh đế minh vương đời xưa muốn cầu nhiều phước đều có dự định đất tốt vạn niên để mong trời cho cơ đồ dài lâu. Kể từ đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta khôi phục miếu xã, xây dựng các lăng, lại dự kế cất để nghìn muôn năm, năm Gia Long đã từng hạ sắc cho bầy tôi tìm kiếm ngôi Vạn niên cát địa. Nay trẫm kính lo đường kế thuật, may gặp buổi thái bình, việc phần mộ không thể không dự tính trước. Vậy hạ lệnh cho đình thần cùng với Khâm thiên giám đi đến miền núi thuộc các xã Kim Ngọc, Định Môn, lựa trước ngôi “Vạn niên đại cát địa” và ngôi “Vạn niên cát địa”, cho được gần chốn khí thiêng mà để lại phước ấm về sau. Các khanh đều nên hết lòng nhận kỹ, c ốt cho thoả hợp, rồi vẽ địa đồ dâng trình, đợi trẫm thân đến lựa chọn”.
Sau khi các quan đi khảo sát trở về có những ý kiến khác nhau. Một số người tiến cử ngôi đất ở xứ Cổ Dụng, xã Kim Ngọc tọa Mùi hướng Sửu kiêm hướng Quý ba phân làm ngôi “Vạn niên đại cát địa” và ngôi đất xứ Gia Phước, xã Định Môn tọa Bính hướng Nhâm, kiêm hướng Hợi làm ngôi “Vạn niên cát địa”.
Tuy nhiên các quan ở Khâm thiên giám như Nguyễn Danh Giáp và Trần Văn Hân thì nhận xét rằng ngôi đất ở xứ Gia Phước minh đường chật hẹp, không có chỗ nước tụ và nước sông chảy lệch nên chưa phải là tốt. Ý kiến này được một số vị quan khác đồng tình.
Sở dĩ việc ngôi đất không có chỗ nước tụ khiến các quan còn ngờ là vì trong bài Địa đạo diễn ca, một bài ca tổng kết các kiểu đất và hình thế đất kết, cụ Tả Ao đã viết: “Huyệt cát nước tụ vào lòng; Đôi bên long hổ uốn vòng chiều lai; Huyệt hung minh đường bất khai; Sơn tà thủy xạ hướng ngoài tà thiên”.
Sau đó quan Lê Công Tường tiến cử một ngôi đất ở xứ Nhự Mai, phường An Bằng được quan Khâm Thiên giám là Nguyễn Danh Giáp và Hoàng Công Dương đều khen là toạ Tuất, hướng Thìn, kiêm hướng Tân Ất, là ngôi đất tốt. Nhiều vị quan khác trong nhóm được cử đi tìm đất cũng đều khen ngợi ngôi đất này.
Tuy nhiên một số quan như Nguyễn Văn Bảng, Nguyễn Huy Tá và Phan Cử lại thấy ngôi đất ở Nhự Mai không thấy chỗ mạch khí dồn thắt. Sở dĩ việc mạch khí không dồn thắt khiến các quan lo ngại là vì trong khoa địa lý, sách vở chỉ dẫn rằng bắt buộc phải có nút thắt mới có huyệt kết.
Như trong bài "Địa đạo diễn ca" của cụ Tả Ao, cụ đã nhiều lần nhấn mạnh về việc phải có nút thắt. Câu 51 cụ viết: “Thắt cổ bồng phồng ra huyệt kết” và câu 59 lại nhấn mạnh “Thắt cuống cà phì ra mới kết”.
Vì các quan có nhiều ý kiến bất đồng nên vua lại sai Kiến An công Đài, Định Viễn công Bính cùng với các đại thần là Trần Văn Năng, Phan Văn Thuý và Lương Tiến Tường, đi phước duyệt lần nữa. Khi về họ đều nói : “Trải xem các kiểu đất chỉ có xứ Lẫm Sơn đáng là ngôi “Vạn niên đại cát địa” và xứ Kiều Long đáng là ngôi “Vạn niên cát địa”, ý kiến đều giống nhau.

Nhân thế nhà vua nói : “Trẫm vì kế ức muôn năm của nhà nước từng đã sắc dụ các quan tìm chọn đất tốt, nay đã bàn kỹ trình xem. Lại nghĩ Dao cung (đây chỉ chỗ Thái hậu ở) yên vui, tuổi thọ còn dài, cái lòng tôn thân đều mong được lên tiếng chúc thọ mãi mãi ; vậy ngôi “Vạn niên đại cát địa”, lòng trẫm chưa yên, không nên bàn vội. Duy ngôi “Vạn niên cát địa” thì cũng nên bắt chước đời xưa, dần dần xây dựng, đợi sau này lần lượt xuống chỉ thi hành cũng là phải”.
Lăng Minh Mạng là tổng thể qui mô khoảng 40 công trình lớn nhỏ, nằm trên khu đồi núi ven sông thoáng mát. Thầy địa lí Lê Văn Đức rất có lí trí khi chọn vị trí này vì vùa hợp với thuật phong thuỷ vừa hợp với cảnh quan xung quanh. Trong chu vi được giới hạn bởi vòng La Thành dài 1750m là quần thể kiến trúc là cung điện, lâu đài, đình, tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m , bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến La Thành sau mộ Vua. Hình thể lăng giống như người đang nằm nghỉ với tư thế thoải mái đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt , hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên . Bên trong La Thành là các công trình kiến trúc được bố trí đối xứng nhau thành từng cặp qua trục chính xuyên tâm lăng. Tất cả đều được sắp sếp theo trật tự chặt chẽ có hệ thống giống như xã hội ông đang cai trị, một xã hội tổ chức theo chính sách từ trung ương tới địa phương hết sức chặt chẽ.
Qua bố cục của lăng ta có thể thấy được đức tính và phong cách của Vua Minh Mạng đó là tham vong của ông vua muốn ôm trọn Vũ trụ vào lòng mình. Lăng có 5 vòng tròn: Mộ vua hình tròn ở giữa tượng trưng cho mặt trời, vòng thư hai hồ Tân Nguyệt , vòng thứ ba La Thành, vòng thứ tư là sông Hương, vòng thứ 5 là đường chân trời. Nếu ta nhìn từ trên cao xuống , ta thấy quần thể kíên trúc này gồm 2 chữ Minh Mạng. Nếu quan sát từ đất ta thấy được chữ Minh gồm hai chữ Nhật và nguyệt cộng lại.
Đại Hồng Môn là cổng chính đi vào lăng cao 9 m. rộng 12m, cổng có 3 lối đi với 24 mái lô nhô cao thấp, được trang trí rất đẹp. Cổng chỉ mở một lần lúc đưa quan tài của nhà Vua vào lăng , sau đó được đóng kín để tỏ lòng tôn kinh nhà Vua . Đại Hồng Môn-cửa đi vào niềm vui lớn, vậy tại sao lại gọi như vậy, có lẽ rằng có chết của con người là một qui luật, đồng thời quan niện “sồng kí, tử quy” sống chỉ là tạm thời chết là sang một thế giới vĩnh hằng. Ra vào phải đi hai bên của phụ tả và hữu Hồng Môn .

Đại Hồng Môn.
 Tại sân chầu, gạch dưới nền được lát bằng gạch Bát Tràng , hai bên có hai hàng tượng quan biên, voi, ngựa. Trong năm tượng quan thì có hai tượng quan văn và ba tượng quan võ điều này nói lên rằng vua Minh Mạng là vị vua rất coi trọng nho giáo phát triển giáo dục nhưng ông cũng là người rất coi trọng võ để bảo vệ độc lập dân tộc trong bối cảnh các nước phương Tây đang mở rộng xâm lược thuộc địa ở châu Á . Người ta xây dựng các hình tượng này vì với quan niiệm rằng sau khi Vua băng hà thì vẫn còn trị vì ở thế giới bên kia cho nên cần những con vật cưỡi và các quan để đứng chầu nhà Vua để bảo vệ như khi còn sống. Tiếp đến là hai con nghê (con vật tưởng tượng ăn cỏ, đầu sư tử, mình ngựa, chân đại bàng) chức năng là để giám sát long trung thành của quan lại nhà Nguyễn.
Phía tay phải là nhà bia, trong nhà bia là tấm bia “Thánh Đức Thần Công” (đức như thánh, công như thần nghĩa của cụm từ này là công đức của nhà Vua như Thánh Thần) được làm từ khối đá xanh cao hơn 5m lấy từ Thanh Hoá vào. Nội dung tấm bia viết về tiểu sử và công đức của Vua Minh Mạng do Vua Thiệu Trị viết. Nhà bia được làm ở trên cao như tôn thêm công lao của một vị Vua tài, anh minh, quyết đoán của nhà Nguyễn.

Nhà bia “Thánh Đức Thần Công”
Qua nhà bia sẽ vào Hiển Đức Môn mở đầu cho khu vực điện tẩm . Hiển Đức Môn nghĩa là cửa vào nơi vinh hiển của nhà Vua. Sau Hiển Đức Môn được giới hạn bởi một lớp thành hình vuông biểu trưng cho đất vuông. Ở trung tâm khu vực là điện Sùng Ân ( sung-tôn sung, ân-là ân đức, ân nghĩa: nghi nhớ sự tôn sùng ân tình, ân nghĩa của Vua ), nơi thờ bài vị của Vua và kế bên đó là bài vị của bà Tả Thiên Hoàng Hậu (Hồ Thị Hoa) . Ngôi điện được xây dựng theo lối nhà kép, còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc ( nhà nối liền nhau, mái chồng lên nhau)”. Mái sau của nhà trước nối với mái trước cuả nhà sau bằng mái vỏ cua hay gọi là “trần thừa lưu”. Bên trên trần có máng sối bằng đồng hứng nước của hai mái nhà này rồi chảy xuống mái hạ hai bên có miệng rồng đắp nổi. Nơi đây tượng trưng cho nơi nghỉ của nhà Vua. Hai bên của điện Sùng Ân là nơi thờ các quan và cung tần. Hoàng Trạch Môn (cửa vào nhà Vua) là gianh giới nơi thờ và mộ táng, đầy hoa ngát hương, là nơi mở đầu cho thế giới đầy an nhàn và siêu thoát, vô biên. Bước xuống 17 bậc thềm bằng đá Thanh Hóa dịu mát để rơi mình vào khoảng không gian đầy hoa thơm cỏ lạ. Từ đây ta thấy ba cây cầu bắc qua hồ Trừng Minh và một trong ba cây cầu đưa chúng ta tới minh Lâu nằm chân đồi Tam Tài Sơn, là nơi vua ngắm cảnh, ngắm trăng và suy ngẩm nhân thế.

Cuối sân triều lễ là Hiển Đức Môn, cánh cổng mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất.
Qua cây cầu có tên là “ Trung Đạo kiều ” và trước mặt là Minh Lâu
Tòa Minh Lâu này có dạng hình vuông, nằm trên quả đồi có tên là Tam Tài Sơn. Minh Lâu cũng là một điểm nằm trên trục chính của đường Thần đạo và là công trình có vị trí cao nhất tính theo mặt bằng của lăng. Minh Lâu có nghĩa là lầu sáng, là nơi đi về của linh hồn tiên Đế. Đây là nơi dừng chân của Vua trên đường bước vào cõi thiên thai và cũng được hiểu là nơi nhà Vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát. Minh Lâu được xem như là “ Bộ ngực kiêu hãnh ” của con người được ví bởi hình dáng của khu lăng và là công trình có giá trị đặc sắc nhất của lăng Minh Mạng.
Minh Lâu là tòa nhà gỗ 2 tầng với lối kiến trúc chồng rường giả thủ: 2 lớp mái biểu trưng: Dương nhẹ ở trên và Âm nặng ở dưới thật hài hòa, 4 mặt biểu trưng cho tứ tượng và 8 mái là biểu trưng cho bát quái. Ở trên đỉnh là bình hồ lô lưỡng nghi để hút lấy sinh khí của trời đất.
 Nếu tham quan lăng Tự Đức và lăng Khải Định và giờ đây là lăng Minh Mạng thì  sẽ nhận thấy một điều rằng : chỉ mỗi lăng Minh Mạng là có Minh Lâu, điều này thể hiện tư tưởng thoáng đạt và tầm nhìn thật trí tuệ của vua Minh Mạng.

Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát. Đây là công trình mang giá trị kiến trúc nổi bật của khu lăng.
Bên trong Minh Lâu: ở bên trên có thể thấy các bộ vì kèo hình cánh ác, trạm trổ đầu rồng liên kết với nhau thật chặt chẽ, vững chắc. Số lượng các cột vì kèo là 5 và 9 mà theo quan niệm của người phương Đông và trong kinh dịch thì con số 5 và số 9 là những con số đẹp và may mắn. Số 5 là biểu tượng cho ngũ hành : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, còn số 9 là biểu tượng cho Thiên tử là nhà Vua. Chính vì lẽ đó mà các Vua đã vận dụng trong việc xây dựng cho các lăng tẩm, chùa chiền và lăng Minh Mạng là một điển hình, thể hiện rõ quan niệm sống : “ Sinh ký, Tử quy ” có nghĩa là “ Sống chỉ là tạm, và khi chết mới là vĩnh hằng”. Chính vì quan niệm sau khi chết đi, cái còn lại là cái vĩnh hằng mà Vua Minh Mạng, ngay từ khi còn sống đã cho xây dựng lăng tẩm cho mình. Đây là sự chuẩn bị cho một cái chết vĩnh hằng, điều này thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa.
Ở ngay chính giữa tòa nhà, sập gỗ liêm này là chỗ giành cho nhà Vua ngả lưng vào buổi trưa để hóng mát, nhưng sự thật thì vua Minh Mạng chưa một lần lên đây để nằm nghỉ thì đã băng hà và Minh Lâu được dựng lên chỉ là tượng trưng. Sau này, con cháu Vua Minh Mạng lên viếng mộ Vua cha thì dừng chân nghỉ ở tòa nhà này.
Ở bên trên, xung quanh là những ô hợp được trang trí hoa lá hoặc khắc in những bài thơ, câu thơ. Tất cả được sơn son thiếp vàng rất đẹp. Những đường nét hoa văn được chạm khắc tinh tế, nhẹ nhàng, phản ánh những hình ảnh rất gần gũi với con người và với cuộc sống. Những bài thơ này nói về nông thôn , cây lúa và con người. Có ý kiến cho rằng, những bài thơ này được Vua Thiệu Trị ( là con Vua Minh Mạng ) trong thời gian tiếp tục cho thi công công trình lăng đã cho in khắc vào, nhưng qua tìm hiểu và xét ở một khía cạnh khác thì có thể cho rằng hầu hết những bài thơ này đã được chính Vua Minh Mạng phê duyệt từ trước, bởi Ông là một người có tâm huyết và đồng điệu với làng quê, đất nước. Và một trong những bài thơ hay, là bài thơ vịnh ngôi nhà người đạo sĩ ở ẩn rất đẹp, được Hoàng Phủ Ngọc Tường tạm dịch :
“ Long lanh ngọc đính trên sa
Thảnh thơi một mái khuất xa thị thành
Thú vui cao sĩ ẩn mình
Nằm trong mây khói bồng bềnh khói thu. ”
Không những là một “ thi sĩ ”, Minh Mạng còn là một vị Vua năng động và rất quan tâm đến võ bị, nhất là thủy quân. Điều này thể hiện qua việc trong thời gian trị vì, Vua đã sai người đi tìm hiểu cách đóng tàu của người Châu Âu và ước vọng làm sao cho người Việt đóng được tàu kiểu Tây và biết lái tàu vượt đại dương.
Nếu đứng trong tòa Minh Lâu , là công trình có vị trí cao nhất so với các công trình kiến trúc khác của lăng. Từ đây, có thể thấy được các công trình ở phía trước và cả ở đằng sau Minh Lâu. Như ở phía trước Minh Lâu này nhìn ra có thể thấy Trung Đạo kiều, Hoằng Trạch Môn, điện Sùng Ân và cả Bi Đình còn ở phía sau là Bửu Thành mà có thể thấy ở đằng xa kia .
Xuyên suốt trục Thần đạo của lăng từ Đại Hồng Môn đến Bửu Thành, tất cả các công trình chính được bố trí ở 5 tầng sân tượng trưng cho Ngũ hành, còn các công trình phụ được bố trí đối xứng 2 bên, từng cặp một qua trục chính xuyên tâm lăng. Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường Thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm và dương xen kẽ nhau, tạo nên một nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Tất cả đã được sắp đặt theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống, giống như xã hội đương thời – một xã hội được tổ chức theo chính sách trung ương tập quyền của chế độ quân chủ tôn sùng nho học đến mức tối đa. Bố cục kiến trúc ấy cũng phản ánh và nói lên tính cách, phong cách của chính Vua Minh Mạng.
Và nếu được nhìn từ trên cao, có thể thấy các hạng mục kiến trúc chính xếp thành một cành hoa, với bông hoa là khu mộ Vua, những chiếc lá đối xứng 2 bên là các phần công trình kiến trúc phụ khác ở 2 bên hồ nước. Cũng có quan niệm, có thể suy tưởng rằng : toàn bộ quần thể lăng giống như phần trên của cơ thể con người, với đầy đủ tim, phổi là khu tưởng niệm, và đầu óc là phần mộ Vua. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi thẳng ra ngã 3 sông trước mặt, 2 nữa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi một cách tự nhiên.
Các nhà kiến trúc thời ấy đã khôn khéo lợi dụng được thế đất và các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc lên, làm cho lăng Minh Mạng trở thành một kỳ quan được thiết kế xây dựng kỳ công trong một không gian hoành tráng hùng vĩ, toát lên vẻ đường bệ, uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với cảnh quan thiên nhiên một cách tuyệt vời. Bố cục lăng tạo hình gợi cảm, tiết điệu, có giá trị thẩm mỹ cao, phản ánh tâm linh, quan niệm vĩnh cửu và huyền bí phương Đông.
Sau Minh Lâu  có 2 vườn hoa : 2 vườn hoa này được thiết kế và xây dựng theo hình chữ Thọ đối xứng nhau qua đường Thần đạo. Điều này càng phản ánh và tô đậm nên tính cách và khao khát của vị Vua này : đó là biểu tượng cầu mong sự vĩnh cửu của vương nghiệp nhà Vua dưới âm phần và sự trường tồn của vương triều nhà Nguyễn ( con cháu Vua ) trên dương thế. Ở bên ngoài 2 vườn hoa này, có thể thấy 2 trụ biểu uy nghi được dựng lên. Hai trụ biểu này thể hiện uy quyền, ý chí và khát vọng vươn xa, đưa đất nước đi lên của Vua Minh Mạng. Ở bên trên 2 trụ biểu là 2 hoa sen có thể thấy như 2 ngọn đuốc tỏa sáng cho cuộc đời. Hai trụ biểu này được dựng lên mang ý nghĩa nhà Vua đã “ bình thành công đức ” trước khi về cõi vĩnh hằng. Ở bên cạnh 2 trụ biểu là 2 non bộ với hình tượng Rồng và Hổ : Tả Thanh Long với hình tượng Rồng bay lên biểu hiện cho cho sự vươn đến tầm cao, tầm xa trong cuộc sống. Hữu Bạch Hổ thể hiện sự uy quyền của vị Vua trong xã hội quân chủ ấy.




Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã "bình thành công đức" trước khi về cõi vĩnh hằng.
Đi tiếp sẽ gặp cây cầu có tên là Thông Minh Chinh Trực, đây là cây cầu nối liền Minh Lâu với mộ Vua. Khi nghe đến tên cây cầu này thì hẳn cũng hiểu được phần nào ý nghĩa của nó : Chính cái tên này đã phản ánh và nói lên tính cách quang minh của vị Vua này : Minh Mạng là một người thông minh, chính trực và cũng rất quyết đoán. Ông là người tinh thâm nho học và sùng đạo Khổng Mạnh. Minh Mạng rất quan tâm đến chuyện học hành, khoa cử và tuyển chọn người tài : Chính Minh Mạng đã cho dựng Quốc Tử Giám ( 1821 ). Một trong những việc đầu tiên khi lên làm vua là Minh Mạng đã cho xuống chiếu cầu hiền, tìm người tài giỏi. Ông cho tổ chức các khoa thi, chính vì vậy mà trong tổng số gần 300 vị tiến sĩ của triều đình nhà Nguyễn thời ấy, đã có đến 54 vị tiến sĩ thuộc đời Vua Minh Mạng.




Từ Minh Lâu đi xuống sẽ gặp cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt để dẫn vào Bửu Thành, tòa thành bảo vệ nơi yên nghỉ của nhà vua.
Bên dưới cây cầu Thông Minh Chinh Trực ở hai bên là hồ Tân Nguyệt. Hồ Tân Nguyệt này ôm lấy một phần khu mộ Vua ( là Bửu Thành ) ở trước mặt . Hồ Tân Nguyệt có dạng hình trăng non, với ý nhĩa trăng vơi hôm nay, nhưng ngày mai lại đầy, ví như hình ảnh con cháu nhà Vua sẽ kế tục sự nghiệp vững bền của Vua cha trên dương thế. Phong cảnh ở đây thì thật hữu tình và ngoạn mục với hồ nước ngát hương sen, mặt nước phẳng lặng in hình những bóng thông mát rượi xuống dưới hồ.
Hồ Tân Nguyệt được ví như yếu tố “Âm ” bao bọc và che chở cho yếu tố “ Dương ” là Bửu Thành – khu lăng mộ nhà Vua – là biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật, đó là nhân tố tác thành vũ trụ. Lão Tử đã có câu : “ Vạn vật phụ âm nhi bảo dương, sung khí dĩ nhi hòa ” có nghĩa là : “ Vạn vật khí âm nằm bên ngoài, ôm lấy khí dương ở bên trong, 2 khí sung mãn thì có hòa khí ”. Quả thật, đây là một sự kết hợp hết sức hài hòa theo quan niệm của người phương Đông: Ở đâu có âm và dương hài hòa thì ở đó có sự sinh sôi, nẩy nở của vạn vật.




Hồ Tân Nguyệt là hồ nước được tạo hình như trăng non, là yếu tố "Âm" bao bọc, che chở cho yếu tố "Dương" là Bửu Thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật.
Hồ Tân Nguyệt đã được bàn tay con người tạo ra như những nốt nhạc trầm, làm cho toàn bộ kiến trúc và thiên nhiên trong lăng trở thành một khúc nhạc rất phong phú về âm điệu và tiết tấu.
Về hai phía của hồ Tân Nguyệt ,trước đây là 2 khu Tả Tùng Phòng và Hữu Tùng Phòng. Đây là nơi ở của các cung nhân. Ở phía bên tay phải là Tả Tùng Phòng : là nơi ở của các quan lại, còn ở bên trái là Hữu Tùng Phòng: là nơi ở của các tỳ nữ. Những cung nhân này có nhiệm vụ trông nom và chăm sóc khu mộ Vua. Tả Tùng Phòng và Hữu Tùng Phòng là 2 công trình phụ đối xứng nhau thành 1 cặp qua trục chính của lăng là đường Thần đạo. Hai công trình này, cũng giống như những cặp công trình đăng đối khác, tạo nên một nét đẹp riêng với vẻ uy nghiêm cần có của một công trình lăng mộ. Do thời tiết và chiến tranh tàn phá nên hiện nay 2 công trình này chỉ còn lại là vết tích của các công trình phụ trong tổng thể kiến trúc lăng Minh Mạng.
Mộ vua Minh Mạng - Đây là điểm cuối cùng nằm trên trục Thần đạo. Bửu Thành là trung tâm vũ trụ và là công trình chính của lăng. Bửu Thành có dạng hình tròn, nằm trên quả đồi thông mang tên Khải Trạch Sơn. Bửu Thành được bao quanh bởi tường thành, ở bên trong, sâu bên dưới là mộ Vua. Vua được biểu thị như là mặt trời, là trung tâm tỏa sáng, là đấng chí tôn có quyền chi phối toàn bộ xã hội quân chủ ấy. Và nếu để ý một chút, có thể thấy hình tròn Bửu Thành, nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời ở xa, như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng lấy trời đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị Vua quá cố này. Đó là khát khao lớn mà Vua Minh Mạng muốn gởi gắm vào công trình lăng mộ của mình.







Mộ vua nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn.
Qua 33 bậc tầng cấp sẽ đến Huyền Cung, là nơi yên nghỉ của nhà Vua. Huyền Cung là một cung điện được đặt ngầm trong lòng đất, là nơi đặt thi hài của nhà Vua. Sau khi Vua Minh Mạng mất ( 01/1841 ), nhưng mãi đến ngày 20/08/1841 thì thi hài Vua Minh Mạng mới được đưa vào lăng, qua một đường hầm gọi là toại đạo và chôn ở Huyền Cung này vĩnh viễn. Bình thường thì Bửu Thành được tách biệt với bên ngoài bằng 2 cánh cổng lớn được khóa lại . Và Bửu Thành chỉ được mở mỗi năm một lần vào đúng ngày giỗ Vua, vì thực ra người ta cũng không rõ Vua được chôn chính xác ở chỗ nào, sợ vô ý giẫm lên long thể nhà Vua.
Ở phía sau Bửu Thành này là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch cho lăng mộ Vua. Ở trong lăng Minh Mạng, cũng thấy có rất nhiều cây cối. Đây là những cây ăn trái đặc sản được vua Minh Mạng cho đưa về từ 3 miền : Bắc, Trung, Nam. Bởi nhà Vua cho rằng, khi những người dân ở những vùng này đến đây, khi nhìn thấy những cây trái vùng mình, sẽ có được một cảm giác ấm lòng. Nhà Vua ví công viên trong lăng này như là một công viên Đại Nam thu nhỏ, điều này nói lên khát khao rất lớn của nhà Vua đối với non sông, đất nước.
( Trích từ BÀI THUYẾT MINH LĂNG MINH MẠNG ) 
Xem tiếp BÀI 7.HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG. ( Tiếp theo ). dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *