GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 27.

9/11/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 27.
SAI LẦM CỦA DIENBATN KHI TÍNH THEO THỦY PHÁP LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG. BÀI 2.
4/ SẮP XẾP VÀ PHÂN TÍCH TÀI LIỆU. ( Tài liệu rất nhiều , dienbatn đã lược bớt )
Trước hết ta phải khẳng định , người chọn địa điểm xây dựng Lăng mộ Gia Long, Phân kim , Điểm hướng và là người trong suốt thời gian xây dựng lăng đã sâu sát chỉ đạo thực hiện chính là vua Gia Long chứ không phải nhà Địa lý Phong thủy nào khác. Qua đó ta thấy được sự hiểu biết và quyết đoán của Vua Gia Long mạnh mẽ biết nhường nào.( dienbatn sẽ phân tích về thiên tài về Địa lý Phong thủy của vua Gia Long trong bài sau ).
Cũng vì quá sâu sắc với công trình xây cất "ngôi nhà vĩnh cửu" của mình mà có lần suýt nữa, Gia Long đã thiệt mạng trong một tai nạn ở công trường. Một trận gió làm sập ngôi nhà mà Vua đang trú ngụ, vua Gia Long tuy đã ẩn trong một cái hố nhưng vẫn bị thương ở trán, mí mắt và bị dập chân do một thanh xà rơi trúng. Hai Hoàng tử thứ bảy và thứ tám là Tấn và Phổ bị trọng thương, nhiều người khác bị chết. Gia Long không trừng phạt các quan lại thi công, ngược lại đã cấp thuốc men để chạy chữa cho họ, cấp phát 500 quan tiền và 500 tiêu chuẩn gạo cho dân làng Định Môn, gần nơi xây dựng lăng.
·     -  “ Giáp tý, Gia Long năm thứ 3 [1804], Định điều lệ hương đảng cho các xã dân ở Bắc Hà. Chiếu rằng :….” Tế táng điếu phúng, hết thảy theo như Gia lễ của Chu Văn Công, khiến kẻ giàu biết có phận hạn, không quá xa hoa, kẻ nghèo tùy lực có không, không gắng theo tục ; còn cỗ bàn ăn uống nhiều ít thì tùy ở nhà tang, không được vin lệ đòi hỏi. Đến như chọn đất chôn cất là việc quan trọng trong sự báo hiếu của người làm con, làm bền quan quách, để ấm đất đai, là trước sau đều cẩn thận, mồ mả cho yên người chết, há nên coi thường ? Nhưng chẳng qua chọn lấy nơi cao ráo, lánh năm mối lo là những nơi đầu non, đuôi nước, chùa miếu, binh lửa, thị thành, để được yên tĩnh cho yên lòng người làm con thôi. Gần đây có kẻ tính việc kết phát, nhẹ dạ nghe lời thầy địa lý, sáng chôn chiều bới, di cải không thường, tấm lòng thương xót không còn gì nữa. Chẳng nghĩ tới đạo làm người duy trung với hiếu, mà phận sự của người con trai đều nên yên nghiệp để định chí, giàu khó sang hèn đều do trời định, người ta không thể cưỡng được. Thử xem các thầy địa lý có học thuật gì mà sự ăn mặc trong nhà cũng vẫn thiếu thốn. Tức là Quách Phác(1. Quách Phác :  Người đời Tấn, là tổ địa lý và bói toán ; bấy giờ có Vương Đôn sắp làm loạn, gọi Quách Phác đến để bói, Quách Phác nói : “Minh công làm việc ấy họa không xa đâu”. Vương Đôn hỏi : “Số mệnh nhà ngươi thế nào?”. Đáp : “Số tôi chết ngày nay”. Quả nhiên đến nửa ngày, Vương Đôn đem chém Quách Phác.
1) mà bị hình thương, Quỷ Linh
(2. Quỷ Linh : Có lẽ cũng là thầy địa lý, nhưng chưa biết rõ sự tích.
2) mà bị chết yểu, thì các phép thu sa nạp thủy(3. Thu sa nạp thủy : Phép địa lý lấy gò đất ở bên tả, bên hữu làm thu sa, lấy dòng nước chảy lại gọi là nạp thủy.
 3) lại có ích gì ? Huống chi lại lấy lòng bất hiếu mà mưu cầu cái Phước không đâu, trong hạn ba năm, Phước còn chưa đến, nghĩ ác một chút, vạ đã theo liền. Thói tệ ấy cần phải răn đổi. Từ nay về sau nhà dân như có chôn, thì chỗ đất để mồ không cần phải tìm long mạch để cấu kết phát. Như có gặp phải năm điều lo đó thì trước làm đơn trình quan sở tại, xét đúng, mới cho cải táng. Lại gần đây nhiều người đặt ra câu sấm, tạo ra lời phao để cổ hoặc dân ngu, bàn nhảm lành dữ, đến nỗi có kẻ bỏ cả nghề nghiệp sinh sống, mưu toan những việc trái phép rồi mắc họa. Nay nên nghiêm cấm, phàm có kẻ truyền đọc sách sấm và soạn bậy câu vè thì phải tội nặng.”( Đại Nam thực lục – Tập 1).
·      -   “Nhâm thân, Gia Long năm thứ 11 [1812]. Ngày Tân mão, xây lăng ở Định Môn. (ở phía tả bảo thành dựng tẩm điện, nhà chính và nhà trước đều một; ở tả hữu phối điện đều một; một nghi môn đằng trước: chu vi xây tường gạch; các núi trồng thông khắp). Sai Sơn lăng sứ là Tống Phước Lương và Lê Quang Định trông coi công việc, Trần Quang Thái làm Giám tu, thưởng cho các quân 3.000 quan tiền. Vua nhiều lần đến xem. Gặp một hôm gió tây hơi mạnh, trên lăng có chiếc nhà tranh đổ, vua lánh xuống chỗ lõm, bị thương ở chân. Quan quân không ai là không sợ hãi tái mặt. Hoàng tư và các đại thần tranh nhau dắt đỡ. Vua yên ủi nói: “Không can gì. Quan quân được vô sự chứ? Hoàng bảy Tấn, hoàng tám Phổ, hoàng chín Chẩn đều bị thương nặng. Quân nhân có người chết. Bầy tôi đều nói Quang Thái vâng làm sơ suất, xin trị tội đại bất kính. Vua nói: “Đó là tình cờ thôi. Quang Thái làm thế nào với gió được? Miễn tội cho”. Một lát vua cho vời những cụ già ở Định Môn hỏi thăm đời sống của dân, các cụ nói dân ít ruộng. Ra lệnh cho dân 500 quan tiền, 500 phương gạo, lại sắc cho các quân không được đi riêng xuống làng. Có ai đau ốm thì quan cho thuốc chữa.” .( Đại Nam thực lục – Tập 1).
·     -   “Vua đi thăm sơn lăng. Hoàng tư cùng các đại thần đều theo hầu. Đến khi đào huyệt, thấy có đất ngũ sắc, lòng vua mừng lấy làm điềm tốt. Bầy tôi đều khen mừng, duy Nguyễn Văn Thành không hưởng ứng. Vua hỏi vì sao? Thành vội thưa rằng: “Đất ấy chưa đủ làm tốt. Mộ mẹ thần cũng có đất ngũ sắc, mà sắc coi còn tươi nhuần, có thể tốt hơn đất này”. Vua lặng yên. Bầy tôi đều bất bình. Rồi Văn Thành lại nói: “Gần đây xứ Châu Ê có một kiểu đất rất tốt”. Bọn đại thần Phạm Văn Nhân đều nói: “Đã biết đấy có đất tốt, sao không tâu cho vua nghe?”. Văn Thành nói: “Đất ấy tuy tốt nhưng không thể táng được, táng đấy hẳn bị sét đánh”. Vua nghe không đẹp lòng. Hoàng tư quay bảo rằng: “Tây Sơn là bọn tiếm ngụy, tất gặp vạ sét đánh, còn nay là đời thánh minh, được trời giúp đỡ. Đứng trước mặt vua, khanh sao vội nói những câu như thế?”. Văn Thành tự biết mình nói sai rồi, xấu hổ sợ hãi, lùi đi nơi khác.” ( dienbatn : Đây cũng chính là những mầm mấm đầu tiên khiến Nguyễn Văn Thành thất sủng về sau này ).( Đại Nam thực lục – Tập 1).
·      -  “ Giáp tuất, Gia Long năm thứ 13 [1814]. Ngày Quý sửu, dựng Thọ lăng ở Thụ Sơn xã Định Môn. Trước đây, Đại hành hoàng hậu băng, vua cùng đại thần bàn muốn phỏng theo lễ hợp lăng(1. Hợp lăng: Táng 2 ông bà vào một lăng, cũng gọi là song táng  1) của người xưa, sai Tống Phước Lương và Phạm Như Đăng lãnh chức Sơn lăng sứ, khiến cùng Lê Duy Thanh đi xem các núi. Bảy lần bói, chỉ có núi Thụ Sơn là tốt. Vua đến xem đất ấy vượng khí chung đúc, các núi quanh chầu bầy tôi đều cho là đất tốt vạn niên. Vua sai hoàng tử thứ tư bói. Bói được quẻ Dự. Nguyễn Hữu Thận xem quẻ rồi nói: “Tốt lắm”. Bèn lấy quân dân để làm lăng, mặt trước rộng 150 trượng, 3 mặt tả hữu hậu đều rộng 100 trượng. Bốn mặt thành chính đều dài hơn 10 trượng. Chỗ chính huyệt đặt 2 cái quách đá. Cửa trước xây bực đá. Mấy tháng làm xong, gọi tên là lăng Thiên Thụ, phong cho núi là núi Thiên Thụ. (Bên tả là Thanh Sơn, bên hữu là Bạch Sơn, trước mặt là Thủy Sơn, núi thứ nhất là Tiểu Thiên Thụ, núi thứ nhì, thứ ba, thứ tư là núi Trung Thiên Thụ, núi thứ năm là Đại Thiên Thụ, thứ sáu là Diên Sơn, thứ bảy là Bính Sơn, thứ tám là An Sơn, thứ chín là Hưng Sơn, thứ mười là Hòa Sơn, thứ mười một là Xuân Sơn, thứ mười hai là Hoa Sơn, thứ mười ba là Cẩm Sơn, thứ mười bốn là Bình Sơn, thứ mười lăm là Bảo Sơn, thứ mười sáu là Hùng Sơn, thứ mười bảy là Chinh Trung Sơn, thứ mười tám là Trang Sơn, thứ mười chín là Hương Sơn, thứ hai mươi là Nhân Sơn, thứ hăm mốt là Cận Nhân Sơn, thứ hăm hai là Tiểu Tượng Sơn, thứ hăm ba là Cận Tượng Sơn, thứ hăm bốn là Quý Sơn, thứ hăm lăm là Mậu Sơn, thứ hăm sáu là Thuận Sơn, thứ hăm bảy là Mỹ Sơn, thứ hăm tám là Đoài Sơn, thứ hăm chín là Trần Sơn, thứ ba mươi là Kim Sơn, thứ băm mốt là Trinh Sơn, thứ băm hai là Bích Sơn, thứ băm ba là Cận Bích Sơn, thứ băm tư là Tam Bút Sơn; lại có Đại Tượng Sơn, ất Sơn, Thạch Bàn Sơn, Ngọc Đường Sơn, Thịnh Sơn, Kim Sơn, Lẫm Sơn, Thành Sơn).Bên hữu lăng dựng tẩm điện gọi là điện Minh Thành. (Điện này không sơn đỏ, gỗ mộc làm giản dị giống như có thể ngày mai làm xong cho nên đặt tên như thế, cũng theo ý như miếu Cố Thành của nhà Hán). Những người ứng dịch được hậu cấp tiền gạo, số thưởng thêm kể hàng nghìn. Có mở vào ruộng đất phần mộ của dân thì đều trả tiền hậu. (Ruộng nhất đẳng 1 mẫu cấp 200 quan, nhị đẳng150 quan, tam đẳng 100 quan, mồ mả mỗi nấm cấp 3 quan). (  Đại Nam thực lục – Tập 1).
-  Phần này dienbatn mạo muội dịch ra chữ Hán nôm để tiện việc đọc bản đồ sau này : Bên tả là 青山 THANH SƠN, bên hữu là 白山 BẠCH SƠN, trước mặt là 水山 THỦY SƠN, núi thứ nhất là 小天陵  TIỂU THIÊN THỤ, núi thứ nhì, thứ ba, thứ tư là núi 中天陵 TRUNG THIÊN THỤ, núi thứ năm là 大天陵 ĐẠI THIÊN THỤ, thứ sáu là 衍山 DIÊN SƠN, thứ bảy là 丙山 BÍNH SƠN, thứ tám là 安山 AN SƠN, thứ chín là 興山 HƯNG SƠN, thứ mười là 和山 HÒA SƠN, thứ mười một là 春山 XUÂN SƠN, thứ mười hai là 花山 HOA SƠN, thứ mười ba là 錦山 CẨM SƠN, thứ mười bốn là 平山 BÌNH SƠN, thứ mười lăm là 寶山 BẢO SƠN, thứ mười sáu là 熊山 HÙNG SƠN, thứ mười bảy là 正中山 CHINH TRUNG SƠN, thứ mười tám là 裝山 TRANG SƠN, thứ mười chín là 香山 – HƯƠNG SƠN, thứ hai mươi là 人山 NHÂN SƠN, thứ hăm mốt là 近人山  CẬN NHÂN SƠN, thứ hăm hai là 小象山 TIỂU TƯỢNG SƠN, thứ hăm ba là 近象山 CẬN TƯỢNG SƠN, thứ hăm bốn là 癸山 QUÝ SƠN, thứ hăm lăm là 戊山 MẬU SƠN, thứ hăm sáu là 順山 THUẬN SƠN, thứ hăm bảy là 美山 MỸ SƠN, thứ hăm tám là 兑山 ĐOÀI SƠN, thứ hăm chín là 陳山 TRẦN SƠN, thứ ba mươi là 金山 KIM SƠN, thứ băm mốt là 貞山 TRINH SƠN, thứ băm hai là 壁山 BÍCH SƠN, thứ băm ba là近壁山 CẬN BÍCH SƠN, thứ băm tư là 三筆山 TAM BÚT SƠN; lại có 大象山 ĐẠI TƯỢNG SƠN, 乙山 ẤT SƠN, 磐石 THẠCH BÀN SƠN, 玉堂山 NGỌC ĐƯỜNG SƠN, 晟山 THỊNH SƠN, 金山 KIM SƠN, 廩山 LẪM SƠN, 城山 THÀNH SƠN.
·       - “ Tháng 5, tiết Đoan dương, miễn chầu mừng cho các quan.Định phẩm trật cho quan hộ lăng. Việc hộ lăng, trước đặt chức cai đội, trật tòng ngũ phẩm, đội trưởng, trật tòng lục phẩm. Đến nay mới đặt chức giám sơn lăng chánh phó sứ, chánh sứ trật tòng tam phẩm, phó sứ trật tòng tứ phẩm, đội trưởng trật chánh ngũ phẩm, theo chánh phó sứ theo dõi các tôn lăng. Sai Tôn Thất Thăng chọn bổ. Bèn lấy Tôn Thất Đạo làm Chánh sứ, Tôn Thất Thuận làm Phó sứ, Tôn Thất Ngũ, Tôn Thất Quảng làm Cai đội, Tôn Thất Thịnh, Tôn Thất Trinh, Tôn Thất Chử, Tôn Thất Thái, Tôn Thất Lộc, Tôn Thất Tự, Tôn Thất Trang, Tôn Thất Tại, Tôn Thất Chiến làm đội trưởng mà chia giữ. Lính giữ lăng 103 người chia làm 2 ban, dân 384 người chia làm ba ban.” (  Đại Nam thực lục – Tập 1).
天授陵 THIÊN THỤ LĂNG và  天壽陵  THIÊN THỌ LĂNG. Người ta hay nói sai hai chữ Thiên Thụ (  Thụ - Cho, trao cho.Truyền thụ. Như thụ khóa 授課  dạy học.Trao ngôi quan.Thiên Thụ hiểu nôm na là Trời cho ). 天壽(壽  Thọ. Lâu dài. Có tuổi gọi là thọ. Trăm tuổi là thượng thọ 上壽. Tám mươi gọi là trung thọ 中壽.Ngày sinh nhật cũng gọi là thọ.Chúc, đời xưa đem vàng lụa tặng cho người tôn kính hay lấy rượu mà chuốc cũng gọi là thọ.Thiên Thọ nôm na là sống thọ.) Trong các văn bản cổ người ta dùng chữ 天授 THIÊN THỤ. ( dienbatn ).
·     -   Trong năm 1808, vua Nguyễn đã cho xây dựng lại 17 lăng mộ của các chúa và phi. Năm 1812, lại cho xây dựng lăng Thoại Thánh và lăng Vĩnh Diên đồng thời cho sửa lại lăng Cơ Thánh (lăng mộ cha ruột vua Gia Long). Thời vua Minh Mạng và Thiệu Trị, lại cho sửa sang thêm vào các năm 1840 và 1841. Xem Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bộ Công, quyến 216. 7 Quần thể 7 khu lăng này gồm: Lăng Quang Hưng 光興陵 của bà Thái Tông Hiếu Triết Hoàng hậu Tống Thị Đôi, vợ thứ hai của chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Thái (Trăn). Lăng được xây khoảng năm 1680.Lăng Vĩnh Mậu 永茂陵 của bà Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng hậu Tống Thị Lãnh, vợ chúa Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (Trăn) (1650-1725). Lăng được xây năm 1696, sau khi bà mất.Lăng Trường Phong 長豐陵 của Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế Nguyễn Phúc Thụ (Trú) (1697-1738). Lăng được xây cũng trong năm 1738.Lăng Thoại Thánh 瑞聖陵 của bà Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng hậu (1738-1811), vợ thứ hai của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và là thân mẫu của vua Gia Long. Lăng được xây năm 1812.Lăng Hoàng Cô 皇姑陵 của Thái Trưởng Công chúa Long Thành, chị ruột vua Gia Long. Lăng được xây khoảng năm 1825, sau khi bà mất.Lăng Thiên Thọ 天授陵 của vua Gia Long và vợ ông, xây lần đầu năm 1814, sau xây bổ sung năm 1820.Lăng Thiên Thọ Hữu 天授右 của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ vua  Minh Mạng. Lăng được xây năm 1847.
·     -   Bản đồ lăng tẩm hoàng gia triều Nguyễn, trích từ “Les Tombeaux de Hue: Cia-Long” của Charles Patris và L. Cadiere.Đó là bản đồ vẽ lại sơ đồ các lăng tẩm của nhà Nguyễn. Nó được vẽ với nét vẽ của Âu hóa, nhưng các đặc tính bên trong thì lại đậm chất Á Đông, họ đã vẽ nổi bật núi và nước, phản ánh ảnh hưởng vẫn còn rất mạnh mẽ của văn hóa Á Đông vào thời Nguyễn. Nhà nghiên cứu Rolf Stein trong cuốn “The World in Miniature” đã chỉ ra sự liên quan mật thiết giữa các lăng mộ này với các mô hình giả sơn cổ, vì chúng đều tuân theo quy luật phong thủy, các dấu hiệu tín ngưỡng, tôn giáo.Đối với việc kiến trúc lăng mộ, sau khi cho xây dựng lại hệ thống lăng các chúa và phi bị tàn phá trong thời Tây Sơn , vua Gia Long đã tự chọn đất để xây dựng cho mình một “ngôi nhà vĩnh cửu” ở trong khu vực mà tổ tiên ông đã chọn làm nơi yên nghỉ cho họ Nguyễn, gọi là Thiên Thọ lăng 天授陵, bắt đầu từ năm 1814 và hoàn thành năm 1820.Khu lăng này về sau phát triển rộng ra, trở thành một quần thể với 7 khu lăng mộ khác nhau , rộng đến 2.875ha, chủ yếu thuộc đất làng Định Môn, huyện Hương Trà, cách trung tâm Kinh thành gần 16 km. Đây cũng là vị trí xa nhất, vị trí tận cùng ở phía tây nam Kinh thành. Các vua Nguyễn về sau đều chọn các địa điểm gần Kinh thành hơn và đều nằm hai bên bờ sông Hương. Có thể nói rằng, vua Gia Long là người sáng lập ra triều Nguyễn, là người cho xây dựng Kinh thành Huế và đặt một số cơ sở đầu tiên cho các quy thức về kiến trúc lăng mộ.
Về quy trình xây dựng các lăng tẩm, do thiếu tư liệu nên chưa rõ thời chúa Nguyễn
được tiến hành ra sao, còn quy trình xây dựng lăng tẩm thời Nguyễn thì khá đồng nhất,bao gồm các công đoạn sau:
- Tìm đất: Đây là công việc hết sức hệ trọng, tư liệu cho thấy hầu hết các lăng đều
được chọn lựa vị trí rất công phu. Triều Nguyễn gọi đây là cuộc đất Vạn niên cát địa 萬年吉地, nên dốc rất nhiều sức lực để kiếm tìm. Các thầy địa lý, quan lại đại thần giỏi về phong thủy đều được huy động tham gia công việc này. Lăng vua Gia Long do Lê Duy Thanh黎維清, con trai của Lê Quý Đôn 黎貴惇tìm ra; lăng vua Minh Mạng thì do đại thần Lê Văn Đức 黎文德tìm ra sau 14 năm tìm kiếm! Qúa trình tìm kiếm khu đất Vạn niên cát địa đều được tường thuật rõ trong văn bia Thánh đức thần công 聖德神功碑 dựng tại các lăng. Sau khi chọn được đất quý, đích thân hoàng đế sẽ xem xét, quyết định phê duyệt, đổi tên đất, tên núi cho phù hợp.
- Vẽ bản đồ địa cuộc, xác định vị trí đặt huyệt, quy hoạch các khu vực. Công việc
này phần lớn do đích thân hoàng đế quyết định và bộ Công là cơ quan triển khai (trừ lăng vua Thiệu Trị, Dục Đức và Đồng Khánh do họ đột ngột băng hà).
- Tiến hành xây dựng, bao gồm cả khâu chuẩn bị và chuyên chở vật liệu xây cất.
Các vật liệu chính là gỗ, tre, gạch đá, ngói lợp, gốm sứ… Và chủ yếu được vận chuyển theo đường sông Hương để lên các khu lăng. Việc xây lăng bao giờ cũng huy động tài lực của cả quốc gia, tập trung các vật liệu tốt, thợ khéo từ các địa phương (như đá Thanh Hóa,gạch Bát Tràng, gỗ lim Thanh-Nghệ… Thời Khải Định, triều đình còn nhập khẩu gốm sứ,ngói lợp từ châu Âu về). Lễ khởi công được xem là thời điểm xây dựng lăng.
Người ta thường xây khu tẩm điện (phục vụ nghỉ ngơi, thờ cúng) trước, sau khi
nhà vua băng hà mới xây Huyền cung, an táng và hoàn chỉnh các công trình ở khu vực lăng như nhà bia, tượng người, voi, ngựa. Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà vua băng hà đột ngột thì triều đình cho xây phần Huyền cung trước, sau đó mới hoàn chỉnh các phần khác.
- Sau khi hoàn thành, triều đình tổ chức lễ tạ Sơn thần/Thổ thần (mỗi khu lăng đều
có miếu thờ Sơn thần, vị thần được giao nhiệm vụ trông giữ khu vực lăng tẩm)
Nhìn chung các khu lăng tẩm thời Nguyễn đều được xây dựng trong thời gian khá
dài, lăng Gia Long 6 năm (1814-1820), lăng Minh Mạng 4 năm (1840-1843), lăng Tự Đức 4 năm (1864-1867), lăng Khải Định 11 năm (1920-1931)... và còn được bổ sung, tu bổ trong nhiều giai đoạn khác nhau.
Như vậy, các lăng tẩm của triều Nguyễn tại Huế được xây dựng trong hơn 100 năm, chủ yếu từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 (chưa kể các lăng tẩm của chúa Nguyễn được xây dựng từ thế kỷ 18). Đây là giai đoạn đỉnh cao cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam, cũng là giai đoạn tiếp thu mạnh mẽ những yếu tố văn minh bên ngoài, nhất là văn minh phương Tây. Chính vì vậy, quy thức lăng mộ cũng  mang nhiều đặc điểm độc đáo, vừa kế thừa những yếu tố truyền thống, vừa có  những điểm mới lạ do tiếp thu các yếu tố văn hóa ngoại lai.
Chẳng hạn sau khi tìm được khu đất xây lăng ở núi Định Môn 定門山, vua Gia Long cho đổi tên thành Thiên Thọ Sơn 天授山; khi tìm được đất ở núi Cẩm Kê錦雞山, vua Minh Mạng đổi tên thành Hiếu Sơn 孝山; vua Tự Đức thì đổi tên núi Cư Chánh 居政山 thành Thuận Đạo Sơn 順道山sau khi chọn được đất để xây Xương lăng cho cha mình;núi Dương Xuân 楊春山thì được đổi tên thành Khiêm Sơn 謙山.vv..
- Danh xưng chung: Có một chi tiết lịch sử thời Nguyễn mà một số nhà nghiên cứu
thường nhắc tới, khi luận tội Lê Văn Duyệt, quần thần triều Minh Mạng đã gán cho ông tội “khi quân” vì đã dám “tiếm gọi mộ mẹ là lăng”. Điều đó chứng tỏ quy chế về cách dùng danh xưng chung chỉ lăng mộ thời kỳ này đã rất chặt chẽ. Chỉ có mộ của hoàng đế,hoàng hậu mới được gọi là lăng hay sơn lăng山陵. Mộ của thân vương, phi, tần chỉ được gọi là tẩm , còn của thần dân, không phân biệt giàu nghèo đều gọi là mộ. Xem sách Đại Nam nhất thống chí, có thể thấy rõ, toàn bộ phần viết về lăng mộ các hoàng đế,hoàng hậu triều Nguyễn đều xếp chung trong phần Sơn lăng 山陵. Còn bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ thì dành hẳn một quyển Lăng tẩm陵寢 (quyển 216) với 5 nội dung : Quy Chế, Lệnh Cấm, Xây Dựng, Quy Thức Viên Tẩm và Cây Trồng, để bàn về vấn đề này. Thời Tự Đức trở về sau, bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, có bổ sung thêm các quy định về viên tẩm, sinh phần, mộ cho các đối tượng là thân vương, quan lại.
Ngày nay chúng ta vẫn quen gọi lăng mộ vua chúa, hậu phi thời Nguyễn kèm theo
niên hiệu, miếu hiệu, thậm chí cả theo tên huý của họ, như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, lăng Thuận Thiên, lăng Từ Dũ, lăng Nguyễn Hoàng .vv.. . Thực ra,hầu hết các lăng này đều được đặt tên. Sách Đại Nam nhất thống chí (bản Duy Tân năm thứ 9) kê ra đến 30 lăng có tên gọi riêng. Thời chúa Nguyễn có 19 lăng là các lăng :
Trường Cơ 長基, Vĩnh Cơ永基 của chúa Nguyễn Hoàng và Hoàng hậu ; Trường Diễn長衍, Vĩnh Diễn永衍 của chúa Nguyễn Phúc Nguyên và Hoàng hậu; Trường Diên長延,Vĩnh Diên 永延của chúa Nguyễn Phúc Lan và Hoàng hậu; Trường Hưng長興, Vĩnh Hưng永興, Quang Hưng 光興của chúa Nguyễn Phúc Tần và hai Hoàng hậu; Trường Mậu 長茂, Vĩnh Mậu 永茂của chúa Nguyễn Phúc Thái và Hoàng hậu; Trường Thanh長清,Vĩnh Thanh 永清của chúa Nguyễn Phúc Chu và Hoàng hậu; Trường Phong長豐, Vĩnh Phong 永豐của chúa Nguyễn Phúc Thụ (Trú) và Hoàng hậu; Trường Thái長泰, Vĩnh Thái 永泰của chúa Nguyễn Phúc Khoát và Hoàng hậu; Trường Thiệu長紹 của chúa  Nguyễn Phúc Thuần và lăng Cơ Thánh 基聖của thân sinh vua Gia Long - ông Nguyễn Phúc Luân (Côn).
Thời vua Nguyễn có 15 lăng có tên gọi riêng là : lăng Thoại (Thụy) Thánh 瑞聖陵
của thân mẫu vua Gia Long; lăng Thiên Thọ (Thụ) 天授陵của vua Gia Long và bà Thừa Thiên Cao hoàng hậu; lăng Thiên Thọ Hữu天授右 của bà Thuận Thiên Cao hoàng hậu;lăng Hiếu 孝陵của vua Minh Mạng; lăng Hiếu Đông 孝東陵của bà Tá Thiên Nhân hoàng hậu; lăng Xương 昌陵của vua Thiệu Trị; lăng Xương Thọ昌壽陵 của bà Nghi Thiên Chương hoàng hậu; lăng Khiêm 謙陵của vua Tự Đức; lăng Khiêm Thọ 謙壽陵của bà Lệ Thiên Anh hoàng hậu; lăng An 安陵của vua Dục Đức; lăng Bồi 培陵của vua Kiến Phúc;lăng Tư 思陵của vua Đồng Khánh; lăng Tư Minh 思明陵của bà Phụ Thiên Thuần hoàng hậu (tức bà Thánh Cung Nguyễn Thị Nhàn); lăng Tư Thông 思聰陵của bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu (tức bà Tiên Cung Dương Thị Thục) và lăng Ứng 應陵của vua Khải Định.
Về cách đặt tên riêng cho từng lăng của thời Nguyễn cũng thể hiện rất phức tạp.
Các lăng thời chúa Nguyễn đều bắt đầu bằng chữ TRƯỜNG - dành cho chúa và chữ VĨNH - dành cho bà phi vợ chúa. Đây là cách thức đặt tên khá phổ biến của lăng mộ đế vương Trung Hoa. Nhưng từ các hoàng đế triều Nguyễn thì dường như không hoàn toàn theo một quy tắc chung nào cả, dù thực chất tên các lăng thời chúa đều được đặt dưới thời vua Nguyễn (năm Gia Long thứ 7-1808).
Triều Nguyễn, sau Thiên Thọ lăng mới đến Hiếu lăng, rồi các lăng Xương, Khiêm,
Bồi, Tư, An, Ứng. Từ tên gọi đến thứ tự cách đặt tên đều không rập khuôn bất cứ triều đại nào của Trung Hoa. Sự khác nhau nổi bật về tên gọi các lăng hoàng đế Nguyễn từ thời Gia Long trở về trước và từ thời Minh Mạng trở về sau là tên kép (Trường Cơ, Trường Thanh, Thiên Thọ...) và tên đơn (Hiếu, Xương, Khiêm, Bồi..), còn về tên lăng hoàng hậu thì không có gì khác biệt, đều dùng tên kép (Vĩnh Cơ, Vĩnh Thanh, Thiên Thọ Hữu, Hiếu Đông...). Tuy nhiên về cách bố trí và đặt tên lăng các hoàng hậu triều Nguyễn, từ Gia Long trở về sau cũng có sự thay đổi đáng chú ý: Nếu lăng vua Gia Long gọi là Thiên Thọ Lăng và lăng Hoàng hậu Thuận Thiên được đặt ở bên hữu (phía tây) lăng này, gọi là Thiên Thọ Hữu Lăng thì lăng Hoàng hậu của vua Minh Mạng lại được đặt ở bên tả (phía đông, dù ở cách khá xa) của Hiếu Lăng và được gọi là Hiếu Đông Lăng. Việc thay đổi này là sự điều chỉnh theo quy chế lăng thời Thanh.
Về thời gian đặt tên, trừ trường hợp lăng các chúa và phi mãi đến thời Gia Long
mới được truy tôn, còn hầu hết các lăng hoàng đế, hoàng hậu triều Nguyễn, ngay sau khi lăng được xây dựng, triều thần sẽ họp bàn và dâng tên hiệu để vua chọn. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc biệt như Khiêm lăng của vua Tự Đức, sau khi xây dựng gần 16 năm vẫn mang tên là Khiêm cung do chủ nhân của nó vẫn còn tại thế.
Mộ các chúa Nguyễn và các phi cũng được tôn xưng là Lăng, vì họ đều được triều Nguyễn truy tôn là Hoàng đế,hoàng hậu. Có một trường hợp tuy không phải là lăng Hoàng đế, hoàng hậu nhưng vẫn được sách Đại Nam nhất thống chí liệt kê trong phần Sơn lăng là “Sơn phần Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Suý tại vùng núi xã An Cựu huyện Hương Trà”, nhưng bà này cũng vốn là một công chúa. 10 Khi chép về lăng tẩm các chúa, sách Đại Nam nhất thống chí đều đã gọi các chúa và Phu nhân theo miếu hiệu của họ sau khi đã được triều Nguyễn truy tôn, như Thái tổ Gia dụ Hoàng đế (Nguyễn Hoàng)... Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyến 96, phần bộ Lễ cũng có phần chép tên gọi các lăng tẩm tương tự.
Nhận xét
- Nhìn chung về mặt quy mô và kiểu thức xây dựng, hệ thống lăng mộ các chúa
Nguyễn đều tương tự như nhau. Mỗi lăng mộ đều có hai vòng thành hình chữ nhật bao bọc, vòng ngoài xây bằng đá bazan nhưng phần mũ thành xây bằng gạch vồ, vòng trong xây hoàn toàn bằng gạch (trừ lăng Trường Diễn). Chiều cao của các vòng thành tương ứng đều như nhau (dù hiện tại trên thực tế không hẳn như vậy). Phần mộ đều xây thấp,phẳng với 2 tầng, xây theo lối giật cấp. Trước mộ có hương án, sau cổng có bình phong trang trí long mã và rồng. Sau lưng mộ cũng có bình phong trang trí rồng cùng kiểu, ghép nổi mành sành sứ hoặc đắp nổi vôi vữa. Sự giống nhau này cũng rất dễ hiểu vì tất cả các lăng trên đều được tái xây dựng và tu bổ trong các thời điểm gần tương tự như nhau (Trùng kiến đầu thời Gia Long [trong 2 năm 1808-1809], tu sửa năm Minh Mạng [1840] và đầu thời Thiệu Trị [1841]).
- Tuy quy mô nhỏ hơn, cách thức xây dựng cũng đơn giản hơn nhiều so với lăng các vua Nguyễn về sau, nhưng lăng mộ các chúa đều có vị trí rất lý tưởng và hoàn toàn tuân thủ các quy tắc về phong thủy địa lý. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua những đặc điểm chung của chúng dưới đây:
+Các lăng mộ đều tọa lạc trên đồi cao, có núi dựa lưng, trước mặt đều có hồ nước, khe suối hoặc đồng ruộng làm “tụ thủy”. “Minh đường” của lăng thoáng rộng và có bình phong là núi tự nhiên che chắn. Hai bên đều có núi chầu về làm thế “tay ngai” (Tả Long,Hữu Hổ)…
+Các lăng chúa ở vị trí tương đối xa nhau và đều cách trung tâm Huế khá xa. Điều
này chứng tỏ người xưa đã bỏ rất nhiều công sức cho việc tìm kiếm mảnh đất làm “Sinh phần” cho các chúa Nguyễn.
+Hướng của các lăng rất phong phú chứ không chỉ tuân theo nguyên tắc “Nam diện” (xoay mặt về hướng nam) của đại đa số các công trình kiến trúc (cả kiến trúc nhà cửa lẫn kiến trúc lăng mộ) thời vua Nguyễn về sau. Đây là điều hết sức lý thú đối với những ai muốn tìm hiểu phong thủy thời  Nguyễn.
Lăng vua Gia Long và Thừa Thiên Cao hoàng hậu, tức lăng Thiên Thọ, nằm ở vị trí trung tâm, bố cục chia thành 3 phần: Tẩm điện-lăng mộ-nhà bia, dàn hàng ngang, đặt trên 3 ngọn núi thấp (giữa là núi Chánh Trung 正中山, bên tả là Thanh Sơn 青山, bên hữu là Bạch Sơn 白山), trước mặt có hồ nước hình mặt trăng 月湖, tiếp là núi hình bán nguyệt, tiếp là ngọn núi chủ Đại Thiên Thọ Sơn 大天授山, chung quanh có 36 ngọn núi chầu vào, đều được đặt tên. Phần trung tâm của khu đất này 3 mặt tả, hữu, hậu rộng 100 trượng (424m), mặt tiền rộng 150 trượng (636m). Lăng vua và hoàng hậu đặt trong 3 lớp bảo thành xây gạch, vòng trong 30m, rộng 24m, cao 4,16m; vòng ngoài rộng 31m, dài 70m, cao 3,56m, dày 1m. Bảo phong xây kiểu 2 ngôi nhà đá 石室 có mái kề nhau kiểu “càn khôn hiệp đức” 乾坤協德, trước bảo phong có 2 hương án xây đá. Mặt trước và sau lưng đều có bình phong, cửa ngoài làm bằng đồng. Trước mặt là 7 tầng sân chầu lát gạch,lối thần đạo lát đá Thanh. Ở tầng sân cuối hai bên dựng tượng thị vệ, voi, ngựa (10 người, 2 voi, 2 ngựa), đều bằng đá Thanh.
Lăng Gia Long: Tên chữ là Thiên Thọ Lăng 天授陵, thực ra là cả một quần thể gồm 7 khu lăng tẩm của vua Gia Long, 2 vị hoàng hậu và 4 thành viên khác thuộc hoàng gia Nguyễn nằm trong một khu vực rộng đến 2.875ha. Tuy nhiên, chỉ có lăng vua Gia Long, 2 vị hoàng hậu và thân mẫu của vua là được xây dựng theo quy chế lăng hoàng đế, có tẩm thờ riêng.
 - Lăng vua Gia Long và Thừa Thiên Cao hoàng hậu, tức lăng Thiên Thọ, nằm ở vị trí trung tâm, bố cục chia thành 3 phần: Tẩm điện-lăng mộ-nhà bia, dàn hàng ngang, đặt trên 3 ngọn núi thấp (giữa là núi Chánh Trung 正中山, bên tả là Thanh Sơn 青山, bên hữu là Bạch Sơn 白山), trước mặt có hồ nước hình mặt trăng 月湖, tiếp là núi hình bán nguyệt, tiếp là ngọn núi chủ Đại Thiên Thọ Sơn 大天授山, chung quanh có 36 ngọn núi chầu vào, đều được đặt tên. Phần trung tâm của khu đất này 3 mặt tả, hữu, hậu rộng 100 trượng (424m), mặt tiền rộng 150 trượng (636m). Lăng vua và hoàng hậu đặt trong 3 lớp bảo thành xây gạch, vòng trong 30m, rộng 24m, cao 4,16m; vòng ngoài rộng 31m, dài 70m, cao 3,56m, dày 1m. Bảo phong xây kiểu 2 ngôi nhà đá 石室 có mái kề nhau kiểu “càn khôn hiệp đức” 乾坤協德, trước bảo phong có 2 hương án xây đá. Mặt trước và sau lưng đều có bình phong, cửa ngoài làm bằng đồng. Trước mặt là 7 tầng sân chầu lát gạch, lối thần đạo lát đá Thanh. Ở tầng sân cuối hai bên dựng tượng thị vệ, voi, ngựa (10 người, 2 voi, 2 ngựa), đều bằng đá Thanh.
Nhà bia nằm bên tả, trên núi Thanh Sơn, đó là một "phương đình" dạng cổ lầu với hai tầng mái, nằm trên một nền cao. Mặt bằng của ngôi nhà là 8,75m x 8,80m. Bốn mặt xây tường gạch chịu lực. Mỗi mặt trổ một cửa ở giữa, để trống. Khu vực tầng sân xây nhà bia rộng 30m, dài 42m, chung quanh có xây tường thấp bao bọc. Bi đình được xây để bảo vệ cho tấm bia đá ghi khắc bài văn bia Thánh Đức Thần công do vua Minh Mạng soạn để nói về tiểu sử và công đức của vua cha. Bia cao 2,96m, rộng 1m, dày 0,32m, dựng trên một cái bệ cũng bằng đá dài 1,95m, rộng 1,55m. Bia và đế làm bằng đá Thanh đều được chạm trổ rất tinh xảo. Trán bia trang trí mặt rồng ngang miệng ngậm chữ "thọ". Tai trên,tai dưới và hai diềm bên chạm hình rồng mây. Ở diềm trên, giữa trang trí hình mặt trời,hai bên là vân xoắn. Diềm dưới chạm hình thủy ba và vân xoắn. Ngày xưa, tất cả những chữ khắc trong lòng bia đều thếp vàng. Gần đó là nơi thờ “Hậu Thổ Chi Thần”, một tấm bia nhỏ đặt trên bệ đá 2 cấp, cao hơn 1,2m.
 Khu tẩm thờ nằm bên hữu khu lăng, trên núi Bạch Sơn, được bao bọc bởi tường thành hình chữ nhật (dài 102m, rộng 19m, cao 2,5m). Trước là Nghi Môn, hai bên là Tả hữu tòng viện, chính giữa là điện Minh Thành, kiểu nhà kép 5 gian 2 chái, mặt nền 17,6m x 19,6m, bên trong thờ Long vị của vua Gia Long và Thừa Thiên cao Hoàng hậu. Phía sau điện Minh thành xưa có Bảo Y Khố, nơi đặt áo quần thờ tự bà Thừa thiên Cao hoàng hậu.
 - Lăng Thiên Thọ Hữu 天授右陵, nằm bên hữu lăng Thiên Thọ, trên núi Thuận Sơn 順山, chia thành 2 khu vực: lăng và tẩm, cách nhau 50m. Khu lăng có 2 lớp tường thành bao bọc, tường ngoài chu vi 130m, cao 2,9m; tường trong chu vi 82m, cao 2,3m.Bảo phong xây bằng đá; bình phong trước và hương án cũng xây bằng đá Thanh. Khu điện thờ có công trình kiến trúc chính là điện Gia Thành 嘉成殿, làm nơi thờ bà Thuận Thiên Cao hoàng hậu, kiến trúc nhà kép, nay đã bị đổ nát.
 Lăng Thoại Thánh 瑞聖陵 có bố cục và cấu trúc gần giống lăng Thiên Thọ Hữu,gồm 2 phần: khu lăng và khu tẩm thờ. Đây là lăng hoàng thái hậu đầu tiên của triều Nguyễn. Khu lăng phía trước có hồ gần vuông (88m x 77m), bảo phong làm bằng đá Thanh, ngoài có 2 vòng tường thành bảo vệ, vòng trong chu vi 89m, cao 3,4m, vòng ngoài chu vi 138m, cao 3,6m; cửa ngoài kiểu cổng vòm; trước sau đều có bình phong xây gạch che chắn. Phần tẩm điện nằm trong một vòng thành dài 108m, rộng 63m, cao 3,7m. Điện chính vốn gần giống điện Minh Thành, kiểu nhà kép, mặt nền 25m x 19,5m, trước sau còn có tả hữu tòng viện, tả hữu tòng tự, nhưng tất cả đã đổ nát.( TS. Phan Thanh Hải).
·     -   Bản đồ lăng tẩm hoàng gia triều Nguyễn, trích từ “Les Tombeaux de Hue: Cia-Long” của Charles Patris và L. Cadiere.

Bản đồ tổng thể khu vực lăng Gia Long.

·        Bản đồ lăng tẩm hoàng gia triều Nguyễn, trích từ “Les Tombeaux de Hue: Cia-Long” của Charles Patris và L. Cadiere. Bản để tại Huế.
Trong vùng có 2 con suối chính đưa nước từ cao xuống. 
Theo mô tả của học giả Cadìere cách đây gần một thế kỷ thì con suối thứ nhất tập hợp các dòng nước chảy xuống phía bên trái của lăng, vòng qua trước mộ và trước điện Minh Thành rồi chảy ngược lại trước mộ Gia Long để “tiếp tục chảy cho đến chiếc hồ vuông nằm trước mộ mẹ Gia Long, chảy tiếp trước mộ tháp của người chị và như thế con suối liên kết hết các thành viên của gia tộc trước khi đổ đến Môi Khê nhập lại với con suối thứ hai. Nó được gọi là Hồ Dài”. 
Con suối thứ hai có tên Trường Phong dẫn nước từ núi Nhuệ về Thiên Thọ, chảy dọc theo mộ Trường Phong thành hình vòng cung, nhập với Hồ Dài để “cả hai con suối đều không chảy thẳng trực diện đến mộ, mà lại thoải mái chảy vòng vòng tạo thành những hình cát triệu – chúng kéo đi xa  những ảnh hưởng xấu có thể phương hại đến sự yên tĩnh của những người quá cố” 
Bản đồ lăng tẩm hoàng gia triều Nguyễn, trích từ “Les Tombeaux de Hue: Cia-Long” của Charles Patris và L. Cadiere. Bản để tại Huế. dienbatn mạo muội dịch chữ Hán nôm. Tuy nhiên có nhiều chữ mờ và không rõ nét nên dịch chưa chính xác .
Bản vẽ trùng tu lăng vua Gia Long.
Trong bài sau , dienbatn sẽ viết rõ về SAI LẦM CỦA DIENBATN KHI TÍNH THEO THỦY PHÁP LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 26.

9/11/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 26.
SAI LẦM CỦA DIENBATN KHI TÍNH THEO THỦY PHÁP LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG. BÀI 1.
I.VÀI DÒNG TÂM SỰ :
1/Trong BÀI 5 : GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN, dienbatn có phần tính Phân kim Lăng mộ vua Gia Long theo Thủy pháp Trường sinh như sau :
Lăng Gia Long (Thiên Thọ Lăng).
Lăng và mộ của Vua Gia Long và Hoàng hậu  Thừa Thiên Cao Hoàng hậu tên thật là Tống Thị Lan . Trục Thần Đạo có hướng 191 độ . Tọa Quý – Hướng Đinh .
Theo nhiều nhà phong thủy, thế đất này rất đẹp, có Long nhập thủ từ phương Cấn đến, tả có Thanh Long, hữu có Bạch Hổ bao bọc, trước mặt có một hồ nước lớn làm minh đường với phương thủy tụ là Khôn sơn. Phía bên kia hồ lại có ngọn núi Thiên Thọ làm tiền án, nước chảy tới minh đường rồi uốn lượn mà chảy tiêu ở thủy khẩu Tuất phương. “.
Tuy nhiên theo khảo sát của dienbatn vẫn có Long nhập thủ từ phương Cấn , nhưng hồ Dài nước trước Minh đường Hữu Thủy đảo Tả ra Tốn Tị mới chính xác.
Nhìn trên bản đồ vệ tinh ta thấy có dòng nước chảy vào bên Hữu Lăng vua Gia Long vào Hồ Dài trước mặt Lăng. Cũng theo bản đồ vệ tinh ta thấy hình thế đất trong toàn cuộc phía bên Hữu là những vùng núi cao và bên Tả là vùng đất ruộng thấp. Thế đất nghiêng từ Hữu qua Tả và đổ dần xuống dòng Tả Trạch. Do vậy dienbatn mới tính Thủy pháp theo đồ hình trên.



Nếu theo như các bậc tiền nhân nhận xét ở trên : “ Long nhập thủ từ phương Cấnthủy tụ là Khôn sơnchảy tiêu ở thủy khẩu Tuất phương Thì không thể đặt mộ theo Quý Sơn – Đinh Hướng được. Ta kiểm tra thủy theo LẬP HƯỚNG THEO THỦY.(Trích từ Địa lý chính tông và Ngũ quyết ) điều các vị tiền bối tính toán:
PHÒNG PHẬN VÀ 12 CUNG TRƯỜNG SINH.
Ở phương pháp này dùng Địa bàn chính châm để xem Long nhập thủ vào chữ gì , sau đó dùng 12 cung Trường sinh để định các ngành theo bảng ở dưới.
1/ Thủy Thổ Long nhập thủ - Khởi Trường sinh ở Thân.
( Hợi- Nhâm – Tý – Quý ) là 4 Thủy Long nhập thủ .
( Khôn – Cấn – Thìn – Tuất – Sửu – Mùi ) là 6 Thổ Long nhập thủ.
Dùng vòng trường sinh để định Long, Huyệt, Hướng (cho cả âm trạch và dương trạch)
HỎA CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Tân – Tuất, Càn – Hợi, Nhâm – Tý. Thì các phương Ất – Thìn , Tốn – Tị, Bính – Ngọ cao nên là Hỏa cục. Khởi Trường sinh tại Dần để luận Thủy.
1/ THỦY RA TÂN – TUẤT.
Là Hỏa cục. Thủy ra Mộ phương. Lập được 4 Hướng : Sinh – Vượng – Tử - Tuyệt.
Hữu Thủy đảo tả.
Lập Hướng Trường sinh.
Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
Phú quý song toàn , mọi ngành đều phát.
Lập Hướng Tuyệt.
Tọa Tốn – Hướng Càn.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Bỗng nhiên phát lớn.
Tả Thủy đảo hữu.
Lập Hướng Đế vượng.
Tọa Nhâm – Hướng Bính.
Tọa Tý – Hướng Ngọ.
Đinh tài đều vượng, mọi ngành đều phát.
Lập Hướng Tử.
Tọa Giáp – Hướng Canh.
Tọa Mão – Hướng Dậu.
Phú quý , thọ cao, đinh tài lưỡng vượng, nam thanh nữ tú.
Như vậy không thể đặt hướng mộ theo Quý Sơn – Đinh Hướng được.
Theo khảo sát của dienbatn vẫn có Long nhập thủ từ phương Cấn , nhưng hồ Dài nước trước Minh đường Hữu Thủy đảo Tả ra Tốn Tị .
LẬP HƯỚNG THEO THỦY.(Trích từ Địa lý chính tông và Ngũ quyết ).
THỦY CỤC.
Thủy khẩu ra 6 chữ Ất – Thìn , Tốn – Tị , Bính – Ngọ thì các phương Tân – Tuất, Càn – Hợi , Nhâm – Tý cao nên là Thủy cục, khởi Trường sinh tại Thân để luận thủy.
THỦY RA TỐN - TỊ.
Là Thủy cục. Thủy quy Tuyệt. Lập được 3 Hướng : Mộ - Dưỡng – Tuyệt.
1/Hữu Thủy đảo Tả.
Lập Dưỡng Hướng :
Tọa Quý – Hướng Đinh.
Tọa Sửu – Hướng Mùi.
Đinh tài đều vượng, công danh mọi nhà rất thịnh và phát đạt.
Tả Thủy đảo hữu:
Lập Hướng Mộ .
Tọa Tân – Hướng Ất.
Tọa Tuất – Hướng Thìn.
Đại phú đại quý , nhân đinh hưng vượng.
Lập Hướng Tuyệt .
Tọa Hợi – Hướng Tị.
Tọa Càn – Hướng Tốn.
Hay phát lớn.
Như vậy là chính xác.
KẾT LUẬN : Lăng và mộ của Vua Gia Long và Hoàng hậu  Thừa Thiên Cao Hoàng hậu tên thật là Tống Thị Lan . Trục Thần Đạo có hướng 191 độ . Tọa Quý – Hướng Đinh .Hữu Thủy đảo Tả.  THỦY RA TỐN - TỊ. Là Thủy cục. Thủy quy Tuyệt. Lập được Dưỡng Hướng : Đinh tài đều vượng, công danh mọi nhà rất thịnh và phát đạt.
Tọa Quý – Hướng Đinh có 3 Huyệt.
Mai táng từ tháng 1-4 thuộc Cấn Long , Tụ khí tại Mậu Dần.
Mai táng từ tháng 5-8  thuộc Mão Long , Tụ khí tại Quý Mão.
Mai táng từ tháng 9-12  thuộc Hợi Long, Tụ khí tại Tân Hợi.
CẤN LONG : Cấn long thuộc Thổ là Âm long . Loại long tốt hay sinh ra người hiền lành , tuấn tú , thông minh , có khoa cử hanh thông , con nhiều cháu lắm , nhiều lộc , nhiều của cải , ruộng vườn . Cấn long phát cho người tuổi Sửu – Dần – Hợi và lập Hướng nào sẽ phát cho người tuổi đó .Cấn long thường phát rất lớn và rất bền . Cấn long mà lập Canh hướng , mà phương Canh lại có gò cao triều Huyệt thì trước phát văn sau phát võ .
CẤN LONG NHẬP THỦ .
Cấn Long là Long mạch tốt, lập được nhiều hướng nhất gồm 8 Hướng.
1/ Quý Sơn – Đinh Hướng.
2/ Nhâm Sơn – Bính Hướng.
3/ Giáp Sơn – Canh Hướng.
4/ Ất Sơn – Tân Hướng.
5/ Mão Sơn - Dậu hướng.
6/ Càn Sơn – Tốn Hướng.
7/ Hợi Sơn – Tị Hướng.
8/ Sửu Sơn – Mùi Hướng.
1/ Quý Sơn – Đinh Hướng.
Cấn Long nhập thủ. Lạc mạch sang tả , Huyệt tọa Quý – Hướng Đinh, nhích quan tài sang bên hữu chút ít , lấy Mậu Dần làm chính Khí, để Khí chạy xuyên sang tai tả.
Thôi quan Thiên có thơ :
Thôi Quan đệ nhất huyệt nghi Quý.
Thiên Thị chính Khí xung tả nhĩ.
Huyệt niêm Tây thú vi gia Dần.
Y cẩm vinh hoa diêu lư lý.
Nghĩa : Thôi Quan thứ nhất Huyệt hợp Quý Sơn . Chính Khí Thiên Thị ( Cấn ) xung vào bên tai tả. Huyệt niêm ( Giám sát ) nên gia vào Dần . Con cháu vinh hoa , bận áo gấm về làng.
·        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
-         Kiêm Tý Ngọ : Tọa Bính Tý – Hướng Bính Ngọ. ( 191 độ )
-         Kiêm Sửu Mùi : Tọa Canh Tý – Hướng Canh Ngọ. ( 197,5 độ )
·        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
-         Kiêm Tý Ngọ : Tọa Canh Tý – Hướng Canh Ngọ.
-         Kiêm Sửu Mùi : Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi.
TÓM LẠI : Lăng và mộ của Vua Gia Long và Hoàng hậu  Thừa Thiên Cao Hoàng hậu tên thật là Tống Thị Lan . Trục Thần Đạo có hướng 191 độ . Tọa Quý – Hướng Đinh .Hữu Thủy đảo Tả -
 THỦY RA TỐN - TỊ. Là Thủy cục. Thủy quy Tuyệt. Lập được Dưỡng Hướng : Đinh tài đều vượng, công danh mọi nhà rất thịnh và phát đạt.
·        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
-         Kiêm Tý Ngọ : Tọa Bính Tý – Hướng Bính Ngọ. ( 191 độ )
·        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
-         Kiêm Tý Ngọ : Tọa Canh Tý – Hướng Canh Ngọ.
2 2 / PHẢN BIỆN CỦA TÁC GIẢ HOÀNG DIỆP BÁCH – HUẾ.
Chú thích : dienbatn chưa bao giờ gặp và tiếp xúc với anh . HOÀNG DIỆP BÁCH – HUẾ theo sự tham khảo trang fecebook của anh  (https://www.facebook.com/diep.hoangbach), anh là một Họa sĩ và theo bạn bè của anh gọi anh là : “ … theo kiến nghị và đề xuất của đại sư Diep Hoang Bach rằng..”
“Anh ở trung tâm tư vấn văn hóa phương .đông mỹ đình hà nội"
Dienbatn xin đăng nguyên văn những nhận xét của HOÀNG DIỆP BÁCH – HUẾ như sau không chỉnh sửa 1 chữ nào.
“Diep Hoang Bach
Xem ra ông hùng rất thuộc thủy pháp tràng sinh ?! Nhưng ông không biết rằng thuỷ pháp đề cập trong địa lý ngũ quyết còn thiếu rất nhiều để tạo phúc.! Ông lại dám nói tiền nhân đặt không đúng ?! Ông cần học thêm rồi lại đi tạo phúc tiếp, bởi những gì sách đã viết ra thì không còn là bí truyền nữa.... học trong sách vở mà thành thầy giỏi k có đâu nhé?! Bởi chỉ ra hiệu sách mua mấy quyển dạy võ về học liệu sau thành võ sư không?Lại nữa mua sách về học để trở thành lương y , bác sỹ... chắc ông cũng đồng ý nhận xét như thế chứ? Nên địa lý âm cực khó phải học truyền khẩu thậm chí mật truyền,,, nên mấy cuốn địa lý bán trong hiệu sách thì chỉ đáng tham khảo thôi ông. Chúc ông bình an.”
“Bui Hung
Cảm ơn bạn. Thực ra tôi không phải chỉ nghiên cứu sách cổ mà còn có nhiều vị Sư phụ chỉ dẫn.Hơn 40 năm cũng tự mình lăn lộn điền dã khắp nơi. Nhiều khi làm đúng theo sách lại thấy sai. Nhưng đã là Học thuật thì không có gì phải dấu diếm hay bí truyền cả. Cứ bình tĩnh thảo luận nhiều khi học được ở người đối lập những điều thú vị mà trăn trở nhiều năm không hiểu. Cứ 3 người quanh ta sẽ có 1 người là Thày ta. ĐỊA LÝ ÂM TRẠCH phải có hàng vạn giờ điền dã ngoài đồng hay rừng núi mới hiểu được một chút cỏn con. Lúc biết được chút xíu thì đã già hết đi được rồi. Kiến thức mênh mông như  biển cả. Cuộc Đời thì hữu hạn . Thật buồn phải không ?”
” Diep Hoang Bach
Anh nói đúng !thực ra thời gian đến với tâm linh thời gian cũng tương đương với anh đấy. Tôi đồng quan điểm với anh! Địa lý âm cực khó nếu k đc chân truyền thực sự thì dù cả đời nghiên cứu thì kết quả cũng k bao giờ được như mong đợi!”
“Diep Hoang Bach
Lắm thầy nhiều ma đấy thầy hùng ạ “
“Bui Hung
Tôi lại không nghĩ như bạn nói. Chúng ta có thể ăn nhiều món ngon vật lạ ở mọi miền, hay là đặc sản của từng vùng , miền . Tuy nhiên, nếu ta tiêu hóa được những món ngon đó và biến đổi nó thành máu thịt của mình mới là mani châu , tức đồ quý. Còn nếu không tiêu hóa được chúng , mà lại ói ra thì các món ngon vật lạ đó chỉ là những bãi ói kinh tởm mà thôi. Sự học cũng vậy , nếu biết tiếp thu kiến thức của các Thày , của sách vở và nghiền ngẫm , phân tích , điền dã thực địa, biến thành hiểu biết của riêng mình mới quý báu. Chứ nếu chỉ nhớ lời Thày truyền , kể cả mật truyền mà không nghiền ngẫm , phân tích , điền dã thực địa, biến thành hiểu biết của riêng mình thì kiến thức đó cũng chẳng khác gì bãi ói kia mà thôi. Thày là Thày , Quách Phác , Quản Lộ, Dương Quân Tùng.... cũng chỉ là họ, còn ta phải là ta. Địa lý âm trạch còn phải dựa theo dòng thời gian , theo Tý Ngọ lưu chú , Linh quy bát pháp...mà dịch giải và áp dụng. Mỗi thời , mỗi vùng một khác mà ta phải thêm , bớt hay bổ tả vào trong phép tính của mình. Và cũng không có cái nào tối cao hơn cái nào, tất cả đều là những thành tố tạo nên môn Địa lý Phong thủy mà thôi, các thành phần của nó bao gồm Hình - Lý - Khí - Số đều ngang vai phải lứa với nhau và như từng bộ phận của chiếc đồng hồ , chẳng cái nào hơn cũng chẳng có cái nào kém. Mặt khác Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.
Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng.
Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ .
Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khí của chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dù có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời ); Sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương hỗ với nhau,Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ".Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly,hội hợp của tụ và tán. Do vậy Địa lý âm trạch thật khó lắm thay, đời này , kiếp này chúng ta hội tụ được bao nhiêu mà đã dám nói là đúng hay sai. Tôi lại dài dòng mất rồi. dienbatn.”
Diep Hoang Bach
xem ra anh thật chí lý tôi đồng ý hoàn toàn với nhận xét của anh .”
“Diep Hoang Bach
Ông nói “họ cần phá vô minh?” Cao đạo thế? Tôi có dám coi mình là gì đâu nên có dám mở “kênh keo” gì đâu? Vẫn nương náu nơi thôn dã,,, thấy ông gan to dám phỉ báng cả tiền nhân đặt mộ Lăng Gia Long thì lương tâm tôi phải lên tiếng bảo vệ chính nghĩa.. Ông tự đọc sách thành thầy hay đc chính tông chân truyền hay không tự ông biết( xin thưa có dạng chân truyền nhưng k chính tông) nên đừng nghĩ cứ đc ai đó “ mách” vài câu đc vài cuốn sách cổ đã tự nghĩ mình có chân truyền hoặc có chính thư thì là một việc thiểm khuyết.! Cụ Tả ai nói:” Học Thầy khẩu thụ tâm truyền...” Và tôi xin khẳng định với ông một lần nữa là: nhiều môn tâm linh khác có thể tự học cũng đạt chút ít thành tịu , ( nghĩa là cũng gọi là thầy đc,nhưng riêng âm phần thì đúng như câu của các cụ:” không Thầy đố mày làm nên” do đó dù thông ninh đến đâu , dù có tài liệu đến đâu ,nếu loay hoay tự nghiên cứu có những cả đời tưởng đã nắm đc huyền cơ nhưng thực chất vẫn k hiểu mà cứ tưởng hiểu, đấy chính là bi kịch của không ít thầy.Có điều ít thầy Dũng cảm dám nhận mình k biết. Mình sai,bởi sau thầy còn biết bao khách hàng , biết bao tín đồ....”
“Bui Hung
Bạn nói phải. Ai là ai thì tôi chưa biết. Nhưng tôi biết chắc tôi là tôi. Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng. Được mất bại thành hóa hư không. Cảm ơn bạn đã giúp tôi hiểu được một nét rất Huế xưa còn lưu lại.”
“Bui Hung
Nói gì đi nữa tôi vẫn xin cảm ơn anh và những điều anh nói giúp tôi càng quyết tâm nghiên cứu hơn
Chuyện này có lẽ nên kết thúc tại đây nhé. Xin cảm ơn. Dienbatn. “
Sở dĩ dienbatn viết “ Cảm ơn bạn đã giúp tôi hiểu được một nét rất Huế xưa còn lưu lại.” là vì dienbatn rất yêu Huế, nhiều lần lang thang điền dã tại Huế, yêu cái trầm lắng , tĩnh tại của Huế . Ở Huế, bước ra đường là thấy chùa. Nơi đây được mệnh danh là "kinh đô Phật giáo" của Việt Nam, với hơn 300 ngôi chùa và niệm Phật đường lớn nhỏ. Do đó, mỗi mùa Phật Đản, đường phố Huế được trang trí lộng lẫy với những lễ rước hoành tráng bậc nhất.
Huế là nơi bảo tồn các di tích cung đình toàn vẹn nhất Việt Nam, tuy đã bị tàn phá ít nhiều. Đặc biệt trong quá khứ, cố đô Huế từng mất đến phân nửa các kiến trúc vốn có. Hiện nay, nơi đây còn bảo tồn được 7 lăng vua và 9 lăng chúa Nguyễn. Ngoài Đại Nội, 3 lăng của vua Minh Mạng, Tự Đức và Khải Định là các khu di sản được bảo tồn tốt nhất và cũng hút khách nhiều nhất.
Mưa dầm xứ Huế cũng là một thương hiệu nổi tiếng đất cố đô. Mưa không ào ạt, xối xả mà dầm dề, kéo dài từ tháng này sang tháng kia, có khi 43 ngày không dứt (năm 2007). Kết hợp với khí lạnh phương Bắc, mùa đông ở Huế lạnh, rét buốt dù nhiệt độ không thấp như ở Hà Nội. Khung cảnh mưa buồn trứ danh của Huế từ lâu đã được đề cập rất nhiều trong thi ca, văn học, điển hình là bài hát "Mưa trên xứ Huế" nổi tiếng của nhạc sĩ Minh Kỳ.
Như chúng ta đã biết, có rất nhiều yếu tố để tạo nên một sắc thái văn hóa Huế riêng. Đó có thể là những giá trị văn hóa lịch sử, những danh thắng thiên nhiên kỳ thú, những công trình kiến trúc nhuốm màu thời gian ,…Tính cách người Huế cũng góp một phần tạo nên sắc thái văn hóa Huế riêng đó.
Tính cách kín đáo trầm lặng và nề nếp gia phong đã ăn sâu vào máu của những con người nơi đất Cố đô. Họ ít nói, sống luôn giữ kẽ và hết sức kín đáo trong lời ăn, tiếng nói hằng ngày, họ thường giấu kín những khó khăn riêng của mình trước bạn bè, không để điều to tiếng, chuyện buồn đối với khách khứa láng giềng.
Người Huế sống hoài cổ và thủ cựu. Điều này thể hiện ở cái cách mà người Huế tiếp nhận cái mới, cái lạ, tất cả những gì mới và lạ du nhập vào Huế đều cần phải có một thời gian dài, phải nói là rất lâu mới có thể bám rễ và phát triển ở Huế, phải trải qua một quá trình thẩm thấu, chọn lọc thật kĩ thì những cái đó mới được người Huế đón nhận, từ nghệ thuật cho đến văn hóa, thể thao và nhiều cái khác nữa.
Nói như vậy , bởi dienbatn biết những cái gì đã ăn sâu trong tâm thức người Huế, xứ Huế khó lòng thay đổi được. Khi họ đã tin vào điều gì thì rất khó thay đổi được.
Tuy nhiên trong việc nghiên cứu nói chung , nói riêng về Phong thủy , thì dienbatn luôn tuân thủ theo nguyên tắc về lý tính, tức là phải nghiên cứu thật kỹ lưỡng, công phu những gì mọi người coi là hiển nhiên. Dienbatn luôn đi ngược lại chân lý “ Đồng hồ Tây thì không bao giờ sai “. Tuy nhiên , với tư cách của người nghiên cứu Văn hóa Phương Đông , dienbatn không bao giờ giấu dốt  hay cố chấp. Nếu như nhận thấy mình sai thì dienbatn không ngần ngại nói mình đã sai. Trong việc tranh luận luôn tìm được những ý kiến xác đáng từ những phản biện trái chiều. Cái đó cũng giúp dienbatn  thêm tập trung thời gian , công sức để tự hoàn thiện mình. Cuộc đời luôn có đúng sai , có thành công và thất bại. Chỉ khác sau những lần thất bại mình đã lớn lên như thế nào.
Mặt khác trong nghiên cứu Địa lý Phong thủy Âm trạch thì thật là khó như với sao trên trời.Trong BÀI 5 khi tính phần Thủy pháp Trường sinh Lăng vua Gia Long , dienbatn đã dựa vào cách tính Thủy pháp Trường sinh của Dương Quân Tùng.
Nguyên tắc lập hướng theo Thủy khẩu ta có công thức nhất định là :
1/ Tùy theo Thủy đảo Tả hay đảo Hữu mà ta lập hướng.
2/ Tùy theo xuất ra : Mộ, Tuyệt hay Thai.
Công thức sau áp dụng cho cả tứ đại Thủy cục : Kim – Mộc – Thủy – Hỏa cục.
Tuy nhiên : “Luận 12 cung Trường sinh tùy thuộc hoàn toàn vào Thủy khẩu, xê dịch Thủy khẩu là hoàn toàn thay đổi dự đoán cát hung.
Thủy pháp Lý khí rất đa đoan , công phu nghiên cứu học tập cũng lắm vất vả , nhưng khi khảo sát các ngôi mộ cổ , không thấy theo một phương pháp nào nhất định . Bởi vậy người học và hành Phong thủy phải đọc thật nhiều sách , biết hết các Pháp môn , để quyền biến với thực tế.
 Thời nhà Thanh , Thập nhị Trường sinh Thủy pháp được thày trò Triệu Cửu Phong quy về một mối , thực nghiệm các ngôi mộ cổ , thấy có hiệu nghiệm , lại ít rối rắm hơn . Nên đa số các sách vở từ thời nhà Thanh trở về sau đều dùng Thủy pháp này .
Địa lý Phong thủy lấy Sơn tĩnh làm Âm, khởi Trường sinh nghịch để luận sa sơn hung cát . Lấy Thủy động làm Dương , khởi thuận , để luận cát hung.
Nói đến Pháp môn , cổ nhân đặt ra rất nhiều Pháp để dự đón cát hung . Theo La kinh thấu giải ( Tầng 5 ) , lấy phương Tọa Sơn dùng phép Địa mẫu quái , để luận sa sơn hung cát . Dùng đầu Hướng lấy Cửu tinh Hoán tinh Pháp để luận Thủy cát hung . Điều này có nhiều lợi thế hơn là luận 12 cung Trường sinh. . Lấy Tọa luận Sơn , Lấy Hướng luận Thủy , là điểm cố định nên vòng Cửu tinh không thay đổi.
Luận 12 cung Trường sinh tùy thuộc hoàn toàn vào Thủy khẩu. Xê dịch Thủy khẩu là thay đổi hoàn toàn dự đoán cát hung. Pháp nào cũng có ưu điểm về mặt nào đó , chứ không hoàn toàn chính xác tuyệt đối.
Cái chủ yếu của Địa lý Phong thủy là dụng Tâm và dụng Thần , mới phát huy hết điều hay của sách vở.
BÀI QUYẾT :
Nội quản Sa , ngoại quản Thủy.
Sơn chủ quý , Thủy chủ Phú.
Sơn triều Thủy tụ kiêm vinh
Sơn tỉnh Thủy bình kiêm mỹ.
Nhược nhi, Sơn phi Thủy tẩu .
Tùy ngũ cung nhi bại hoại gia lâm.”
Đây chính là lý do có thêm BÀI 26 trong loạt bài viết của dienbatn về GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN.
BÀI 26 .SAI LẦM CỦA DIENBATN KHI TÍNH THEO THỦY PHÁP LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
3/ TÌM LẠI CỔ THƯ.
Do có sự phản biện của Diep Hoang Bach, dienbatn đã giành gần 1 tháng đọc lại những sách xưa còn truyền lại như :
·        Bộ “Hồng Đức bản đồ”.  
         Nhất thống dư địa chí” (Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí - 皇越一統輿地志) dưới thời Hoàng đế     Gia Long, tác phẩm này không có bản đồ vẽ kèm.
·        Giao Châu dư địa đồ (交州輿地圖).
·        “Gia Định thành thông chí” (嘉定城通志).
·        Đại Nam nhất thống toàn đồ - 大南ー統全圖).
·        Đại Nam nhất thống dư đồ” (大南一統輿圖) .
·        “Đại Nam nhất thống chí” (大南一統志) .
·        “Đồng Khánh địa dư chí” (同慶地輿志) .
·        “Đại Nam quốc biên giới vị (vựng) biên” (大南國疆界彙編) .
·        Bản đồ lăng tẩm hoàng gia triều Nguyễn, trích từ “Les Tombeaux de Hue: Cia-Long” của Charles        Patris và L. Cadiere.
·        Những người bạn cố đô Huế B.A.V.H . ( Nhà xuất bản Thuận Hóa ) .
·        ĐẠI NAM THỰC LỤC.(Tái bản lần thứ nhất).Nhà Xuất Bản Giáo Dục .Phiên dịch : Nguyễn Ngọc Tỉnh.Hiệu đính :  Đào Duy Anh.
·        LĂNG MỘ HOÀNG GIA THỜI NGUYỄN TẠI HUẾ - TS. Phan Thanh Hải .
·      Và nhiều nguồn tư liệu liên quan.
Và cuối cùng dienbatn cũng đã tìm ra được đáp án đúng về việc Phân kim Điểm hướng lăng mộ vua Gia Long qua các tài liệu cổ nói trên. Xin tri ân những người đã bảo tồn và dịch các cuốn sách nói trên và cũng tự nhận những sai sót trong chuyến điền dã tại Huế vừa qua. Mặt khác xin cảm ơn Họa sĩ Diep Hoang Bach đã phản biện trái chiều. dienbatn.
Xin theo dõi tiếp BÀI 27. dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *