Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 7.
Trong việc Thu Khí - Trấn trạch, việc tiên quyết là phải xác định được thời gian đóng mở Huyệt.Phép TÝ - NGỌ LƯU CHÚ cũng như các phép LINH QUY BÁT PHÁP , PHI ĐẰNG PHÁP đều là những phép THỜI ĐIỀU TRỊ từ thời cổ xưa . Người xưa cho rằng , nắm được các phương pháp này thì nghệ thuật chữa bệnh hay làm Phong thủy được nâng cao tột bậc , có hiệu quả hơn hẳn , tác dụng nhanh và chính xác hơn , ví như chèo thuyền gặp nước xuôi .. nhất là với những ca cấp tính . Lý thuyết về vấn đề này rất chuyên sâu, dienbatn chỉ xin nêu sơ qua ở phần trên, tùy Duyên người áp dụng.
Xin theo dõi tiếp BÀI 8. Thân ái. dienbatn
TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 6.
IV.NGUYÊN LÝ VÀ TÁC DỤNG CỦA TRẬN ĐỒ THU KHÍ VÀ CHỈNH HƯỚNG DÒNG KHÍ.
I. TÍNH CHẤT CỦA THẠCH ANH KHI THU KHÍ .
“1/Thành phần hoá học và cấu trúc tinh thể
Trong thành phần của thạch anh ngoài thành phần chính
còn có thể chứa một số chất hơi, chất lỏng: CO2, H2O, NaCl, CaCO3,... Các
khoáng vật của nhóm thạch anh có công thức rất đơn giản SiO2, là một loạt biến
thể đa hình gồm 3 biến thể độc lập: thạch anh, tridimit và cristobalit và tuỳ
thuộc vào nhiệt độ, chúng sẽ tồn tại ở các dạng nhất định.
Biến thể nhiệt độ cao của thạch anh kết tinh trong hệ
lục phương, biến thể thạch anh vững bền ở nhiệt độ dưới 573 °C kết tinh trong
hệ tam phương. Dạng tinh thể thường hay gặp là dạng lưỡng tháp lục phương với
các mặt lăng trụ rất ngắn hoặc không có. Thạch anh chỉ thành những tinh thể đẹp
trong các hỗng hoặc các môi trường hở, có trường hợp gặp các tinh thể nặng tới
một vài tấn có khi tới 40 tấn. Dạng tinh thể của thạch anh khá đa dạng nhưng
đặc trưng là thường gặp các mặt m [0111], và có vết khía ngang trên mặt, mặt
khối thoi r [1011] và z [0111], lưỡng tháp phức tam phương s [1121], khối mặt
thang x [5161]... Ngoài hai biến thể kết tinh thạch anh còn có loại ẩn tinh có
kiến trúc tóc: canxedon và thạch anh khác nhau chỉ do quang tính.
Trong thạch anh thường gặp các bao thể thể khí lỏng
tạo thành bao thể hai pha. Các bao thể rắn thường gặp nhất là các bao thể kim
que của rutin tạo thành những đám bao thể dạng búi tóc hay "tóc thần vệ
nữ" cùng với các bao thể tourmalin, actinolit dạng sợi, clorit màu lục,
gơtit, hematit màu nâu đỏ và màu cam và một số các bao thể khác nữa.
2/Các tính chất vật lý và quang học.
Tính đa sắc: Thay đổi tuỳ thuộc vào màu của viên đá
Tính phát quang: Loại rose quartz phát quang màu tím
lam nhạt, các biến thể của thạch anh trơ dưới tia cực tím.
Màu sắc của thạch anh rất đa dạng nhưng phổ biến nhất
là những loại không màu, màu trắng sữa và màu xám và theo màu sắc thạch anh
mang các tên khác nhau như: Pha lê trong suốt; Amethyst: màu tím; Citr:
Màu vàng; Smoky quartz: màu ám khói, khi rất tối gọi là
"Morion"; Rose quartz: màu đỏ; Aventurin quartz: màu lục; Dumortierit
quartz: màu lam đậm hoặc lam tím; Milky quartz: màu trắng tới màu xám; Siderit
hoặc sapphire quartz rất ít gặp, chúng thường có màu lam pha chàm.
3/Các hiệu ứng quang học đặc biệt:
Hiệu ứng mắt hổ (tiger’s eye): Là một hiệu ứng đặc
biệt thường thấy ở các biến thể của thạch anh và đặc trưng cho các biến thể có
màu từ vàng nâu nhạt tới nâu và đỏ nhạt, lam nhạt hoặc thậm chí màu đỏ và ở các
loại bán trong. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự sắp xếp có định hướng
của các bao thể dạng sợi bên trong viên đá. Khi viên đá được mài cabochon sự
phản xạ của ánh sáng trên bề mặt sẽ cho ta hiệu ứng "mắt hổ" rất đẹp.
Hiệu ứng mắt mèo "cat’s eye": Cũng giống như
hiệu ứng mắt hổ nhưng chúng thể hiện đẹp hơn và rõ nét hơn và thường gặp trong
các biến thể bán trong và có màu trắng tới màu xám nâu vàng lục nhạt, đen hoặc
màu lục oliu tối.
Hiệu ứng sao: Thạch anh hồng và một số biến thể màu
xám hoặc màu sữa thường có hiện tượng sao 6 cánh giống như hiệu ứng sao trong
ruby và saphia.
Một đặc tính quan trọng của tinh thể thạch anh là nếu
tác động bằng các dạng cơ học đến chúng (âm thanh, sóng nước...) vào tinh thể
thạch anh thì chúng sẽ tạo ra một điện áp dao động có tần số tương đương với
mức độ tác động vào chúng, do đó chúng được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực.
Chẳng hạn kiểm soát những sự rung động trong các động cơ xe hơi để kiểm soát sự
hoạt động của chúng và được ứng dụng nhiều trong các ngành công nghệ như: làm
vật cộng hưởng, vật liệu áp điện hiệu ứng phát quang âm cực.
Những tinh thể
thạch anh đầu tiên được sử dụng bởi chúng có tính chất "áp điện", có
nghĩa là chúng chuyển các dao động cơ khí thành điện áp và ngược lại, chuyển
các xung điện áp thành các dao động cơ khí. Tính chất
áp điện này được Jacques Curie phát hiện năm 1880 và từ đó chúng được sử dụng
vào trong các mạch điện tử do tính chất hữu ích này.
Lần đầu tiên Walter G. Cady ứng dụng thạch anh vào một
bộ kiểm soát dao động điện tử vào năm 1921. Ông công bố kết quả vào năm 1922 và
đến năm 1927 thì Warren A. Marrison đã ứng dụng tinh thể thạch anh vào điều
khiển sự hoạt động của các đồng hồ.
Thạch anh ở dạng hạt (cát, bột) được sử dụng làm vật
liệu đánh bóng, là vật liệu quan trọng trong công nghệ bán dẫn.
Nếu như thạch anh vàng được xem là loại đá chiêu mời
tài lộc thì thạch anh xanh lại được nhấn mạnh về khả năng trấn an cảm xúc, giúp
cho tâm trí luôn bình tĩnh, thư giãn, trong khi thạch anh đen thường được nhắc
đến với công dụng trừ tà và kích thích sự sáng tạo.
Các ứng dụng trong Phong Thủy để tăng năng lượng cho
nhà ở, công ty được các nhà phong thủy ưa chuộng sử dụng. Vì giá thành rẻ và
Việt Nam có khá nhiều nên Thạch Anh là ưu tiên hàng đầu trong lĩnh vực phong
thủy và năng lượng.
Ứng dụng thường thấy nhất là trong lĩnh vực trang sức,
thạch anh thường được chế tác thành các chuỗi hạt để đeo bên người nhằm tăng
năng lượng cho cơ thể. Đá tự nhiên nên không hạt nào giống hạt nào, không chiếc
vòng nào giống chiếc vòng nào. Vì vậy, giá cũng tùy thuộc vào chiếc vòng bạn
lựa chọn (độ lớn hạt, độ trong…).
Khoáng chất thạch anh có một số đặc tính vật lý độc
nhất rất khác so với các chất rắn khác (như nhựa, gỗ, bê tông hoặc thủy
tinh). Ví dụ, một số có thể thay đổi màu sắc tùy thuộc vào góc nhìn của
người xem, một số khác lại có thể tạo áp lực khi tiếp xúc với từ trường của đá.
Nguyên nhân của những trạng thái kỳ lạ này là do bản
chất tinh thể của khoáng chất. Trong mỗi tinh thể, các nguyên tử được sắp xếp
một cách trật tự và cố định cụ thể. Cấu trúc hình học của các nguyên tử này
không chỉ phản ánh trong tính chất đối xứng của tinh thể, mà còn trong tính
chất đẳng hướng hoặc dị hướng của nó . Một chất phản ứng khác nhau tùy thuộc
vào hướng của một lực bên ngoài được gọi là dị hướng . Các khoáng chất khác
nhau bất đẳng hướng với các mức độ khác nhau, và nhiều tính chất vật lý khác
của thạch anh cho thấy chúng có tính bất đẳng hướng (Bất đẳng hướng là tính
chất của vật thể hay hệ thống khác nhau về cấu trúc hay tính chất ở theo mọi
phương hướng.)
Nhưng không phải tất cả các thuộc tính vật lý đều có
tính bất đẳng hướng. Màu sắc thạch anh có thể biến đổi như quang phổ, nhưng
thạch anh trắng là màu phổ biến nhất, sau đó đến màu trắng đục , màu tím
(Amethyst), hồng (Rose Quartz), màu xám hoặc nâu đến đen (Smoky Quartz) cũng
phổ biến. Các giống cryptocrystalline có thể có nhiều màu.
Độ trong suốt: Tinh thể có thể lad trong suốt hoặc ở
dạng mờ đục.
Cấu trúc tinh thể biến đổi rất nhiều, nhưng cấu trúc
thường thấy nhất là lăng kính lục giác được đúc kết thành một kim tự tháp sáu
cạnh.
Độ cứng : 7.
Trọng lượng riêng: 2,65.
Vân đá màu trắng.
Hình dạng cấu trúc: Các nếp vân trên mặt lăng trụ của
đá chạy vuông góc với trục Cacbon, áp điện và chỉ số khúc xạ là 1.55.
4/Tính quang học: Khi mặt
trời hoặc ánh đèn rọi vào tinh thể, các tia sáng của chúng được định hướng ngẫu
nhiên, không xác định, và ánh sáng như vậy được gọi là vô cực . Nếu tất cả các vectơ điện trường
và từ trường đều có cùng hướng, ánh sáng sẽ phân cực .
5/Tính cách điện: Thạch anh là một chất cách
điện, vì không có các electron tự do di chuyển trong cấu trúc tinh thể của nó
như trong kim loại. Tuy vậy thạch anh lại hấp thụ năng lượng âm của đất trời và
chúng ta có thể cảm nhận được điện trường trong đá khi tiếp xúc.
Khoáng thuộc họ thạch anh: amazonit, tourmaline đặc
biệt elbaite , wolframite , pyrite , rutile , zeolites , Fluorit , canxit ,
vàng , muscovit , topaz , beryl , hematit và spodumen .
6/Phản
ứng khi có tác động từ ánh sáng
Tinh thể vật chất hấp thu tất cả các vạch quang phổ và
lan tràn chúng trải khắp hầu hết các bước sóng, tần số cũng như các màu sắc
khác biệt của 7 sắc cầu vòng.Ngoài ra, Lưỡng thiếc còn được biết là độ đo tầm với
giữa các chỉ số khúc xạ xuất phát từ tia chiếu mà người đặt đã hướng tới nhiều
cột trụ khác nhau có từ tinh thể vật chất.
7/Phản
ứng khi có tác động từ sức nóng.
Đặc trưng của tác động này được biết đến là sự hoà
điệu.Một tinh chất tinh thể trước hết sẽ hấp thu các tro tàn, tiếp sau đó sẽ
đào thải chúng ra dưới tác động tích tụ điện của bề mặt.Ngoài ra, khi đặt trong
không khi lạnh, chúng quay trở về trạng thái lúc ban đầu.Trường hợp khi ta cho
nhiệt độ tăng cao, các tinh thể sẽ nổ lốp đốp nhưng không bị tan chảy.Kết quả
là người ta có thể làm thay đổi màu sắc tuỳ ý cho tinh thể với mức nhiệt ở 450
độ.
Ví dụ như là viên đá thạch anh với tên gọi améthyste
sẽ ngả sang màu vàng chanh, các nguyên tử ion Sắt ở trong vảy cá khi bị kết tụ
sẽ bị thay đổi hình dạng do sức nóng lan toả tạo nên sự khác biệt ở phần kết
cấu cùng với bước sóng tần số của ánh sáng bị tinh thể tnh chất hấp thụ sẽ
chuyển thành phần màu vàng thay thế cho màu tím. Kết quả của sự thay đổi này
làm cho tinh thể hiện lên màu vàng.
8/Phản ứng khi
có tác động từ bên ngoài .
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đên trường hợp điều gì sẽ
xảy ra khi mà chúng ta làm biến dạng một tinh thể hoặc một bản sao của tinh thể
nhờ tác động từ bên ngoài như uốn, xoắn, cắt hay va chạm.Kết quả là nó sẽ phát
ra ánh sáng và điện năng.Nó được gọi với cái tên là phản ứng áp điện (trong Hy
Lạp có nghĩa là ép).Đặc tính này đã được 2 nhà bác học là Pierre và Jacques
Curie phát hiện ra vào năm 1880.Điều này được đúc kết từ sự quan sát các điện
tích xuất phát từ các dấu hiệu đối ngược nhau xuất hiện trên các mặt đối của
một tinh thể khi mà chúng ta thực hiện các thao tác tác động cơ học như là ép,
uốn, xoắn.
Bên trong nguyên tố SiO2 các nguyên tử silice đã hy
sinh đi các électron ngoại biên (peripherique) của nó cho các nguyên tử oxy.Điều
này dẫn tới một cấu trúc hoàn hảo về kết cấu và ổn định về điện năng.
9/Phản ứng với
điện năng.
Dưới những tác động đến từ điện năng, các thanh lá
tinh thể thạch anh bị biến dạng…Các phân tử được nạp vào điện tích âm sẽ chuyển
dần sang đầu cực dương và ngược lại .Sau đó, các tinh thể dãn nở rồi co lại tuỳ
thuộc hoàn toàn vào cơ trục định hướng của cấu trúc cắt của các thanh lá ( bởi
vậy mà trong khi tiến hành thực hiện cảm xạ chúng ta không bao giờ sử dụng đến
đá thạch anh đã trải qua quá trình đun nấu trong lò luyện mà phải dùng đến
chính thạch anh thiên nhiên).
Ngoài ra, với tính chất trên, tinh thể thạch anh được
sử dụng rộng rãi trong các kỹ thuật điện- điện tử để thực hiện các thao tác
cộng hưởng áp điện, các máy siêu âm, các bộ ổn áp có trong các máy phát tần
số bởi vì khi rung động các tinh thể sẽ áp
đặt một tần số ổn định của bản thân nó lên bộ nguồn ở trường điện năng…Một
ví dụ điển hình là đồng hồ quartz, chiếc đồng hô nổi tiếng được làm dựa trên
tần số ổn định của thanh lá thạch anh chỉ kim giây, phút, giờ.Người ta đã sử
dụng đến cả các tinh thể silicum nguyên chất, được lấy từ SiO2 để sản xuất nên
các vật liệu bán dẫn, các transisto, các diode hay các mạch tích phân với trí
nhớ của chúng.
10/Sử dụng trong phong thủy: do cấu tạo về địa chất đặc biệt nên Đá Thạch Anh thu hút năng lượng
dương cực mạnh, đem đến sự may mắn trong công việc, tình yêu, cuộc sống, giúp
chống tà khí, tăng vượng khí cho gia chủ và người dùng,… Hiện nó được ứng dụng trong
phong thủy ở hai khía cạnh là trấn trạch bên ngoài sân vườn và hỗ trợ trong
nhà.
Dùng để chữa bệnh: các biến thể của đá thạch anh được
ứng dụng trong y học giúp giải độc, trị chứng mất ngủ, trị nghiện rượu, làm dịu
tinh thần, lọc máu tốt, điều hòa huyết áp, kháng viêm, giải trừ mệt mỏi, tăng
khả năng miễn dịch, phòng chống các tia bức xạ,…
11/Các biến thể của Đá Thạch Anh?
Biến thể của Đá Thạch Anh có nhiều loại, mỗi một biến
thể có tên gọi dựa vào màu sắc đặc trưng của chúng. Các biến thể đó là:
Thạch anh ám khói (Smokey Quartz): là loại đá có màu
ám ánh xanh, nâu ánh xanh, nâu sẫm. Loại biến thể này được tìm thấy ở một số
vùng của nước ta với số lượng ít như: Nghệ An, Thanh Hóa, Gia Lai và Kon Tum.
Thạch anh hồng là một biến thể của Đá Thạch Anh với
tên gọi khoa học là Pink Quartz với màu hồng đặc trưng. Thạch anh hồng phân bố
nhiều ở các nước Brazil, Trung Quốc và Nga. Ở nước ta, trữ lượng thạch anh hồng
cũng rất ít và chất lượng không được cao cho lắm, nó được tìm thấy ở các mỏ tại
Đăk Nông và Đà Nẵng.
Thạch anh đen có tên khoa học là Morion, chúng có màu
đen và phân bố nhiều ở các nước: Cộng Hòa Séc, Pháp, Brazil,.. Riêng ở nước ta,
chúng ta cũng có thể tìm thấy thạch anh đen tại một số tỉnh như: Kon Tum, Thanh
Hóa và cả Nghệ An.
Thạch anh pha lê (Crystal Quartz): đây cũng là một
biến thể của Đá Thạch Anh, với tên gọi như vậy nên màu sắc đặc trưng của chúng
sẽ là màu trong suốt như pha lê. Thụy Sĩ, Nga, Pháp,… là những nước có trữ
lượng thạch anh pha lê nhiều nhất. ở Việt Nam, thạch anh pha lê được tìm thấy ở
một số tỉnh Bắc Trung Bộ và Bắc Tây Nguyên xong giá trị của chúng không được
cao.
Thạch anh tóc: cũng là một dạng biến thể của Đá Thạch
Anh với tên gọi Rutilated Quartz. Thạch anh tóc thường có các màu: đỏ, xanh,
vàng, đen và được tìm thấy nhiều ở Brazil, Pakistan, Na Uy, Úc,… Ở nước ta cũng
có sự hiện diện của thạch anh tóc tại một số địa phương nhưng chất lượng và giá
trị không đạt tiêu chuẩn.
Thạch anh tím (Amethyst): biến thể này có màu tím hoặc
tím ánh hồng, phân bố nhiều ở một số nước trên thế giới như Nga, Hi Lạp,… và có
mặt ở một số tỉnh của nước ta như Gia Lai, Bà Rịa – Vùng Tàu và Thanh Hóa.
Thạch anh vàng chanh: có tên khoa học là Critrine với
màu vàng ánh nâu hoặc ánh đỏ. Chúng cũng được tìm thấy với trữ lượng lớn tại
Brazil, Tây Ban Nha, Pháp,…” – ( dienbatn sưu tầm mà quên mất
nguồn ).
Dựa vào các tính chất trên,
chúng ta có thể tạo ra 5 vòng tròn đồng tâm bằng đá Thạch anh với việc phối màu
sắc theo ngũ hành tương sinh từ vòng ngoài cùng vào trung tâm. Vòng trung tâm
có ngũ hành trùng với ngũ hành của loại Khí từ Long mạch mà ta muốn thu. Nhờ
các tính chất của các vòng Thạch anh :
·
Có tính chất "áp điện", có nghĩa là chúng chuyển các dao động cơ
khí thành điện áp và ngược lại, chuyển các xung điện áp thành các dao động cơ
khí.
·
Tính quang học: Nếu tất cả các vectơ điện trường và từ trường đều có
cùng hướng, ánh sáng sẽ phân cực .
·
Tính cách điện: Thạch anh là một chất cách điện, vì không có các electron tự do di chuyển
trong cấu trúc tinh thể của nó như trong kim loại. Tuy vậy thạch anh lại hấp
thụ năng lượng âm của đất trời và chúng ta có thể cảm nhận được điện trường
trong đá khi tiếp xúc.
·
Phản ứng khi có tác động từ ánh sáng.
·
Phản ứng khi có tác động từ sức nóng.
·
Phản ứng khi có tác động từ bên ngoài .
·
Phản ứng với điện năng. bởi vì khi rung động các tinh thể sẽ áp đặt một tần số ổn định của bản thân
nó lên bộ nguồn ở trường điện năng.
Những đặc tính vô cùng quý báu đó của Thạch anh, mỗi khi có tác động từ bên
ngoài vào sẽ làm nhưng vòng tròn Thạch anh rung động, tạo nên một trường Khí
thu hút năng lượng từ bên ngoài vào trung tâm trận đồ theo đúng loại Khí có Ngũ
hành mà ta cần.
TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 5.
Như dienbatn đã viết ở phần đầu : "
Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì
trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm
Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại
đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử
Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự
nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi
nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh
khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng
,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh
phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức
tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng
đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa
vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa
thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng
Quái đồ,Hà Lạc. "
1/ TRONG HỆ TỌA ĐỘ THỜI GIAN CỦA THẾ GIỚI
LOÀI NGƯỜI:
Vạn vật và loài người trên Trái Đất khi vận
động và sinh tồn đều phải chịu ảnh hưởng của ba yếu tố Nhật - Nguyệt - Tinh .
Đây chính là những năng lượng cực kỳ hùng hậu tác động vào môi trường sống của
con người và muôn loài trên TRÁI ĐẤT ( Ở đây ta cần phải mở ngoặc nói rõ là
trên Trái Đất chứ chưa phải là trên mọi chiếu không gian khác nhau ) . Vạn vật
trên Trái đất chịu sự chi phối , tác động của Nhật - Nguyệt - Tinh theo từng vị
trí không gian tức thời , tức là theo từng lát cắt của Thời gian . Theo từng tọa
độ tức thời của Thời gian ( hay lát cắt ) , mà mọi vật có những thù hình khác
nhau về tính nết , sức khỏe , tuổi thọ , sự thành đạt . .. Trong Tử vi , Bát tự
Hà - lạc , Tử Bình , Tứ trụ , người ta đều dựa trên đặc tính , tính chất của Nhật-
Nguyệt - Tinh tại từng thời điểm đó mà tính toán vận mệnh của con người .
Từ xưa , các nhà nghiên cứu về Dịch học
cho rằng : nếu Thiên can là Ất - thì chu kỳ vận động của nó là Ất kỳ , tương ứng
với sự ảnh hưởng vận động của Mặt Trời ; Nếu Thiên can là Bính - thì chu kỳ vận
động của nó là Bính kỳ , tương ứng với sự ảnh hưởng vận động của Mặt trăng ; nếu
Thiên can là Đinh - thì chu kỳ vận động của nó là Đinh kỳ , tương ứng với sự ảnh
hưởng vận động của các Tinh tú . Chu kỳ vận động của Tam Kỳ ( Ất kỳ , Bính kỳ ,
Đinh kỳ ) và sáu nhóm Thiên can : Mậu , Kỷ , Canh , Tân, Nhâm , Quý phản ánh
tác động của Nhật- Nguyệt - Tinh lên vạn vật trên Trái Đất , tạo ra những tính
chất cá biệt của số phận vạn vật và con người . Trong Thập thiên can , vị trí
Giáp bị ẩn đi ( nên gọi là ĐỘN GIÁP ) . Có lẽ ngày xưa các nha nghiên cứu đã nhận
xét sự tác động của 9 hành tinh trong hệ Mặt trời nên đã tính toán tác động của
9 hành tinh này qua 9 vận hạn của con người ( Thái Dương , Thái Âm , La Hầu ,
Thổ Tú , Thủy Diệu , Thái bạch , Kế Đô , Vân Hớn ) và 9 hạn ( Huỳnh Tuyền , Tam
kheo , Ngũ Mộ , Thiên Tinh , Toán Tận ,Thiên La , Địa Võng , Diêm Vương ) .
Độn Giáp còn có một tên khác nữa là Thái Ất
( Thái tức là quá ). Trong vòng vận động các vị trí không gian , lần lượt tính
chất âm dương được biểu thị qua Thập Thiên can . Giáp - Dương , Ất - Âm
...Trong trường hợp này , khi Giáp đã ẩn đi , can Ất lại đứng đầu trong chu kỳ
vận động của Nhật- Nguyệt - Tinh , phần nào Ất bị thái quá nên các nhà Dịch học
gọi là Thái Ất . Để có thể tính toán từng vị trí tức thời các tác động của Nhật-
Nguyệt - Tinh lên Trái đất , người ta đã định lượng về Âm - Dương ( Tỷ lệ ) tại
từng Tiết Khí ( Một năm có 24 Tiết Khí - Đây là đơn vị Thời gian của Độn Giáp )
, tỷ lệ đó người ta gọi là CỤC . Như vậy , người ta đã xây dựng được Hệ thức lượng
Độn Giáp ( Tức là tỷ lệ ÂM - DƯƠNG theo đơn vị Thời gian là Tiết Khí ) và qua
đó người ta có thể dự đoán về sự diễn biến các sự vật , con người được sinh ra
tại lát cắt Thời gian đó .
2/ TRONG MỌI CHIỀU KHÔNG GIAN TÍNH THEO HỒNG
BÀNG DỊCH :
Việc tính toán này không chỉ áp dụng cho
con người trên Trái đất , mà có thể tính toán cho tất cả các Thế giới vô hình
khác ở các chiều Không gian khác nhau , dienbatn xin không nêu ra ở đây vì tính
chất cực kỳ phức tạp của nó . Riêng Thế giới loài người trên Trái Đất , ở hệ Tọa
độ Đề các là không gian 3 chiều , kết hợp chiều của Thời Gian , người ta chia
ra làm 4 Kỷ Nguyên của Nhân loại ( Điều này Dịch học bình thường chưa hề có
khái niệm ) . Bốn Kỷ nguyên đó là :
1/ KHẢM - THÁI ÂM TẠI HƯỚNG BẮC - Kỷ
Nguyên THÁI ÂM ( HỦY ) - HẬU THIÊN LÀ CHỦ ĐẠO .
2/ CHẤN MỘC HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ NGUYÊN THIẾU
DƯƠNG ( THÀNH ) - TIÊN THIÊN LÀ CHỦ ĐẠO .
3/ LY - THÁI DƯƠNG HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ
NGUYÊN THÁI DƯƠNG ( THỊNH ) - TIÊN THIÊN CHỦ ĐẠO .
4/ ĐOÀI - THIẾU ÂM HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ
NGUYÊN THIẾU ÂM ( SUY ) - HẬU THIÊN CHỦ ĐẠO .
Đó là 4 pha quan trọng nhất trong quá
trình tiến hóa nhân loại .
A/BÀY BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN :
Người
ta dùng thuật toán Thái Ất để tính được vòng sao BÁT TƯỚNG LÂM MÔN , từ đó có
thể biết được những thăng trầm của ngôi mộ , từ đó có cách xử lý thích hợp khi
thời gian thay đổi .
Thiên Phúc Trận phía Bắc, Địa Tải Trận
phía Nam, Phong Dương Trận phía Tây, Vân Thùy Trận phiá Đông, Long Phi Trận
Đông Nam, Hổ Dực Trận Tây Bắc, Điểu Tường Trận Đông Bắc, Xà Bàn Trận Tây Nam.
Phong Hậu (Thái Bạch Âm Kinh) Bát Trận gọi
là Ác Kỳ Đồ, Thiên Trận Càn Tây Bắc, Địa Trận Khôn Tây Nam, Điểu Tường Trận Ly
Nam, Vân Trận Khảm Bắc, Phong Trận Tốn Đông Nam, Phi Long Trận Chấn Đông, Xà
Bàn Trận Cấn Đông Bắc. Càn Khôn Tốn Khảm là Cửa đóng, Chấn Đoài Ly Cấn cửa mở.
Trong tầng 17 Định Tứ Cát, Tam Kỳ, Bát
Môn, Cửu Tinh, .... gọi Thấu Địa Kỳ Môn chính là dùng Kỳ Môn Độn Giáp để định tử
phụ, tài quan lộc mã quý nhân tam kỳ tứ cát.
Có 9 Đạo Phù, 6 Phù Lục Giáp, 3 Phù Tam Kỳ.
Phù án theo Cục.
Trận có 8 Trận, Thiên trận quẻ Càn, Địa trận
quẻ Khôn, Long trận quẻ Chấn, Phong trận quẻ Tốn, Vân trận quẻ Khảm, Điểu trận
quẻ Ly, Xà trận quẻ Cấn, Hổ trận quẻ Đoài. Mồi cung tùy theo 9 tinh (Bồng Nhậm
Xung Phụ Anh Nhuế Trụ Tâm) gia lâm mà bày trận.
Cửa có 8 cửa, Hưu Sinh Thương Đổ Cảnh Tử
Kinh Khai. Môn theo 9 tinh gia thời 1 đóng 1 mở. Tinh gia thời can dương thì mở,
thời can âm thì đóng. Đóng thì không phá trận được.
Thần có 8 Thần, Trực Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Địa, Cửu Thiên, phân bố theo Chi của Tuần Giáp mà có Bát Thần Lâm Môn trấn giữ 8 cửa.
Tướng có 12 Thiên Tướng Thần Hậu, Đại Cát,
Công Tào, Thái Xung, Thiên Cương, Thái Ất, Thắng Quang, Tiểu Cát Truyền Tòng,
Hà Khôi, và Đăng Minh, phân bố theo Nguyệt Tướng, 4 tướng cư tứ chính, 4 tướng
cư tứ duy, 4 tướng giữ 4 góc trung cung.
Cục 5 ngày đổi 1 cục, sau Đông Chí cục
Dương, sau Hạ Chí cục Âm.
9 Tinh 10 giờ (giờ âm bằng 2 tiếng) đỗi một
lần (tức theo lục giáp tuần)
8 Môn mồi giờ mỗi xoay, đóng mở tuỳ theo
Tinh gia thời can.
B/PHƯƠNG THỨC PHÁ TRẬN:
Trước hết phải biết Cửa ở đâu đóng, cửa ở
đâu mở. Chỉ có cửa mở mới phá được. Muốn vào được cửa thì phải cửa nào ở đâu Thần
gì lâm môn. Qua cửa thì phải Sát Thần (phải biết Ngũ hành của Thần là gì mà ứng
phó).
Qua được cửa thì phải biết trận đang diễn
là trận gì? Quân nào thuộc Can Thiên Địa nào (6 Giáp Thiên Địa, 6 Mậu Thiên Địa,
vv...) đang diễn và tướng nào trong 12 Thiên Tướng đang chỉ huy. Biết được trận
đang diền là trận gì thì phá được. Biết được Tướng đang giữ là tướng nào trong
12 tướng thì bắt được, giết được. Phải phá hết 8 trận thì mới bắt được Chủ
Soái. Lâm Môn Sát Thần, Phá Trận Chém Tướng thì phải ứng dụng Ngũ hành Sinh Khắc.Nhớ
là Trận mỗi giờ mỗi đổi. Các cửa Sinh, Cảnh,
Khai mà vào trận thì tốt lành. Các cửa Thương, Kinh, Hưu mà vào thì thương tổn.
Các cửa Đỗ, Tử mà vào thì tử vong. Qua giờ dương, tám cửa được xếp đặt chỉnh tề,
chỉ có trung gian còn thiếu người trấn giữ. Như theo góc Đông Nam, cửa thượng
Sanh, mà kích nhập, đánh thẳng qua cửa Cảnh ở chánh Tây mà xông ra ắt trận thế
phải loạn. Bí quyết Bát Trận của Khổng Minh, là ở
trong Kỳ Môn Độn Giáp. Phá trận quan trọng nhất là chử Thời, không nói đến chử
thời thì làm sao biết trận nào đóng trận nào mở, đã đóng thì khó mà phá nỗi.
Phá trận phải ứng dụng Ngũ Hành. Tại phần trung cung , nên có Chủ trận bày theo Ngũ hành
- Âm dương và xoay chủ trận theo 360 độ , như vậy , trận pháp này sẽ xoay theo
độ số của Trời - Đất , biến ảo khôn lường . Nên đặt Thất Tinh Bắc Đẩu vào trung cung theo
phương vị tại thiên Chủ trận giống như kim chỉ Nam của Địa bàn và là cái bất biến
theo từng cung độ . Dĩ bất biến - Ứng vạn biến chính là đây .
Ngoài Trận Pháp ra, thì Kỳ Môn Độn Giáp củng
là một môn huyền học cao siêu, về mặt này thì phải nghiên cứu quyển “Vạn Pháp
Qui Tông” sẻ thấy được phù trú về Lục Giáp, Lục Đinh, Cửu Thiên Huyền Nử,
vv....
Thật ra trận kỳ môn chủ yếu sử dụng Thiên
Can và Bắc Đẩu Thất Tinh, nếu kết hợp thêm Thái Ất và Lục Nhâm vào thì thật là
Quỉ Khóc Thần Sầu . Lục Nhâm chuyên về địa chi, Thái Ất chuyên về tinh đẩu vận
hành, Kỳ Môn về thiên can, nếu kết hợp được 3, Tam Thức Hợp Nhất, thông cả tam
tài thiên địa nhân, trên biết thiên vận, dưới thấu địa lý, giữa tri nhân sự. Việc
sử dụng “Đạp Khôi Cương Bộ Đẩu” pháp. Bộ pháp này dùng để thông thần mà sai khiến Lục Đinh Lục Giáp. Muốn khiển
Lục Đinh - Lục Giáp mà không biết bộ pháp thì cũng hoài hơi .
Ngoài bộ này ra thì còn nhiều bộ khác nửa:
- Đạp Tiên Thiên Bát Quái Quyết Bộ Cương pháp.
- Đạp Thất Tinh Pháp Quyết Bộ Cương pháp.
- Hậu Thiên Đạp Bát Quái Bộ Cương pháp.
- Thái Ất Phản Quái Bộ Cương pháp.
- Tam Nãi Phu Nhân Đạp Bộ Cương pháp.
- Thái Ất Chánh Nhân Bộ Cương pháp.
- Ngọc Nử Quá Hãi Cương quyết.
- Bộ Âm Đẩu, Bộ Dương Đẩu.
C/ ÁP DỤNG TRẬN PHÁP BÁT QUÁI ĐỒ LÊN MỘ PHẦN.
Trong việc áp dụng trận pháp Bát quái đồ lên mộ
phần của dienbatn được sử dụng như sau :
1. VỀ HÌNH DẠNG.
Mộ chia làm 3 phần hình Bát quái , tượng trưng
cho Tam tài : THIÊN – NHÂN –ĐỊA. Ba phần này làm bằng đá xanh rêu nguyên khối,
có lỗ rỗng ở giữa để thu khí và làm trục xoay cho cả 3 tầng trận pháp. Mỗi tầng
có 8 mặt đều biểu thị cho bát quái CÀN – KHẢM – CẤN – CHẤN –TỐN – LY – KHÔNG –
ĐOÀI. Ba tầng này sẽ xoay theo các chiều Âm – Dương khác nhau. Bát môn có các cửa : Hưu - Sinh - Thương - Đỗ -
Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Trận đồ này áp dụng theo thuật số của Hà đồ - Lạc thư
với hai vòng quay thuận - nghịch theo Thời gian.
Ăng ten Parabol .
Là anten có tính định hướng tương đối cao, sử dụng chủ yếu ở dải sóng cực
ngắn thông tin di đông và vệ tinh. Anten parabol trong các nguồn khoa học có thể
được gọi là anten phản xạ hoặc anten phản xạ parabol. Đây là một thiết bị công nghệ
được thiết kế để thu năng
lượng. Rơi vào nó, một sóng phẳng được biến đổi thành một hình cầu và
tập trung tại tiêu điểm. Quá trình ngược lại cũng có thể xảy ra, khi sóng hình
cầu được biến đổi thành sóng phẳng. Điều này đòi hỏi các loại và hình thức khác
nhau của thiết bị, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi sử dụng dự kiến. Hình dạng
parabol của phản xạ là chìa khóa cho hoạt động của nó - đặc biệt là độ lợi và
tính trực tiếp của nó. Như tên của nó, phản xạ parabol được hình thành từ một hình dạng được gọi
là paraboloid. Hình dạng này tạo thành bề mặt phản xạ trong ăng-ten cho phép
sóng phản xạ bởi bề mặt để duy trì mối quan hệ pha của chúng, nhờ đó cho phép
đạt được độ lợi tối đa.
Nói cách khác, năng lượng RF ở dạng sóng điện từ di chuyển tới ăng ten
trong mặt sóng phẳng sẽ được phản xạ bởi phản xạ và vẫn ở pha tại tâm điểm.
Bằng cách này, toàn bộ tín hiệu vẫn còn trong pha và không có hủy bỏ. Điều này
có nghĩa là tín hiệu tối đa được duy trì. Các tín hiệu ngược được phát ra từ
tiêu điểm sẽ được phản xạ bởi bộ phản xạ parabol và tạo thành một mặt sóng song
song (trong pha) di chuyển ra ngoài từ ăng-ten.
Điều này có nghĩa là tính toàn vẹn pha của hệ thống được giữ lại. Sóng đến
thêm tại tiêu điểm, và sóng đi tạo ra một mặt sóng đơn di chuyển song song với
phản xạ.