TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 9.

7/22/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 9.


3.MA TRẬN VÀ CÁC CHIỀU KHÔNG GIAN.

( Trích nguồn từ " SỨ MỆNH ĐỨC DI LẶC " CỦA GS.TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG và KÝ SỰ PHÍA BÊN KIA KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ TƯ Của một ẩn sĩ ).

Hệ thống các Axit Amin được khoa học Tây phương nghiên cứu sâu xa, được nhận dạng là một biểu hiện của Kinh Dịch Đông phương. Ngày nay, bước sang Thiên Niên Kỷ III, Nhân loại đã giai mã được Bộ Gen Di Truyền của Người và Động vật tương tự như Tinh Tinh, gồm khoảng 100.000 Gen. Lập được bản đồ Gen.. Có nhiều vấn đề mang hoặc tính thống nhất, hoặc tính khác biệt cần được lý giải trong lĩnh vực khoa học hóc búa này ..

Các con Đường chiến lược.

Về mặt chiến lược, sự Thống nhất ba loại khoa học trên sẽ được thực hiện như thế nào ? Theo ý chúng tôi, có ba điểm chiến lược sau để hiện thực sự thống nhất trên:

CHIẾN LƯỢC VỀ CON SỐ NHIỀU CHIỀU .

Từ xưa Pythagore đã nói :Cái Một là Quy luật của Đấng Hoá Công Tiến hóa là Quy luật của sự Sống Con Số là Quy luật của Vũ trụ.

Như thế, nếu Pythagore đúng, thì cấu trúc chung đó phải là Cấu trúc Sổ. Và trước quy mô to lớn của cả một Thiên niên Kỷ là Thiên niên Kỷ III, các nhà khoa học phải tìm cấu trúc nào bao quát nhất, "tối đại" nhất, phổ quát nhất...

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CON SỐ. SỐ OCTONION .

Thì ra, cả ba lĩnh vực khoa học trên quả thực đều có cùng cấu trúc ban đầu, có cùng nguồn gốc, tức là có cùng cái MỘT về Số, như Lão Tử , Pythagore đã nói. Về mặt toán học, cái MỘT về Số đó chính là kết quả phát triển cao nhất của con số từ 1 chiều băng qua 2 chiều, rồi 4 chiều, rồi lên đến 8 chiều là đỉnh cao nhất...

* Con số 1 chiều chính là số thực quen thuộc của chúng ta,

* Con số 2 chiều chính là số phức cũng khá quen thuộc,

* Con số 4 chiều được nhà khoa học Hamilton phát hiện khi ông ngồi bên một chiếc cầu, đã ghi nó trên chiếc cầu đó, và nó đã mang tên là Quaternion, (Quater là 4),

* Còn con số 8 chiều đã được nhà khoa học Cayley phát hiện, băng qua tính 4 chiều của Hamilton, sau đó nhà toán học Frobenius đã chứng minh tính tối đại 8 chiều cấn thiết. Với tính 8 chiều đó, con số đó đã được các nhà khoa học Tây phương gọi là Octonion (Octo là 8).

Chính sự đoạn tuyệt này đã là cái chìa khoá để xây dựng cái MỘT. Đó là một loại nghịch lý thường hay thấy xuất hiện trong các sáng tạo khoa học ( chẳng hạn là sự xuất hiện số phức i). Như vậy, trong sự phát triển con số có các "trạm" dừng chân 2 chiều , 4 chiều . Tất nhiên, các "trạm" 2 chiều, 4 chiều đó đều có những ý nghĩa riêng của chúng, cả ở Khoa học Tây phương như Lý thuyết Âm Dương, lý thuyết Tương Đối , cả ở Khoa học Đông phương như Lý thuyết Âm Dương, Lý thuyết Tứ Tượng.

Tiếp theo, cũng tương tự như Octonion, trong Triết Đông phương lý thuyết về Kinh Dịch cũng đã dừng hẳn tại hệ 8 phần tử là Bát Quái, và sự chồng chất các quẻ của Bát Quái lên trên nhau đã tạo ra hệ 8 × 8 = 64 quẻ , hay 8 × 8 × 8 quẻ.

CHIẾN LƯỢC VỀ QUẺ NHIỀU HÀO.

Tiếp theo, cũng tương tự như với con số, trong Triết Đông phương với Kinh Dịch, nhân loại đã băng qua Âm Dương, Tứ Tượng, Bát Quái, rồi dừng lại.

KIÊN : THÁI DƯƠNG THIẾU ÂM THÁI ÂM DOÀI TỨ TƯỢNG. Để giải quyết tính phản giao hoán, cần dùng tích hai quẻ 2 hào tức là quẻ 4 hào. LY CHẤN THIẾU DƯƠNG TỐN KHÁM CÂN KHÔN.

BÁT QUÁI. Để giải quyết tính không giao hoán, cần dùng tích hai quẻ 3 hào, tức là quẻ 6 hào. Để giải quyết tính không kết hợp, cần dùng tích ba quẻ 3 hào, tức là quẻ 9 hào.

TƯƠNG TÁC.

Tính chất các quẻ tương tác với nhau, đòi hỏi phải dùng các tích ( * là dấu nhân quẻ) * Quẻ 4 hào + quẻ 4 hào = quẻ 8 hào, * Quẻ 6 hào * quẻ 6 hào = quẻ 12 hào, * Quẻ 9 hào * quẻ 9 hào → quẻ 18 hào.

Mặt khác sự phối hợp (tương tác) giưa quẻ 2 hào và quẻ 3 hào dẫn đến quẻ 5 hào. Tương tác giữa các quẻ 5 hào và quẻ 5 hào dẫn đến quẻ 10 hào...

CHIẾN LƯỢC VỀ THỐNG NHẤT PHƯƠNG PHÁP LUẬN.

Cái ngọn 8 chiều cuối cùng, cao nhất của con Số đã hay sẽ biểu hiện trong những chân trời Nhân Văn, Sinh học, Vật Lý của Chân lý khoa học như thế nào ? Để hiểu rõ điều này, chúng ta hãy chuyển sang một nét độc đáo khác của Triết Đông phương : Đó là việc sử dụng các Hình Vuông Kỳ Diệu của Thất Tinh (bảy Sao ), dí sản của nền văn mình Cổ. Do Thai (Hebreux).

* Thất Tình này tạo nên một Tam Tài, được sử dụng trong thuyết Thái Ất [ 12]: PHẦN DƯƠNG ; Sao Mộc, Sao Hỏa, Mặt Trời, PHẦN TRUNG: Sao Thổ, PHẦN ÂM: Sao Kim, Sao Thủy và Mặt Trăng.

* Thất Tinh này còn chứa một Tam Tài khác, được vận dụng trong Đông Y học : TINH Sao Thổ KHÍ: Sao Mộc, THẦN : Mặt Trời.

* Và cuối cùng , Thất Tinh đó tạo nên được các khung cơ sở của Khoa học cái MỘT, gọi là các Hình Vuông Kỳ diệu.

1/ MA TRẬN CẤP 3X3.

HÌNH VUÔNG KỲ DIỆU SAO THỔ HAY LẠC THƯ.

CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH VUÔNG KỲ DIỆU CỦA SAO THỔ.

Tổng các mã của mỗi hàng đều bằng 15:

6 + 1 + 8 = 15,7+5+3= 15,2+9+4 15.

Tổng các mã của mỗi cột đều bằng 15:

6 + 7 +2 = 15,1 + 5+ 9 = 15,8 +3 +4 = 15.

Tổng các mã của mỗi đường chéo đều bằng 15:

6 +5 +4 = 15,8 +5+2= 15.

Đối với các Hình vuông khác, chúng ta cũng có những đặc tính tương tự như thế. Những đặc tình này là biểu hiện của tính thẫm mỹ của nguyên lý Chân Thiện Mỹ của Triệu Đông phương.

Mẫu đồ hình Lạc Thư nguyên bản gốc với ma trận 3x3 = 9 cung . Tổng các quỹ đạo = 15. Ta quen gọi là Cửu Cung. Do một Tuần Giáp là gồm 10 Thiên Can. Trong khi đồ hình Lạc Thư thì Cửu Cung chỉ có 9 cung. Vì thế nên khi phối hợp thì phải độn giáp đi cho hợp với 9 cung. Điều này cũng như hệ thống số có 10 là từ 0 – 9. Số 0 là khởi đầu và cũng là kết thúc trong hệ thống của 10 số đơn đó. Như có mà không, nên đại diện cho sự tiềm ẩn trong hệ thống đó. Hoặc như không gian có tất cả là 9 chiều, và chiều thứ 10 là chiều thời gian. Chiều thời gian này vốn tiềm ẩn và cùng đồng nhất trong tất cả 9 chiều của không gian vậy. Ở đây ta chưa bàn đến Địa Chi (12).

Thời điểm hiện tại. Nhân loại chúng ta đang tìm mọi phương cách để khám phá không gian chiều thứ tư. Tuy nhiên, trong một chừng mực của ý thức chung. Các bạn thấy có một điểm chung là chúng ta vẫn đang thảo luận về điều này một cách rất mơ hồ và còn hạn chế như nhau mà thôi. Nếu có xuất sắc lắm, cũng chỉ có thể mô tả được rằng; Đó là chiều mà sự phát triển của nhân loại chúng ta hiện nay không thể nào hiểu biết đến một cách cụ thể cho được!

Nền khoa học vẫn chưa có thể có được một kịch bản nào khả dĩ, thuyết phục quan điểm của nhân loại chúng ta ngoài những bao biện, bỏ ngỏ về sự hình thành của mô hình không – thời gian 4 chiều này! Với Thuyết Big Bang thì khi sự kiện của vụ nổ xảy ra, để đáp ứng cho sự nổ trong không gian bình đẳng hướng. Vũ trụ cận cảnh đã phải thể hiện mô hình không – thời gian là đã hội đủ 4 chiều trong đó làm nền để thiết kế rồi! Lý Thuyết Dây có chiều khá hơn, khi dựa trên mô hình quãng tính để vẽ lên từng chiều không gian riêng phần, xuất hiện trong đó theo thời gian toàn phần!! Thế nhưng có một điều gây “khó chịu” cho tư duy của các nhà thiết kế nên học thuyết này là mô hình của vũ trụ đó phản ảnh có đến 10 chiều cơ?! Thế rồi…, 6 chiều còn lại đó. Các nhà khoa học tránh né thực tại này và đành chấp nhận vo tròn, gói gọn 6 chiều đó trong mô hình của cái gọi là không gian Calabi-Yau!!!

Và trong thế kỷ 20 thì chúng ta đã biết Einstein dựa trên nền tảng của Newton mà khai sinh ra Thuyết Tương Đối. Rồi trong thập niên 20 thì Thuyết Lượng Tử cũng đã được sinh ra đời từ thân thể của Thuyết Tương Đối. Và cuối thế kỷ 20 là sự thai nghén của Lý Thuyết Dây, và học thuyết này đã cất tiếng khóc chào đời ngay trước cửa của Kỷ Nguyên Mới.

5 học thuyết cơ bản như:

1. Định Luật Đòn Bẩy của Archimedes.

2. Định Luật Vạn Vật Hấp Dẫn của Newton.

3. Lý Thuyết Trường của Maxwell và Faraday

4. Thuyết Tương Đối của Einstein.

5. Thuyết Lượng Tử của Bohr, Heisenberg, ...

Hai công cụ hiện đại nhất của nền khoa học chuyển giao từ kỷ nguyên vừa qua là Thuyết Tương Đối và Thuyết Lượng Tử. Đã tỏ ra bất hợp tác cùng sự phát triển cho một tương lai sáng sủa của nhân loại như đã từng được kỳ vọng nơi cuối kỷ nguyên vừa qua!

Lý Thuyết Dây có tham vọng hợp nhất giữa Thuyết Tương Đối và Thuyết Lượng Tử. Lý Thuyết Dây còn có danh hiệu khác nữa là "Bản Giao Hưởng Của Vũ trụ"! Các nhà thiết kế của Lý Thuyết này, nuôi ước mơ...

Chính là câu phát biểu cuối đời của Faynman như sau:

"Có lẽ..., hai học thuyết nơi đỉnh cao của nền khoa học hiện đại. Chưa cung cấp cho chúng ta được một cái nhìn toàn triệt" ?!...

Và biểu đồ này có tên là “Ma trận Phân Tán” (của ngày đầu tiên, khi mới chào đời). Nguyên nghĩa là “Scattering Matrix”, ta cũng còn gọi là Ma Trận S. Và Heisenberg cùng vị kiến trúc sư trưởng Chew, đã lập nên trong năm 1943.

Ma Trận Phân Tán. Là bản thể của Kinh Dịch. Một di bảo của dân tộc Việt Nam chứ không hề là của bất kỳ một dân tộc nào khác cho được.

Ta xem xét thấy trong hình 1 là mô tả hệ tương tác riêng của hệ số âm (chẵn). Và hình 2 là hệ tương tác riêng của hệ số dương (lẻ). Vậy trong biểu đồ của hình 3 là diễn đạt rất rõ còn thiếu chiều tương tác của 7 – 5 – 3 trong đó. Cho nên ta xét thấy trong biểu đồ cũ của biểu đồ phản ứng của Heisenberg và Chew lập đã thiếu chiều ngang.

Xét ngày trước, khi lập biểu đồ không – thời gian. Thì nguyên tắc đó là không có chiều ngang. Chính lý do này mà Heisenberg và Chew không có thể vẽ chiều ngang cho được. Thế nhưng các nhà chuyên môn đã quên một điều rằng: Khi chuyển sang biểu đồ phản ứng, ta đã sử dụng luôn cả kênh dọc lẫn kênh ngang để đọc biểu đồ. Thế cho nên nhất định ta phải bổ sung thêm chiều ngang cho đủ để kiện toàn cho biểu đồ này. Những đơn vị số độc lập nằm trong tổng thể với những vị trí nhất định trong hệ thống. Đó cũng là bản thể nguyên thủy của mô hình tự nhiên trong vũ trụ. Thực tại mô hình tự nhiên đó chúng ta cũng đã khảo sát và xem qua trong những bài viết trước. Chúng tương tác với nhau theo những mối liên hệ trật tự nhất định như:

- Những đơn vị mang hệ số chẵn, có mối liên hệ, trao đổi, hay tương tác (chính xác hơn là tương giao) cùng những thành phần cùng một hệ số chẵn – trong những “kênh” có một góc độ hướng xứ nhất định.

- Các đơn vị có hệ số lẻ, cũng có một quy luật liên kết, không lẫn lộn trong một “kênh” riêng, với những tọa độ địa phương của mình.

Nhìn một cách tổng thể chung hệ thống số trong nguyên thủy biểu đồ Ma Trận; chúng ta nhận thấy những cơ cấu số trong một cấu trúc Ma Trận, phát biểu về cái toàn thể bị ràng buộc trong mỗi thành phần của chính nó - và hoàn toàn độc lập với một vị trí riêng biệt. Điều này giải tỏa mọi mâu thuẫn gây tranh cãi giữa Niels Bohr và Albert Einstein về một quan điểm bảo vệ cho cái toàn thể của Cơ Học Lượng Tử, và cái vật thể hoàn toàn độc lập của Thuyết Tương Đối. Trong cái khoảng không của biểu đồ Ma Trận S, lúc này những thực tại hiện thân qua hệ thống số. Và ngôn ngữ số nói lên sự tương tác trong thế giới đó, theo một trật tự của mối liên hệ thứ nhất như:

1-3-7-9. Trong đó bao gồm hệ số 5 tại vị trí trung tâm giao dịch cơ bản, có trách nhiệm trao đổi cho hệ số 1-9 trong một kênh riêng; và hoán chuyển sang một kênh khác cho hệ số 3-7 cùng tương tác, thông qua mối liên hệ trật tự, theo một quy luật nhất định 3 thứ, bậc: 1-5-9 hoặc 3-5-7.



Ma Trận Phân Tán. Là bản thể của Kinh Dịch. Một di bảo của dân tộc Việt Nam

Với biểu đồ của Ma Trận S này thì nguyên tắc của nó là hoán đổi hết một lượt như chúng ta đã được biết qua. Vì thế ta thấy hoán đổi lần thứ nhất cho 4 góc. Ta có được tất cả là 6 Ma Trận. Hoán đổi bước thứ hai thì; 6x4=24, vậy trong lần thứ hai chúng ta có 24 Ma Trận! Lần thứ 3, chúng ta có; 24x4=96 Ma Trận!! Và lần thứ 4 cũng là nguyên tắc của số thành, ta có cả thảy bằng; 96x4=384 Ma Trận!!!

Đây cũng chính là tổng số 384 Hào của Quẻ Dịch!?

Vậy điều này cũng có nghĩa là ta có tất cả là 384 Ma Trận cấp 8 khác nhau, mà vẫn đều có một đáp số tổng bằng 260 như nhau!!! Quả là Ma Trận Phân Tán đúng với nguyên nghĩa với câu đó mà từ xưa đến giờ, chúng ta không có thể nào biết tới cho nổi!!! Và trên thực tế thì tôi có thể trình bày ra cùng các bạn tất cả 384 Ma Trận cấp 8x8 ấy ngay tức khắc.

Do một Tuần Giáp là gồm 10 Thiên Can. Trong khi đồ hình Lạc Thư thì Cửu Cung chỉ có 9 cung. Vì thế nên khi phối hợp thì phải độn giáp đi cho hợp với 9 cung. Điều này cũng như hệ thống số có 10 là từ 0 – 9. Số 0 là khởi đầu và cũng là kết thúc trong hệ thống của 10 số đơn đó. Như có mà không, nên đại diện cho sự tiềm ẩn trong hệ thống đó. Hoặc như không gian có tất cả là 9 chiều, và chiều thứ 10 là chiều thời gian. Chiều thời gian này vốn tiềm ẩn và cùng đồng nhất trong tất cả 9 chiều của không gian vậy. Ở đây ta chưa bàn đến Địa Chi (12).

Thế nên ta có 8 giá trị không gian chi tiết, có thể tìm thấy xác xuất năng lượng hình thành cho một hạt đủ xuất hiện tại một trong tổng thể không gian đó. Do không gian ở giữa có tính triệt tiêu và chuyển hóa năng lượng. Giống như tâm của đồ hình bát quái trong cửu cung vậy. Đó là giá trị tiềm ẩn mà chúng ta quen gọi là “phép độn...”!

Và sau đây chúng ta mô phỏng theo quỹ đạo vận hành cao hơn mà chúng ta vừa tham khảo qua ở trên. Đó cũng là mô hình tổng thể của Ma Trận giữa Ma Trận âm, Dương và Ma Trận tổng thể (trung hòa) để tìm đến một mô hình quy luật vận hành của một vũ trụ cơ bản.

Chúng ta đã điểm trúng huyệt đạo của Biểu đồ Ma Trận S. Đồng thời Biểu đồ đó cũng đã hội đủ cả 3 công cụ khai thác rồi. Vậy chúng ta tìm hiểu xem khả năng của 3 công cụ này ra sao nhé. Để chúng ta còn nhanh chóng du hành vào không gian chiều thứ tư, đang chờ chúng ta giải phẫu nữa. Vậy chúng xem xét lại công cụ đó như sau:

Như biểu đồ trên đây thì chúng ta đã nhận thấy đủ 3 công cụ như: 1, Ngôn ngữ thông thường là ký tự. 2, Ngôn ngữ hình học là (biểu đồ). 3, Ngôn ngữ toán học (số).

Và ta xét thấy cái Lý của Số, chỉ rõ hướng tương tác trong biểu đồ của các hệ số nhất định để bằng tổng là 15, trong hình 1.

Trong hình 2 thì ta đã có thể nhận ra sự tương tác đã diễn ra như thế nào trong biểu đồ không thời gian của Friedmann rồi vậy. Các bạn cứ xem xét theo bên trái của mình, tôi sẽ diễn giải như sau: Tiến trình thứ nhất, thì một electron và positron tiến tới và va chạm với nhau. Tiến trình thứ hai diễn ra là positron sẽ nhả ra một photon, và electron hấp thụ photon đấy. Và cuối cùng thì; Do positron từ bên phải đã nhả ra một nguồn năng lượng là photon, nên thiếu hụt năng lượng và đã biết thành electron, vận hành lên bên trái của biểu đồ. Còn electron bên trái, đã hấp thụ được thêm giá trị năng lượng của photon từ positron nhả ra. Nên đủ năng lượng mà biến thành positron và vận hành sang hướng bên phải, phía trên của biểu đồ. Kết luận; Do positron mang điện tích dương, nên theo lý của Dịch thì dương chủ động phải nhả ra photon. Còn electron vốn là Âm tính, nên thụ động mà hấp thụ. Đó chính là những gì đã từng tương tác qua lại với nhau trong thế giới hạt, mà nền khoa học của chúng ta chưa có thể biết tới cho được.

Thế cho nên trong hình 3: Ta dễ dàng đọc ra trong khoảng không của biểu đồ Ma Trận s (phản ứng) là một proton, va chạm với một anti-proton. Rồi sau đó thì anti-proton nhả ra một pion và biến thành pion âm (bên trái, ở trên) do đã thiếu hụt nguồn năng lượng vốn có ban đầu. Và proton hấp thụ được nguồn năng lượng cung cấp pion của đối tác anti-proton, nên hóa thành pion dương vận hành sang bên phải phía trên của biểu đồ.

Đó chính là những gì đã diễn ra một cách tiềm ẩn, ở phía bên trong khoảng không vô hình của biểu đồ phản ứng Ma Trận S. Nếu các nhà chuyên môn xem xét và quan sát thấy vẫn còn một bất cập nữa, xảy ra giữa sự tương tác của proton - anti-proton, hoặc proton-pion. Là do trong thời lượng tương tác diễn ra chớp nhoáng trong khoảng không gian trống rỗng đó, đã có xảy ra tình huống “phóng thích tự thân của một proton xuất hiện đột ngột” (hoặc phân rã bêta xuất hiện, cực hiếm), mà ra cả thôi.

Vậy chúng ta làm rõ hơn nữa về quỹ đạo tương tác số, của thế giới hạt này qua các biểu đồ như sau:

Qua mẫu biểu đồ của hình 1, ta nhận thấy đó là biểu đồ của Ma Trận số mang âm tính. Hệ thống của số chẵn. Thế cho nên quỹ đạo vận hành cho thấy từ số lớn nhất (8), vận hành nghịch chiều kim đồng hồ, về số nhỏ nhất (2). Và ta có được một quỹ đạo âm với nét biểu thị cho năng lượng đó, kèm theo bên (dạng tia sét).

Trong hình 2 là hệ số của Ma Trận mang dương tính. Hệ thống của số lẻ. Và ta cũng có được một quỹ đạo vận hành theo thuận chiều kim đồng hồ, từ nhỏ (1) lên đến số lớn (9). Từ đó ta cũng có được một biểu thị năng lượng mang tính dương.

Và trong hình 3. Là Ma Trận hợp nhất của cả hệ thống số chẵn (âm) và lẻ (dương) trong đó. Ta vẫn rút ra được hai mẫu biểu thị khác với hai mẫu 2 và 1 trước đó. Theo lý của Dịch thì do hình một là thuần âm, nên ta có một quỹ đạo nghịch hành. Cho nên quỹ đạo thuần dương là thuận hành. Và xét trong quỹ đạo trung hòa cuối cùng là: Bởi hợp nhất nên dương sẽ hành âm và âm thì sẽ hành dương vậy. Đó cũng chính là toàn lý của Dịch.

Ta cũng dựa trên công cụ biểu đồ không thời gian của Friedmann, để mô tả không gian chiều thứ tư đó như sau:

Chúng ta cùng tham khảo trong hình 1. Đó là biểu đồ không thời gian của Friedmann, mà các bạn cũng đã từng biết qua trên trang này. Và 2 nét bên trong, là tôi mô phỏng một cách trung thành tuyệt đối, theo quy định cũng như nguyên tắc của biểu đồ đó. Chiều đứng là chiều thời gian và chiều ngang là chiều không gian.

Đến hình 2 là: Thể hiện nét vẽ thiết kế theo chiều thời gian vận hành trước. Bởi nếu sự xuất hiện không gian ban đầu thì không gian tự nó là không, là bất động. Nên nhất định phải đứng yên. Trong khi đó, thì thời gian vẫn đang trôi qua…, Thế cho nên ta thấy xuất hiện tuần tự có 4 nét, xuất phát theo chiều thời gian trước tiên, vẽ từ dưới hướng lên. Bởi số 4 là số thành, đồng thời ta cũng đang sống trong không - thời gian 4 chiều. Nên mô hình được trình bày theo quy tắc đó (4 nét vẽ hướng lên).

Rồi tiếp đến hình thứ 3 thể hiện: Bởi không – thời gian vốn là đồng nhất. Thế cho nên ngay sau khi chiều thời gian vừa đủ nguyên lý thành, đủ 4 nét hướng lên. Thì chiều không gian lập tức đồng nhất treo trật tự đó. Cũng phản ảnh quy trình hình thành 4 nét vẽ trật tự như chiều thời gian.

Và rồi trong hình 4 thì: Cũng là nguyên tắc của số thành. Thế cho nên trong hình cuối cùng này, các bạn thấy tôi đã thiết kế xong mẫu không – thời gian 4 chiều đơn thuần ban đầu. Và đó cũng chính là mẫu biểu đồ của mô hình không – thời gian tiêu chuẩn của 4 chiều.

Thế nhưng, chúng ta cần đến một mô hình của không – thời gian 4 chiều đủ. Để chúng ta còn tiến hành khai thác đối tượng không gian chiều thứ tư trong đó nữa.

Tuy nhiên còn những vấn đề tồn tại mà tôi bắt buộc phải nêu ra cùng các bạn là:

Với biểu đồ của Ma Trận S này thì nguyên tắc của nó là hoán đổi hết một lượt như chúng ta đã được biết qua. Vì thế ta thấy hoán đổi lần thứ nhất cho 4 góc. Ta có được tất cả là 6 Ma Trận. Hoán đổi bước thứ hai thì; 6x4=24, vậy trong lần thứ hai chúng ta có 24 Ma Trận! Lần thứ 3, chúng ta có; 24x4=96 Ma Trận!! Và lần thứ 4 cũng là nguyên tắc của số thành, ta có cả thảy bằng; 96x4=384 Ma Trận!!!

Đây cũng chính là tổng số 384 Hào của Quẻ Dịch!?

Vậy điều này cũng có nghĩa là ta có tất cả là 384 Ma Trận cấp 8 khác nhau, mà vẫn đều có một đáp số tổng bằng 260 như nhau!!! Quả là Ma Trận Phân Tán đúng với nguyên nghĩa với câu đó mà từ xưa đến giờ, chúng ta không có thể nào biết tới cho nổi!!! Và trên thực tế thì tôi có thể trình bày ra cùng các bạn tất cả 384 Ma Trận cấp 8x8 ấy ngay tức khắc.

Không – gian chiều thứ tư là đối xứng với không gian 3 chiều. Chính điều này khiến nên các vị thiền giả nói chung, không biết sử dụng phép đối xứng đó cho nên nhận lầm những giá trị hư (huyễn cảnh) mà áp dụng vào đời thực. Từ đó dẫn đến gây nên sự mê tín đối với đạo, cho xã hội chung. Ví như phép lật thì ta có thể xoay 2 lần mô hình đó thì sẽ có cùng một giá trị như nhau. Thế cho nên ta mới thấy trong cách hoán đổi của biểu đồ phản ứng (Ma Trận S). Qua một lượt hoán đổi như thế, chắc chắn các nhà chuyên môn sẽ có được một mô hình chính xác.

Ta xem xét trong biểu đồ của hình 1 là mô tả Ma Trận dương tính với hệ số chẵn là 2,4,6,8. Vốn là đại diện cho thế giới Hạt. Hay nói một cách khác là thế giới của Thuyết Lượng Tử. Và biểu đồ thứ 3 là phản ảnh thế giới của Thuyết Tương Đối với các số cấu thành Ma Trận dương tính bao gồm 1,3,7,9. Thế nên biểu đồ của hình 2 là mô tả mô hình của không – thời gian 4 chiều mà cả hai hệ thống Ma Trận vận hành mô tả mô hình thực tại vũ trụ tiềm ẩn trong đó.

Nếu thế thì ta xét chi tiết hơn sẽ thấy được rằng trong khoảng không – thời gian cho sẵn đó thì; Mẫu biểu đồ này chính là Ma Trận cấp 8x8! Từ đây cho ta nhận định được đó chính là mô hình vũ trụ giới hạn trong phạm vi không – thời gian của Thuyết Lượng Tử mà thôi! Vì nó cho ta một so sánh tương quan với Ma Trận dương của Thuyết Tương Đối đã trình bày. Vậy nếu ta xét dựa trên ngôn ngữ của hệ thống số thì nhất thiết ta phải có mô hình của không – thời gian vận hành trong Ma Trận cấp 9x9! Đó chính là vùng trời của Thuyết Tương Đối. Dĩ nhiên điều này nói lên thực tại vượt qua phạm vi giới hạn của Thuyết Lượng Tử mất rồi.

Qua sự bố trí theo trật tự ở trên. Ta thấy cứ một trong 8 tiết chính thì đều kiêm 2 tiết phụ trong đó. Và cứ 3 tiết (tam tài) là cơ cấu hình thành bên trong của một Cung Quái như Kiền, Khảm v.v… Ta không có thể bố trí một cách tùy tiện, mất trật tự của mô hình tự nhiên cho được. Cung Khảm nhất định kiêm 3 tiết Đông Chí – Tiểu Hàn – Đại Hàn không khác được. Bằng không, ta không có thể nào mà lập Kỳ Môn Độn Giáp cho được.

 2/MA TRẬN CẤP 4X4.

HÌNH VUÔNG KÌ DIỆU CỦA SAO MỘC.



BIỂU DIỄN TÍCH TỨ TƯỢNG * TỨ TƯỢNG TRÊN HÌNH VUÔNG SAO MỘC CHÚ Ý . Tại sao Thiếu Dương nhân* với Thiếu Âm thành Thái Âm chẳng hạn?

 3/ MA TRẬN CẤP 5X5.

HÌNH VUÔNG KÌ DIỆU CỦA SAO HỎA.




Qua hai mô hình quỹ đạo với hai biểu đồ trình bày ở trên đây. Chúng ta xét thấy trong hình 1 là mô hình của Ma Trận cấp 3x3, với một quỹ đạo vận hành đơn giản nhất trong thế giới của Ma trận. Thế nhưng ta so sánh với hình 2 thì: Đó lại thể hiện là một một quỹ đạo có tính phức tạp hơn trong mô hình của Ma Trận cấp 5x5. Điều này cho các bạn một hình dung và mường tượng đến cái gọi là bước nhảy lượng tử rồi vậy. Là khi hạt nhảy lên một mô hình của không gian khác. Thì lúc đó nó sẽ vận hành với một quỹ đạo khác và phức tạp hơn là thế. Cứ thế, tùy theo từng cấp độ của không gian cho sẵn, tùy theo yêu cầu thực nghiệm. Các hành trạng vận hành của hạt, càng có sự biến hóa các quỹ đạo theo các bước nhảy lượng tử là phức tạp trầm trọng hơn cho sự nắm bắt của tư duy chung từ chúng ta. Và mô hình đó cũng trả lời cho chúng ta về một hình ảnh của một mạng lưới đan xen thành một “không gian mạng”, như ta từng nghe qua trong thế giới kỹ thuật số hiện nay.

4/ MA TRẬN CẤP 6X6.

HÌNH VUÔNG KÌ DIỆU CỦA MẶT TRỜI.


Nếu chúng ta gộp 4 ô của Hình vuông mặt trời thành một ô lớn , thì chúng ta sẽ thu gọn được Hình vuông mặt trời thành Hình vuông Sao Thổ.

5/ MA TRẬN CẤP 7X7.

HÌNH VUÔNG KÌ DIỆU CỦA SAO KIM.

 


6/ MA TRẬN CẤP 8X8.

HÌNH VUÔNG KÌ DIỆU CỦA SAO THỦY.


Trên nguyên lý và tuân thủ theo quy tắc nền tảng của nền khoa học vật lý như: Diễn giải hệ thống số, xuất hiện một cách trật tự và vận hành trong mô hình của không – thời gian ban đầu đó như sau:

Trong hình 1 là mô tả, biểu diễn cách đọc và trình bày Ma Trận S khi ta xem xét trong kênh dọc. Thế nên ta có A+B C+D. Và tôi mô phỏng theo đúng nguyên tắc này mà ứng dụng và trình bày trong không – thời gian 4 chiều của hình 2.

Ta có thể quan sát thấy hệ thống số có xuất phát từ tọa độ gốc của không – thời gian ban đầu đó. Số vận hành một cách trật tự tự nhiên trong toàn vùng của không – thời gian đó. Chúng tương tác với toàn thể các số khác, trong toàn vùng của hệ thống không – thời gian đó. Sau khi tương tác với từng đơn vị số, qua tổng các quỹ đạo khả dĩ trong các miền không gian. Và cuối cùng thì hình thành nơi địa phương biên của không – thời gian là một đáp số với số tổng là 260!

Ta xét thấy, hệ thống số đó đã đan xen chằng chịt như một mạng lưới, liên thông toàn thể. Để rồi trong bất kỳ trục tọa độ nào trong không gian, bất kỳ vị trí nào của từng thời điểm trong chiều Thời gian. Cũng đều bảo toàn cùng một giá trị = 260!!

Mô hình diễn tả trên đây là phản ảnh sự tương tác của thế giới Hạt trong cả một hệ thống của Hadron. Mô hình phản ảnh cho ta thấy cả một cơ cấu động toàn thể trong đó. Cả hệ thống số phân tán như một Ma Trận mà chúng ta không có thể xác định được quỹ đạo nào, và vận hành ra sao trong xứ địa phương đó được nữa.

Thế nhưng, biểu đồ trên đây chẳng qua chỉ là tôi đang mô tả cùng các bạn những gì diễn ra trong góc quan sát của Kênh Dọc mà thôi! Nếu đã thế thì chúng ta lại cùng nhau chuyển vị trí quan sát sang Kênh Ngang xem sao nhé? Chúng ta tiếp tục cuộc du hành trong Kênh Ngang, để quan sát không – thời gian đó như sau:

Sau khi xem xét trong Kênh Ngang. Tôi cũng đã hoán đổi theo quy tắc của Ma Trận S thì ta có: A+C B+D. Và tôi cũng đã mô phỏng một cách trung thành theo Ma Trận S mà mô tả lại như những gì các bạn thấy trong hình 2!

Vẫn có tổng đáp số bằng 260 cho tổng các hàng dọc, ngang, chéo đều như nhau!? Mặc dù ta xét thấy các số trong các cung, đã có sự chuyển đổi vị trí khác trong đó cho nhau. Thế nhưng giá trị cuối cùng cũng đều bảo toàn và trả lời với cùng một đáp số không sai!!! Như thế, nếu tính cả kênh dọc và ngang, chúng ta quan sát thấy vật bị quan sát đó đã phản ảnh có đến 2 Ma Trận khác nhau! Tuy nhiên cả hai mô hình đó cũng đều có một đáp số tổng các quỹ đạo là như nhau!!

Thế nhưng thế giới của Ma Trận S như những gì mà nền Cơ Học Lượng Tử hiện nay mô tả là vẫn chưa đủ!!! Tôi có thể nêu ra những điển hình cho câu phát biểu này của tôi như sau

Hai hình trên cho chúng ta thấy được là có tất cả 4 lần hoán đổi hệ thống ký tự, tương tác với nhau trong Ma Trận Phân Tán gốc. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta có 6 góc độ quan sát mô hình của Ma Trận trong đó. Từ đây suy ra, nếu vậy thì chúng ta phải có 6 mô hình Ma Trận S có giá trị khác và không khác trong đó! Ví như trong không gian 3 chiều hiện tại bằng vật lý. Trong chiều dọc thì ta có Trước và Sau. Đối với chiều ngang thì ta lại có Phải và Trái. Vậy chiều cao thì tất phải có Trên và Dưới rồi vậy. Điều này tựa như ta quan sát mô hình của một khối vuông vậy. (đủ 6 cõi).

Đã thế, tôi sẽ đưa các bạn tham quan qua một lượt, 6 Ma Trận này như những gì được trình bày sau:

Như thế, chúng ta có tất cả là 6 Ma trận có đáp số tổng các quỹ đạo đều là 260 như nhau! Mặc dù mỗi Ma Trận đều có các hệ thống số xuất hiện ở các vị trí khác cung nhau!!

Để khai thác không – thời gian có ẩn tàng Ma Trận đó. Chúng ta nhất định phải sử dụng đến công cụ đã được kiện toàn và hợp nhất là biểu đồ phản ứng của Heisenberg và Chew. Đó chính là địa phương của:

Như chúng ta biết rồi: Không gian vũ trụ ban đầu vốn là vô hình, không hoặc chưa có gì. Và điều kiện đầu tiên là đòi hỏi chúng ta là phải mô phỏng theo mô hình tự nhiên đó, để thiết kế và đưa ra một mô hình của không gian ban đầu đó. Và tôi đã đáp ứng sự đòi hỏi theo yêu cầu đó là làm “hiện” cái “tượng” của mô hình không - thời gian 4 chiều như ở trên. Vậy hễ đã có Tượng, ắt phải có Số, liền theo đó như trật tự tự nhiên của mô hình vũ trụ. Chúng ta tiếp tục tham khảo:

Ta xét thấy trong biểu đồ không – thời gian của Friedmann thì nơi tiếp giáp của chiều thời gian và không gian là tại điểm A trong hình 2. Vậy vị trí này chính là trục gốc (vị trí gốc) của không thời gian. Thế cho nên số 1 phải xuất hiện tại vị trí này, chứ không thể đặt một cách tùy tiện ở bất kỳ một vị trí nào khác, trong toàn vùng không – thời gian đó cho được. Là vị trí xuất phát khởi thủy của hệ thống số trong không – thời gian của mô hình vũ trụ tự nhiên ban đầu và vận hành. Vị trí khởi nguyên.

Chúng ta phải quay trở lại. Bắt đầu xem xét lại quỹ đạo của mô hình nào, từ những điều đơn giản nhất như:

Bởi nơi đây chính là địa phương khả dĩ nhất, để chúng ta xuất phát cuộc du hành vào không gian chiều thứ tư lại từ đầu…

Như chúng ta đã biết trong hình 1 là mô hình của Ma Trận âm tính. Trong hình 2 là Ma trận trung hòa và hình 3 là Ma Trận dương tính theo cái lý của Tam Tài. Thiết nghĩ tôi cũng phải giới thiệu qua để các bạn ghi nhớ về hai Ma Trận Âm – Dương vốn có đặc tính thuần âm hoặc thuần dương của riêng nó như sau:

Vẫn lại có hàng trăm Ma Trận như thế nữa! Tuy nhiên chúng ta xác định ngay là; Chúng ta chỉ khai thác vào Ma Trận Trung Hòa mà thôi. Vì đó mới chính là mô hình đủ kiện toàn.

7/ MA TRẬN CẤP 9X9.

HÌNH VUÔNG KÌ DIỆU CỦA MẶT TRĂNG.

Với mô hình này, chúng ta đã có được những gợi ý toàn diện như là câu: Cửu cửu càn khôn dĩ định. Hoặc hàng loạt ngôn từ ẩn dụ nữa là Cửu Thiên Huyền Nữ, ngôi Cửu Trùng, Cửu Cung, 9 Tầng Mây, vân vân và v.v… Đồng thời đó cũng là số của Lão Dương, hệ số cuối cùng trong hệ thống số đơn. Sở dĩ ta thấy tại sao các đời Vua Hùng có 18 là đời: Số của Lão Dương là 9. Vốn là dương nên phải hành âm thành ra Tham Thiên x Lưỡng Địa; (9 x 2 = 18) là dứt đời, ẩn ý cho Dịch Liên Sơn. Bằng như Số của Lão Âm là 6. Vẫn tính như thế, nên âm thì hành dương là Lưỡng Địa x Tham Thiên: (6 x 3 = 18).

Đó là cái lý do tại sao các Vua Hùng chỉ có 18 đời là dứt. Ta phải phát biểu chính xác lại là: 18 đời Vua Hùng là diễn đạt mô hình trật tự cơ bản của vũ trụ tự nhiên vận hành tiềm ẩn một cách tuyệt đối như thế. Số Trời vốn là như thế. Không hơn, không kém được.

Thời Hùng Vương phát triển cũng theo nguyên lý đó mà có 9 sự tích cả thảy! Và luân chuyển 9 Âm, 9 Dương thành 18 đời Vua Hùng là dứt. Các Vua Hùng lại bố trí các Lạc Bộ theo hệ thống của Cửu Cung. Thế nên Sơn Tinh mới mang lễ vật hỏi cưới Mỵ Nương là: Voi chín ngà, Gà chín cựa, Ngựa chín hồng mao vậy. Văn hóa của người Việt luôn luôn tuân giữ theo quy tắc của số 9 đó thành "Cửu Trùng", mãi từ ngàn xưa đến tận bây giờ chưa sai lạc.

Cuối cùng chúng ta lại có được Ma Trận Cấp 9 x 9 với tổng các quỹ đạo có đáp số là 369!

Với mô hình Ma Trận cấp 9x9 vừa nêu ra ở trên. Các bạn quan sát thấy tổng các quỹ đạo vẫn có đáp số là 369. Mặc dù mô hình này đã thay đổi hệ thống số và tương tác qua các quỹ đạo khả dĩ khác đi, so với Ma Trận mà ta đã được biết! Tuy nhiên đối với mô hình này. Chúng ta đã đáp ứng được hàng trăm mô hình tương quan như yêu cầu đã được đặt ra và đòi hỏi là đồng bộ cùng mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên là như thế!

Chúng ta lại suy thấy trong mô hình của Ma Trận cấp 9x9 này cũng có hàng trăm Ma Trận khác, có cùng tổng đáp số như thế nữa rồi! Chúng ta lại có nguy cơ tiếp tục rơi vào thế bế tắc toàn diện đối với cả một vũ trụ Ma Trận có hệ thống cơ bản như thế mất. Bởi vì Ma Trận Cấp 9 là hệ thống cơ bản và đồng thời cũng là hệ số cao nhất của thế giới số rồi vậy. Như thế, xét riêng trong mô hình cơ bản này thôi; Ta lại có hàng trăm mô hình thực tại cơ bản khác hơn nữa, đang còn tiềm ẩn trong đó!! Dưa theo nguyên lý tổng các quỹ đạo thì điều này có nghĩa là tổng các hệ thống số từ 0-9. Chúng ta có đến 3.600 Ma Trận với tên gọi là rất cơ bản trong đó!!! Bởi vì ta không có thể phát biểu là Ma Trận nào mới là cơ bản hơn Ma Trận nào cho được. Vì tất cả đều là Toán Học!!!

Hệ số 369 cũng là hệ số toàn vùng không – thời gian (4 chiều) trong vũ trụ thực tại mà nhân loại chúng ta đang sống và phát triển giới hạn trong đó. Các bạn có thể thấy hệ số toàn ảnh này phản ảnh trong thế giới của Kinh Dịch như sau:

3 – 6 – 9 là hệ số của 3 Thế Cục trong Kỳ Môn Độn Giáp hoặc 3 Cục Diện trong Thái Ất Thần Kinh vậy! Đồng thời văn hóa cũng như lịch sử của dân Tộc Việt cũng đã tiềm ẩn giá trị sở hữu tuyệt đối này của giống nòi qua: Non Sông như: Tam Giang (3), Lục Đầu (6) và Cửu Long (9) vậy. Thế nên dòng Cửu Long Giang hôm nay chính là Dòng Bảo Giang mà cha ông Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng gửi Sấm Truyền đời cho thế hệ cũng như thời cuộc hôm nay vậy.

Vậy quan sát tổng các biểu đồ trên đây. Mô tả cho chúng ta biết sự hình thành tất cả 8 chiều không gian toàn vùng vũ trụ tự nhiên cơ bản như thế. Và chiều thời gian thứ 9, lại tiếp tục tiềm ẩn trong chiều cao (chiều thứ 1), vốn là chiều bản thể của thời gian nguyên thủy của nó. Từ đây suy ra…; Chiều không gian thứ 9, vẫn xuất hiện tại vị trí gốc của mô hình là vị trí tâm của biểu đồ, vị trí số 0. Điều này có nghĩa là chiều không gian thứ 9 tiềm ẩn theo chiều của tầm mắt quan sát của người quan sát, trực diện thẳng với tâm của vật bị quan sát vốn là vị trí gốc của không – thời gian của vũ trụ toàn miền. Tôi có thể trình bày cùng các bạn biểu đồ mô tả như sau:

Với 3 mẫu biểu đồ ở trên đây. Chúng ta có thể hình dung được mặt cắt của mô hình không – thời gian 9 chiều hiện hữu. Trong đó, chiều thời gian tâm lý vẫn luôn tiềm ẩn trong toàn vùng không – thời gian đó nữa là 10. Nguyên lý của chiều thời gian là luôn tiềm ẩn tại chiều không gian thứ 1 là chiều cao. Đồng thời cũng vận hành và phát triển trong toàn miền 9 chiều không gian riêng phần đó, tùy theo từng thời lượng mà ta xác định thời điểm của chu kỳ gốc của thời không, xuất phát.

Đến đây. Ta có thể kết luận được rằng: Mô hình không – thời gian tiềm ẩn của vũ trụ tự nhiên cơ bản là 10 chiều. Thực tại này đã được mặc định trong hệ thống số từ 0 đến 9, bao gồm 10 giá trị toàn phần. 10 giá trị đó có thể tương tác với nhau qua các quỹ đạo khả dĩ như một mạng lưới của vũ trụ tự nhiên cơ bản đến vô hạn sau mỗi chu kỳ thời không của nó.

Đó, chính là mô hình thực tại tiềm ẩn cơ bản của vũ trụ một cách tuyệt đối.

Trong vũ trụ Ma Trận Phân Tán vô hạn đó. Ít nhất, chúng ta cũng đã có được giá trị xác định 3.600 mô hình không – thời gian Ma Trận phản ứng cơ bản trong giới hạn hệ thống của 10 đơn vị số cơ bản. Chúng ta cũng đã biết đó chính là mô hình của không – thời gian 10 chiều. Vốn đã được mặc định một cách tiềm ẩn trong 10 đơn vị số, một cách tự nhiên trong mô hình vũ trụ.

Trong hình 1 là mô tả, biểu diễn cách đọc và trình bày Ma Trận S khi ta xem xét trong kênh dọc. Thế nên ta có A+B C+D. Và tôi mô phỏng theo đúng nguyên tắc này mà ứng dụng và trình bày trong không – thời gian 4 chiều của hình 2.

Ta có thể quan sát thấy hệ thống số không có xuất phát từ tọa độ gốc của không – thời gian ban đầu như biểu đồ của Ma trận âm tính trước đây!? Thế nhưng các thành phần số trong cả hệ thống. Sau khi xuất phát ở một vị trí của không – thời gian khác. Chúng tương tác với toàn thể hệ thống số, qua tổng các quỹ đạo khả dĩ trong các miền không – thời gian. Và cuối cùng thì hình thành nơi địa phương biên của không – thời gian vẫn chính xác là một đáp số với số tổng là 260, như giá trị của mô hình Ma Trận cũ!!!

Mô hình diễn tả trên đây là phản ảnh cho chúng ta biết được mô hình của tương lai cũng chính là sự lập lại những gì từ trong quá khứ mà thôi. Duy đó là một mô hình tương lai với những diễn biến của trật tự có khác, bao gồm không khác trong đó!

Thế nhưng, biểu đồ trên đây chẳng qua chỉ là tôi đang mô tả cùng các bạn những gì diễn ra trong góc quan sát của Kênh Dọc mà thôi! Nếu đã thế thì chúng ta lại cùng nhau chuyển vị trí quan sát sang Kênh Ngang xem sao nhé? Chúng ta tiếp tục cuộc du hành trong Kênh Ngang, để quan sát không – thời gian đó như sau:

Sau khi xem xét trong Kênh Ngang. Tôi cũng đã hoán đổi theo quy tắc của Ma Trận S thì ta có: A+C B+D. Và tôi cũng đã mô phỏng một cách trung thành theo Ma Trận S mà mô tả lại như những gì các bạn thấy trong hình 2!

Và tôi lại chép lại nguyên văn là…; Vẫn có tổng đáp số bằng 260 cho tổng các hàng dọc, ngang, chéo đều như nhau!? Mặc dù ta xét thấy các số trong các cung, đã có sự chuyển đổi vị trí khác trong đó cho nhau. Thế nhưng giá trị cuối cùng cũng đều bảo toàn và trả lời với cùng một đáp số không sai!!! Như thế, nếu tính cả kênh dọc và ngang, chúng ta quan sát thấy vật bị quan sát đó đã phản ảnh có đến 2 Ma Trận khác nhau! Tuy nhiên cả hai mô hình đó cũng đều có một đáp số tổng các quỹ đạo là như nhau!!

Vẫn thế, chúng ta vẫn có tất cả là 6 Ma trận, có đáp số tổng các quỹ đạo đều là 260 như nhau! Từ đây bất chợt làm chúng ta giật mình vì…; Lại có hàng trăm Ma Trận nữa xuất hiện trong mô hình này!!

Qua tiến trình phát triển theo trật tự tự nhiên của mô hình không – thời gian thực tại tiềm ẩn, được tôi mô tả như ở trên. Chúng ta dễ dàng nhận thấy: Trong hình 1, là mô hình của biểu đồ không – thời gian giới hạn trong cấp 8. Điều này được mô tả bằng công cụ ngôn ngữ của Hình và Số một cách rất chi tiết, rõ ràng và cụ thể. Ta thấy nó phản ảnh là thế giới của Thuyết lượng tử mà nhân loại chúng ta đang sống và bị giới hạn trong phạm vi bao gồm sự phát triển tư duy, ngôn ngữ trong không – thời gian 4 chiều đó hiện nay. Đó chính là cái biên của vũ trụ lượng tử với mô hình cơ bản của không – thời gian 4 chiều bị giới hạn trong Ma Trận cấp 8x8. Ta thấy mô hình không gian cho sẵn của thuyết lượng tử, không thể kiểm soát được bất cứ thông tin cũng như sự kiện gì diễn ở phía bên ngoài của phạm vi biên đó được.

Thế nên trong hình 2 là biểu đồ diễn tả mô hình vũ trụ phát triển theo trật tự tự nhiên là nới rộng biên lên cấp 9! Đó chính là vùng trời của thuyết tương đối ngự trị. Hoàn toàn nằm ngoài sự hiểu biết của Thuyết lượng tử. Cho nên ta thấy trật tự tự nhiên đó, nhất định phải xuất hiện theo chiều của thời gian mà hình thành sự kiện giãn biên… lên cấp 9.

Tất nhiên thời gian vận hành đến thời điểm của chu kỳ, thì lập tức chiều không gian phải đồng nhất cùng thời gian như sự diễn tả của hình 3 vậy. Để rồi hình 4 là mô tả một biểu đồ của mô hình không - thời gian cơ bản thuộc lĩnh vực thuyết tương đối kiểm soát.

Thế nên trong mô hình của Ma Trận cấp 9x9 sẽ được xác định vị trí xuất phát điểm của hệ thống số vận hành. Được diễn đạt trật tự tự nhiên của vũ trụ cơ bản như sau:

Cuối cùng chúng ta lại có được Ma Trận Cấp 9 x 9 với tổng các quỹ đạo có đáp số là 369!

Chúng ta lại suy thấy trong mô hình của Ma Trận cấp 9x9 này cũng có hàng trăm Ma Trận khác, có cùng tổng đáp số như thế nữa rồi! Chúng ta lại có nguy cơ tiếp tục rơi vào thế bế tắc toàn diện đối với cả một vũ trụ Ma Trận có hệ thống cơ bản như thế mất. Bởi vì Ma Trận Cấp 9 là hệ thống cơ bản và đồng thời cũng là hệ số cao nhất của thế giới số rồi vậy. Như thế, xét riêng trong mô hình cơ bản này thôi; Ta lại có hàng trăm mô hình thực tại cơ bản khác hơn nữa, đang còn tiềm ẩn trong đó!! Dưa theo nguyên lý tổng các quỹ đạo thì điều này có nghĩa là tổng các hệ thống số từ 0-9. Chúng ta có đến 3.600 Ma Trận với tên gọi là rất cơ bản trong đó!!! Bởi vì ta không có thể phát biểu là Ma Trận nào mới là cơ bản hơn Ma Trận nào cho được. Vì tất cả đều là Toán Học!!!

Qua tham khảo bài Cửu Cung, chúng ta tích lũy thêm những giá trị tri kiến để quay trở lại quan sát chi tiết hơn đối với Ma Trận cấp 9x9 vừa qua một cách toàn diện các góc độ có được như sau:

Bây giờ, khi các bạn quan sát lại hai biểu đồ vừa nêu ở trên đây. Các bạn thấy đó chính là hai mô hình diễn đạt với những quỹ đạo tương tác cơ bản nhất mà chúng ta đã biết rồi. Thế nhưng vấn đề phát sinh là với mô hình của Ma trận cấp 9x9 trên đây. Mô hình này chỉ có đáp ứng được tất cả là 16 Ma trận có giá trị cùng một đáp số 369 mà thôi! Yêu cầu đòi hỏi đáp ứng hàng trăm Ma Trận (9x9) tương xứng là có khiếm khuyết nhất định cho mô hình cơ bản tổng thể rồi. Là bởi:

Xét theo nguyên lý của Dịch thì hệ thống Tam Tài có trật tự số sinh là 1 – 2 – 3. Nguyên lý này được thể hiện như câu… một sinh hai, hai sinh ba..., và ba sinh… vạn vật! Điều này cũng có nghĩa số 4 là “số thành” rồi vậy. Thế nên ta xét thấy Ma Trận các cấp của hệ số dương như 3, 5, 7, là đã vận hành qua 3 bước rồi. Vậy cho nên bước thứ 4 là phải biến, mà hóa ra khác đi nữa! Từ đây suy ra số 3 đã là giới hạn mà ta quen gọi với thuật ngữ chuyên môn là chân trời sự cố. Điều này được phản ảnh như không gian 3 chiều, và chiều thứ 4 là phải tiềm ẩn đi trong mô hình của không gian đó vậy. Là ở về phía bên kia của chân trời sự cố. Vùng biến cố địa phương! Thế nên quỹ đạo vận hành của 3 vùng không gian này là không còn giá trị ứng dụng được nữa. Đã thế, tôi lại thiết kế một mô hình của Ma Trận cấp 9x9 với một quỹ đạo khác và không khác đó (theo lý tính của Thuyết Lượng Tử bao gồm cả Dịch Lý) như sau:

Với mô hình Ma Trận cấp 9x9 vừa nêu ra ở trên. Các bạn quan sát thấy tổng các quỹ đạo vẫn có đáp số là 369. Mặc dù mô hình này đã thay đổi hệ thống số và tương tác qua các quỹ đạo khả dĩ khác đi, so với Ma Trận mà ta đã được biết! Tuy nhiên đối với mô hình này. Chúng ta đã đáp ứng được hàng trăm mô hình tương quan như yêu cầu đã được đặt ra và đòi hỏi là đồng bộ cùng mô hình thực tại của vũ trụ tự nhiên là như thế!

Thế nhưng vấn đề rắc rối lại phát sinh là hệ thống Tam Tài đòi hỏi mô hình của trật tự thứ 3 cho đủ cơ bản của Thiên – Địa – Nhân!!! Đã thế, chúng ta phải giải quyết cho đến cùng. Bởi nhân loại đang cần một mô hình của tương lai thật sự cơ bản một cách tuyệt đối. Các bạn tiếp tục tham khảo tôi lại phải thiết kế thêm một mô hình của Ma Trận khác đi nữa như sau:

Với mô hình này, đã cho các hệ thống số phân tán đúng nghĩa của thuật ngữ Ma Trận Phân Tán trong toàn miền không – thời gian của vũ trụ cuối đó. Các bạn vẫn thấy được giá trị bảo toàn là 369 cho toàn vùng, không khác!

Sự phức tạp lúc này đã được đẩy lên đến đỉnh điểm của mô hình đang được xem xét đến. Bởi vì chúng ta nhận thấy nơi không – thời gian cuối cấp của hệ thống số này. Cứ mỗi một trong 3 mô hình Ma trận cơ bản như thế, lại còn kiêm hàng loạt những mô hình của Ma trận cơ bản khác (!?) , bên trong đó nữa. Những mô hình vũ trụ trong vũ trụ! Sự biến hóa trong các vũ trụ Ma Trận làm lạc lối tư duy là có thật. Hiện cảnh mô hình của Tạo Hóa đã được mở ra trước mắt của nhân loại chúng ta như thế. Hy vọng nào cho nhân loại chúng ta xác định được đâu là một mô hình thực tại cơ bản duy nhất?

Đến đây. Ta có thể kết luận được rằng: Mô hình không – thời gian tiềm ẩn của vũ trụ tự nhiên cơ bản là 10 chiều. Thực tại này đã được mặc định trong hệ thống số từ 0 đến 9, bao gồm 10 giá trị toàn phần. 10 giá trị đó có thể tương tác với nhau qua các quỹ đạo khả dĩ như một mạng lưới của vũ trụ tự nhiên cơ bản đến vô hạn sau mỗi chu kỳ thời không của nó.

Đó, chính là mô hình thực tại tiềm ẩn cơ bản của vũ trụ một cách tuyệt đối.

TRỜI ƠI ! ĐỌC HIỂU ĐƯỢC CHẾT LIỀN. MUỐN TẨU HỎA NHẬP MA.
Xin theo dõi tiếp BÀI 10. Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 8.

7/20/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 8.

" Việt nam xuất hiện hạ Ngươn kỳ,

Thánh Tổ lâm phàm hiệp ngũ chi.

Ba tiếng sấm vang khai Địa Huyệt,

Bảy nguồn Thủy vận tạo sơn kỳ.

Rồng- Mây- Phật hội phong Thần mạng,

Sen nở Long hoa Thánh thể quy .

Ơi hỡi Lạc Hồng nền bích ngọc,

Vững lòng Chúa ẩn hạnh duyên kỳ."

(Đây là bài Điển nhận được khi xây CAO ĐÀI TỰ trên Cấm sơn cách đây trên 70 năm ).

III.MỘT CHÚT VỀ HỒNG BÀNG DỊCH – CÁI KHOA HỌC VÀ CÁI TÂM LINH GẶP NHAU.

1.   1.  THUYỀN THUYẾT VỀ CHU DỊCH ĐANG LƯU TRUYỀN.

“Như ta đã thấy; Kinh Dịch được ứng dụng thành - công - quả nhất, chính là Y học. Sau đến nữa là Quân sự. Ngoài 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư của buổi ban đầu, còn có:

1. Thái ất Thần Kinh.

2. Kỳ môn Độn Giáp.

3. Lục Nhâm Đại Độn.

Và lĩnh vực cuối cùng đó chính là Phong Thủy. Phong Thủy ở đây là Phong Thủy đại cuộc. Là Thiên Đô, là xem thịnh suy của một dân tộc, tồn vong của một quốc gia. Không hề là dạng phong thủy cầu cơm bao giờ cả. Riêng về việc bói toán là phản ảnh đã bế tắc trong khả năng dụng Dịch rồi vậy. Bởi nó phản ảnh ở do sự không hiểu, ắt dẫn đến chiêm..., nghiệm..., suy..., diễn... vân vân và v.v... Tôi khẳng định; Kinh Dịch vốn không phải là sách để bói toán.

Ta xem xét kỹ càng lại cái gọi là "Thuyết Dịch". Trong đó mô tả Phục Hy đóng vai trò như một "quan sát viên". Đã quan sát "vật bị quan sát" là vạn vật trong quá khứ không - thời gian đó như sau:

"... Ngẩng lên xem tượng trời, cúi xuống xét thế đất... Gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vạn vật... Và rồi Người chợt "nhìn thấy" trên lưng của con Long Mã có 55 dấu điểm trắng đen, liền "chép lại"!.

Ta thấy; Phục Hy đã photocoppy nguyên bản gốc có sẵn từ trên lưng của Long Mã chứ không phải tự làm ra như sự "cố nhận" xưa nay. Trong giai đoạn này (sau Hoàng Đế, tính từ Chuyên Húc cho tới đế Nghiêu), ta xét thấy sử vẫn thường hay tả về một tộc ở Phương Cấn hoặc Quỷ Phương. Đó chính là lãnh địa khởi nguồn khi xưa của Nước Xích Quỹ thuộc bộ tộc Xi Vưu. Liên Sơn dịch cũng thể hiện nguyên lý quẻ Cấn làm khởi đầu là vì thế. Sau dần, do chuyển vận lý khí của Càn Khôn, nên mới chuyển đến cung Tốn làm định xứ như hiện nay. Sử của Trung Quốc vẫn còn ghi chép lại sự việc; Trong giai đoạn ấy, có xảy ra việc khắp nơi truyền tai cho nhau rằng; Trời đã giao ấn trời cho bộ tộc đó nắm giữ! Vua Nghiêu đã sai Hy Thúc (một viên quan chuyên đo bóng mặt trời để làm lịch ngày ấy), sang xem xét và Hy Thúc sau đó đã lăn Trống Đồng của Bộ Tộc này về, báo rằng: Họ nói ấn trời được khắc trên này!? Không một ai hiểu trên trống đấy nói lên điều gì cả! Mãi khi Khổng Tử ra đời mới có thể hiểu nổi!!

Cũng trong thời Vua Nghiêu, có xảy ra nạn lụt hồng thủy. Tính từ Hoàng Đế truyền xuống mới có 4 đời. Cho nên Vua Nghiêu biết duy chỉ có dòng Bách Việt của tộc Xi Vưu mới có thể đủ khả năng trị thủy so với hai dòng tộc Hoàng Đế và Phục Hy. Bởi vì Kinh Dịch là di chỉ sách lược vốn là của họ. Vì thế ta mới thấy Vua Nghiêu liền sai ông Cốc, thuộc trong nhóm Bách Việt, đứng ra nhận trọng trách trị thủy là tất yếu. Ông Cốc thất bại, bị phạt chặt chân để răn đe. Liền sai ông Khí là con của ông Cốc, tiếp tục thay cha mà trị thủy. Ông Khí rồi cũng như cha mà lo việc trị thủy không xong. Vua Nghiêu cũng xử phạt bằng hình thức móc mắt.

Giai đoạn này thì ngôi Vua đã được truyền qua đời của Vua Thuấn. Vua Thuấn vốn có gốc từ dòng của bộ tộc Phục Hy. Cho nên dòng của Bộ tộc Hoàng Đế truyền đến đời của Vua Nghiêu là dứt. Vua Thuấn lại tiếp tục sai con của ông Khí là Đại Vũ phải nối đời của ông, cha của mình mà tiếp tục việc trị thủy. Thời điểm này có xảy ra một sự kiện là; Ông Ích, vốn thuộc dòng chính của Tiên Huyền Nữ được truyền di ấn trong nhóm Bách Việt. Biết Đại Vũ tuy là thuộc tộc Bách Việt nhưng do không được giữ di bảo truyền đời nên không thể trị thủy được. Vì tương thân cùng giọt máu đào nên đã tương trợ Đại Vũ mà trị thủy thành công ngày đó.

Nguyên do, ông Ích đã cùng Đại Vũ đã theo dấu Thần Quy để khơi sông về biển. Quy Tàng Dịch là ấn trời đã khắc bức đồ đó trên lưng của Tiên Huyền Nữ mà ra. Trong khi tướng tinh của Tiên Huyền nữ vốn lại là Huyền Vũ (Thần Kim Quy). Dựa theo bức đồ đó mà ông Ích và Đại Vũ dò theo dấu Thần Quy về biển cả (Vu Quy). Cũng nguyên cớ đó mà sử chép; Đại Vũ khi khai sông trị thủy, đã thấy Thần Quy nổi trên sông Lạc mà chép lại bức Hậu Thiên Đồ là từ nguyên cớ này vậy.

Do công trị thủy ngày đó, cho nên Vua Thuấn nhường ngôi kế tục cho Đại Vũ. Đại Vũ vốn lại là một trong nhóm Bách Việt ngày đó từ bộ tộc của Tam Miêu và Cửu Lê. Tuy nhiên do Đại Vũ biết được công này là từ ông Ích mà ra cả thôi. Nên Đại Vũ có ý truyền ngôi kế tục lại cho ông Ích. Thế nhưng con của Đại Vũ là Khải, đã vì cớ đó mà giết ông Ích để chiếm quyền nối ngôi nhà Hạ từ Vua Đại Vũ. Chính sự kiện này mới xảy ra việc ông Tiết, thuộc anh em họ của ông Ích, nổi lên diệt Nhà Hạ mà mở ra Nhà Thương về sau này. Và mãi cho tới khi Vũ Vương mở ra Nhà Chu. Cơ nghiệp này mới trở về với tộc của Hoàng Đế. Bởi Chu Văn Vương vốn là dòng phả hệ thuộc Hoàng Đế.

Chúng ta tạm quay trở lại để xem xét những chi tiết có tính liên quan đến Kinh Dịch.

Ta xét thấy; Trong giai đoạn của Vua Đại Vũ là xem như Kinh Dịch đã được sinh thành trọn vẹn. Bởi cái gốc cội rễ của Tiên Thiên vốn từ cung độ của địa phương Cấn Quỷ. Cho nên sử sách chép Phục Hy nhìn vào thiên tượng đó mà cho rằng: Khí núi tỏa ra không bao giờ dứt, mới đặt tên là Liên Sơn Dịch. Bởi đó thuộc vùng trú xứ thiên số của Xi Vưu mà ra. Và Đại Vũ cũng dựa trên miền định quán địa phận của Tiên Huyền Nữ bao gồm toàn miền thổ Khôn mà cho rằng: Vạn vật vốn sinh ra từ đất và cuối cùng cũng trở về với đất, nên đặt tên cho Hậu Thiên Đồ là Quy Tàng Dịch.

Cho nên ta dễ dàng nhận ra:

Văn Vương mới chỉ có thể sử dụng quẻ bói Tiên Thiên từ thủ pháp "điên đảo" với cỏ Thi từ mộ của Phục Hy mà thôi. Trong giai đoạn Quy Tàng hình thành trong đời Hạ Vũ, nên tiếp tới Nhà Thương là lại đang mò mẫm nghiên cứu cách bói "mu rùa". Ví như họ dùng yếm rùa đốt trên lửa, sau đó nhìn theo vết rạn nứt trên yếm mà chiêm..., nghiệm..., suy..., gây rối loạn thiên hạ mọi sự. Để mong tiên tri dự đoán mọi việc không lấy đâu làm xác định cho được. Cái yếu tố xác xuất của mọi phương pháp bói, đều có xuất phát nguồn từ đây mà ra cả.

Thuyết Kinh Dịch xưa nay mà ta đã được biết từ Chu Dịch, hoàn toàn chỉ là một Giả Lập Thuyết, không đủ nền tảng để đứng vững. Khiến nên xưa nay đã có một số rất đông học giả lẫn sử gia của Trung Quốc nghi ngờ; Kinh Dịch không phải là của người Trung Quốc, là có cơ sở chính đáng.

Như tôi đã có từng nói: Chỉ có duy nhất dân tộc Kinh (Kinh Việt) mới có đủ khả năng "Khảo Kinh" mà thôi. Bởi đây chính là di bảo truyền đời của chính dân tộc này. Dĩ nhiên tôi sẽ trình bày toàn bộ giá trị thật sự của Kinh Dịch còn đang tiềm ẩn ở phía sau đó ra ánh sáng trong nay mai. Để khẳng định chỉ có giống nòi này mới biết và sử dụng được toàn bộ nguyên lý của Kinh Dịch. Những giá trị đó xưa nay vẫn chưa có một ai lĩnh hội nổi. Tôi biết Lão Tử là người duy nhất hiểu chừng 70% Kinh Dịch. Trần Đoàn ước chừng 30%. Kỳ dư, chỉ được nước gây nát loạn Kinh Dịch mà thôi. Một học thuyết của dân tộc Việt Nam đã bị thất lạc từ ngàn xưa. Họ vẫn chưa có thể hiểu nổi Kinh Dịch từ hàng bao ngàn năm qua. Vì thế, tôi có lời khuyên những ai là người Việt đang học lại từ họ; Hãy cẩn thận tuyệt đối với Kinh Dịch. Đã đến lúc quy luật của thiên số, nhất định phải thu hồi Kinh Dịch về với chính chân chủ của nó.

Trong suốt thời gian nghiên cứu Lịch ròng rã 7 năm ở ngục Dữu lý. Cùng với hạt giống có sẵn là quẻ Tiên Thiên. Văn Vương đã từng du Thiền và bất ngờ bước qua ngưỡng cửa của không gian chiều thứ tư. Văn Vương sững sờ khi phát hiện được Kinh Dịch đang ở bên nước Văn Lang, chính là của dân tộc Việt! Cho nên ta thấy khi vừa được phóng thích. Không bỏ phí một khoảng thời gian nào cả. Ngay lập tức Văn Vương xin vua Trụ cho cất binh đi đánh 2 nước là Mật Tu và nước Sùng để đoái công chuộc tội!?

Ta phải đủ để thấy và biết rằng nước "Sùng" ở đây chính là Sùng Lãm! Tên khai sinh của Lạc Long Quân. Ta phải nhất thiết hiểu rằng: Tư Mã Thiên là một sử gia. Nếu ông ghi thật vào sử thì mang tội bất trung với nước. Nhưng nếu không ghi thì bất chính với trời khi đứng ra viết sử ký. Vì thế Tư Mã Thiên mới viết tránh đi là nước "Sùng" cho trọn vẹn đôi đường. Tùy ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ít ra, ông cũng không phải thẹn với lòng mình. Tư Mã Thiên ngày đó không hề biết được rằng: Dấu chỉ mực đó, sẽ là chứng cứ cáo trạng trong tương lai, cuối trang sử muộn...

Dẫu sao đi chăng nữa. Tư Mã Thiên vẫn không hổ danh là Sử Thánh mà người đời đã ban tặng.

Và rồi ngày đó, Văn Vương đã chạm trán với Thánh Gióng trong đời Hùng Vương Thứ 6! Mục đích chính của Văn Vương ngày đó chính là lấy cho bằng được Kinh Dịch. Phải! Chính Văn Vương là kẻ đã cầm quân xâm lược nước Việt và ăn cắp được Kinh Dịch ngày đó. Một người mà mọi người thường suy tôn lên thành bậc Thánh Hiền!?

Khi về đến nước, sau khi tiếng Dao Cầm tấu khúc "Văn Vương Khóc Ấp Khảo" lắng dịu đi. Văn Vương đã ngày đêm nghiền ngẫm bảo vật vừa cắp đoạt được, hòng hiểu dụng trong nay mai... Và Văn Vương đã làm một việc che giấu cả mọi người là hợp nhất hai cuốn Liên Sơn và Quy Tàng thành một cuốn với tên Chu Dịch. Ý là Dịch của Nhà Chu. Điều này đã che được mắt của biết bao nhà Dịch Học xưa nay. Bởi các nhà Dịch Học truyền đời về sau cứ nghĩ rằng; Hai cuốn đó, đã bị thất lạc trong giai đoạn Nhà Tần đốt sách mất rồi.

Hai cuốn Liên Sơn và Quy Tàng không hề mất đi đâu được cả! Mà đã được Văn Vương ngày đó khoác phủ lên chiếc áo là Thượng Kinh và Hạ Kinh đang hiện hữu trong Chu Dịch hiện nay. Ta xét thấy; Với khả năng ngày đó của Văn Vương cũng đáng để được gọi là thượng thừa đối với Kinh Dịch nói chung. Bởi đã ra sức hoàn thành cuốn Chu Dịch với Văn Ngôn.

Văn Vương không hề hiểu thấu những giá trị thực tại còn tiềm ẩn trong Kinh Dịch cho được. Điều này đã được chính Văn Vương thể hiện ở câu: "Kỳ duy Thánh Nhân hồ"?. Bởi Văn Vương tự biết những việc của mình đã làm, không đủ để được sánh với bậc Thánh. Do những thế hệ sau đó suy tôn mà thôi. Ta thấy do mọi người nghĩ đây là sách của Văn Vương làm ra nên mới có tên là Chu Dịch. Văn Vương đã được mặc định cùng Kinh Dịch nói chung, kể từ khi Nhà Chu định cơ đồ.” ( dienbatn lấy nguồn từ loạt bài KÝ SỰ PHÍA BÊN KIA KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ TƯ Của một ẩn sĩ ). 

2.     2.BÍ ẨN TRUYỀN THUYẾT VỀ CUỐN HỒNG BÀNG DỊCH TẠI VIỆT NAM.

Từ ngày bước chân vào cõi Ta bà, từ rất sớm, dienbatn được nghe những truyền thuyết đầy bí ẩn về một cuốn Kinh dịch của người Việt mang tên HỒNG BÀNG DỊCH. Những bậc túc nho, những ông Đạo, những nhà Dịch học, những Phong thủy Sư cao tuổi ở miền Nam Việt Nam thường nhắc đến cuốn đó với một sự thành kính pha chút bí ẩn. Đến năm 2002, dienbatn trong một phút xuất thần đã viết những dòng trong truyện : CUỘC CHIẾN CỦA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG như sau :

"Theo tiết lộ của các đấng Vô Vi HỒNG BÀNG DỊCH có tới 40230 đồ hình ..Bát quái của cả TIÊN THIÊN, TRUNG THIÊN VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI. Mặt khác khi HỒNG BÀNG DỊCH được tiết lộ, thì hệ quả của nó sẽ đảo lộn một cách cơ bản những gì mà chúng ta thường viết trích dẫn như hiện nay của Kinh Dịch. KINH DỊCH hiện nay chỉ là một trường hợp của HỒNG BÀNG DỊCH, áp dụng trong hệ không gian ba chiều của chúng ta đang sinh sống. Còn HỒNG BÀNG DỊCH là một nguyên lý có thể áp dụng cho tất cả mọi chiều không gian khác nhau. Hồng Bàng Dịch đã có từ thời xa xưa của nền văn minh Lạc Việt, đến thời hiện đại ngày nay vẫn chưa được tiết lộ.

Khi chúng ta hiểu được HỒNG BÀNG DỊCH, chúng ta sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về những tương tác Vũ trụ đối với cuộc sống con người chúng ta, mặt khác, chúng ta có thể liên hệ với những chiều không gian khác mà chẳng cần đến những phương tiện thô sơ và chậm chạp như những Vệ tinh mà con người hiện nay đã và đang phóng vào Vũ trụ."

Sau này, khi đang sinh hoạt tại phái Thiên Khai Huỳnh Đạo tại Sài Sòn, dienbatn có duyên được gặp GS.TS Nguyễn Hoàng Phương tại nhà Sư phụ Trúc Lâm Nương. ( Bà Trúc Lâm Nương, giáo chủ tiên phái Hồng Tâm từng tu bên Tà Lơn – Căm Pu Chía ). Qua Sư phụ Trúc Lâm Nương , dienbatn đã biết trọng trách Thiên nhiệm của GS.TS Nguyễn Hoàng Phương. Cũng qua vài năm sau, dienbatn đã có duyên nhận được những tác phẩm kì vĩ cuối đời của Thày Phương. Tác phẩm đó có tên : "TÁC PHẨM " SỨ MỆNH ĐỨC DI LẶC " CỦA GS.TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG .

Qua hơn chục năm ghìn giữ tác phẩm đó, dienbatn đã cố công tìm hiểu và nhờ những nhà nghiên cứu đầu ngành ở khắp nơi , nhưng kết quả nhận được thật là nhỏ bé. Cầm đọc những cuốn sách đó nhiều khi muốn Tẩu hỏa nhập ma.


Hơn một chục năm sau , dienbatn mới nhận được điển cho phép công khai toàn bộ những cuốn sách cuối đời của GS.TS. Nguyễn Hoàng Phương . Các bạn có thể tải về và sử dụng trên mạng hay Blog của mình. dienbatn chỉ có một yêu cầu nhỏ là nêu rõ : " Đây là toàn bộ những tác phẩm cuối đời được viết bằng Điển của GS.TS Nguyễn Hoàng Phương . Mong rằng các ACE có thể giải nghĩa và đem phục vụ cho đất Việt, đưa dân tôc Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc năm Châu .”

Gần một năm sau khi được điển cho phép công bố tác phẩn cuối đời  " SỨ MỆNH ĐỨC DI LẶC " CỦA GS.TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG , gần đây dienbatn đã được báo tin có những kết quả nghiên cứu đầu tiên về tác phẩm vĩ đại này. Nay tiếp tục thông báo cho các bạn về vấn đề này.

" Thầy Nguyễn Hoàng Phương

Tuhuyen 8.8.2011

Cách đây khoảng hai năm tôi đang lang thang đi tìm chân thuyết thì chẳng biết cơ duyên nào đã dẫn tôi đến gặp một nhà nghiên cứu lý học Đông phương. Cuộc nói chuyện quá cởi mở và thẳng thắn đến nỗi làm tôi phải kiềm chế sự khó chịu của mình. Nhưng trước khi tiễn tôi ra về thì ông ta có nói: “Tôi khích anh đấy và tôi nghĩ thế nào anh cũng đọc”.

Bây giờ tôi viết những dòng này trong trạng thái lan man và cảm thấy như mình mắc nợ. Nhưng tôi nợ ai? Tôi có nợ gì nhà nghiên cứu ấy không? Tôi không nợ vì khi nghe ông ta nói tôi đã tính từ chối không muốn hứa gì. Tôi có nợ thầy Phương không? Không, vì lúc sinh thời thầy tôi còn chả được gặp nói chi là được diễm phúc làm học trò hay đồng nghiệp của thầy. Tôi nợ ai? Có lẽ là tôi nợ chính lòng tôi.

Tiểu sử của thầy Phương đã nhiều người viết và ai quan tâm có thể đọc ở trang web của trường Đại học khoa học tự nhiên. Ở đó người ta viết về thầy là một con Người với đủ phẩm chất nhân văn cao cả, nhưng cả các đồng nghiệp đáng kính và cả các học trò tài năng của thầy không ai giám đánh giá về trước tác của thầy.

Thầy Phương sinh năm 1927 và mất năm 2004. Vợ thầy mất sớm và thầy chẳng có con. Có thể nói cả cuộc đời thầy hy sinh vì khoa học và nếm trải không biết bao nhiêu vinh quang và cay đắng. Sắp tới ngày Vu lan không biết có ai thắp cho thầy một nén nhang không? Bài viết này cũng xem như là một nén tâm nhang xin bái tạ trước hương hồn thầy.

Thầy là người đã từng tham gia kháng chiến và vì chứng tỏ được năng lực tư duy xuất chúng nên thầy đã được cử đi học. Thầy là trưởng khoa Vật lý đầu tiên của trường Đại học tổng hợp Hà nội, nay là trường Đại học khoa học tự nhiên. Năm 1961 thầy tự viết luận án “Vật chất trong không gian 6 chiều” gửi sang Liên xô và sau đó đã bảo vệ thành công tại Đại học Tổng hợp Lômônôxốp và được cấp bằng Tiến sỹ.

Khi tôi ôm về một chồng tài liệu khoảng hơn nghìn trang với cái đầu đề ít nhiều làm tôi sửng sốt vì trước đó tôi được giới thiệu đây là một công trình khoa học đồ sộ có thể gợi ý cho nhiều luận án . Tên công trình này là “Sứ mệnh Đức Di Lạc”. Công trình này được thầy Phương chắp bút trong những năm ngắn ngủi cuối thiên niên kỷ trước và đầu thiên niên kỷ này và viết trong trạng thái như thầy nói: thiền thâm hậu và như trời đất đọc cho thầy và thầy đã nhận được tín hiệu sắp “về” của thầy.

Công trình này có tính kế thừa những công trình xuất bản trước đây của thầy khi vận dụng lý thuyết toán “Tập mở” để nghiên cứu triết học phương đông và y học phương đông, văn hóa phương đông và khoa học phương tây để đề xuất chiến lược “Tích hợp đa văn hóa đông tây cho một nền giáo dục tương lai”. Những công trình này hồi đó có nhiều tiếng vang cả trong và ngoài nước, nhưng chẳng ai gọi tên công trình dài của thầy Phương mà người ta hay nói thầy Phương nghiên cứu tập mờ, thầy Phương nghiên cứu đông y, thầy Phương nghiên cứu ngoại cảm …Tôi cũng có một thời gian bập bẹ “Tập mờ” nên có thể vì thế mà trước tác sau này của thầy Phương đến được tay tôi. Mặc dù không rỗi rải gì, nhưng tôi là người tạp đọc, nên tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần trước tác của thầy Phương. Tình cờ gần đây vào mạng gặp trang của nhà nghiên cứu lý học Đông phương viết có ý trách tôi chẳng có phản hồi gì khi đã nhận đọc. Tôi sẽ viết sau đây những điều suy nghĩ của tôi không phải để thanh minh mà vì tôi cảm thấy có sự thôi thúc nội tâm.

Trước hết tôi có thể nói ngay là những điều tôi đang mong muốn tìm kiếm thì hầu như không thấy. Công cụ nghiên cứu của công trình này hoàn toàn không liên quan gì đến lý thuyết tập mờ mà như cơ duyên đã đưa tôi đến trước tác của thầy Phương. Thầy Phương đã dùng những cơ sở gì cho nghiên cứu công trình này:

1) Khoa học phương tây:- Toán cao cấp và chủ yếu là toán chuyên biệt như lý thuyết nhóm, đại số Li, đại số quaternion (đại số không gian 4 chiều), đại số octonion (đại số không gian 8 chiều); - Vật lý lý thuyết gồm thuyết tương đối và lý thuyết hạt cơ bản, lý thuyết cấu trúc vũ trụ…

2) Khoa học phương đông: - kinh dịch, các học thuyết về tử vi, thái ất, độn giáp, phong thủy… - Đông y, lý thuyêt về kinh, lạc và huyệt vị, thời châm học …

3) Khoa học đông – tây : sinh vật học, lý thuyết mã di truyền, trường sinh học…

4) Tôn giáo: thầy Phương chủ yếu dựa vào đạo Phật nhưng thầy có tham khảo cả các tôn giáo khác và có dựa vào triết học cổ đại của nhiều dân tộc, đặc biệt có nhắc đến nhiều lần hình vuông kỳ diệu của người Hebreux(Do thái cổ) …

Để hiểu trước tác của thầy phải có những kiến thức cơ bản nêu trên thì thử hỏi một kẻ ABC như tôi trong vòng 2 năm còn phải lăn lóc với cơm áo có đủ dũng khí để đưa ra nhận xét gì không? Hơn nữa, cái tôi muốn tìm là lời giải cho tương lai gần và ngay trước mắt thì thầy hầu như không thèm để ý.

Công trình của thầy Phương là sự tổng kết cho những nghìn năm trước và tiên đoán và đề xuất chiến lược cho nghìn năm nay và những nghìn năm sau. Nhưng nói như thế không phải không xứng đáng để nghiên cứu và không phải không có ứng dụng cho hôm nay. Toát lên trong công trình của thầy Phương là xu thế thống nhất hòa nhập. Loài người sẽ trở về trong cái Một và đi theo con đường tìm đến chân thiện mỹ. Hàng nghìn năm trước loài người chia rẽ sâu sắc vì trong cái toàn vẹn Thiên – Địa – Nhân thì loài người chỉ cúi mặt xuống đất và xâu xé trái đất với nhau, chém giết lẫn nhau. Đã đến lúc con người phải cùng nhau ngửa mặt lên giời hướng đến cái cao cả xứng đáng với con người: hòa hợp với trời, hòa hợp với tâm linh của chính mình, hòa hợp với nôi sinh ra mình (sự sống được gieo từ vũ trụ). Theo thầy Phương thì trong bốn giai đoạn phát triển của nhân loại chiếu theo tứ tượng: thái âm, dương minh, thái dương và thiếu âm, thì loài người đang bước qua (và hy vọng thế) giai đoạn mông muội thái âm để hồn nhiên trong sáng như một nhi đồng bước vào thời kỳ dương minh. Ngay từ buổi sơ khai loài người đã không biết rằng mình cùng ra đi từ một nguồn gốc mà rồi tư duy lại chia làm hai ngả: duy lý phương tây và minh triết phương đông. Suốt bao nhiêu năm cứ tranh luận, cái nào hơn cái nào. Lịch sử cận đại với những thành tựu của khoa học công nghệ đã nâng cao vai trò của khoa học duy lý phương tây. Nhưng gần đây với những đòi hỏi cấp bách về làm rõ thế giới vật chất và tâm linh thì các nhà khoa học phương tây lại sánh vai với các nhà mình triết phương đông để giải quyết những vấn đề chung. Theo thầy Phương thì không thể nói cái nào hơn cái nào cả mà duy lý là phần cứng như xương cốt, và minh triết là phần mếm như thịt da của một cơ thể nhận thức nhân loại. Theo tôi (tôi xin mạo muội viết ra) đóng góp vĩ đại nhất của công trình thầy Phương là chứng minh một cách thuyết phục nguồn gốc chung của duy lý phương tây và minh triết phương đông đó là nguồn gốc số. Đằng sau sự huyền diệu và kỳ bí của minh triết phương đông là một cấu trúc số chính xác không khác gì duy lý phương tây mà thậm chí còn vượt trội. Thái cực là gì trong cấu trúc số: là cái Một là toàn bộ vũ trụ. Luỡng nghi là gì? Là cái Âm và cái Dương thống nhất và đấu tranh trong mọi sự vật. Âm dương có thể mô tả trong số hai chiều, có thể ký hiệu vạch đứt vạch liền, có thể xem như số nhị phân 0 1 hay gần đây người Việt còn gọi là ngôn ngữ nòng nọc. Tứ tượng là gì trong cấu trúc số? Đó là số bốn chiều hay không gian bốn chiều quaternion. Bát quái là gì? Bát quái là tám chiều cực đại cần thiết của con sổ mà người ta gọi là octonion. Đó là không gian cực đại cần thiết mà con sồ đã từ bỏ hai tính chất cốt yếu của nó: tính giao hoán và tính kết hợp.

Khi đã chứng minh cơ sở số của minh triết, thầy Phương đề xuất một bước táo bạo là xây dựng các phép toán trên cơ sở đó. Thầy đã thành công:

1) Đề xuất phép nhân quẻ, đây là một đề xuất hết sức táo bạo vì khi thầy nhân 8 quẻ 3 hào thì thầy nhận được kết quả phép nhân như là nhân hai octonion và thầy chiếu vào 64 quẻ của kinh dịch thì tìm thấy được sự tương đồng và một số dị biệt có lẽ do kinh dịch bị tam sao thất bản;

2) Khi thầy chiếu vào học thuyết di truyền thì phát hiện ra vị trí tương ứng của các axit amin trong chuỗi di truyền và phát hiện ra một số axit amin mới làm cơ sở cho dự báo xuất hiện một chủng người mới;

3) Khi thầy chiếu vào y học cổ truyền phương đông thì làm rõ được các đường kinh, lạc và vị trí của các huyệt trên cơ thể người;

4) Khi thầy chiếu vào trường sinh học thì nhìn thấy được đường hara và chân nhân và vị trí các luân xa và các thể tồn tại của chúng ta;

5) Khi thầy chiếu vào học thuyết phong thủy thì thầy tìm thấy vị trỉ tương ứng của các cung cát, hung và tính cát hung của kích thước Lỗ Ban và thầy phát hiện ra quy luật: cát nhân cát là cát, nhưng hung nhân hung không phải là hung mà lại là cát, tại sao;

6) Khi thầy chiếu vào vật lý học hiện đại thì thấy rằng nhóm 2 cấu tử là cơ sở để nghiên cứu thuyết tương đối, nhóm 3 cấu tử để nghiên cứu lý thuyết hạt cỏ bản, còn nhóm 6 cấu tử thì dùng để nghiên cứu vật lý gì cao hơn chăng;Ngoài ra, khác với toán học phương tây thầy còn đề xuất con số 5 chiều tương đương với thuyết ngũ hành đông phương và thầy đưa ra khái niệm quẻ nhiều hào, kết quả của các phép nhân quẻ 2 hào, 3 hào, 4 hào, 5 hào …Thầy dự báo các quẻ nhiều hào sẽ còn có nhiều ứng dụng to lớn mà hiện nay chúng ta chưa có khả năng hình dung. Xuyên suốt công trình của mình thầy Phương dựa vào các hình vuông kỳ diệu: hình vuông sao Thổ, hình vuông sao Mộc, hình vuông Mặt trời. Các hình vuông đó có tính chất đặc biệt là các số xếp theo hàng, cột, theo đường chéo đều có tổng bằng nhau. Thấy cho đó là sự biểu hiện của chân, thiện, mỹ. Thầy chứng minh rằng nền khoa học của loài người hiện nay bao gồm cả khoa học nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ chỉ mới dựa trên hình vuông sao Thổ, hình vuông kỳ diệu có kích thước nhỏ nhất. Còn những khoa học dựa trên hình vuông sao Mộc và hình vuông Mặt trời thì sẽ thế nào. Hình vuông sao Thổ tương đương với Lạc thư trong triết học cổ phương đông và một biến tướng của nó được gọi là Hà đồ. Tại sao cách đây mấy nghìn năm mà cha ông ta lại phát minh ra một điều kỳ diệu như vậy? Đây là hình vuông kỳ diệu sao Thổ. Ai đã nghiên cứu kinh dịch thì biết ngay là các số tương ứng với bát quái hậu thiên hay Lạc thư.

4-----------9-----------2

3-----------5-----------7

8-----------1-----------6

Thay cho kết luận: Bài viết này là bài viết đầu tiên của tôi trong lĩnh vực này, như đã nói, là để đáp ứng nhu cầu nội tâm và tôi sẽ gửi cho nhà nghiên cứu lý học đông phương như để nói rằng là tôi có đọc trước tác của thầy Phương. Đây là một công trình đồ sộ, như lời thầy Phương nói, có tầm chiến lược vô cùng to lớn và Trời Đất đã ưu ái gửi cho dân tộc chịu nhiều đau khổ và là nơi giao hòa đông tây – Việt nam, thông qua sự chắp bút của thầy. Thầy viết ra trong thời gian quá ngắn như thông điệp gửi cho thế hệ mai sau với mong muốn lớp sau có thời gian sẽ làm sáng tỏ hơn những điều thầy muốn gửi gắm và bổ sung, làm phong phú thêm nội dung những đề xuất còn để mở. Khi viết bài này tôi đã tránh không dùng những từ chuyên môn vì tôi muốn hướng đến bất cứ ai đọc được tiếng Việt. Không biết tôi có thành công không. Tôi mong những ai đọc thì đừng nghĩ gì cao siêu mà hãy suy nghĩ như lời tôi nhắn gửi.Tôi cũng mong ước có một ngày các cơ quan của nhà nước quan tâm cùng với các cơ quan và các hội phi chính phủ thành lập những nhóm nghiên cứu làm sáng tỏ, đưa ra các ứng dụng và làm phong phú thêm trước tác của thầy Phương. Tôi xin được tình nguyện tham gia, nhưng một mình tôi thì chỉ trong “cõi trăm năm” thôi, làm được gì!  "

 Đây chính là những kết quả đầu tiên đạt được. dienbatn mong mỏi giới trí thức Việt Nam sẽ tiếp bước tiền nhân để cho nước Việt Nam " sánh vai cùng các cường quốc năm châu " , làm rạng danh sống núi.

Cũng qua một thời gian dài chiêm nghiệm, đọc sách và nhất là đọc những dòng sau từ loạt bài KÝ SỰ PHÍA BÊN KIA KHÔNG GIAN CHIỀU THỨ TƯ Của một ẩn sĩ .

“ Như ta biết Kinh Dịch vốn là học thuyết được Lão Tử phát huy tinh hoa với tất cả những gì có thể, trong nhóm Bách Gia trước đó. Khổng Tử chỉ khi "lĩnh giáo" Lão Tử thì mới trở về và lao vào nghiên cứu Kinh Dịch, khi bóng tuổi đã xế cuối chân đời.

Ta thấy khi Khổng Tử cuống cuồng lục Kinh Dịch đến ba lần, khiến đứt cả lề và luôn miệng thốt lên: Trời không cho ta sống thêm vài năm nữa để học Dịch?! Khổng Tử lục Kinh Dịch đến hoảng loạn như thế để làm gì!?

a/Mẫu đồ hình Lạc Thư nguyên bản gốc với ma trận 3x3 = 9 cung (hình đính kèm): Tổng các quỹ đạo = 15. Ta quen gọi là Cửu Cung.


b - Trương Lương rút bớt lại từ 13 Thiên Lục pháp Cô Hư như đồ hình ma trận 5x5 = 25 cung: Tổng các quỹ đạo = 65.


c - Mẫu ma trận nguyên gốc của 1 trong 13 Thiên Lục Pháp Cô Hư từ Phong Hậu với mô hình 9x9 = 81 cung: Tổng các quỹ đạo = 369.

Bằng bất kỳ giá nào; Tôi cũng phải lấy được Kinh Dịch về lại cho dân tộc Việt hôm nay. Bởi đó chính là di chỉ của giống nòi này. Kinh Dịch còn đầy rẫy những giá trị tiềm ẩn trong đó, mà nhân loại trong tương lai, cần phải sử dụng cho những mục đích phát triển chung. Kinh Dịch vốn là một Kỳ Thư, Di Bảo của dân tộc Việt đã mặc định là "Lạc Thư" bị trôi lạc, vùi lấp. Nên phải chịu cảnh để cho thiên hạ gây nát loạn xưa nay.

Bởi vì Ma Trận Cấp 9 là hệ thống cơ bản và đồng thời cũng là hệ số cao nhất của thế giới số rồi vậy. Như thế, xét riêng trong mô hình cơ bản này thôi; Ta lại có hàng trăm mô hình thực tại cơ bản khác hơn nữa, đang còn tiềm ẩn trong đó!! Dưa theo nguyên lý tổng các quỹ đạo thì điều này có nghĩa là tổng các hệ thống số từ 0-9. Chúng ta có đến 3.600 Ma Trận với tên gọi là rất cơ bản trong đó

Vậy quan sát tổng các biểu đồ trên đây. Mô tả cho chúng ta biết sự hình thành tất cả 8 chiều không gian toàn vùng vũ trụ tự nhiên cơ bản như thế. Và chiều thời gian thứ 9, lại tiếp tục tiềm ẩn trong chiều cao (chiều thứ 1), vốn là chiều bản thể của thời gian nguyên thủy của nó. Từ đây suy ra…; Chiều không gian thứ 9, vẫn xuất hiện tại vị trí gốc của mô hình là vị trí tâm của biểu đồ, vị trí số 0. Điều này có nghĩa là chiều không gian thứ 9 tiềm ẩn theo chiều của tầm mắt quan sát của người quan sát, trực diện thẳng với tâm của vật bị quan sát vốn là vị trí gốc của không – thời gian của vũ trụ toàn miền. Tôi có thể trình bày cùng các bạn biểu đồ mô tả như sau:


Với 3 mẫu biểu đồ ở trên đây. Chúng ta có thể hình dung được mặt cắt của mô hình không – thời gian 9 chiều hiện hữu. Trong đó, chiều thời gian tâm lý vẫn luôn tiềm ẩn trong toàn vùng không – thời gian đó nữa là 10. Nguyên lý của chiều thời gian là luôn tiềm ẩn tại chiều không gian thứ 1 là chiều cao. Đồng thời cũng vận hành và phát triển trong toàn miền 9 chiều không gian riêng phần đó, tùy theo từng thời lượng mà ta xác định thời điểm của chu kỳ gốc của thời không, xuất phát.

Đến đây. Ta có thể kết luận được rằng: Mô hình không – thời gian tiềm ẩn của vũ trụ tự nhiên cơ bản là 10 chiều. Thực tại này đã được mặc định trong hệ thống số từ 0 đến 9, bao gồm 10 giá trị toàn phần. 10 giá trị đó có thể tương tác với nhau qua các quỹ đạo khả dĩ như một mạng lưới của vũ trụ tự nhiên cơ bản đến vô hạn sau mỗi chu kỳ thời không của nó.

Đó, chính là mô hình thực tại tiềm ẩn cơ bản của vũ trụ một cách tuyệt đối.

Dienbatn cũng tham khảo một số kiến thức của Toán cao cấp và chủ yếu là toán chuyên biệt như lý thuyết nhóm, đại số Li, đại số quaternion (đại số không gian 4 chiều), đại số octonion (đại số không gian 8 chiều); - Vật lý lý thuyết gồm thuyết tương đối và lý thuyết hạt cơ bản, lý thuyết cấu trúc vũ trụ…

Qua đó, dienbatn hiểu thêm về các Véc tơ Tuyến tính : Độc lập và phụ thuộc.

1/Độc lập tuyến tính.

“ Một hệ các vectơ {v1,…,vn} trong không gian vectơ V được gọi là phụ thuộc tuyến tính, nếu tồn tại các số: k1,…, kn không đồng thời bằng 0 sao cho:

k1 v1 +… + kn vn = 0.

Hệ các vectơ là độc lập tuyến tính khi và chỉ khi phương trình vectơ:

k1 v1 +… + kn vn = 0 chỉ có nghiệm duy nhất: k1 = k2 =… = kn = 0

Mọi tập hợp độc lập tuyến tính thì không chứa vectơ 0, tức là nếu S là tập con độc lập tuyến tính của V thì vectơ 0 S.

Mọi tập con khác rỗng của một tập độc lập tuyến tính thì độc lập tuyến tính. Tức là Ø ≠ E F và F độc lập tuyến tính thì E độc lập tuyến tính.

Tập S ≠ Ø độc lập tuyến tính khi và chỉ khi mỗi vectơ bất kỳ u S đầu không thể là tổ hợp tuyến tính của các vectơ còn lại trong S.

2/Phụ thuộc tuyến tính.

Mọi tập hợp chứa vectơ 0 đều phụ thuộc tuyến tính, tức là nếu 0 S thì S phụ thuộc tuyến tính. Mọi tập hợp chứa tập con phụ thuộc tuyến tính thì nó phụ thuộc tuyến tính, tức là nếu E F và E phụ thuộc tuyến tính thì F phụ thuộc tuyến tính. Tập S={u1,u2,…,um} (m≥2) phụ thuộc tuyến tính khi và chỉ khi tồn tại vectơ ui S sao cho ui là tổ hợp tuyến tính của các vectơ còn lại trong S.

Mọi tập khác rỗng S V thì hoặc S độc lập tuyến tính hoặc S phụ thuộc tuyến tính.

Tóm lại:

Hai vectơ phụ thuộc tuyến tính nếu và chỉ khi chúng thẳng hàng, tức là một vectơ là bội số vô hướng của vectơ kia.

Bất kỳ tập hợp nào chứa vectơ 0 đều phụ thuộc tuyến tính.

Nếu một tập hợp con của{v1,v2,…,vk}là phụ thuộc tuyến tính, sau đó{v1,v2,…,vk}cũng phụ thuộc tuyến tính.

Trong hệ Tọa độ Decac, người ta có 3 chiều Không gian là cao – rộng – dài. Nếu theo Thuyết Tương đối của Anhxtanh ta có thêm một chiều thứ 4 là chiều Không gian. Tuy nhiên trong Kinh Phật nói có 9 phương Trời và 10 phương Phật. Để biểu thị các chiều không gian khác nhau ta phải sử dụng các Véc tơ Tuyến tính : Độc lập và phụ thuộc cùng với các Ma trận hình Vuông.






Các Ma trận mà GS.TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG đề cập tớ là những ma trận : Hình vuông Sao Thổ, Hình Vuông Mặt Trăng , Hình Vuông Sao Mộc, Hình Vuông Sao Thủy, Hình Vương Mặt Trời..

Các Ma trận và các Véc tơ Tuyến tính : Độc lập và phụ thuộc đó chính là biểu diễn các chiều Không gian khác nhau cho tới chiều thứ 10.

Ta có thể tham khảo những dòng sau của GS.TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG “SỰ THU GỌN VÀ ĐỒNG CẤU PHÉP BAO.

ĐẶT VẤN ĐỀ : nếu chúng ta gộp 4 ô của Hình vuông mặt trời thành một ô lớn , thì chúng ta sẽ thu gọn được Hình vuông mặt trời thành Hình vuông Sao Thổ.

Quả vậy, tổng số các mã số trong từng 6 lớn là :

- Tổng số các phần tử của hai đường chéo của Hình Vuông Mặt Trời thu gọn - không kể trung tâm – là.

71 +95 +59 + 71 = 296 = 4 x 74.

- Tổng số các phần tử thuộc cột thứ hai là

92 +56 = 148 = 2 x 74.

Tổng số các phần tử thuộc hàng thứ hai là.

80+68+ 148 = 2 x 74.

Tổng số các phần tử theo hàng hay theo cột đều bằng nhau và bằng . (tất nhiên, theo cách dựng Hình Vuông Mặt Trời !)

111 x 2 = 222 = 3 x 74

Như thế, có thể xem gần đúng Hình Vuông Mặt Trời có cấu trúc tương tự (gần đồng cấu) như Hình Vuông Sao Thổ. Sự cố này gọi là một sự đồng cấu gần đúng.

Với Hình Vuông Mặt Trăng ta cũng có tình hình gần đồng cấu tương tự như thế ( gộp 9 ô nhỏ thành một ô lớn).

HÌNH VUÔNG SAO MỘC VÀ HÌNH VUÔNG MẶT TRỜI

Dễ thấy rằng cấu trúc bên trong ( không kể vành ngoài) của Hình Vuông Mặt Trời gần giống cấu trúc Hình Vuông Sao Mộc. Nhưng Hình Vuông Mặt Trăng không có tính chất bao trùm.

Cũng có thể xét Hình Vuông Sao Thủy gồm 8 hàng và 8 cột. Hình Vuông này bao trùm Hình Vương Mặt Trời, nhưng lại không thể gần đồng cấu với Hình Vuông Sao Thổ.

Thành thử, có thể xem Hình Vuông Mặt Trời là Hình Vuông duy nhất "cao nhất" phối hợp được cả Hình Vuông Sao Thổ và Hình Vuông Sao Mộc .

Và tính chất phối hợp này của Hình Vuông Mặt Trời - xem như sơ đồ sơ khởi - liệu sẽ dẫn đến những kết quả tổng hợp sâu xa nào về các Kỷ Nguyên, và đặc biệt trong lĩnh vực Sinh học ?

PHÉP BAO TOÁN HỌC VÀ PHÉP BAO SINH HỌC.

Ở đây cần lưu ý rằng trong toán học có một khái niệm có nội dung gần giống khái niệm bao trùm trên. Đó là khái niệm bao.

Để tiện việc theo dõi, ta dùng thuật ngữ sau:

- Phép bao dùng trong toán học gọi là phép Bao Toán học.

- Phép bao dùng trong công trình này gọi là phép Bao Sinh học.

PHÉP BAO TOÁN HỌC.

Trong toán học, tập hợp A gọi là bao tập hợp B (A >B), hay B nhúng trong A, nếu tập hợp A chứa tất cả các phần tử của Nếu tính đến cấu trúc, thì trong phép bao hay nhúng này, cấu trúc của B được bảo toàn sai khác một phép đẳng cấu.

PHÉP BAO SINH HỌC.

Nhưng trong phần trình bày trên, khi ta nói Hình Vuông Mặt Trời lại bao Sinh học Hình Vuông Sao Mộc chẳng hạn, thì không phải Hình Vuông Mặt Trời chứa tất cả các số (được sắp xếp có trình tự ) của Hình Vuông Sao Mộc. Phần của Hình Vuông Mặt Trời được so sánh với Sao Mộc có thể khác phần lớn các số của Hình Vuông Sao Mộc.

Mặt khác, mối quan hệ hay cấu trúc giữa các phần tử của Hình Vuông Sao Mộc được ánh xạ lên Hình Vuông Mặt Trời ( thậm chí nếu các phần tử này cho là giống với các phần tử của Hình Vuông Sao Mộc đi nữa ) cũng có thể không hoàn toàn giống với các mối quan hệ ban đầu giữa các phần tử của Hình Vuông Sao Mộc.

Vì sao ? Vì:

- 1. Mỗi Hình Vuông nói trên về toàn bộ là một chỉnh thể.

- 2. Các Hình Vuông con" nằm" trong Hình Vuông mẹ không phải là những chỉnh thể toàn bộ, do phải thích ứng với tính hoàn chỉnh của Hình Vuông mẹ.

3. Các Hình Vuông "con"" khi đã được tách từ Hình Vuông mẹ ra , lại phải biến đổi để trở thành những chỉnh thể theo I.

- 4. Mọi học thuyết Đông phương đều dựa vào những cấu trúc (Hình Vuông chẳng hạn) mang tính hoàn chỉnh tuyệt đối hay nói chung là tương đối của chính thể .

Lưu ý đặc biệt : Tổng số mã số trên Hình Vuông Mặt Trời là 111 x 6 = 666. Đó là con số của tội ác ! Tại sao ?”

Qua những dòng trên của Thày Phương, chúng ta nhận thức được rằng : “Đằng sau sự huyền diệu và kỳ bí của minh triết phương Đông là một cấu trúc số chính xác không khác gì duy lý phương Tây mà thậm chí còn vượt trội. Thái cực là gì trong cấu trúc số: là cái Một là toàn bộ vũ trụ. Lưỡng nghi là gì? Là cái Âm và cái Dương thống nhất và đấu tranh trong mọi sự vật. Âm dương có thể mô tả trong số hai chiều, có thể ký hiệu vạch đứt vạch liền, có thể xem như số nhị phân 0 - 1 hay gần đây người Việt còn gọi là ngôn ngữ nòng nọc. Tứ tượng là gì trong cấu trúc số? Đó là số bốn chiều hay không gian bốn chiều quaternion. Bát quái là gì? Bát quái là tám chiều cực đại cần thiết của con sổ mà người ta gọi là octonion. Đó là không gian cực đại cần thiết mà con sồ đã từ bỏ hai tính chất cốt yếu của nó: tính giao hoán và tính kết hợp.”

Đề xuất phép nhân quẻ, đây là một đề xuất hết sức táo bạo vì khi thầy nhân 8 quẻ 3 hào thì thầy nhận được kết quả phép nhân như là nhân hai octonion và thầy chiếu vào 64 quẻ của kinh dịch thì tìm thấy được sự tương đồng và một số dị biệt có lẽ do kinh dịch bị tam sao thất bản “ HỒNG BÀNG DỊCH có tới 40230 đồ hình ..Bát quái của cả TIÊN THIÊN, TRUNG THIÊN VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI.” – Chính là ĐÂY.

Khi đã hiểu được HỒNG BÀNG DỊCH , nghĩa là nắm được công thức bao quát toàn bộ sự vận hành của Vũ trụ bao la , Khoa học tâm linh sẽ phát triển trong Thiên nhiên kỷ thứ 3 là thời của THÁNH ĐỨC DI LẶC PHẬT VƯƠNG. Một Khoa học như vậy , người bình thường khó có thể hiểu nổi nếu không có một sự chỉ đạo cơ bản của Trời - Đất ( tức là của các Đấng VÔ VI ) , Một sự truyền năng lượng Siêu việt ( giống như một đường truyền intenet ) và một tiềm năng trí tuệ hết sức đặc biệt ( cái này do tu luyện mà có giống như khả năng download của máy Vi tính ) . Đối với những người nghiên cứu Khoa học Tâm linh , cách này là cách đúng đắn nhất để có thể sử dụng cho sự tiến bộ của Nhân loại , làm vinh quang cho đất nước Việt Nam và cho sư nghiệp của chính mình và con cháu mai sau . Xuất xứ từ các thông tin ghi nhận được từ Cõi Phật - Chòm sao Bắc Đẩu - Quê hương của Nhân loại chúng ta - Những kiến thức có được này từ các Đấng Vô Vi - Là sách Trời , là ân huệ của HỒN THIÊNG SÔNG NÚI , cho Nhân loại và con cháu Hồng Bàng chúng ta . Đây thực sự là những kiến thức có tầm xa thời gian vài nghìn năm " ( SỨ MỆNH ĐỨC DI LẶC - GS.TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG "

Những cái đó chính là sự liên quan tới điều dienbatn muốn nói : HỒNG BÀNG DỊCH.

 Xin theo dõi tiếp BÀI 9. Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *