CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 4.

9/07/2018 |
CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 4.


CHƯƠNG 4. ĐƯỜNG TỚI TÀ LƠN.
Cái xe chở xác đang chầm chậm hướng về Gia Lâm qua đường cầu Chương Dương. Đây là đường về căn hộ chung cư tôi mới mua được cho vợ con tại Thạch Bàn – Gia Lâm. Lấy nhau năm 1987, sau 6 năm đi xuất khẩu lao động ở Đức đến nay , lần đầu tiên tôi mới đủ tiền mua cho vợ 1 căn hộ nho nhỏ. Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn sống cùng cha mẹ . Ngày xưa , so với những người bình thường sống tại Hà Nội , vợ chồng tôi thuộc loại khá giả vì có nhiều tài sản sau 6 năm lao động tại Đức. Hai vợ chồng tôi gặp nhau tại Đức nên khi về mang được khá nhiều tài sản như xe máy SimSon ( Mô Kíc ) – S51 , Xe đạp Mifa, nồi áp suất, Áo lông, áo da của Đức. Những đồ vật đó là ước mơ của biết bao nhiêu người lúc đó , khi mà chiếc xe đạp đã là cả một gia tài . Thời đó vào mùa Đông , nếu bạn mặc quần jeans ống vẩy, áo len cổ lọ bên trong , áo da hay áo lông Đức bên ngoài , đội mũ  bò kiểu Levi's , tay đeo đồng hồ Seiko , chiều chiều chạy con Mô Kích S51 chầm chậm qua các phố, tôi cam đoan là có hàng trăm con mắt của các cô gái sẽ dõi theo qua các ô cửa. Có bài hát tương tự về chuyện này , nhưng là tại Sài Gòn “ Cùng vượt đường xa ta cùng zú ga bay vù vù – Kìa đẹp làm sao mấy cô trông mình mà cười , mấy cô trông mình mà mê “. Ôi , cái thời bao cấp với những giấc mơ nhỏ nhoi nhưng khó thành hiện thực đến như vậy. Tôi là con trai trưởng nên khi về , vợ chồng tôi bàn nhau bán những đồ mang về , lấy tiền xây lại căn nhà cho bố mẹ. Năm 1986 , khi xây xong , nhà tôi là nhà thứ 2 trong phố xây được 2 tầng đổ bê tông và trát Granito. Bố mẹ và các em tôi vô cùng hãnh diện với căn nhà này. Cả phố cứ trầm trồ ca ngợi suốt.
Có lẽ cung Thiên di của tôi tốt và có đường xuất ngoại. Sau lần đầu xuất ngoại sang Lào qua cửa khẩu Tây Trang hồi là lính trung đoàn 184 , lần thứ 2 tôi sang Đức đi Lao động xuất khẩu . Lần thứ 3 là lần này sang Căm Pu Chia qua cửa khẩu Xà Xia của Hà Tiên để sang thăm Thầy Tổ ở dãy núi Tà Lơn ( người Miên gọi là Bokor - tức là con bò ) cách Thị xã Kompot khoảng 10 Km về hướng Tây Nam. Đỉnh cao nhất của Núi Tà Lơn là 1.079m, vào mùa mưa đầy sương mù, cách 5m không nhìn thấy gì. Từ ngày vào học Huyền môn đến nay đã gần 10 năm , sau rất nhiều lần phải trì hoãn , bữa nay tôi mới thực hiện được lời hứa với Thày Tổ.

Từ đàng xa chúng tôi nhìn thấy núi Bokor giống như hình thể một con voi, chót núi luôn luôn bị mây bao phủ trắng xóa. Núi Bokor được ghép lại bởi ba trái núi, nên đường từ dưới lên đỉnh núi rất xa vì xe phải chạy quanh từ núi này sang núi nọ, hết cả ba núi mới đến nơi. Từ xưa, cái tên Tà Lơn trở thành một "thương hiệu uy thế" đối với những người tín ngưỡng huyền thuật ở khu vực Đông Nam Á. Họ tin rằng, những pháp sư có quá trình tu luyện tại núi Tà Lơn mới tài giỏi thật sự. Vì vậy, sau một thời gian dài học pháp thuật nhuần nhuyễn tại quê nhà, những đồ đệ huyền thuật ở các nước này đều khăn gói đổ về núi Tà Lơn, chui vào hang sâu giữa rừng thẳm để… tốt nghiệp cấp đại sư. Không ít người đã bỏ mạng trong quá trình tu luyện tại đây rồi được giới huyền thuật phong "thánh".

 Từ Thị xã Kompot có hai con đường đi vòng quanh dãy Tà Lơn : Một rẽ bên phải là đường vào hồ Bokor và lên Chùa 500 vị Phật. Sau đó đi lên Trung Toà, Hàm Long, Cán Dù...

Chùa 500 vị Phật.
 Đường thứ hai đi theo hướng về Công Pông Chàm, Công Pông Thơm đi khoảng 5 Km rẽ phải vào Núi Năm Thuyền có Chùa Năm Thuyền. Tại đây có pháo đài Bokor, là bộ sưu tập các tòa lâu đài (gồm khách sạn, casino, nhà thờ, cung điện…) được người Pháp xây dựng từ năm 1920. Nơi này , chính phủ Căm Phu chia đang cho xây dựng lại Casino rất lớn và sẽ khai trương vào tháng 11 này. Trong các thư tịch, di ngôn, di tự của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên - Giáo chủ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương; Bổn Sư Núi Tượng Ngô Tư Lợi - Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa; Phật Trùm, Phật sống Cử Đa, Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Phật sống Trúc Lâm Nương, Trịnh Công Hương v.v… cho thấy các vị này đều đạt chánh quả, đắc đạo ở ngôi chùa Năm Thuyền này.

Chùa 5 thuyền.
Những pháp sư nổi tiếng trước năm 1960 ở miền Nam như Thợ Đức Lỗ Ban; Ông Ba "bùa gồng"; tướng cướp Đơn Hùng Tín; Đông Cung Phan Xích Long và rất nhiều vị đại pháp sư khác cũng đã từng sang khu vực Năm Thuyền luyện phép.
Theo các tài liệu của các pháp sư Việt thì đó là một ngôi am nhỏ do Vua Monivong xây cất vào năm 1924 cho Hoàng tử Pre Thoong đến tu luyện. Pre Thoong được một đại pháp sư người Việt có tên thường gọi là Ba Gang hướng dẫn vào đây luyện phép tiên. Do nơi đây có 5 tảng đá hình chiếc thuyền nên được gọi là Năm Thuyền. Ông Ba Gang và Cử Đa là hai phó tướng của Quản cơ Trần Văn Thành - người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa trong giai đoạn chống thực dân Pháp  (1867 -1868). Sau khi kháng địa bị thất thủ, Quản cơ Trần Văn Thành tử trận, Cử Đa và Ba Gang về núi Tà Lơn tu luyện phép thuật chờ thời cơ. Lần lượt họ viên tịch tại nơi này và được dân địa phương đúc tượng phong thánh.
Ngày nay, Năm Thuyền không còn là ngôi chùa hoang vắng, u tịch. Nhà đầu tư đã xóa hầu hết dấu tích người Việt và "cải biên" thành một khu du lịch tấp nập người. Họ đã biến tượng Cử Đa và tượng Ba Gang thành "Phật Kh'mer". Ông "lục cả" trụ trì ngôi chùa là người Việt Nam cũng không còn.
Từ Chùa Năm Thuyền đi tiếp theo đường núi hiểm trở khoảng 32 Km ta có thể đến được khu vực đáng chú ý nhất của dãy núi Tà Lơn - Điện Minh Châu , Điện Bình Thiên, Điện Bàn Ngự, Điện Tứ Giao, Điện Lan Thiên...là nơi các vị Tổ của Huyền Môn , các vị lãnh đạo Đạo giáo ngày trước chọn làm nơi tu luyện. Trong " Sấm giảng đời người "của Sư Vãi bán khoai có viết :
" Ngày xưa Phật ở nước Tần,
Rồi sau Phật lại đi lần về Nam. "
Câu đó có ý nghĩa về sự chuyển dịch trung tâm Phật giáo từ Tây Tạng sẽ dần chuyển về nước Việt, đồng thời cũng chỉ rõ cho ta biết sự chuyển động và kết tụ của Hymãlạp sơn như thế nào?
 Về kết cấu Địa chất, khu vực Tà Lơn hàng triệu năm trước còn là biển. Qua những kiến tạo địa chất, được dựng lên thành núi cao đến 1079 m. Bằng chứng thấy rõ ràng nhất là bất cứ ai bước chân đến Tà Lơn đều thấy cát ở đây là cát biển trinh nguyên.
 Thời các vị tiền bối đến đây tu tập , Tà Lơn còn vô cùng hoang sơ . Ta có thể hình dung quang cảnh xứ này qua "Bài vè Tà Lơn " trong tác phẩm Thơ Núi Tà Lơn của nhà văn Sơn Nam :
“ Tà Lơn xứ rày tạm con ở.
Làm lưới chài ngày tháng náu nương.
Gởi thơ về cho cha mẹ tỏ tường.
Cùng huynh đệ đặng cho hãn ý.
Kể từ thưở bôn trình vạn lý.
Ðến bây giờ hơn bảy tháng dư.
Nghiêng mình nằm nhớ tới mẫu từ.
Ngồi chờ dậy ruột tằm quặn thắt.
Nhớ huynh đệ lụy tuôn nước mắt.
Cam phận em ruột thắt từng hổi.
Vận bất tề nên phải nổi trôi.
Thời bất đạt nên con xa xứ.
Xứ lạ lùng con có một mình.
Cơn nguy hiểm lấy ai phò trợ.
Bởi thiếu thốn bao nhiêu đồng nợ,
Nay thân con phải chịu hoành hành.
.............
Việc ăn ở nhiều nỗi đắng cay,
Vái trời phật xin về quê cũ.
Xứ hiểm địa chim kêu vượn hú,
Dế ngâm sầu nhiều nỗi đa đoan.
Ngó dưới sông con cá mập lội dư ngàn,
Nhìn trên suối sấu nằm như trăm khúc.
Nay con tới nguồn cay nước đục,
Loại thú cầm trông thấy chỉnh ghê,
Giống chằng tinh lai vãng dựa xó hè.
Con gấu ngựa tới lui gần xó vách.
Bầy chồn cáo đua nhau lúc nhúc,
Lũ heo rừng chạy giỡn bát loạn thiên.
Trên chót núi, nai đi nối gót,
Cặp giả nhân kêu tiếng rảnh vang.
Ngó sau lưng, con kỳ lân mặt đỏ như vàng,
Nhìn phía trước, ông voi đen huyền như hổ.
Hướng đông bắc, con công như tố hộ.
Cõi tây nam, gà rừng gáy ó o...”
Đọc bài thơ đó chúng ta mới hiểu và cảm nhận được hết nghị lực phi thường của tiền nhân chúng ta trong tu tập. Ngoài dấu tích chùa Năm Thuyền, tại đỉnh Bokor còn rất nhiều địa chỉ mang tên thuần Việt như điện Minh Châu, điện Bình Thiên, điện Bàn Ngự, điện Tứ Giao… Đó là dấu tích của những người Việt xưa tu luyện phép thuật nơi này. Ngày nay, những cái tên đó đều được người bản địa "Kh'mer hóa" thành Mik Clau (Minh Châu), Bin Thi (Bình Thiên).
Cho đến tận bây giờ, người Kh'mer vẫn tin rằng, những "lục tà" người Việt có công khai mở thánh địa phép thuật vẫn còn "trụ trì trong không gian". Còn các pháp sư khu vực Đông Nam Á vẫn chọn nơi đây làm "trường thi tốt nghiệp" hàng năm. Đối với giới pháp sư, ngoài chuyện Tà Lơn là nơi có dấu tích những bậc Phật, thánh đạt chánh quả, còn có yếu tố "chính huyệt" của khu vực Đông Nam Á. Họ cho rằng, nơi đây là điểm tập trung linh khí trời đất nên con người dễ hấp thu đầy đủ tinh, khí, thần của vũ trụ. Vì những yếu tố đó, các sư phụ luôn đưa đệ tử lên đây để kiểm tra khả năng tu luyện. Nếu vượt qua được kỳ vặt sa, kể như đạt cấp đại sư, đủ trình độ làm thầy. Với những người đạt bậc đại sư cũng đến đây để tôi luyện một món "đồ" (Bảo bối có ẩn chứa phép thuật) hoặc nâng cấp một tuyệt kỹ phép thuật nào đó.
Vượt qua con suối, trước mặt tôi hiện ra một bãi đá rộng đến hút tầm mắt. Bãi đá mang nhiều hình thù quái dị chen lẫn với những loài cây cỏ dại. Hàng ngàn khối đá đa hình thù xếp chồng lên nhau tạo thành những cái am thiên nhiên lý tưởng và yên tịnh.
Dù đang giữa trưa, mặt trời đứng bóng nhưng ánh nắng rất dịu mát. Thỉnh thoảng, một làn mây xám bao phủ khiến cảnh vật trời đất trở nên âm u huyền bí. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào cảnh thượng giới. Tôi đi sâu vào bãi đá khoảng 1.000 mét. Ẩn dưới những khối đá, hàng hàng lớp lớp hang động sâu hút. Rất nhiều hang có dấu tích con người. Trước cửa một số hang ai đó đã đặt một bát nhang. Ông Chín "thầy pháp" đã từng kể cho tôi nghe chuyện một số pháp sư đến đây luyện phép và chết luôn trong hang. Với trường hợp như vậy, các pháp sư cho rằng, người chết đã đạt chánh quả và được phong thánh. Tuy nhiên, do không để lại tên tuổi nên các pháp sư đến sau gọi chung những "vị thánh" này theo tiếng Kh'mer là "tà phnum", có nghĩa là thần núi.
Lấy can đảm, tôi thử chui xuống một hang có bát nhang. Cửa hang hẹp vừa vặn thân người nên bên dưới hang tối đen như mực. Chân tôi chạm một phiến đá phẳng khoảng 1m2. Qua ánh đèn pin, tôi thấy trên phiến đá vẫn còn sót lại vài mẩu ngải khô, vài mẫu vải mục đã biến màu. Bên cạnh phiến đá còn có một khe đá sâu hun hút. Không mang theo dụng cụ leo núi, tôi đành bỏ cuộc rời khỏi hang. Tôi tiến thật sâu vào "kham maya kul",  đến tận mép một thung lũng sâu hun hút. Xuống đến lưng chừng thung lũng, trước mặt tôi là một quần thể hang động đầy vết tích con người: Chân nhang, tàn thuốc lá, chai nhựa, giấy vàng mã, tiền âm phủ vương vãi khắp nơi giống như vừa trải qua một đám tang tập thể. Bãi kham này bên ngoài dành cho những pháp sư mới đến luyện phép lần đầu. Ở đây chỉ có những pháp sư cao tay ấn luyện. Yếu nghề lò mò vào đây mà không có sư phụ đi kèm, ngồi 1 giờ là hồn xiêu phách lạc, bỏ chạy ngay. Đã từng có người chịu không nổi âm khí bị điên luôn .Từ một cửa hang nhìn ra ngoài, kẻ không tin tâm linh cũng sởn gai ốc chứ đừng nói đến những người tín ngưỡng tà thuật. Vực thẳm sâu hun hút, vách núi dựng đứng, Thỉnh thoảng mây từ dưới thấp dâng lên bao trùm khiến không gian tối sầm. Gió len vào khe đá tạo thành âm thanh như ma rên, quỉ khóc… Nếu tịnh tâm không tốt, không điên mới là lạ.Tôi xòe hai bàn tay ra trước mặt rồi cong ngón cái và ngón giữa lại như sắp búng lỗ mũi ai đó trong khoảng không, miệng hô chú thật lớn. Âm thanh vọng xuống thung lũng dội lên như phát ra từ cõi vô hình: "An xáng bang da màm a căm căm ú bà da da ba xa to bà ti ka rit xà mì..ì..ì"



Điện Minh Châu.
Điện Bình Thiên.
Chúng tôi dừng lại Điện Bình Thiên (nay đã bị tàn phá chỉ còn lại dấu tích cái mái) thắp nhang . Ở Bình Thiên chúng tôi phải băng qua hai con suối trong đó tôi đã suýt bị một con suối nước lớn cuốn trôi may mà người kéo lên.
Điện Bàn Ngự.

Chúng tôi lần lượt dừng lại kỉnh lễ nơi Điện Bàng Ngự (hai cột đá có hình như cái trụ), dừng chân quan sát Ruộng Năm Dây (những hòn đá màu đen to ước nặng hàng tấn ở đây có hình như chiếc bánh xu, xếp thành năm hàng, khi Đức Thầy – Đức Huỳnh Giáo Chủ đi ngang đây đã đặt cho nó cái tên là đàn năm dây).
Điện Tứ Giao.

Điện Tứ Giao (nơi ông Cả – Thân sinh của Đức Huỳnh Giáo Chủ tu tập và NGỘ đạo) . Tứ Giao Điện là một tảng đá tự nhiên rất lớn bằng phẳng được chống bởi các hòn đá tự nhiên khác tạo thành một cái động đá có 4 cửa ra vào. Nơi đây là chỗ tu tập của ông Trịnh Công Hương ( Bửu Sơn Kỳ Hương) và bà Trúc Lâm Nương tu tập ngày xưa.

Điện Lan Thiên.
Khung cảnh trước mắt chúng tôi hiện ra mỗi lúc một đẹp của Điện Lan Thiên. Chỉ có thể là một nhà văn giỏi mới có thể tả hết được cảnh đẹp ở đây. Rất tiếc tôi là một người dở văn chương nên chỉ có thể “chép” lại bức tranh thần tiên này bằng ngôn ngữ sơ sài mong bạn đọc thông cảm. Thật vậy, đó là một “bình nguyên” đá bằng phẳng màu đen có, bảy màu có, có rất nhiều những tảng đá to nặng hàng tấn hình con cá sấu, chim, trâu, qui, rồng… tha hồ cho tâm mơ của bạn vẽ thú trong một rừng cây kiểng các loại, chả thế mà Ngài Cử Đa trước kia có để lại trong cuốn “giảng Tà Lơn” của mình là:
“LAN THIÊN một kiểng chép chơi.
Non cao đảnh thượng thảnh thơi vô cùng:
Hiu hiu gió thổi đùng đùng,
Phất phơ liễu yếu lạnh lùng tòng mai,
Mùa xuân tới kiểng lầu đài,
Tháng giêng mùng chín thi tài hùng anh,
Tứ vi mây phủ nhiễu đoanh,
Bồng lai một cảnh hữu danh tư bề”.
Có một quần thể 36 mộ người Việt đã "hóa thánh" tại đỉnh núi linh thiêng này là 36 ngôi mộ bí ẩn.
36 ngôi mộ nằm thành 3 cụm riêng biệt nhưng gần nhau. Cụm trong cùng nằm lưng chừng thung lũng có 4 ngôi mộ nằm thành 2 lớp. Lớp trong, sát vách đá có 1 ngôi mộ, phía ngoài là 3 ngôi mộ. Cách đó không xa là một cửa động, trên vách đá có chạm một hàng chữ Hán "Động Kim Quang".
Những người theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở An Giang đều khẳng định đó là mộ Vua… Hàm Nghi và 3 tướng cận vệ. Họ truyền miệng nhau rằng, khi Pháp xâm lược Việt Nam, Vua Hàm Nghi thật không bị Pháp bắt đày đi Algerie. Người bị bắt là một Hàm Nghi giả. Vua Hàm Nghi thật đã lẩn trốn về vùng Thất Sơn (An Giang) gặp Cử Đa. Ông Cử Đa đã đưa Vua Hàm Nghi sang Tà Lơn ẩn trú và chết tại đây. Tại ngôi chùa Phi Lai - Là nơi khai mở đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa - các tín đồ dành hẳn một bàn thờ trang trọng có đặt di ảnh Vua Hàm Nghi. Họ không căn cứ vào bất kỳ tài liệu lịch sử nào mà chỉ dựa vào lời tiên tri qua thơ của Đức Bổn sư Ngô Tự Lợi, Cử Đa và những… giấc mơ.Tiêng tôi , tôi nghĩ rằng, đó là ngôi mộ của những thành viên hội kín Phan Xích Long".
Căn cứ vào sử liệu, năm 1912, Phan Xích Long (tức Phan Phát Sanh) tự xưng là Đông cung Thái tử, con trai Vua Hàm Nghi. Ông tự tôn mình làm "hoàng đế", khởi nghiệp kháng Pháp bằng cách lập hội kín. Trước đó, Phan Xích Long đã từng sang Tà Lơn luyện bùa phép. Những pháp sư Kh'mer gọi động Kim Quang là "khăm Lơn", gọi núi Bokor là "Tà Lơn", tức ông Tà Thần tên Lơn. Có thể họ đã gọi tên ngọn núi theo tên "Long" thành "Lơn".
Phan Xích Long đã dùng tín ngưỡng và bùa chú để thu hút thành viên hội kín (Theo tập 2, sách “Đại cương Lịch sử Việt Nam”). Một trong những phó tướng của Phan Xích Long có người tên Nguyễn Hữu Trí (quê Cần Giuộc, Long An bây giờ) đã lấy Tà Lơn làm đại bản doanh chỉ huy hội viên gài bom, tấn công chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của Pháp tại Sài Gòn, Chợ Lớn vào đêm 23, rạng sáng 24/3/1913. Pháp phát hiện và truy lùng. Kế hoạch tấn công bị bại lộ, Phan Xích Long, Nguyễn Hữu Trí cùng các hội viên đào tẩu.
Nguyễn Hữu Trí chạy thoát. Phan Xích Long chạy ra Phan Thiết và bị bắt ở đó. Pháp đem Phan Xích Long về giam ở Khám lớn Sài Gòn cùng với 57 hội viên.
Năm 1916, nhân Pháp bại trận trong Thế chiến I, khoảng 300 hội viên của các hội kín ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Cần Giuộc, Cần Đước... cùng bí mật phá tù cứu Phan Xích Long. Nguyễn Hữu Trí chọn núi Cấm làm bản doanh bàn kế hoạch giải cứu "hoàng đế". Đêm 14 rạng ngày 15/2/1916, với khẩu hiệu "Cứu Đại ca" (tức Phan Xích Long), Nguyễn Hữu Trí chỉ huy hàng trăm hội viên ẩn mình trong những chiếc tàu buôn đậu trên sông cầu Ông Lãnh đồng loạt tấn công dinh Thống đốc và Khám Lớn. Họ đeo bùa chú, tay cầm binh khí thô sơ chia làm ba nhóm xông lên. Cuộc giải cứu thất bại, Nguyễn Hữu Trí tử trận. Một số hội viên kịp cướp xác Nguyễn Hữu Trí đào thoát.
Ngày 22/2/1916, thủ lĩnh Phan Xích Long cùng một số nghĩa sĩ bị Pháp tử hình tại Đồng Tập Trận. Sau đó, các đệ tử của ông bí mật đào mộ cướp xác đưa đi mất.
Họ đã đem thi thể Phan Xích Long và Nguyễn Hữu Trí sang núi Tà Lơn an táng tại động Kim Quang. Tướng cướp Đơn Hùng Tín một thời ngang dọc khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thời kháng Pháp là một trong những đệ tử thân tín của Phan Xích Long.
Chúng tôi tiếp tục khám phá những ngôi mộ còn lại. Hai cụm mộ còn lại gồm 32 cái nằm rải rác bên ngoài. Những ngôi mộ này là của những người thế hệ sau Phan Xích Long đến đây tu luyện rồi "hóa thánh".
Tất cả các ngôi mộ đều phủ những phiến đá đánh dấu. Có một ngôi mộ chất đá rất sơ sài không bia mộ.Vào khoảng năm 1970, những người luyện phép đến đây đã phát hiện một bộ xương khô vẫn còn ngồi trong tư thế thiền. Họ để nguyên tư thế của người chết rồi phủ đá lên.
Trong số 36 ngôi mộ chỉ có một vài ngôi được dựng bia khắc chữ. Có lẽ đó là mộ của những người giữ miếu, giữ am nên người ta biết rõ danh tính. Một ngôi mộ có đề bia: "Năm 1942 phựng ưu bà di Nguyễn Thị Quan, pháp danh Như Cẩm Nhứt, Vị giác linh. Hạn: Nhâm Ngọ Niên, cửu nguyệt, nhị thập nhất". Số còn lại, chết trong các hang đá, không danh tính nên những người đến sau chôn cất phủ đá đánh dấu.

Ở một số hang đá dưới sâu tận cùng đáy vực vẫn còn chứa một số xương cốt người tu luyện chết rũ không được chôn cất, không được nhang khói. Để leo đến đó phải mất hơn 20 giờ đồng hồ. Thời gian không cho phép tôi tiếp tục thám hiểm.

Người ta tiếp tục đưa cái xác tôi tới Nghĩa trang Văn Điển và làm thủ tục hỏa thiêu cái thân xác cứng đờ , nát bấy . Giờ đây , tôi đang nằm chờ tới lúc họ đưa tôi vào lò điện.
Xin theo dõi tiếp CHƯƠNG 5. dienbatn.
Xem chi tiết…

CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 3 ( Tiếp theo ).

9/06/2018 |
CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 3 ( Tiếp theo ).

CHƯƠNG 3 . DUYÊN NỢ ĐỜI TÔI VỚI SƠN LA – TÂY BẮC. ( Tiếp theo ).
Buổi sáng trên miền Tây Bắc thật trong trẻo và thuần khiết . Những giọt sương lung linh trên những tán lá rừng. Người ta lùa từng đàn trâu béo tròn lên trên nương , chiều chúng sẽ tự về bản. Những thiếu nữ Thái ra mó gùi nước về bằng những cái ống bương dài đến gần 2 m. Tiếng kẽo kẹt của những chiếc cọn quay nước ngoài suối hòa cùng tiếng suối reo vang như những cung đàn tình tứ . Tiếng cười đùa rúc rích như những đàn chim sẻ trên con đường mấp mô đất đỏ. Từ phía trên núi cao đã vẳng lại tiếng hát của một cô gái bằng tiếng dân tộc Thái , chúng tôi nghe chẳng hiểu gì cả chỉ thấy Hà ơi , hà ơi…Tôi gọi thằng Hà ở phố Hàng Bông : Hà ơi , tối qua mày làm gì để sáng nay người ta đã kêu tên trên núi kìa. Tất cả chúng tôi cùng cười vang mặc thằng Hà xấu hổ đỏ mặt tía tai.
Những chiếc Zil 130 lại tiếp tục chuyển bánh . Ngồi trên những chiếc xe sóc nhẩy chồm chồm làm chúng tôi khá mệt . Những địa danh thoáng qua với những bản Thái đã bắt đầu quen mắt : Mộc Châu , Yên Châu với cây cầu sắt bắc ngang qua suối , Đèo Chiềng Đông ,Cò Nòi , Hát Lót ….
Gần cuối ngày chúng tôi mới đến Nà Sản là nơi đóng quân của chúng tôi . Mệt mỏi và người đầy bụi đỏ , chúng tôi theo từng Đại đội về nơi đóng quân của đơn vị mình .
Cao nguyên Nà Sản là một trong hai cao nguyên lớn thuộc tỉnh Sơn La, trên địa bàn rộng khoảng hơn 20km2 thuộc các xã Chiềng Mung, Hát Lót, Chiềng Mai, Mường Bon. Có độ cao trung bình 600 - 700m, có địa hình tương đối bằng phẳng, rộng, đồi núi thấp.
Sân bay Nà Sản được người Pháp xây dựng vào khoảng năm 1950, phục vụ cho nhu cầu đi lại của những người thực dân Pháp, sau khi họ chiếm lại được quyền kiểm soát được vùng Sơn La từ tay Việt Minh. Ban đầu, sân bay có một đường băng ngắn với nền đất nện; về sau được mở rộng kéo dài thêm và có nền lát ghi sắt, có thể đáp ứng cho loại máy bay Dakota cất và hạ cánh. Bấy giờ vẫn có những chuyến bay từ Hà Nôi lên đây 1 tuần 2 chuyến bằng loại máy bay nhỏ.
Trung đoàn bộ đóng gần một cái mó nước , nước từ lòng đất trong vắt cứ chảy ra liên tục suốt ngày đêm. Tôi được phân công về trung đội 12 ly 7 , đóng trên một quả đồi cao gần trung đoàn bộ , nhìn thẳng ra sân bay Nà Sản.
Cái lán là nơi ở của chúng tôi làm bằng những thân cây to bằng bắp đùi , được liên kết với nhau bằng dây rừng và đinh , trên lợp bằng những tấm tranh màu vàng óng. Giường ngủ là hai dãy cũng làm bằng thân cây và lát bằng những cây vầu đập dập và dát phẳng . Nền nhà vẫn còn đầy những búi cỏ tranh chỉ mới được phát qua loa. May mắn thay là khu này đã có điện nên cũng có chút tươm tất .
Buổi tối tới giờ kẻng ăn cơm , chúng tôi xếp hàng đến nhà ăn , cứ 7 người được 1 soong nhôm cơm nấu bằng gạo dẻo , một soong canh và một nắp cà mèn thịt hộp lõng bõng những nước. Thứ gạo dẻo này dễ ăn , nhất là dưới nước thịt hộp vào . Chỉ tội là cơm quá ít , sức thanh niên chúng tôi mội người chỉ được hơn 1 bát thì đói vẫn hoàn đói.
Chúng tôi được nghỉ 1 tuần để học nội quy , học 10 lời thề của QDND ,làm vệ sinh nhà cửa và làm quen với thung thổ nới đây.
Lúc bấy giờ Nà Sản chỉ là một nơi vô cùng hoang vắng và hầu như không có dân. Hai bên đường đất đỏ toàn là những bụi cây chó đẻ và cỏ tranh um tùm . Cả Nà Sản chỉ có 1 Cửa hàng ăn uống của cô Hải , 1 nhà Bưu điện , còn bốn xung quanh là những lán trại của trung đoàn 184 của chúng tôi .


 Phía bên kia đường là khu sân bay Nà Sản chỉ có mỗi cái Đài không lưu thấp tè và cũng là nhà ga cho hành khách. Cổng vào chỉ là những hàng cây và có cái barie chắn ngang. Trâu bò của người Thái ở các bản làng phía trong vẫn được chăn thả tự do.
Trận địa 12 ly 7 của chúng tôi đóng trên đồi cao . Từ đây có thể nhìn khắp sân bay , khu doanh trại và ra tít hồ Tiền Phong phía xa. Hồ Tiền Phong thuộc Xã Mường Bon, Huyện Mai Sơn, nằm sát trục đường quốc lộ 6 cách Thị xã Sơn La 23 km, cách Thị trấn Hát Lót 7 km và cách sân bay Nà Sản 2 km. Nguồn nước cung cấp cho Hồ đó là nước từ trong lòng đất đùn lên từ mỏ nước Noong Đủ cách đó không xa. Phía Đông và phía Bắc của Hồ là hai dãy núi, mỗi dãy gồm nhiều ngọn nằm kế tiếp nhau trông tựa hai con rồng đang bơi về từ hai phía và chuẩn bị ngụp lặn vùng vẫy giữa làn nước trong mát. Nhìn về phía Tây là Cao nguyên Na Sản trải rộng bao la với vô số các ngọn núi nhấp nhô như bát úp, với màu xanh ngút ngàn của những cây rừng , màu non xanh mơn mởn của những đồi chè đang kỳ thu hoạch.Giữa hồ là một hòn đảo hình con rùa cây cối xanh rì lúc nào cũng mát rượi bởi những ngọn gió mang đầy hơi nước từ mặt hồ..
Ngay bên bờ hồ Tiền phong là một nông trường chè và một nhà máy gạch . Những cô công nhân ở đây đa phần là những TNXP từ các chiến trường được ra quân và về tập trung nơi đây làm kinh tế. Hầu hết các cô đều quá lứa và chưa chồng. Do vậy lãnh đạo nông trường rất quan tâm , chú ý đến chuyện hạnh phúc của các cô. Mỗi cô được phân 1 gian phòng , có giường chiếu , chăn con công , phíc nước , nồi niêu soong chảo . Đó là những cái tổ làm sẵn chờ những chú thanh niên lọt vào. Mà ở đây chỉ có những đơn vị bộ đội trung đoàn chúng tôi . Thật nguy hiểm và khá là ngọt ngào . Lũ chúng tôi thường trêu nhau : nếu lấy vợ ở đây sẽ được cấp cho 1 quả đồi hoang và 1 con trâu què. Cũng may là thời đó , lũ học sinh lớp 10 chúng tôi đều như những chú gà tồ vừa thả ra khỏi chuồng , rất ngu ngơ với chuyện yêu đương , tán tỉnh. Chỉ có những anh ở Huyện Đông Anh nhập ngũ cùng chúng tôi là tuổi tác lớn hơn , từng trải nhiều hơn và cũng …sa bẫy nhiều hơn.
Hàng ngày , chúng tôi liên tục phải học về loại vũ khí mà mình được sử dụng . Tôi học tháo lắp và điều khiển khẩu 12 ly 7 to kềnh càng , nặng kinh khủng. Bọn thằng Hùng , thằng Quang trâu đất , thằng Hiệp, thằng Ly xôi ở Đại đội 3 gần bên cạnh thấy chúng suốt ngày tháo lắp lau chùi những khẩu súng nhỏ hơn như CKC , AK 47 , RPD , RPK , B40 , B41…
Chúng tôi tuy súng nặng nhưng không cực khổ như bọn nó. Hàng ngày chỉ lên đồi , ngồi tập sử dụng súng ở 1 chỗ . Còn bọn nó tôi thấy vài bữa lại hành quân dã ngoại , ba lô , súng ống , nồi niêu soong chảo lỉnh kỉnh. Chúng nó đi thành hàng dài vào tuốt những bản phía trong như Nà Si , Nà ớt , Chiềng Mung…nhiều khi phải vào tân Mường Bon…
Ngày chủ nhật được nghỉ. Nhưng trung đội trưởng vẫn khoán cho chúng tôi phải nộp mỗi người 1 khúc cây làm cột dài 2 m có đường kính 20 cm. Để có thể được đi chơi , chúng tôi tranh thủ từ sáng sớm lên quả đồi cao phía sau lán để chặt và lao xuống rồi khênh về trại .
Có những chủ nhật , để có phân bón cho những luống rau chúng tôi tự tăng gia sản xuất , anh tiểu đội trưởng phân công cho chúng tôi đi kiếm phân trâu bò về bón rau. Ngay chiều ấy , một bài thơ lạ lùng truyền tay nhau khắp đơn vị , tả lại cảnh đó “
Hai thằng gánh một cái thùng,
Lang thang đi khắp một vùng kiếm phân.
Quản ghì danh dự quân nhân,
Miễn đầy thùng cứt , yên thân suốt ngày …”
Những ngày chủ nhật , chúng tôi thường ra cửa hàng ăn uống của cô Hải để ăn phở và trêu chọc cô. Ngày đó phở là những lát bánh tráng bằng bột ngô vàng óng , lèo tèo 1 ,2 miếng thịt lợn mỏng dính , chan lên nước dùng chỉ có tý mì chính trong vắt . Vậy mà bán chạy vô kể. Cô Hải thoăn thoắt bê cái mâm trên bày đũa và những bát phở ngô đem ra bàn. Mấy cậu lớn tuổi người Đông Anh hay trêu cô bằng cách chặn cô lại rồi nhón mấy miếng thịt bỏ vào miệng. Cô Hải hai tay đều bận cả không làm gì được kêu la oai oái . Có cậu còn táo tợn vỗ vào mông cô làm cô chửi ầm lên. Tất cả cùng cười khoái trá. Chỉ riêng lũ nội thành chúng tôi thì ngượng đỏ mặt .
Cô Hải cũng hay dậy chúng tôi những câu tiếng Thái mà sau này chúng tôi mới biết cô chơi khăm chúng tôi nên dạy rất bậy . “ Pay kin hi là đi rừng rậm . Kin nậm neo là trèo lên dốc “. Cứ thế chúng tôi đọc oang oang và vào bản cũng nói như vậy. Lúc đó tiểu đội trưởng của tôi là anh Lò Văn Ộ , người Thái mới bảo chúng tôi: Cái Hải nó chơi chúng mày đấy. Sau đó anh giảng nghĩa cho chúng tôi làm chúng tôi xấu hổ quá.
Những chủ nhật sau , đi chơi xa , chúng tôi lên tận Hát Lót cách đó 10 km chơi. Hát Lót lúc đó cũng vô cùng vắng vẻ . Cả Hát Lót chỉ có 1 xưởng dệt , công nhân đa phần là người Thái ngay bên cạnh chiếc cầu treo bằng dây cáp , một tiệm hớt tóc và 1 tiệm chụp ảnh. Chúng tôi hay vào Bản Dôm mua gà , mua măng khô về cải thiện. Hồi đó lính binh nhì như chúng tôi lương chỉ có 5 đồng – Chúng tôi hay bị gọi là lính 5 đồng. Điều kiện kinh tế lúc bấy giờ toàn vùng vô cùng khó khăn. Chúng tôi hay thay đổi nhau mang áo mưa , áo K 74 vào bản để đổi hàng , đa phần là gà , rượu hay mật ong rừng. Người dân tộc Thái ở vùng này sống rất cởi mở và chân chất lắm. Ngoài đầu bản còn có những cái lều dựng sơ sài , trong đó xếp những cái ếp đựng hoa quả , sắn , ngô hay rau bán theo kiểu tự giác. Người ta ghi giá lên từng món hàng , ai ưng gì thì nhặt về và bỏ tiền vào một cái ếp treo trên vách. Chẳng bao giờ mất cả. Sau này người Kinh lên đông , cùng một số cậu lính làm bậy ,lấy cả hàng lẫn tiền của họ nên những cái lán này mất dần.
Chúng tôi cũng hay vào trường Cao đẳng Nông Lâm ở Mường Bon chơi. Thằng Hiệp có 1 bà chị dạy ở đây. Vào thăm chị, chúng tôi thường được đãi món gà nướng hay cá nướng theo kiểu người Thái rất ngon.
Sau 6 tháng huấn luyện , chúng tôi được thông báo đơn vị sẽ chuyển chỗ đóng quân. Kì này chúng tôi sẽ lên Thuận Châu để nhận nhiệm vụ mới.
…………………………

Người ta đã đưa cái xác tôi lên xe về Nhà thờ Lớn . Chiếc xe chầm chậm đưa tôi qua các phố đông đúc của Hà Nội và về đến khu phố tôi . Chiếc quan tài được khênh vào cửa lớn của Nhà thờ và các Cha làm lễ cho tôi. Việc cử hành tang lễ Kitô giáo mang lại niềm hy vọng và an ủi cho người còn sống. Khi loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô và làm chứng cho niềm hy vọng phục sinh Kitô giáo, các nghi thức tang lễ cũng nhắc cho tất cả những người tham dự nhớ đến lòng thương xót và sự phán xét của Thiên Chúa, đồng thời đáp ứng nhu cầu của con người luôn hướng về Thiên Chúa những khi gặp khủng hoảng.Thánh lễ An táng là phần phụng vụ chính của tang lễ Kitô giáo. Thánh lễ An táng, do linh mục chủ sự, diễn ra tại nhà thờ giáo xứ, thường vào ngày an táng. Phụng vụ Thánh Thể, đối với người Công giáo, là một phần của Thánh lễ. Đức Cha nói : “ Anh chị em thân mến,
Giờ đây cộng đoàn chúng ta khởi sự nghi thức tẩm liệm.  Chúng ta thành khẩn cầu nguyện cho Gioan mới qua đời.  Xin Chúa ban thưởng cho Gioan sau khi kết thúc cuộc đời trần thế, được về quê vui hưởng cuộc sống đời đời.  Vì chúng ta tin chắc rằng sự chết chưa phải là kết thúc tất cả, nhưng là cửa ngõ tiến vào sự sống đời đời.
Đối với những người tin vào Chúa Kitô, sự sống chỉ biến đổi chứ không bị tiêu tan.  Gioan đã được chịu phép Rửa, đã khởi sự đời sống vĩnh hằng ngay khi còn sống ở trần gian này.  Chúng ta cầu nguyện cho Gioan, hy vọng Gioan được hưởng vinh quang Phục Sinh với Đức Kitô.”
Sau đó dàn đồng ca hát lên bài Thánh ca cầu Hồn : “ Lạy Cha con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha….Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi . Giống con người nằm yên giấc ngủ . Mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai . Trọn kiếp người , nay không còn nước mắt nụ cười …Sự sống không mất mà chỉ đổi thay , đã qua bao lần đưa tiễn ngậm ngùi , con tin vào ngày mai trong Chúa .
… Sự sống không mất chỉ là đổi thay, đã qua bao ngày trọn một kiếp này ,dù sống hay chết vẫn tin còn ngày mai trong Chúa , hạnh phúc muôn đời chẳng có thời gian. Trọn kiếp này ai chưa được sự sống trọn tình , mai kia sẽ được Phục sinh trong Chúa, cuộc sống muôn đời , cuộc sống niềm tin…”.
Thưa anh chị em,
Đứng trước thi hài người quá cố, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để đức Tin, đức Cậy và lòng Mến của chúng ta luôn luôn được nuôi dưỡng và củng cố.
Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Roma. (Rm 6, 8-9)
Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người.  Đó là niềm tin của chúng ta.  Vì chúng ta biết rằng một khi Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, tử thần chẳng còn quyền chi đối với Người.
Đó là lời Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã biểu lộ tình thương mãnh liệt khi cho Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô xuống thế chịu khổ hình thập giá vì chúng con.  Giờ đây chúng con cậy vào lòng nhân từ và quyền năng của Chúa mà xin cho người anh em tín hữu chúng con là Gioan được chia sẻ vinh quang với Đức Giêsu Kitô, Đấng đánh bại thần chết, và xin cho Gioan được tham dự vào đời sống phục sinh của Người đến muôn thưở muôn đời.
Sau lễ Nhà thờ , tôi được đưa về qua nhà vợ con tôi rồi đưa xuống nhà hóa thân Hoàn vũ tại Văn Điển.
CHƯƠNG 4. ĐƯỜNG TỚI TÀ LƠN.
Xin theo dõi tiếp. dienbatn. 
Xem chi tiết…

CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 3.

9/05/2018 |
CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 3.



CHƯƠNG 3 . DUYÊN NỢ ĐỜI TÔI VỚI SƠN LA – TÂY BẮC.
Thần thức tôi chợt bừng tỉnh. Tôi thấy một đức Cha của Nhà Thờ lớn Hà Nội đang đọc kinh cầu nguyện cho tôi. Nhà Tang lễ Phùng Hưng bữa nay vẫn đông như mọi ngày. Tôi đã nhiều lần đến đây để chia tay những người thân , anh em , bạn bè. Tiếng Đức Cha sang sảng vang vọng khắp gian phòng nơi người ta đang tẩm liệm xác của tôi :
“ Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con, chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen…
…Anh chị em thân mến: “Tất cả chúng ta đã chịu phép Rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép Rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người trong sự sống lại giống như vậy. Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị hủy đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giả thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ Người được nữa”.
Đó Là Lời Chúa – Tạ Ơn Chúa….
…Khi ấy Mát ta thưa với Chúa Giê Su rằng:" Thưa Thây nếu đã có thầy ở đây thì em con không chết! Nhưng ngay lúc nầy con vẫn biết là bất cứ điều gì Thầy xin với Chúa Cha thì Ngài sẽ ban cho Thầy" Chúa Giê su bảo bà ấy " Em con sẽ sống lại " Mat ta thưa:" Con biết nó sẽ sống lại trong thời sống lại ngày sau hết " Chúa Giêsu nói với Mát ta " Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta thì dầu chết cũng sẽ sống, và mọi kẻ sống mà tin vào ta thì không phải chết bao giờ. Con có tin như thế không? Mát ta thưa, Vâng thưa Thầy, con tin Thầy là Đức ki tô, con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian.
Đó là lời Chúa -Lạy Đức Ki tô ngợi khen Chúa….
…Này tang tóc gieo ưu sầu ảm đạm - Con nhìn Ngài mà lòng những xôn xao, ôi Giêsu nguồn hy vọng dạt dào, Chúa chính là phục sinh, là sự sống.
Xưa Ngài củng trải qua cơn dao động, từng băn khoăn đau đớn bởi tử thần, rồi gục đầu trước thánh phụ từ nhân -Mà kính cẩn trao dâng nguồn sinh khí.
Tật nguyền của chúng con Ngài chia sẻ- Ôi tấm lòng mục tử lớn lao thay, muốn chúng con cùng đau khổ với Ngài -Cùng an nghỉ ngay trong lòng thánh phụ.
Trên thập giá đôi tay Ngài rộng mở, như đón chờ để ấp ủ vào tim, hết những ai vì bệnh hoạn ưu phiền, còn khoắc khoải chưa yên mà nhắm mắt.
Ngài phá vở cửa âm ty-ngục thất đầy chiến công lên mở nước trời, nỗi sầu này xin cho đỗi niềm vui - và chết đoạn được trường sinh vĩnh cửu.
Mong toàn thể người thân yêu, bạn hữu, đã ly trần nay nghĩ giấc bình an, được Ngài cho hưởng phước thiên đàng, hầu ca tụng tán dương Ngài muôn thuở.
Sáng Danh Chúa Cha và Chúa con, cùng sáng danh Thánh Thần Thiên Chúa, tự muôn đời như chính hiện nay và luôn mãi thiên thu vạn đại Amen. “
Thần thức tôi bay một vòng xung quanh nhà tang lễ. Ở kia , vợ con và các em tôi mang trên mình những tấm áo , khăn xô trắng , đứng thành một hàng phía bên phải chiếc áo quan mà cái xác tôi đang nằm trong đó.
Ở một góc nhà tang lễ , những huynh đệ trong Đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa vô vi của tôi đang chuẩn bị vào đọc kinh cầu siêu cho tôi. Lẽ ra họ có kế hoạch làm việc này khi khâm liệm cho tôi , nhưng vì gia đình xếp trùng lịch với bên Nhà thờ nên họ chỉ còn có khoảng 15 phút làm nghi lễ cầu siêu cho tôi theo bên Mật Tông. Khi Đức Cha vừa rời đi , những huynh đệ trong Đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa vô vi
Xếp thành một hàng bên linh cữu của tôi và bắt đầu đọc chú Mật Tông.
Dầu tiên họ đọc lời nguyên của Phật Bà Quán Thế Âm Bồ tát và cũng là lời nguyện của Đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa vô vi “
“ LỜI NGUYỆN
Con không xin vào Niết Bàn - Mà nguyện hướng về địa ngục - Cầu cho lửa ngục hóa sen vàng.
Con không xin vào cõi Phật - Mà nguyện hướng về đao san - Cầu cho gươm giáo hóa đạo tràng.
Con không xin vào Tịnh quốc - Mà nguyện làm chiếc đò ngang - Ngày đêm chở hết nỗi trái oan.
Tâm như đại hải - Tâm như kiều thuyền - Con nguyền ở lại - Cõi Ta Bà lửa ngút máu oan khiên - Trải tình thương lót khắp nẻo ưu phiền. - Địa ngục xuống lên - Luân hồi qua lại - Quán kỳ âm thanh con nguyền tự tại
Xem tiếng kêu mà phiền não độ qua - Bao giờ địa ngục còn ma - Muỗi mòng còn khổ - Ta Bà còn Quán Âm! “.
Sau đó là nghi quỹ trước khi trì chú và những bài chú : Lục Tự Đại Minh, Tỳ Lô Giá Na , Chú Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai , Tâm chú Thủ Lăng Nghiêm và cuối cùng là chú Thiên chuyên Gia trì .
Cuối đàn lễ , họ hồi hướng :
“ Nguyện đem công đức này hướng về mười phương Pháp giới Chúng sinh , thân tâm thường an lạc, bệnh tật , tai nạn đều tiêu trừ , mọi sở cầu đều được như ý , tất cả mọi nghiệp chướng , phiền não chướng , sở tri chướng đều tiêu trừ , thành tựu vô lượng giải thóat môn Tam Muội . Ngộ nhập Phật Tri Kiến và tốc chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đảng Chánh Giác .
 Nguyện hồi hướng về các chư vị Thiên Long Thần , bát Bộ  Hộ Pháp phước huệ Thăng Long hào quang viên đắc , thân tâm thường an lạc thành tựu Đại nguyện hộ trì Pháp Chánh chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề .
 Nguyện cho Cửu Huyền Thất Tổ 7 đời nghiệp chướng , phiền não chướng , sở tri chướng tiêu trừ , tốc báo vãn sanh về Tịnh Độ mười phương chư Phật .
 Nguyện hồi hướng về Cha , mẹ , anh , chị , em , chồng ( vợ ) , bà con hai họ tâm thân thường an lạc , thành tựụ được sự nghiệp Thế gian , các nạn , ách bệnh tật tiêu trừ , phát Bồ Đề tâm hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Cháng Giác .
Hồi hướng Đạo hữu Liên hoa Thiên Huệ  mọi nghiệp chướng , phiền não chướng , sở tri chướng tiêu trừ , tốc báo vãn sanh về Tịnh Độ mười phương chư Phật .”
Sau cùng , mọi người đi xung quanh linh cữu tôi 3 vòng và tiếng chú Lục tự Đại Minh vang vọng , trầm hùng.
OM MANI PADME HUM……………………………… OM MANI PADME HUM……………….. OM MANI PADME HUM………………
Các huynh đệ trong Đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa vô vi lần lượt ra ngoài. Tôi nghe rõ tiếng thằng Bắc nói với các anh em : Anh Thiên Huệ kì này có tới 2 Passports của Nhà Thờ và của Đạo Phật rồi. Yên chí lớn.
Phía ngoài sân , lũ bạn cùng đi lính với tôi đang tụ tập ở một góc. Kìa là thằng Huy sứt , thằng Dũng , thằng Tuấn , thằng Ly xôi , thằng Tuân…những đứa bạn đã cùng tôi chinh chiến suốt dọc đường 6 từ Suối Rút , Cò Nòi , Hát Lót , Nà Sản lên tới Cửa khẩu Tây Trang rồi sang đến Phông Sa Lỳ , Huổi Phăn , Sầm nưa ,udonsay.....
Những chàng trai Hà Nội trẻ măng ngày ấy , giờ này đã thành những lão già tóc bạc da mồi. Lính Trung đoàn 184 chúng tôi ngày ấy , đã hơn 40 năm vẫn còn luôn sát cánh bên nhau . Năm nào cũng có một lần kỷ niệm ngày nhập ngũ.
Ngày ấy 500 tân binh của Quận Hoàn Kiếm và 500 tân binh của Huyện Đông Anh cùng nhập ngũ một ngày và về cùng trung đoàn 184 – Binh đoàn tình nguyện 678. Vì là lính của núi rừng Tây Bắc nên họ gọi nhau là lính Apache là tên gọi chung của một số nhóm thổ dân da đỏ Mỹ và Thủ lĩnh Tokai- lhto đang chiếu trong bộ phim "Những đứa con của gấu mẹ vĩ đại " rất được người Hà Nội bấy giờ hâm mộ. 
Khi đó tôi vừa được trúng tuyển vào Đại học Xây dựng . Hai tờ giấy gọi Đại học và giấy nhập ngũ cùng tới nhà trong 1 ngày. Bố mẹ tôi đều là nhà giáo nên rất chăm chút cho 4 anh em tôi ăn học đến nơi đến chốn. Sau này, cả 3 đứa em tôi cũng trúng tuyển vào Đại học.
Thần thức tôi chợt thấy mình ngồi trên chiếc xe Zil 130 đang gầm gừ nuốt những cung đường của Tây Bắc. Xung quanh tôi trên xe là những cậu học sinh vừa tốt nghiệp lớp 10 , mặt còn búng ra sữa. Đằng sau , đằng trước xe tôi là cả một đoàn dài những chiếc xe Zil 130 cũ kĩ , bám đầy bùn đất đang lao đi trên những cung đường nhỏ và đầy ổ gà của đường 6 cũ. Nhiều chỗ bị sạt lở chỉ vừa đủ cho 4 bánh xe bò rón rén đi qua. Dưới phía Tà luy âm , những vực sâu hun hút với tiếng nước suối chảy vang vọng.
Buổi sáng hôm nay , 500 học sinh vừa tốt nghiệp lớp 10 có lệnh gọi nhập ngũ , đã tập trung tại sân trường Đại học Ngoại ngữ - Hà Nội ( Lúc đó đang ở Thanh Xuân ). Cha mẹ tôi , những đứa em, những đứa bạn từ thủa nhỏ như cái Loan , cái Mai, cái Thu , cái Oanh , cái Nga, cái Lộc…bọn thằng Đông , thằng Huy kì này chưa nhập ngũ cũng ra tiễn chúng tôi. Trời Hà Nội trong xanh và mát dịu . Tôi nhìn thấy lũ con gái đứa nào mắt cũng đỏ hoe , tay cầm những chiếc khăn mùi xoa chấm vội nước mắt. Tiếng loa kêu vang đọc tên từng người chúng tôi và được mấy vị chỉ huy xếp vào thành từng trung đội. Chúng tôi lần lượt nhận những quân trang bao gồm ba lô , quần áo , dày dép , áo mưa …..và lần lượt được đưa lên những chiếc xe Zil 130 . Thằng Đông toét trèo vội lên xe đưa cho tôi một gói xôi xéo mà nó mới mua ở ngõ đầu phố Ấu Triệu. Ở ngõ này có bà bán xôi sáng đã mấy chục năm và luôn đắt hàng. Bà chỉ bán tới khoảng 8 giờ 30 là nghỉ . Vậy mà bán hết sạch cả một gánh xôi to tướng. Xôi của bà có xôi xéo , xôi lạc , xôi lúa , xôi đậu đen…Hai tay bà thoăn thoắt xúc xôi vào một chiến lá sen , thái từng lát đậu xanh đã làm thành từng quả bưởi vàng óng , dưới mỡ hành lên trên. Mùa Đông , cầm gói xôi trên tay , hương của sen , hương của gạo nếp , của đậu xanh , của mỡ hành bốc lên thơm phức , một cảm giác thanh tao của phố cổ không thể trộn lẫn mà tôi không bao giờ quên được .
Đoàn xe bắt đầu xuất phát. Bố mẹ tôi gan lỳ lắm mà giờ này mới ứa nước mắt vẫy chào chúng tôi. Mấy đứa bạn phóng vội lên những chiếc xe đạp đuổi theo đưa tiễn chúng tôi một đoạn. Đoàn xe nhằm hướng Hà Đông thẳng tiến. Ở trên xe, chúng tôi ngồi sát bên nhau trên 2 hàng ghế gỗ kê hai bên thùng xe và nhìn Hà Nội đang rộn ràng vào ngày lao động mới.


Những đỉnh núi cao xanh thẳm lần lượt hiện ra , những mái nhà sàn cũ kĩ hai bên đường với những tiếng mõ trâu lóc cóc dười sàn nhà , những cô gái người dân tộc Thái mặc váy đen và áo trắng bó sát ngực, ở giữa áo có một hàng bướm đuổi nhau bằng thiếc uyển chuyển đi trên đường . Sau lưng họ thường có đeo một cái giỏ đan bằng tre và một con dao quắm treo trên thắt lưng. Phía bên trái tôi là một dòng suối rất lớn chảy xuôi theo đường. Tiếng nước chảy ồ ồ nghe âm vang cả rừng núi. Thỉnh thoảng có một chiếc cầu treo nhỏ xíu bắc đung đưa qua suối và những cái cọn nước đang quay đưa nước lên những mảnh ruộng xanh rờn.
Đêm hôm đó , đơn vị tôi phải ngủ nhờ trên những nhà sàn tại một bản ở Suối Rút. Xe phải đậu ở ngoài đường 6 , chúng tôi đeo ba lô đi qua một cái cầu treo nhỏ xíu làm bằng những thân cây bương đập dập để vào bản. Đó đây tiếng trâu về chuồng , tiếng mõ lốc cốc vang trong chiều tà. Những mái nhà sàn với những làn khói bếp lan trong không gian . Nơi nào cũng có mùi phân và nước đái trâu khai mù.
Tôi đã đọc ở đâu đó viết về nhà sàn người Thái Tây Bắc như sau : “ Nhà sàn của người Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, hai đầu hồi - "tụp cống" khum khum như mai rùa, gắn với truyền thuyết về thuở khai thiên lập địa, thần rùa "Pua tấu” dạy cho người Thái biết cách làm nhà theo hình rùa đứng.
Người Thái có câu: "Khửn song phái/ cái song đay" - tức là mở hai cửa/ đi hai thang. Nhà người Thái cổ bao giờ cũng có hai cầu thang: "Tang chan" và "Tang quản". "Tang chan" ở cuối nhà, bên trái dành cho phụ nữ lên xuống. "Chan" là phần sàn nhà được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi các mẹ, các chị, các em... thường ngồi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang này bao giờ cũng mang số lẻ, thường là 9 bậc, ứng với 9 vía.Cầu thang dành riêng cho nam giới - "tang quản" ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía.Nhà sàn của người Thái cổ có hai bếp lửa - "Chík pháy". Bếp lửa phía "tang quản" dành cho người già, bếp chính ở phía "tang chan" dành cho nữ giới và những công việc nội trợ. Giữa núi rừng trùng điệp, bếp lửa hồng trên nhà sàn như trái tim hồng, sưởi ấm và nuôi dưỡng cả về vật chất và tinh thần cho mỗi con người.
Từ bếp dành cho người già đến hết cầu thang dành cho nam giới gọi là "quản". Đây là nơi dành riêng cho đàn ông, phụ nữ không được đến khu vực này, trừ một số trường hợp đặc biệt. Nơi đây có gian thờ tổ tiên - "hỏng hóng" và cột thiêng - "sau hẹ". Trên cột thiêng treo hình thần rùa bằng gỗ, ba bông lúa - "sam huống khẩu" và ba nhánh rau thì là - "sam hóm chík"... Ngoài ý nghĩa có tính biểu tượng của tô tem giáo thì còn mang bóng dáng của thuyết thiên - địa - nhân.
Ngôi nhà sàn của người Thái vừa trang nhã, vừa chắc chắn: "hướn đi tẳng cang tèn/ hướn én tẳng cang vên/ lốm luông pặt bấu chại/ lốm hại pặt bấu pay" - nghĩa là: Nhà tốt dựng nơi cao ráo/ nhà đẹp dựng giữa mường/ gió to thổi không xiêu/ bão lớn không lay động.
Nhà sàn được trang trí nhiều hoa văn hoạ tiết tinh xảo trên bậu cửa sổ, trên các tấm ván hình răng cưa làm chấn song của sổ, trên "khau cút" của nhà người Thái đen. "Khau cút" vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén bằng dui - "khau cút tẻm lai bua/ sinh dua tẻm lai én/ nhả ca bén tin con", đã trở thành tiêu chí về vẻ đẹp của ngôi nhà sàn người Thái đen Tây Bắc.
"Khau cút"là hai tấm ván đóng chéo nhau hình chữ X trên đòn nóc - "tiêu bôn", trước hết để chắn gió - "pảy lốm" cho mái tranh hai đầu hồi nhà. Những gia đình quý tộc xưa còn làm thêm bông sen cách điệu ở giao điểm hai tấm ván và tám hình trăng khuyết hướng vào nhau so le trên "khau cút". Giải thích về biểu tượng "khau cút" có nhiều ý kiến khác nhau như: Đó là cặp sừng trâu cách điệu, biểu tượng của một nền văn minh lúa nước, hoặc đó là những búp cây guột - "cút lo ngong" có nhiều ở Tây Bắc, hay gắn với cuộc thiên di tìm miền đất hứa của người Thái, anh em luôn nhớ về nhau… Dù có cách giải thích thế nào, thì khi bắt gặp hình "khau cút" trên nóc nhà sàn, là mỗi người Thái đen Tây Bắc lại thêm ấm lòng, nhớ về anh em, bản Mường yêu dấu.
Trên bậu cửa sổ thường chạm hình đôi thuồng luồng - "tô ngựa", linh vật làm chủ sông, suối, biểu tượng của sức mạnh và gia đình hạnh phúc. Trên các chấn song cửa sổ chạm các hoa văn, hoạ tiết mô phỏng thiên nhiên theo hình đối xứng hoặc lặp lại. Đó là những hình thoi như quả trám, hoa ban - "bók ban", búp cây guột - "cút lo ngong"… Nhà sàn người Thái trắng - "Táy khao" thường có lan can xung quanh hoặc trước nhà rất đẹp. Thiên nhiên được phản ánh một cách sống động, thể hiện tinh tế quan điểm về vũ trụ, âm dương ngũ hành và ý nghĩa nhân sinh cao đẹp.”.
Chúng tôi ngồi quây xung quanh bếp lửa kê ở giữa nhà. Một ông già mắc áo chàm đen ngồi trên một chiếc ghế tròn đan bằng mây đang hút thuốc lào bằng một cái điếu trông khá lạ mắt . Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm, khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.Điếu của họ là điếu ục, một loại điếu làm bằng một dóng của cây nứa ngộ (còn gọi là nứa đại, là loại nứa rất to). Mỗi khi hút, người hút phải vục trọn cái miệng vào ống điếu mới vừa. Và đã hút là phải hút hai hơi. Họ hút thuốc, nhả khói vô cùng điệu nghệ. Chỉ nghe phụp một cái là xái thuốc bay từ nõ điếu chui qua khe hở của ván sàn rơi xuống đất . Cứ sau mỗi điếu thuốc lào, gương mặt người hút lại dãn ra còn mắt thì lơ mơ, tỏ ra vô cùng sảng khoái.
Tối đó , lần đầu tiên chúng tôi được ăn xôi nếp nương ( Họ gọi là Khẩu tan và Khẩu ma tứn ) đồ lẫn với củ sắn non bào thành sợi . Khẩu ma tứn là biệt danh của loại nếp ngon đặc bịệt mà người Thái Mường Chiến (huyện Mường La, Sơn La) còn giữ được. Tiếng Thái, Khẩu ma tứn nghĩa là “cơm chó đứng dậy”. Loại nếp Tan này đồ xôi, khi mở vung chõ thì ở xa vài chục mét chó cũng đánh hơi thấy mùi thơm và đứng lên đi kiếm ăn .Nếp Tan là giống bản địa, hạt nhỏ hơi tròn đầu. Khi chín hẳn vỏ trấu vàng pha tím vằn lên phía đầu hạt thóc. Nếp Tan hạt tròn. Theo quan sát của tôi thì bông cũng cho gần trăm hạt thóc, không thể coi là sản lượng thấp và giống thoái hóa được, dù có thể năng suất không cao bằng các giống nếp khác. Nếp Tan ngày nay vẫn được bà con dân tộc Thái một số vùng giữ gìn. Mỗi nhà cấy vài sào để ăn. Xôi nếp Tan dẻo thơm, cho vào ếp khẩu đan bằng mây để cả ngày xôi vẫn dẻo như mới đồ xong.  Hương thơm của nếp có phần trội hơn, xôi cũng dẻo hơn nếp hoa vàng ở miền xuôi.
Hương vị của loại xôi sắn này vô cùng đặc biệt . Xôi sắn là là món ăn quen thuộc của người Thái vùng Tây Bắc. Mặc dù chỉ là món bình dân thường ngày những người Thái luôn tự hào về món ăn này.Tuy đơn giản không cầu kỳ, kiểu cách nhưng để có bát xôi sắn thơm ngọt vẫn cần nhiều yếu tố kết hợp. Ví như, sắn phải là sắn tươi mới được đào từ nương về, thóc phải chọn loại thóc nếp ngon là Khẩu ma tứn . Củ sắn phải chọn những củ ngắn, tròn lẳn, không bị sâu bệnh. Đầu tiên, sắn được rửa sạch rồi bóc hết phần vỏ chỉ còn lại lõi sắn trắng ngần. Tiếp đó mang bào thành từng sợi nhỏ . Thóc nếp phải phơi thật khô, giã bằng cối đạp chân, sẩy sàng chọn lựa kỹ để lựa những hạt gạo căng nẩy, có như vậy món xôi mới thật dẻo, thật thơm.Xôi sắn của người Thái được đồ trong những chõ gỗ thủ công chứ không bao giờ dùng chõ kim loại. Thường thì các chõ này được làm bằng những khúc gỗ có đường kính nhỏ, gỗ mềm đem về cắt khúc, cưa rỗng giữa, tạo dáng đẹp như một đài hoa, thon nhỏ từ dưới lên trên, đáy chõ có hai thanh tre nhỏ để đặt tấm đan thưa đỡ gạo khi cho gạo vào chõ xôi. Phần chõ lại được đặt trên một cái ninh đồng, thay cho nồi. Sở dĩ người dân tộc Thái đồ xôi bằng chõ gỗ chứ không dùng đồ kim loại một phần là do truyền thống, bên cạnh đó còn bởi ưu điểm gỗ hút hơi nước nên sẽ làm xôi dẻo, không bị khô.Bản thân xôi sắn đã có bị ngọt, đậm đà của gạo nếp, vị thơm bùi của sắn nên cũng không cầu kỳ thức ăn đi kèm, chỉ cần thêm chút Chẩm chéo là đủ .Chẩm Chéo là loại gia vị miền Tây Bắc đặc biệt là đất Sơn La, từ lâu lắm rồi gia vị này đã đi vào huyền thoại, không thể thiếu trong bữa ăn của người Thái đen.Hầu như không có bữa ăn nào quan trọng của người Thái lại thiếu được chẳm chéo, thứ này nó giống như một dạng muối vừng của người miền xuôi.
Người Thái ở Sơn La bảo rằng, chẳm chéo được làm chủ yếu từ quả Mắc Khén. Mắc, theo tiếng Thái, có nghĩa là quả. Nhưng còn Khén thì không hề có chữ gì đồng nghĩa hay cả trong ngôn ngữ bản địa. Bởi vậy mắc khén mãi mãi sẽ là một tên riêng, tự nhiên tồn tại như chính bản thân núi rừng hoang dã, bí hiểm mà cũng quá đỗi quen thuộc với con người.“Chẳm” theo tiếng Thái có nghĩa là món chấm, “chéo” là thứ được chế từ các loại gia vị được hòa quyện vào nhau nên được gọi là “chéo”, “Chẳm chéo” được chế biến từ muối, ớt tươi nướng, tỏi, mì chính… đặc biệt một loại gia vị không thể thiếu là mák khén. Tất cả được giã nhuyễn trộn đều vào nhau thành một loại nước chấm xền xệt. Bát chẳm chéo của người Thái bao giờ cũng có vị chung là hương thơm của các loại lá, vị cay cay của ớt và vị hăng nồng của mắc khén.
 Chính cái sự kết hợp này góp phần không nhỏ tạo nên một hương vị riêng cho món xôi sắn của người Thái. Sắn thơm bùi, gạo nếp dẻo, ngọt cùng với ớt cay nên ăn không hề bị ngấy và đầy như các loại xôi khác. Người Thái vùng Tây Bắc ăn xôi sắn quanh năm, thực tế đây là món ăn hàng ngày thậm chí là món ăn chủ lực trong bữa cơm của người Thái. Chúng tôi ăn xôi mà không dùng bát đũa. Lấy tay nắm một nắm xôi vo lại , đặc biệt loại xôi này không hề dính tay. Cứ thế chấm với Chẩm chéo làm một lèo no cành hông. Cụ chủ nhà lại mời chúng tôi những cốc rượu trắng nấu từ ngô. Ở đây hầu như mọi nhà đều tự nấu rượu ngô, rượu sắn để phục vụ gia đình  và bán kiếm thêm thu nhập.
Theo kinh nghiệm của những người nấu rượu lâu năm, đầu tiên phải kể đến nguồn nước, lấy từ khe núi, vách đá, từ trên đỉnh núi cao, nước trong như nước khoáng đóng chai. Rồi đến chọn giống ngô. Sau mỗi vụ ngô, người ta sẽ chọn ra những bắp ngô ngon nhất, hạt chắc, có màu vàng óng, được trồng từ 6-7 tháng trên những vách núi cao, phơi rồi chất lên gác bếp để nấu rượu dần.Cây men là loại cây họ cỏ, có bông như bông lau, sau khoảng ba tháng gieo hạt, bông sẽ chín, được thu hoạch, bảo quản kỹ lưỡng.Ngô luộc khoảng 12 tiếng, đến khi hạt ngô chớm bung thì để nguội, trộn đều với bột men. Cứ 10kg ngô trộn với 2-3 quả men, nếu cho quá nhiều hoặc quá ít thì rượu sẽ không ngon, thậm chí sẽ không thể thành rượu.Muốn rượu ngon, người nấu phải để lửa cháy liên tục, không được để lửa to kẻo rượu bị khê, cũng không để tắt lửa. Phải luôn tay điều chỉnh lửa, và tiếp thêm nước vào chảo dưới chõ .Rượu ngô nấu trong 3 lượt đầu thường có độ đậm đà cao . Thành phẩm rượu ngon là có màu trong như nước suối, lúc mới uống có hương vị cay nồng, dần dần lắng lại dịu nhẹ, có thể uống hơi quá chén mà không làm mê muội người thưởng thức: Rượu ngô sau khi nấu ra không uống ngay mà để ít nhất 5-7 ngày, và phải để vào chum sành chum đất mới bay hết hơi độc trong rượu, mới đảm bảo rượu ngô ngon được. Uống được vài li , tôi thấy say say lâng lâng nên rải chiếu ra sàn nhà nằm. Anh tiểu đội trưởng người dân tộc Thái hướng dẫn cho chúng tôi cách nằm trong nhà của người Thái . Trong nhà của người Thái có những cấm kị riêng mà sau này chúng tôi mới biết. Phía vách buồng bên kia , vang lên tiếng đàn Ghi ta của cậu Hảo ở phố Phan Bội Châu. Tôi nghe cậu ta Modified bài  Hà Nội Niềm Tin Và Hy Vọng :
Mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời – Người Hoàn Kiếm sẽ không bao giờ quên.
Ngày 19 tiễn đưa những chàng trai – Đi nghĩa vụ lên Sơn La miền Tây Bắc “.

Ngày 19 tháng 10 đáng nhớ này sẽ theo chúng tôi đi suốt cuộc hành trình trong cuộc đời này.
Tôi thiếp đi trong ánh lửa ấm áp , trong tiếng rì rầm của núi rừng và đâu đó vẳng lại tiếng chó sửa ma vu vơ.
  


Xin tiếp tục theo dõi. dienbatn.
Xem chi tiết…

CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 2.

9/04/2018 |
CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 2.

CHƯƠNG 2. THỜI THƠ ẤU CỦA TÔI .
Chiếc xe tang chở xác tôi về Hà Nội trong cơn mưa mịt mù. Tôi được bọc trong tấm bạt có sọc màu trắng đỏ và quấn chặt 2 đầu . Ngồi ở ghế bên cạnh cô người tình nhỏ bé của tôi lúc này vẫn đang khóc dấm dứt. Thần thức tôi vẫn cùng các nàng Ngải bay lượn ở phía trên mui xe. Con đường 6 như một sợi chỉ mảnh mai , uốn lượn quanh những dãy núi cao ngất của Tây Bắc trong màn sương lạnh mịt mù. Tận sâu thẳm trong Thần thức , không biết sao tôi vẫn như vô cảm với cái xác quấn bạt nằm dưới kia . Hát Lót , Cò Nòi , Đèo Chiềng Đông , Yên Châu , Mộc Châu….từng địa danh đã quen thuộc với tôi trên 40 năm nay cứ lần lượt trôi qua.
Bỗng nhiên , tôi bỏ mặc cái xác đang di chuyển dưới kia và bay về tới phố nhỏ của tôi. Nhà thờ lớn Hà Nội với tiếng chuông gióng rả như đang chào mừng tôi đã trở về .


Tôi sinh ra và lớn lên tại một con phố nhỏ yên bình ngay cạnh nhà thờ Lớn của Hà Nội. Từ thủa ấu thơ , trong tâm khảm tôi đã luôn vang vọng tiếng chuông của nhà thờ mỗi chiều mẹ tôi đi lễ. Mẹ tôi là người rất sùng Đạo và đã vài đời là gia đình Công giáo. Quê mẹ tôi là một xứ Công giáo toàn tòng tại thôn Áng Sơn – Ninh Hòa – Gia Lư – Ninh Bình. Từ thủa vừa sinh ra , tôi đã được cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn làm lễ rửa tội và đặt tên Thánh là Gioan . Cái tên này sẽ theo tôi cho tới những ngày cuối đời của mình. Ngày xưa , Hà Nội ít người và con phố nhỏ của tôi thật bình yên . Những người trong phố đa phần là theo Thiên Chúa . Những buổi sáng sớm hay chiều chạng vạng là những dòng người mặc áo dài trắng đổ về Nhà thờ làm lễ thật kính cẩn. Tôi thường theo mẹ đi nhà thờ dự lễ , nghe những đội đồng ca hát những khúc ca ngợi Đức Chúa toàn năng. Mẹ tôi dạy cho tôi biết nghe tiếng chuông của Nhà thờ để biết đó là chuông báo hiệu điều gì ? Tiếng chuông nhà thờ có mục đích là để đánh dấu những hoạt động trong đời sống đức tin của người công giáo : giờ kinh lễ, ban phép Rửa tội, hôn phối… và một số chuyện khác nữa. Chuông nhà thờ, có thể coi là một phương tiện truyền thông đại chúng mà nội dung được truyền đi là tùy theo âm vang của chuông, nhịp điệu đánh chuông, và số lượng chuông được sử dụng.
Tiếng  chuông buổi sáng là giờ kinh lễ ; buổi trưa, với ba hồi chuông, mỗi hồi ba tiếng, là giờ Kinh Truyền tin, có khi nhiều chuông cùng đổ một lúc; đến chiều là chuông báo giờ chầu Thánh Thể hay giờ kinh tối. Vào ngày thường, nhà thờ có 2 Thánh lễ diễn ra lúc 5 giờ 30 và 18 giờ 15. Riêng ngày Chủ nhật, nhà thờ có 7 Thánh lễ, diễn ra vào các khung giờ: 5 giờ, 7 giờ, 9 giờ, 10 giờ 30 (lễ tiếng Pháp), 16 giờ (lễ thiếu nhi), 18 giờ, 20 giờ (lễ giới trẻ).
Ngoài ra còn có tiếng chuông chúc mừng Đấng Cứu Thế trong những ngày lễ trọng hay mùa giáng sinh . Hòa cùng tiếng chuông là dàn đồng ca hát vang lên bài Thánh ca . Tiếng chuông ấm cúng sưởi ấm mỗi người chúng ta trong đêm đông giá lạnh, là niềm vui, là niềm hy vọng không chỉ riêng cho tín hữu Công giáo mà đến nay sự lan tỏa của niềm vui Giáng sinh đã bao trùm ở cả cấp độ thế giới:
“Mừng ngày chúa sinh ra đời, nào mình cùng nắm tay tươi cười 
Hòa bình đến cho muôn người, cùng cất tiếng ca mừng vui 
Mừng ngày giáng sinh an hòa ,mừng hạnh phúc cho muôn nhà ! 
Từ thành phố hay đồng quê muôn nơi vang tiếng hát ca vang lừng
Đêm noel đêm noel ta hãy cùng vui lên!
Đêm noel ơi đêm ta xin ơn trên ban hòa bình cho trần thế
Đêm noel! chuông vang lên! chuông giáo đường vang lên
Đêm noel đêm noel ta hãy chúc nhau câu cười!”… (James S. Pierpont).
Trong những đêm đen lạnh giá của mùa Giáng sinh , tiếng hát của dàn đồng ca bay cao , bay xa thì dù thế lực của bóng tối và sự dữ có tầm khuynh loát như thế nào đi chăng nữa thì cuối cùng cũng phải dừng bước trước ánh sáng tình yêu của Chúa khi soi rọi vào tâm hồn của mỗi chúng ta. Và khi đó, sự lành sẽ lên ngôi!
Tiếng chuông nhà thờ còn báo hiệu tin mừng Chúa đã Phục sinh , mừng cho biết một đôi uyên ương lãnh nhận Bí tích Hôn phối , Tiếng chuông cho biết cuộc sống của một người đã có sự thay đổi : Tiếng chuông sầu, từng nhịp buồn, lặng lẽ... Tiếng chuông ngân từ báo hiệu 7 tiếng cho biết người nam, 9 tiếng cho biết người nữ vừa mới qua đời. Tiếng chuông trong Thánh Lễ giao thừa, cộng đoàn tạ ơn Chúa qua một năm được nhận lãnh những ơn lành Chúa ban và cầu xin một năm mới bình an; Tiếng chuông báo hiệu cho các vị phụ huynh đưa con đến nhận lãnh Bí Tích Rửa tội; Tiếng chuông của những giờ chầu Thánh Thể… tất cả mang âm hưởng thánh thiện, kết nối chúng ta đến với Chúa.
Lũ trẻ con phố tôi và mấy phố xung quanh , thường ra sân nhà Thờ chơi những lúc rảnh rỗi. Bên ngoài nhà thờ có một quảng trường nhỏ, là nơi đặt Tượng Đức mẹ bồng chúa hài đồng bằng kim loại. Bên dưới tượng Đức Mẹ có một lư hương để người dân thắp nhang cầu nguyện, xung quanh là nhiều chậu cảnh xanh tươi. Hàng rào xung quanh tượng đài mang đậm chất công giáo với các họa tiết được tạo từ hình dáng cây thánh giá. Tại đế tượng người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh: REGINA PACIS nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH .
Chúng tôi thường chơi đuổi nhau từ sân nhà thờ , vòng qua nhà chung là tòa tổng Giám mục Hà Nội, Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội, Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội. Ngày xưa lũ trẻ con chúng tôi ít những trò chơi như bây giờ. Lũ con trai thường hay chơi đánh quay ,đánh khăng , trốn tìm , tập trận giả . Lũ con gái thường chơi nhẩy dây hay chơi ô ăn quan. Buổi trưa , chúng tôi thường hay đi bắn sấu xanh ở gần Hỏa Lò và Tòa án Hà Nội. Mùa hè , những hàng sấu trĩu đầy những quả xanh non. Mỗi đứa một khẩu súng cao su và một túi đạn , lũ chúng tôi thi nhau bắn xem đứa nào được nhiều nhất . Khi kết thúc trận thi bắn , xung quanh bụng đứa nào đứa ấy toàn sấu xanh . Chúng tôi không mang túi đựng mà nhét áo may ô vào quần đùi và cho sấu vào đó. Có lần , buổi trưa trốn ngủ đi bắn sấu , bố tôi kêu về và bắt nằm sấp xuống giường. Khi ông chuẩn bị cầm cây phất trần lên quất vào đít tôi , bỗng những quả sấu chảy ra đầy giường lăn lông lốc. Tôi hí hí mắt nhìn thấy ông tủm tỉm cười và không đánh tôi nữa. Những quả sấu xanh chúng tôi thường đưa cho lũ con gái chế biến . Chúng gọt vỏ và dầm trong xì dầu và ớt cho ngấm. Sau có lũ chúng tôi thi nhau cầm thìa xúc cả sấu và xì dầu , cay đến chảy nước mắt mà vẫn vô cùng thích thú.
Cũng có những buổi trưa trốn ngủ , tôi hay cùng mấy thằng bạn trai như thằng Đông , thằng Huy , thằng Hùng , thằng Thắng ở bên phố Ấu Triệu , Thọ Xương, Ngõ Huyện đi xuống Hồ Hale hay công viên Thống nhất bắt giun về cho cá ăn. Mỗi đứa chúng tôi có một cây gậy có buộc ngang một cái nan hoa xe đạp thành hình chữ T và một cái ống bơ có dây đeo lên cổ để đựng giun. Lúc đó ven bờ hồ có những bãi bùn lấp sấp nước. Hàng triệu con giun nhỏ như những cái kim màu đỏ từ dưới bùn quơ đầu lên trong làn nước. Chúng tôi kéo cái cây sắt chữ T ngang qua đám giun là vớt được cả một cục bằng ngón tay cái cho vào trong ống bơ. Chỉ khoảng nửa tiếng là mỗi đứa bắt được đầy một ống bơ giun. Chúng tôi đãi sạch rác và bùn trong ống bơ và lúc đó cả một búi giun bằng nắm tay đỏ au cuộn tròn trong ống bơ. Giun này mang về cho cá ăn thì tuyệt vời . Khi nhiều quá, chúng tôi lại mang lên chợ Hàng Da , trước nhà thờ Tin lành , nơi người ta bán cá cảnh để đổi lấy cá. Nơi đây cũng là chốn thần tiên của lũ trẻ con chúng tôi . Nào là Xê Can , Thần Tiên , Mã Giáp , Ngựa vằn , Khổng tước , Vạn long , Kiếm đỏ , kiếm xanh , Hắc quần , Mún , Mây chiều ……Nhất là những cái lọ tròn người ta để những chú Cá Trọi khiến chúng tôi mê mẩn. Những chú Cá Trọi màu hồng hồng lượn lờ bơi xung quanh những sợi rong hay tóc tiên là niềm ước mơ của lũ chúng tôi. Trường phải đến 3 ống bơ giun chúng tôi mới đổi được một cặp Cá Trọi một đực , một cái. Những chú Cá Chọi đực mang về thường được chăm sóc liên tục để chuẩn bị cho những cuộc tử chiến. Chúng tôi thường đặt một mảnh gương nhỏ ở bên cạnh lọ , nhìn thấy bóng mình trong gương , chú Cá Trọi liền xù mang , giương vây lên đe dọa. Lúc này trông nó mới đẹp làm sao . Những tia xanh , tím , hồng hiện lên trên vây lưng của nó, toàn thân bừng lên sắc hồng và hào khí uy dũng ngất trời. Trong các cuộc tỉ thí, con Cá Trọi của đứa nào thắng là uy tín của đứa đó dâng lên tột bậc trong con mắt của lũ trẻ con khu phố tôi. Nhiều đứa phải nịnh nọt hay hối lộ nó bằng những ống bơ giun hay những cành rong xanh để nó cho lấy giống. Khi chọn được một con Cá Trọi đực đã đánh thắng nhiều trận và có hình dáng đẹp, chúng tôi thường cho nó ép cá Trọi cái để lấy giống. Một cái lọ thủy tinh hình cầu dẹp được rửa sạch sẽ rồi đổ đầy nước , sau đó thả vào đó vài cành rong Tóc tiên được cột chân bằng một mảnh chì và một búi giun. Chúng tôi thả 2 con cá 1 đực 1 cái vào và lấy giấy quấn xung quanh lọ để chúng không bị kinh động bởi những hình ảnh bên ngoài. Khoảng vài tuần sau con cá cái có chửa , bụng căng lên toàn trứng. Lúc đó chúng tôi mới thả vào lọ một lá nho xanh nổi trên mặt nước để lấy chỗ cho con cá cái đẻ trứng. Khi con cá cái đẻ trứng , nó phun trứng vào mặt dưới lá nho và con đực cũng phun tinh dịch của nó vào đấy . Lúc này phải bắt con cá đực sang lọ khác kẻo nó ăn mất trứng. Khoảng chục ngày sau , những con Cá Trọi con nhỏ li ti như những con bọ gậy nở đầy ra trong lọ. Sau vài bữa cho chúng cứng cáp , chúng tôi vớt chúng ra ở riêng để chúng cùng nhau lớn. Những khoảnh khắc theo dõi cá đẻ hay cá nở là những giờ phút thật là hạnh phúc và hãnh diện của lũ chúng tôi.
Vào những buổi tối đầu hè , khi tiếng ve kêu râm ran chào đón , lũ chúng tôi thường tổ chức đi bắt ve. Suốt cả mùa Đông và mùa Xuân , những ấu trùng của loài ve sầu ẩn chìm trong lòng đất , dưới những gốc cây bàng , cây sấu , cây cơm nguội dọc theo con phố Triệu Quốc Đạt , Tràng Thi , Hai Bà Trưng. Sau khi giao phối, ve cái đào những rãnh nhỏ lên vỏ các cành cây và đẻ trứng vào đó. Ve cái có thể làm nhiều lần như vậy cho đến khi nó đẻ hết vài trăm trứng. Khi trứng nở, ấu trùng ve rơi xuống và đào sâu vào trong đất. Hầu hết các loài ve có vòng đời từ 2 đến 5 năm. Khi kết thúc thời kỳ ấu trùng, những ấu trùng ve đào một đường hầm lên mặt đất và chui lên. Sau đó, chúng lột xác lần cuối trên một cái cây gần đó và trở thành ve trưởng thành. Vỏ xác ve sẽ vẫn còn nằm đó và gắn vào vỏ cây. Chúng tôi chế ra những cái đèn dầu bằng những chai thủy tinh , có gắn vào một có ống bơ sữa bò làm cái che gió và để rọi tìm ve. Mỗi tối , chúng tôi cầm đèn đi soi quanh những gốc cây bàng , cây sấu sù sì , đầy những u nần to tướng, thường mỗi gốc cây có vài chú ve đang bò lên chuẩn bị lột xác. Khi đi ngủ , chúng tôi cho bầy ve bám vào thành trong của màn ngủ để chúng bò lên lột xác . Buổi sáng dậy , trong màn đã có vài chục chú ve sầu , cánh đầy màng gân trong suốt đậu sát trên đình màn. Lũ chúng tôi thường hay ra hiệu kem Thủy Tạ ở bờ hồ , nhặt những chiếc que kem, đem về rửa sạch để xếp làm chuồng ve . Cứ xếp 4 que kem thành một hình vuông rồi xếp chồng các hình vuông đó lên cao , đặt những que ngang làm sàn chuồng , làm cửa cho ve vào và lấy dây chun cột lại là chúng tôi có những chiếc lồng ve vô cùng xinh xắn . Buổi trưa , tiếng ve trong lồng kêu ran như hòa nhịp đồng ca cùng lũ ve trên những cây hoa sữa ngay đầu phố Ấu Triệu thành một bản nhạc hùng tráng. Những cái xác ve , chúng tôi tích trữ lại để bán cho nhà thuốc Bắc ở phố Ngõ Huyện làm thuốc . Theo Đông y, thuyền thoái (xác ve) vị ngọt, mặn, tính mát, có tác dụng tán phong nhiệt, tiêu màng mộng, trị bệnh ngoài da, mụn nhọt, ghẻ lở, rôm sảy, nhức đầu, chóng mặt do phong nhiệt, trẻ nhỏ sốt nóng co giật, mắt có màng mộng.
Hàng ngày , chúng tôi đi học ở trường Hoàn Kiếm , ngay bên cạnh Nhà thờ lớn. Những năm học cấp 1 ở đây thật êm đềm . Lũ con gái như cái Loan , cái Mai, cái Thu , cái Oanh , cái Nga thường học giỏi hơn bọn con trai chúng tôi . Trong lớp , chúng thường giữ các chức vụ như lớp trưởng , lớp phó học tập , còn bọn con trai chúng tôi thì phá như giặc. Hàng ngày , những tội lỗi của chúng tôi hay bị ghi vào một quyển sổ nằm trong tay cái Mai lớp trưởng. Lũ con trai chúng tôi nhấm nháy nhau và thế là cuốn sổ đó biến mất , một đi không trở lại .
Cuộc sống cứ trôi đi êm đềm như thế cho đến ngày 5/8/1964 khi Mỹ ném vào miền Bắc Việt Nam. Cả Hà nội được lệnh sơ tán . Người Hà Nội gọi lần sơ tán thứ nhất này là sơ tán Giôn Sơn (  Lyndon B. Johnson ) và lần sơ tán năm 1972 là sơ tán Ních Sơn ( Richard Nixon ). Bọn trẻ con chúng tôi ngơ ngác chia tay nhau trong tâm trạng tiếc nuối, không vui, không buồn, cũng chẳng sợ gì vì quá bé, chưa cảm nhận được. Chúng tôi chỉ biết qua người lớn là máy bay Mỹ ném bom ở đâu đó trên miền Bắc và có người chết. Đơn giản thế thôi.
Chiếc xe đã từ từ tiến vào nhà Tang Lễ Phùng Hưng . Sau khi làm một loạt biên bản và đóng chi phí, xác tôi được đưa vào buồng lạnh và lúc này một lần nữa Thần thức tôi bất chợt tối đen.
CHƯƠNG 3 . DUYÊN NỢ ĐỜI TÔI VỚI SƠN LA – TÂY BẮC.
Xin theo dõi tiếp. dienbatn.
Xem chi tiết…

CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 1.

9/02/2018 |
CÁC BẠN ĐÓN ĐỌC TÁC PHẨM MỚI CỦA DIENBATN.
CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI.

LỜI DẪN.
Tháng 7 Trời sùi sụt mưa Ngâu. Cả tuần nay mưa rả rích . Chuyện tình yêu chia cắt của nàng Chức Nữ và chàng Ngưu Lang có chăng cũng chỉ là truyền thuyết mà sao vẫn vận vào tháng 7 lay lắt những cơn mưa. Mà mưa thì thường không vui đặc biệt là những cơn mưa dầm rả rích. Tháng 7 năm nay có nhiều đặc biệt hơn những năm trước , số phận nào đó của ông Trời đã kéo đi những người bạn , những người Thày cận kề bên mình về cõi hư vô. Chưa khi nào mà ta thấy ranh giới giữa sống và chết cận kề đến như vậy. Thoắt đến , thoắt đi , mang theo những người thân của ta vào cõi vĩnh hằng . Những giọt mưa nhẹ nhàng lăn trên cửa kính như những phận người trôi đi theo thời gian . Mưa rơi ngoài hiên và ta ngồi trong nhà ngắm. Lãng đãng mưa, nhao nhác người qua lại và những dòng nước buồn trên mặt đường... Ngày mưa người ta thường ít nói. Chẳng cần nói hay ai cũng bận ngẫm nghĩ miên man với những giấc mơ riêng. Và chỉ để tiếng mưa thầm thì hát như một người nghệ sĩ đường phố chẳng biết hát cho ai mà vẫn hát!
Tháng Bảy âm lịch - mùa Vu lan Báo hiếu, cũng là mùa xá tội vong nhân. Chúng ta nhớ những câu thơ Nguyễn Du trong Văn tế Thập loại chúng sinh:
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều Thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Buồn miên man , không gian nhuốm màu u ám đìu hiu . Ngồi nghe tiếng mưa rơi, những nốt nhạc trầm buông lơi như những cung đàn sầu diệu vợi . Tiếng mưa của Trời và mưa trong lòng hòa điệu , từng giọt thời gian vỡ vụn , tung tóe rơi bên thềm . Những bóng người liêu xiêu đi trong làn mưa ngoài đường , biết đi về chốn nào trong chiều nay ?
Gió mơn man , đưa tôi vào giấc ngủ chập chờn. Từ trên thinh không vọng về một tiếng kêu của loài Ô Thước . Nửa mê , nửa tỉnh , tôi chợt thấy mình như đang ở một nơi xa lạ. Và như có một đường truyền internet chiếu xuyên qua tôi …Và rồi một bộ phim dần dần rõ nét hiện ra trong đầu . Tôi tự nhiên cứ bị cuốn vào những hình ảnh như thực như hư trên màn hình hư ảo . “ Giấc mộng kê vàng “ đây sao ? 
Giờ này ngồi đây , gõ lại cho các bạn những dòng này , thuật lại cuốn phim kì dị đó. Đúng – Sai ; Hay – Dở tùy các bạn đánh giá theo góc nhìn của riêng mình . Mạch văn không chảy thuận dòng mà nghịch đảo từ quá khứ đến hiện tại rồi lại trở về quá khứ . Hay là cõi âm phù kia , thời gian không thuận dòng mà chạy theo đường dích dắc của Huyền không phi tinh ? Thật hư , hư thực, câu chuyện cứ xoáy tít lên và cuốn vào dòng chảy của không – thời gian trôi vào cõi hư vô. Người Ma – Ma Người , tùy theo góc nhìn mà các bạn đánh giá - dienbatn chỉ là người kể lại “ Giấc mộng kê vàng “ đã xảy ra mà thôi. 
Một chiều mưa tháng 7 năm MẬU TUẤT. dienbatn.

CHƯƠNG 1. TAI NẠN.

Sau một tiềng Rầm …và tiếng va chạm loảng xoảng, tiếng sắt thép va vào nhau chát chúa, tiếng kêu thét lạc giọng , tôi tự nhiên thấy mình bay vọt lên trên không và bay là là trên mặt đường 6 , giữa 2 triền núi của Thị trấn Hát Lót – SƠN LA.
Ở dưới kia, con đường 6 đẹp như một nét vẽ , hai bên đường những mái nhà lợp tôn xanh đỏ nằm giữa những vườn nhãn , vườn na xanh mượt như một bức tranh thủy mặc . Hai bên phía xa là hai dãy núi nằm uốn lượn theo con đường , mùa này cây lá xanh đến ngút ngàn .
Nhìn xuống nơi xảy ra tiếng động vừa nãy , tôi thấy thân xác tôi bèo nhèo , lấm lem bụi đất đang co giật lần cuối . Cái đầu tôi bị chiếc xe ô tô chạy qua nát bấy và bê bết máu . Một cơn đau xé nhói lên xuyên qua toàn thân và bầu trời tự nhiên tối sầm lại . Tiếng gió như rên rỉ đang giật lên từng cơn. Và rồi tất cả chìm vào tĩnh lặng của màn đêm mênh mông. 
“ Thô tô ma sắc , niêng cà rây mo rum ,ma men lục mo nưng ,lục đô sắt sắt lục ru ơi , đô lục xa nưng hắc xa hắc lục ca ru ơi ,ca lam ba lưa a lam da lách xa phi la .”
Tiếng ca nhè nhẹ của bài thu Lục Tổ Ngải chợt vang lên trong tôi. Thần thức chợt bừng tỉnh và tôi thấy hai tà áo trắng quen thuộc của hai nàng Thăm và nàng Mẹ bồng con đang dìu tôi bay là đà trên những ngọn cây. Nhìn xuống phía dưới , người ta đang lao xao , xúm đông xúm đỏ quanh nơi xảy ra tai nạn. Người ta nhặt được chiếc điện thoại của tôi văng ra đất , nhưng tôi đã đặt mật khẩu của điện thoại nên không ai có thể báo tin được cho gia đình tôi. Chiếc xe Getz màu xanh gây tai nạn cho tôi đâm chúi mũi vào một gốc cây phía đằng xa. Thằng lái xe đã chạy mất tiêu . Chiếc xe máy tôi đi bị cuốn vào gầm xe nát bét. Tôi nhìn thân xác tôi và tâm thức chợt hoảng hốt , Tôi còn là người hay đã là ma đây ????
Tôi cố nhìn ra xung quanh. Mọi sự vật tôi vẫn thấy rất rõ ràng kia mà. Tôi nhìn thấy rất rõ những sự việc đang xảy ra bên dưới con đường kia . Ông tổ trưởng khu phố , mấy anh cảnh sát giao thông cùng mọi người đang đỡ tôi lên chiếc xe cứu thương màu trắng. Tôi còn nhớ rất rõ lúc đó , vừa từ cửa hàng vật liệu xây dựng ra , tôi vốn tính cẩn thận , đi xe máy gần sát lề đường. Một chiếc xe màu trắng chạy phía bên ngoài tôi. Bỗng nhiên , chiết Getz màu xanh da trời từ ngay phía sau tôi cố gắng vượt phải chiếc xe màu trắng và húc vào sau xe của tôi. Tôi thấy mình bị hất lên nắp ca bô của chiếc Getz. Nếu như lái xe có kinh nghiệm , phanh ngay lại , có lẽ tôi chỉ bị thương nhẹ. Đằng này chắc do cuống lên nên hắn đạp ga hết cỡ. Người tôi lộn nhào trên nắp ca bô và rơi xuống đầu xe. Bánh xe bên tài xế đè qua đầu tôi và gầm xe kéo tôi đi mấy chục thước.
Hai nàng Ngải vẫn đỡ tôi bay là là trên những mái nhà dọc theo con đường về bệnh viện đa khoa Mai Sơn. Trên đường Chu Văn Thịnh , qua Bệnh viện Lao có 2 nhánh , nhánh rẽ phải là đi Tà Hộc là nơi chúng tôi mấy lần mang quần áo , sách vở , mì tôm cho các cháu học sinh Tà Hộc những năm bị lũ cuốn trôi trường. Nhánh rẽ trái là vào Bệnh viện đa khoa Mai Sơn.
Tôi được đưa vào phòng cấp cứu . Các bác sĩ cố gắng khai thông đường thở cho tôi , dùng bong bóng Ambu trợ thở. Một vị bác sĩ ép tim ngoài lồng ngực cho tôi . Chỉ một lúc sau , các bác sĩ lắc đầu và tiến hành làm biên bản.
Tôi xà xuống xem vị bác sĩ viết vào cuốn sổ trực : “ Bệnh nhân Phạm..60 tuổi. Địa chỉ …Hoàn Kiếm – Hà Nội. Lúc 10 g 40 . Lý do : Bất tỉnh sau TNGT.
Bệnh sử : Không rõ hoàn cảnh xảy ra tai nạn giữa xe máy và ô tô . Bệnh nhân bất tỉnh được Công an giao thông Mai Sơn đưa vào viện trong tình trạng hôn mê G 3d.M: 0 , HA:0 , thở ngáp, côn ngừng thở dài .Toàn thân xây sát , mặt biến dạng dính nhiều máu . VT rách da vùng trán , thái dương ( t) sâu sát xương , dài 12 cm . Vùng đỉnh chẩm có khối máu tụ . Ngực trái bầm tím , bụng chướng dịch . Chân tay tím nhợt . Đồng tử 2 bên giãn 3,5 mm , mất các phản xạ . 
KL : Đa chấn thương , tiên lượng tử vong.
Xử trí : Khai thông đường thở , bóp bóng Ambu , ép tim ngoài lồng ngực . Dung dịch truyền sau 30 phút không có kết quả. Bệnh nhân tử vong hồi 11 g 10 phút ngày 12/8/2018. Có mặt đồng chí kíp trực và đồng chí Công an Mai Sơn . Tử vong : Đa chấn thương do TNGT. 
Xử lý : Tử thi đưa xuống nhà xác bàn giao cho cơ quan CĐ tiếp tục làm việc. Địa chỉ báo tin …..”.
Vậy đúng thật là tôi đã chết . Có Bác sĩ và Công an chứng tử hẳn hoi . Nhìn xuống cái xác tím bầm , nát bấy kia , tôi thấy nó xa lạ và hầu như chẳng liên quan gì đến Thần thức tôi lúc này. Nhưng chính xác một điều đã xảy ra : Tôi đã là một hồn ma.
Người ta đưa tôi xuống nhà xác của bệnh viện. Một câu chú trong tâm thức tôi vẫn chạy mãi : “ Nam Mô Thần Xiêm - Nam Mô Thần Lục - Nam Mô Thần Mọi - Nam Mô Thần Chà -Thôi e niên sái -Lục cà ru hơi -Lục cà ru hỡi-Lục cà ru hời .” Các nàng Chúa Xiêm hoa trắng , hoa đỏ ơi , các nàng Bướm đêm màu tím đến diệu huyền ơi , các nàng Thăm hoa trắng loang tím e ấp ơi , các nàng Lục Bình hoa trắng luôn ngẩng cao đầu ơi , các nàng Ngải Diệp Tiên hoa trắng ,Ngải Diệp Tiên Hoa vàng ,Ngải Gà ,Ngải Gió ,Ngải Gừng lạc ( An Giang ) , Ngải Nàng kim , Ngải Hổ trắng ( An Giang ) , Ngải Hoàng Hổ , Ngải Lửa ,Ngải Máu , Ngải Mạnh trắng , Ngải Mạnh vàng , Ngải Mạnh xanh , Ngải Nàng soài, Ngải Bo Mường, Ngải Nàng Bún, Ngải Chàng Bún ,Ngải Cẩm Địa Trắng, Ngải Cẩm Địa Đen ( ngải Hắc Hổ ) , Ngải Chanh , Ngải Quế Cam, Ngải Diệp Tiên hoa đỏ nhỏ , Ngải Diệp Tiên hoa đỏ to ( Hạnh Phúc ) , Ngải Diệp Tiên hoa trắng, Ngải Diệp Tiên Hoa vàng , Ngải Gió …. ơi , mau về đây với ta . Giờ này ta cô đơn lắm các Nàng ơi có biết không ?
Cô người tình nhỏ bé của tôi lúc này đã đến. Nàng khóc dấm dứt , tóc tai rối bù , quần áo xộc xệch trông thật là tội nghiệp. Gần 10 năm nay , bằng chút tiền lương giáo viên tiểu học còm cõi , nàng đã hết lòng hết sức lo cho tôi từng ly , từng tý. Buổi sáng , tôi bảo nàng là tôi đi đến đại lý sắt thép để mua ít vật tư , sửa giúp cho nàng cái mái sân trước. Vậy mà tôi một đi không trở lại. Đừng buồn em nhé. Cảm ơn những sự trìu mến , ân cần với tôi gần 10 năm qua. Giờ này nàng lại đơn côi lẻ bóng trong cuộc đời rồi. Cầu xin Tổ , Thày và các Nàng Ngải giúp nàng qua được giai đoạn cùng cực này. Em hãy thay ta chăm sóc cho các nàng Ngải ta mới đưa lên trồng tại Hát Lót nghe em . Các Nàng Ngải sẽ bảo vệ cho em đúng như ta sẽ gửi gắm em cho họ. Em cũng cần biết điều này : sáng nay tôi đã mua hơn 4 triệu tiền sắt và tôn lợp mái , đã trả tiền đầy đủ . Em hãy liên hệ với họ để nhận về làm cái mái cho xong nhé. Sắp lụt to rồi , cả khu nhà ở của em sẽ ngập trong ít ngày tới . Nhớ chuẩn bị đầy đủ đồ ăn trong những ngày lũ lụt nhé. Tôi sẽ phù hộ cho em tai qua nạn khỏi.
Ngoài cửa nhà xác chợt lao sao tiếng người , tiếng khóc , tiếng gọi tên tôi nghe sầu thăm thẳm. Mấy đứa em gái và 2 đứa con tôi tất tả đi vào. 
Từ lúc nhận được tin tôi bị tai nạn cách nhà gần 300 km , chúng vội thuê xe lên đây. Trời Tây Bắc đang mưa sụt sùi , nhiều đoạn đường bị ngập và sụt lở đất cực kì nguy hiểm. Các đoạn đường như Tân Lạc ,Tòng Đậu , Đèo Thung Khe , Vân Hồ ,Chiềng Hắc Mộc Châu , Yên Châu nhiều đoạn nước ngập gần hết bánh xe, nước suối dâng lên ngập đường Quốc lộ 6 . Bình thường mực nước suối cách mặt đường 6 từ 15 – 20 m , bây giờ chỉ còn nhìn thấy những cây cột mốc nhô phần sơn đỏ lên khỏi mặt nước . Mưa lâu ngày tích đầy nước trong các lớp đất tà luy , chỉ cần thêm một chút nước nữa là các mái tà luy lật nhào xuống mặt đường kèm theo dòng lũ quét sẽ cuốn phăng tất cả xuống vực . May mà nhỏ em tôi thuê được chiếc xe 7 chỗ gầm cao mà mất gần 10 tiếng đồng hồ chúng mới lên được tới đây. Chiếc xe thứ 2 chở bà vợ tôi cùng vài người nữa không thể đi được phải ngủ lại tại thị trấn Mộc Châu.
Người ta kêu gia đình tôi ký biên bản để tiến hành thủ tục khám nghiệm tử thi. Thần thức tôi vẫn bay từ góc này qua góc khác của nhà xác và tôi vẫn chăm chú xem phía dưới họ đang làm những gì với cái thân xác nhầu nhĩ của mình.
Khi họ đọc biên bản pháp y tôi chú ý những dòng : “ Mổ tử thi – Phẫu thuật mổ ngực : Trong khoang ngực phải có nhiều máu loãng , máu đen , khối lượng khoảng 300 ml . Phổi phải phía dưới xẹp , mặt trước có 3 vết rách nhu mô phổi . Kiểm tra thấy gãy xương sườn số 4,5,6,7,8,9 đầu xương gãy chọc vào khoang phổi.” Xác tôi được bàn giao cho gia đình.
Mấy đứa em và con tôi mệt quá đã về nhà trọ ngủ. Trong nhà xác chỉ còn cô người tình của tôi và 2 vợ chồng đứa em một người bạn tôi trên Hát Lót tiến hành lau rửa và thay quần áo cho tôi. Bàn tay run rảy của cô ấy cứ run lên khi chạm vào thân thể thôi. Thấy vậy cậu em của bạn tôi phải thay thế cho cô , lau chùi cho tôi thật kỹ lưỡng và thay đồ mới cho tôi. Từ chiều cậu ta đã điện thuê từ Thành phố Sơn La mang về đây một cái quan tài tự làm lạnh vì nhà xác ở Mai Sơn không có phòng lạnh giữ tử thi .Như vậy tôi đã là kẻ chết không toàn thây. Người ta đưa tôi vào một cái quan tài tự làm lạnh. Bỗng nhiên Thần thức tôi như mất điện , từng làn sương trắng bao phủ và tất cả dần dần chìm vào cõi hư vô yên tĩnh đến rợn người.
CHƯƠNG 2. THỜI THƠ ẤU CỦA TÔI .
( Xin theo dõi phần tiếp theo - dienbatn )
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *