TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 7.

7/19/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 7.


II. MỘT CHÚT KHÁI NIỆM VỀ HỆ THỐNG KINH , MẠCH , HUYỆT, LẠC. 
1/HUYỆT : Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ.Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ.Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh,Mạch,Lạc nằm ở những nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt.Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt.Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong,từ dưới lên trên,từ trong ra ngoài,trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm,một mạch Đốc,12 đường Kinh chính,cộng thành 14 Huyệt Kinh.có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt.Hệ thống Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc tiếp nhận Thiên khí,Địa khí,Thời khí,có tính chất Âm Dương Ngũ hành.Nhờ hệ thống trên,ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận.Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh. 
2/KINH :Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia.Các đường đó đi lắt léo,chồng chất qua rất nhiều chỗ;liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương ,Ngũ hành,liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống,tinh thần con người,vì vậy mà gọi là Kinh. 
3/MẠCH :Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra.Nó đi khắp nơi,phân chia ra nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc. 
4/LẠC :Nó là các đường của Kỳ huyệt ,nhiều hơn Kinh,Mạch,nhỏ hơn nhiều.Nó đi ngang,tắt ,chằng chịt,chi chít,khó tìm hơn.Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt,nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ,dùng để định Tâm,an Lạc.Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chử An lạc? 
Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại. 
*Nội kinh : là phần kinh của 14 đường Kinh,Mạch chính,quan hệ với Tạng phủ,chuyển dần sang các chi nhánh,Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh liên quan đến các tương quan,phản xạ,phát sinh Ngoại giao cảm,giữa Linh hồn,Vía,Phách và thể xác. 
* Ngoại Kinh :Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp.Ví dụ cụ thể như :có người đã bị chết lâm sàng,tiêm,chích thuốc theo Tây Y không được,nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm,day,châm,cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được.Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết ,trở về nhập vào cơ thể.Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể.Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén,rất công hiệu,có thể cứu mệnh con người,trong nhiều trường hợp nguy cấp .Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này,song họ vẫn cho đó là Thần bí. 
Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm,Đốc ;12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc,và vô số Huyệt. 
Xin nói thêm về Huyệt :Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội,đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm.Có các loại Huyệt là Du huyệt,Mộ huyệt,Nguyên huyệt,Lạc huyệt,Khích huyệt... 
Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật.Theo người viết được biết :Có 36 Huyệt đạo Kinh,nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người .Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ.Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế ,tật nguyền,rất khó chữa trị.Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh.Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người.Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh ,Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người.Các hệ thống khác như Kinh,Mạch,Huyệt,Lạc,gắn kết lục phủ ,ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn,mạnh thì dẫn đến tử vong ,nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền,rất kho chữa trị.Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.
Theo nguyên lý "Con người là tiểu Vũ trụ "thì Âm Dương ,Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt.Các đường Kinh thứ nhất :Can -Đởm,Tâm -Tiểu trường,Tỳ -Vị,Phế -Đại trường,Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu.Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính.Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình. 
Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương,còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm. 
Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm. 
Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa.Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu,Trung tiêu,Hạ tiêu. 
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với Bán cầu não Phải ),nhánh phải thuộc Âm ( đối ứng với Bán cầu não trái ). 
Từ đó các Huyệt được chia ra :Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm. 
Trong thuật Phong thủy,Khí là một hiện tượng rất khó giải thích ,nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong thủy.Nhận định đúng về khí là chỉa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong thủy.Theo quan niệm Á đông,Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật.Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh của Vũ trụ.Người xưa có câu :Tụ là hình tán là Khí .Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí,gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo,đếm được.Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh ,Mạch,Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa.Người ta phát hiện rằng :Khí vận hành trong Kinh,Lạc như một dòng nước,chỗ đi ra gọi là Tĩnh,trôi chẩy gọi là Huỳnh,dồn lại gọi là Du,đi qua gọi là Kinh,,nhập lại gọi là Hợp.Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó.Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan,bộ phận của một Tạc tượng.Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí,có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp.Đó là trên cơ thể con người,còn trong Phong thủy ,người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất,tương tự như hệ thống mạch,Huyệt trong Đông Y.Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước,nước giúp Khí di chuyển,nước đi thì Nguyên Khí cũng đi,nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng.Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước (nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn ).Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí ,dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình,còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng ,vô tận.Mặt khác ,có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương :Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống,nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào.Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống ,dòng họ.Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều,nên trong lý thuyết về Nhạc,loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia ).Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống. 
Mỗi một Huyệt vị có thời gian đóng và mở riêng của nó -Tức là thời gian ứng nghiệm.Khi muốn tác động vào một Huyệt vị nào đó cần phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác dụng.Khi dùng thủ thuật Trấn (đè lên ); Yểm (Chôn xuống )cho thay đổi kết cấu của cả một vùng đất để có thể xây dựng cả một Kinh thành thì sự hiểu biết phải vô cùng chính xác.Tiếc rằng kinh nghiệm này không được phổ biến rộng rãi nên thất truyền lần lần . Mà đó cũng là một điều may mắn cho Nhân loại vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái đất chúng ta sẽ đi về đâu?Tuy nhiên trong Lịch sử cũng chỉ ra rằng có rất nhiều ngưởi có khả năng đó.Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết Lịch sử -Tất nhiên vì chỉ có những người Trấn yểm mới biết,những sự việc được ghi nhận là do kể lại nên mất tính chất trung thực .Tuy nhiên ,không thiếu dẫn chứng trong lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó.
TÝ - NGỌ LƯU CHÚ là hai tự trong 12 Địa Chi , chỉ về Thời gian . Hàm ý quá trình ÂM - DƯƠNG biến hóa , tiêu , trưởng của Thời gian . Trong một ngày thì giờ Tý ( 23 - 1g ) ở nửa đêm là lúc Âm thịnh nhất ( cũng là lúc Dương bắt đầu được sinh ra . Giờ Ngọ ( 11 - 13 g ) vào lúc giũa trưa , lúc Dương thịnh nhất ( Cũng là lúc Âm mới sinh ra ) . 
Trong một năm thì tháng Tý ( Theo âm lịch kiến Dần hiện nay là tháng 11 ) là tiết Đông Chí , là thời kỳ Âm thịnh nhất nhưng cũng là thời kỳ Dương được sinh ra . Tháng Ngọ ( Tháng 5 Âm lịch ) chứa tiết Hạ Chí là thời khí Dương cực thịnh , nhưng đồng thời cũng là thời kỳ " Nhất Âm sinh " .
Hai từ LƯU - CHÚ có nghĩa là chỉ vào sự chu lưu , tưới rót của Khí trong các Kinh , Mạch .
Thuật ngữ TÝ - NGỌ LƯU CHÚ có hàm nghĩa : Khí thịnh , suy , lưu động trong các Kinh mạch ( Hay Long mạch cũng vậy ) theo nhịp điệu của thời gian chuyển biến . TÝ - NGỌ LƯU CHÚ PHÁP là một phép Thời châm , chọn Huyệt Khai , Mở theo giờ thịnh , suy ( Huyệt mở hay đóng ) của Khí trong Kinh mạch ( Hay Long mạch ) . Nó sử dụng 66 Huyệt Ngũ du của 12 chính Kinh làm Huyệt chủ .
Phép TÝ - NGỌ LƯU CHÚ cũng như các phép LINH QUY BÁT PHÁP , PHI ĐẰNG PHÁP đều là những phép THỜI ĐIỀU TRỊ từ thời cổ xưa . Người xưa cho rằng , nắm được các phương pháp này thì nghệ thuật chữa bệnh hay làm Phong thủy được nâng cao tột bậc , có hiệu quả hơn hẳn , tác dụng nhanh và chính xác hơn , ví như chèo thuyền gặp nước xuôi .. nhất là với những ca cấp tính .
Trong bài " Luận về phép Tý Ngọ Lưu Chú " - Từ Văn Bá ( Từ Thị ) viết : " Nói phép Tý - Ngọ Lưu Chú là nói cương nhu tương phối , Âm - Dương tương hợp , Khí Huyết tuần hoàn , giờ Huyệt mở , đóng " ( Theo Châm cứu Đại thành của DƯƠNG KẾ CHÂU ) .Cương , nhu ở đây là nói về Tạng phủ , Kinh mạch . Âm - Dương ở đây là nói về Can - Chi phối với Âm - Dương . Nội dung chủ yếu của phép Thời châm này bao quát : Thiên Can , Địa Chi , Âm Dương , Ngũ Hành , Tạng phủ , Kinh lạc cho đến các Huyệt Tỉnh , Vinh , Du , Nguyên , Kinh , Hợp ....
Ngày phối Kinh , giờ phối Huyệt . Mỗi ngày ( Can ) có một đường Kinh chủ đạo đồng tính Âm Dương - Ngũ hành với nó . Ngày Kinh chủ đạo bắt đầu và kết thúc vào giờ đồng Can với ngày lịch . Dương Kinh dẫn Khí đi trước , Âm Kinh dẫn Huyết đi trước . Ngày Dương ( Can , Chi ) , giờ Dương Khai ( mở ) Huyệt Dương . Ngày Âm , giờ Âm Khai Huyệt Âm vì Dương gặp Âm thì đóng lại . Gặp các trường hợp này thì dùng nguyên tắc tương hợp như Giáp ( 1 ) hợp Kỷ ( 6 ) ....và nguyên tắc " Bổ tả Huyệt Mẹ con " để giải quyết .
Phần lý thuyết tuy đơn giản như vậy , song khi bước vào thực tế thật là vô cùng nguy hiểm . Các bạn cứ tưởng tượng một bánh xe đang quay tít mà tính được đúng thời điểm có thể chọc một cây đũa vào khe hở giữa hai cái Nan hoa là khó khăn như thế nào , hơn thế nữa , mỗi sai lầm đều phải trả giá bằng tính mạng của chính mình .

Trong việc Thu Khí - Trấn trạch, việc tiên quyết là phải xác định được thời gian đóng mở Huyệt.Phép TÝ - NGỌ LƯU CHÚ cũng như các phép LINH QUY BÁT PHÁP , PHI ĐẰNG PHÁP đều là những phép THỜI ĐIỀU TRỊ từ thời cổ xưa . Người xưa cho rằng , nắm được các phương pháp này thì nghệ thuật chữa bệnh hay làm Phong thủy được nâng cao tột bậc , có hiệu quả hơn hẳn , tác dụng nhanh và chính xác hơn , ví như chèo thuyền gặp nước xuôi .. nhất là với những ca cấp tính . Lý thuyết về vấn đề này rất chuyên sâu, dienbatn chỉ xin nêu sơ qua ở phần trên, tùy Duyên người áp dụng.

Xin theo dõi tiếp BÀI 8. Thân ái. dienbatn  

Xem chi tiết…

TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 6.

7/17/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 6.


IV.NGUYÊN LÝ VÀ TÁC DỤNG CỦA TRẬN ĐỒ THU KHÍ VÀ CHỈNH HƯỚNG DÒNG KHÍ.

I. TÍNH CHẤT CỦA THẠCH ANH KHI THU KHÍ .

1/Thành phần hoá học và cấu trúc tinh thể

Trong thành phần của thạch anh ngoài thành phần chính còn có thể chứa một số chất hơi, chất lỏng: CO2, H2O, NaCl, CaCO3,... Các khoáng vật của nhóm thạch anh có công thức rất đơn giản SiO2, là một loạt biến thể đa hình gồm 3 biến thể độc lập: thạch anh, tridimit và cristobalit và tuỳ thuộc vào nhiệt độ, chúng sẽ tồn tại ở các dạng nhất định.

Biến thể nhiệt độ cao của thạch anh kết tinh trong hệ lục phương, biến thể thạch anh vững bền ở nhiệt độ dưới 573 °C kết tinh trong hệ tam phương. Dạng tinh thể thường hay gặp là dạng lưỡng tháp lục phương với các mặt lăng trụ rất ngắn hoặc không có. Thạch anh chỉ thành những tinh thể đẹp trong các hỗng hoặc các môi trường hở, có trường hợp gặp các tinh thể nặng tới một vài tấn có khi tới 40 tấn. Dạng tinh thể của thạch anh khá đa dạng nhưng đặc trưng là thường gặp các mặt m [0111], và có vết khía ngang trên mặt, mặt khối thoi r [1011] và z [0111], lưỡng tháp phức tam phương s [1121], khối mặt thang x [5161]... Ngoài hai biến thể kết tinh thạch anh còn có loại ẩn tinh có kiến trúc tóc: canxedon và thạch anh khác nhau chỉ do quang tính.

Trong thạch anh thường gặp các bao thể thể khí lỏng tạo thành bao thể hai pha. Các bao thể rắn thường gặp nhất là các bao thể kim que của rutin tạo thành những đám bao thể dạng búi tóc hay "tóc thần vệ nữ" cùng với các bao thể tourmalin, actinolit dạng sợi, clorit màu lục, gơtit, hematit màu nâu đỏ và màu cam và một số các bao thể khác nữa.

2/Các tính chất vật lý và quang học.

Tính đa sắc: Thay đổi tuỳ thuộc vào màu của viên đá

Tính phát quang: Loại rose quartz phát quang màu tím lam nhạt, các biến thể của thạch anh trơ dưới tia cực tím.

Màu sắc của thạch anh rất đa dạng nhưng phổ biến nhất là những loại không màu, màu trắng sữa và màu xám và theo màu sắc thạch anh mang các tên khác nhau như: Pha lê trong suốt; Amethyst: màu tím; Citr:  Màu vàng; Smoky quartz: màu ám khói, khi rất tối gọi là "Morion"; Rose quartz: màu đỏ; Aventurin quartz: màu lục; Dumortierit quartz: màu lam đậm hoặc lam tím; Milky quartz: màu trắng tới màu xám; Siderit hoặc sapphire quartz rất ít gặp, chúng thường có màu lam pha chàm.

3/Các hiệu ứng quang học đặc biệt:

Hiệu ứng mắt hổ (tiger’s eye): Là một hiệu ứng đặc biệt thường thấy ở các biến thể của thạch anh và đặc trưng cho các biến thể có màu từ vàng nâu nhạt tới nâu và đỏ nhạt, lam nhạt hoặc thậm chí màu đỏ và ở các loại bán trong. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự sắp xếp có định hướng của các bao thể dạng sợi bên trong viên đá. Khi viên đá được mài cabochon sự phản xạ của ánh sáng trên bề mặt sẽ cho ta hiệu ứng "mắt hổ" rất đẹp.

Hiệu ứng mắt mèo "cat’s eye": Cũng giống như hiệu ứng mắt hổ nhưng chúng thể hiện đẹp hơn và rõ nét hơn và thường gặp trong các biến thể bán trong và có màu trắng tới màu xám nâu vàng lục nhạt, đen hoặc màu lục oliu tối.

Hiệu ứng sao: Thạch anh hồng và một số biến thể màu xám hoặc màu sữa thường có hiện tượng sao 6 cánh giống như hiệu ứng sao trong ruby và saphia.

Một đặc tính quan trọng của tinh thể thạch anh là nếu tác động bằng các dạng cơ học đến chúng (âm thanh, sóng nước...) vào tinh thể thạch anh thì chúng sẽ tạo ra một điện áp dao động có tần số tương đương với mức độ tác động vào chúng, do đó chúng được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn kiểm soát những sự rung động trong các động cơ xe hơi để kiểm soát sự hoạt động của chúng và được ứng dụng nhiều trong các ngành công nghệ như: làm vật cộng hưởng, vật liệu áp điện hiệu ứng phát quang âm cực.

Những tinh thể thạch anh đầu tiên được sử dụng bởi chúng có tính chất "áp điện", có nghĩa là chúng chuyển các dao động cơ khí thành điện áp và ngược lại, chuyển các xung điện áp thành các dao động cơ khí. Tính chất áp điện này được Jacques Curie phát hiện năm 1880 và từ đó chúng được sử dụng vào trong các mạch điện tử do tính chất hữu ích này.

Lần đầu tiên Walter G. Cady ứng dụng thạch anh vào một bộ kiểm soát dao động điện tử vào năm 1921. Ông công bố kết quả vào năm 1922 và đến năm 1927 thì Warren A. Marrison đã ứng dụng tinh thể thạch anh vào điều khiển sự hoạt động của các đồng hồ.

Thạch anh ở dạng hạt (cát, bột) được sử dụng làm vật liệu đánh bóng, là vật liệu quan trọng trong công nghệ bán dẫn.

Nếu như thạch anh vàng được xem là loại đá chiêu mời tài lộc thì thạch anh xanh lại được nhấn mạnh về khả năng trấn an cảm xúc, giúp cho tâm trí luôn bình tĩnh, thư giãn, trong khi thạch anh đen thường được nhắc đến với công dụng trừ tà và kích thích sự sáng tạo.

Các ứng dụng trong Phong Thủy để tăng năng lượng cho nhà ở, công ty được các nhà phong thủy ưa chuộng sử dụng. Vì giá thành rẻ và Việt Nam có khá nhiều nên Thạch Anh là ưu tiên hàng đầu trong lĩnh vực phong thủy và năng lượng.

Ứng dụng thường thấy nhất là trong lĩnh vực trang sức, thạch anh thường được chế tác thành các chuỗi hạt để đeo bên người nhằm tăng năng lượng cho cơ thể. Đá tự nhiên nên không hạt nào giống hạt nào, không chiếc vòng nào giống chiếc vòng nào. Vì vậy, giá cũng tùy thuộc vào chiếc vòng bạn lựa chọn (độ lớn hạt, độ trong…).

Khoáng chất thạch anh có một số đặc tính vật lý độc nhất rất khác so với các chất rắn khác (như nhựa, gỗ, bê tông hoặc thủy tinh).  Ví dụ, một số có thể thay đổi màu sắc tùy thuộc vào góc nhìn của người xem, một số khác lại có thể tạo áp lực khi tiếp xúc với từ trường của đá.

Nguyên nhân của những trạng thái kỳ lạ này là do bản chất tinh thể của khoáng chất. Trong mỗi tinh thể, các nguyên tử được sắp xếp một cách trật tự và cố định cụ thể. Cấu trúc hình học của các nguyên tử này không chỉ phản ánh trong tính chất đối xứng của tinh thể, mà còn trong tính chất đẳng hướng hoặc dị hướng của nó . Một chất phản ứng khác nhau tùy thuộc vào hướng của một lực bên ngoài được gọi là dị hướng . Các khoáng chất khác nhau bất đẳng hướng với các mức độ khác nhau, và nhiều tính chất vật lý khác của thạch anh cho thấy chúng có tính bất đẳng hướng (Bất đẳng hướng là tính chất của vật thể hay hệ thống khác nhau về cấu trúc hay tính chất ở theo mọi phương hướng.)

Nhưng không phải tất cả các thuộc tính vật lý đều có tính bất đẳng hướng. Màu sắc thạch anh có thể biến đổi như quang phổ, nhưng thạch anh trắng là màu phổ biến nhất, sau đó đến màu trắng đục , màu tím (Amethyst), hồng (Rose Quartz), màu xám hoặc nâu đến đen (Smoky Quartz) cũng phổ biến. Các giống cryptocrystalline có thể có nhiều màu.

Độ trong suốt: Tinh thể có thể lad trong suốt hoặc ở dạng mờ đục.

Cấu trúc tinh thể biến đổi rất nhiều, nhưng cấu trúc thường thấy nhất là lăng kính lục giác được đúc kết thành một kim tự tháp sáu cạnh.

Độ cứng : 7.

Trọng lượng riêng: 2,65.

Vân đá màu trắng.

Hình dạng cấu trúc: Các nếp vân trên mặt lăng trụ của đá chạy vuông góc với trục Cacbon, áp điện  và chỉ số khúc xạ là 1.55.

4/Tính quang học: Khi mặt trời hoặc ánh đèn rọi vào tinh thể, các tia sáng của chúng được định hướng ngẫu nhiên, không xác định, và ánh sáng như vậy được gọi là vô cực . Nếu tất cả các vectơ điện trường và từ trường đều có cùng hướng, ánh sáng sẽ phân cực .

5/Tính cách điện: Thạch anh là một chất cách điện, vì không có các electron tự do di chuyển trong cấu trúc tinh thể của nó như trong kim loại. Tuy vậy thạch anh lại hấp thụ năng lượng âm của đất trời và chúng ta có thể cảm nhận được điện trường trong đá khi tiếp xúc.

Khoáng thuộc họ thạch anh: amazonit, tourmaline đặc biệt elbaite , wolframite , pyrite , rutile , zeolites , Fluorit , canxit , vàng , muscovit , topaz , beryl , hematit và spodumen .

6/Phản ứng khi có tác động từ ánh sáng

Tinh thể vật chất hấp thu tất cả các vạch quang phổ và lan tràn chúng trải khắp hầu hết các bước sóng, tần số cũng như các màu sắc khác biệt của 7 sắc cầu vòng.Ngoài ra, Lưỡng thiếc còn được biết là độ đo tầm với giữa các chỉ số khúc xạ xuất phát từ tia chiếu mà người đặt đã hướng tới nhiều cột trụ khác nhau có từ tinh thể vật chất.

7/Phản ứng khi có tác động từ sức nóng.

Đặc trưng của tác động này được biết đến là sự hoà điệu.Một tinh chất tinh thể trước hết sẽ hấp thu các tro tàn, tiếp sau đó sẽ đào thải chúng ra dưới tác động tích tụ điện của bề mặt.Ngoài ra, khi đặt trong không khi lạnh, chúng quay trở về trạng thái lúc ban đầu.Trường hợp khi ta cho nhiệt độ tăng cao, các tinh thể sẽ nổ lốp đốp nhưng không bị tan chảy.Kết quả là người ta có thể làm thay đổi màu sắc tuỳ ý cho tinh thể với mức nhiệt ở 450 độ.

Ví dụ như là viên đá thạch anh với tên gọi améthyste sẽ ngả sang màu vàng chanh, các nguyên tử ion Sắt ở trong vảy cá khi bị kết tụ sẽ bị thay đổi hình dạng do sức nóng lan toả tạo nên sự khác biệt ở phần kết cấu cùng với bước sóng tần số của ánh sáng bị tinh thể tnh chất hấp thụ sẽ chuyển thành phần màu vàng thay thế cho màu tím. Kết quả của sự thay đổi này làm cho tinh thể hiện lên màu vàng.

8/Phản ứng khi có tác động từ bên ngoài .

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đên trường hợp điều gì sẽ xảy ra khi mà chúng ta làm biến dạng một tinh thể hoặc một bản sao của tinh thể nhờ tác động từ bên ngoài như uốn, xoắn, cắt hay va chạm.Kết quả là nó sẽ phát ra ánh sáng và điện năng.Nó được gọi với cái tên là phản ứng áp điện (trong Hy Lạp có nghĩa là ép).Đặc tính này đã được 2 nhà bác học là Pierre và Jacques Curie phát hiện ra vào năm 1880.Điều này được đúc kết từ sự quan sát các điện tích xuất phát từ các dấu hiệu đối ngược nhau xuất hiện trên các mặt đối của một tinh thể khi mà chúng ta thực hiện các thao tác tác động cơ học như là ép, uốn, xoắn.

Bên trong nguyên tố SiO2 các nguyên tử silice đã hy sinh đi các électron ngoại biên (peripherique) của nó cho các nguyên tử oxy.Điều này dẫn tới một cấu trúc hoàn hảo về kết cấu và ổn định về điện năng.

9/Phản ứng với điện năng.

Dưới những tác động đến từ điện năng, các thanh lá tinh thể thạch anh bị biến dạng…Các phân tử được nạp vào điện tích âm sẽ chuyển dần sang đầu cực dương và ngược lại .Sau đó, các tinh thể dãn nở rồi co lại tuỳ thuộc hoàn toàn vào cơ trục định hướng của cấu trúc cắt của các thanh lá ( bởi vậy mà trong khi tiến hành thực hiện cảm xạ chúng ta không bao giờ sử dụng đến đá thạch anh đã trải qua quá trình đun nấu trong lò luyện mà phải dùng đến chính thạch anh thiên nhiên).

Ngoài ra, với tính chất trên, tinh thể thạch anh được sử dụng rộng rãi trong các kỹ thuật điện- điện tử để thực hiện các thao tác cộng hưởng áp điện, các máy siêu âm, các bộ ổn áp có trong các máy phát tần số bởi vì khi rung động các tinh thể sẽ áp đặt một tần số ổn định của bản thân nó lên bộ nguồn ở trường điện năng…Một ví dụ điển hình là đồng hồ quartz, chiếc đồng hô nổi tiếng được làm dựa trên tần số ổn định của thanh lá thạch anh chỉ kim giây, phút, giờ.Người ta đã sử dụng đến cả các tinh thể silicum nguyên chất, được lấy từ SiO2 để sản xuất nên các vật liệu bán dẫn, các transisto, các diode hay các mạch tích phân với trí nhớ của chúng.

10/Sử dụng trong phong thủy: do cấu tạo về địa chất đặc biệt nên Đá Thạch Anh thu hút năng lượng dương cực mạnh, đem đến sự may mắn trong công việc, tình yêu, cuộc sống, giúp chống tà khí, tăng vượng khí cho gia chủ và người dùng,… Hiện nó được ứng dụng trong phong thủy ở hai khía cạnh là trấn trạch bên ngoài sân vườn và hỗ trợ trong nhà.

Dùng để chữa bệnh: các biến thể của đá thạch anh được ứng dụng trong y học giúp giải độc, trị chứng mất ngủ, trị nghiện rượu, làm dịu tinh thần, lọc máu tốt, điều hòa huyết áp, kháng viêm, giải trừ mệt mỏi, tăng khả năng miễn dịch, phòng chống các tia bức xạ,…

11/Các biến thể của Đá Thạch Anh?

Biến thể của Đá Thạch Anh có nhiều loại, mỗi một biến thể có tên gọi dựa vào màu sắc đặc trưng của chúng. Các biến thể đó là:

Thạch anh ám khói (Smokey Quartz): là loại đá có màu ám ánh xanh, nâu ánh xanh, nâu sẫm. Loại biến thể này được tìm thấy ở một số vùng của nước ta với số lượng ít như: Nghệ An, Thanh Hóa, Gia Lai và Kon Tum.

Thạch anh hồng là một biến thể của Đá Thạch Anh với tên gọi khoa học là Pink Quartz với màu hồng đặc trưng. Thạch anh hồng phân bố nhiều ở các nước Brazil, Trung Quốc và Nga. Ở nước ta, trữ lượng thạch anh hồng cũng rất ít và chất lượng không được cao cho lắm, nó được tìm thấy ở các mỏ tại Đăk Nông và Đà Nẵng.

Thạch anh đen có tên khoa học là Morion, chúng có màu đen và phân bố nhiều ở các nước: Cộng Hòa Séc, Pháp, Brazil,.. Riêng ở nước ta, chúng ta cũng có thể tìm thấy thạch anh đen tại một số tỉnh như: Kon Tum, Thanh Hóa và cả Nghệ An.

Thạch anh pha lê (Crystal Quartz): đây cũng là một biến thể của Đá Thạch Anh, với tên gọi như vậy nên màu sắc đặc trưng của chúng sẽ là màu trong suốt như pha lê. Thụy Sĩ, Nga, Pháp,… là những nước có trữ lượng thạch anh pha lê nhiều nhất. ở Việt Nam, thạch anh pha lê được tìm thấy ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ và Bắc Tây Nguyên xong giá trị của chúng không được cao.

Thạch anh tóc: cũng là một dạng biến thể của Đá Thạch Anh với tên gọi Rutilated Quartz. Thạch anh tóc thường có các màu: đỏ, xanh, vàng, đen và được tìm thấy nhiều ở Brazil, Pakistan, Na Uy, Úc,… Ở nước ta cũng có sự hiện diện của thạch anh tóc tại một số địa phương nhưng chất lượng và giá trị không đạt tiêu chuẩn.

Thạch anh tím (Amethyst): biến thể này có màu tím hoặc tím ánh hồng, phân bố nhiều ở một số nước trên thế giới như Nga, Hi Lạp,… và có mặt ở một số tỉnh của nước ta như Gia Lai, Bà Rịa – Vùng Tàu và Thanh Hóa.

Thạch anh vàng chanh: có tên khoa học là Critrine với màu vàng ánh nâu hoặc ánh đỏ. Chúng cũng được tìm thấy với trữ lượng lớn tại Brazil, Tây Ban Nha, Pháp,…” – ( dienbatn sưu tầm mà quên mất nguồn ).

Dựa vào các tính chất trên, chúng ta có thể tạo ra 5 vòng tròn đồng tâm bằng đá Thạch anh với việc phối màu sắc theo ngũ hành tương sinh từ vòng ngoài cùng vào trung tâm. Vòng trung tâm có ngũ hành trùng với ngũ hành của loại Khí từ Long mạch mà ta muốn thu. Nhờ các tính chất của các vòng Thạch anh :

·        Có tính chất "áp điện", có nghĩa là chúng chuyển các dao động cơ khí thành điện áp và ngược lại, chuyển các xung điện áp thành các dao động cơ khí.

·        Tính quang học: Nếu tất cả các vectơ điện trường và từ trường đều có cùng hướng, ánh sáng sẽ phân cực .

·        Tính cách điện: Thạch anh là một chất cách điện, vì không có các electron tự do di chuyển trong cấu trúc tinh thể của nó như trong kim loại. Tuy vậy thạch anh lại hấp thụ năng lượng âm của đất trời và chúng ta có thể cảm nhận được điện trường trong đá khi tiếp xúc.

·        Phản ứng khi có tác động từ ánh sáng.

·        Phản ứng khi có tác động từ sức nóng.

·        Phản ứng khi có tác động từ bên ngoài .

·        Phản ứng với điện năng. bởi vì khi rung động các tinh thể sẽ áp đặt một tần số ổn định của bản thân nó lên bộ nguồn ở trường điện năng.

Những đặc tính vô cùng quý báu đó của Thạch anh, mỗi khi có tác động từ bên ngoài vào sẽ làm nhưng vòng tròn Thạch anh rung động, tạo nên một trường Khí thu hút năng lượng từ bên ngoài vào trung tâm trận đồ theo đúng loại Khí có Ngũ hành mà ta cần.

 Xin theo dõi tiếp BÀI 7, Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 5.

7/16/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 5.

b/ LÝ THUYẾT VỀ VIỆC BÀY TRẬN PHÁP.

Như dienbatn đã viết ở phần đầu : " Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.

THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.

ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.

NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.

Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.

THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.

ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.

NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.

Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.

Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc. "

1/ TRONG HỆ TỌA ĐỘ THỜI GIAN CỦA THẾ GIỚI LOÀI NGƯỜI:

Vạn vật và loài người trên Trái Đất khi vận động và sinh tồn đều phải chịu ảnh hưởng của ba yếu tố Nhật - Nguyệt - Tinh . Đây chính là những năng lượng cực kỳ hùng hậu tác động vào môi trường sống của con người và muôn loài trên TRÁI ĐẤT ( Ở đây ta cần phải mở ngoặc nói rõ là trên Trái Đất chứ chưa phải là trên mọi chiếu không gian khác nhau ) . Vạn vật trên Trái đất chịu sự chi phối , tác động của Nhật - Nguyệt - Tinh theo từng vị trí không gian tức thời , tức là theo từng lát cắt của Thời gian . Theo từng tọa độ tức thời của Thời gian ( hay lát cắt ) , mà mọi vật có những thù hình khác nhau về tính nết , sức khỏe , tuổi thọ , sự thành đạt . .. Trong Tử vi , Bát tự Hà - lạc , Tử Bình , Tứ trụ , người ta đều dựa trên đặc tính , tính chất của Nhật- Nguyệt - Tinh tại từng thời điểm đó mà tính toán vận mệnh của con người .

Từ xưa , các nhà nghiên cứu về Dịch học cho rằng : nếu Thiên can là Ất - thì chu kỳ vận động của nó là Ất kỳ , tương ứng với sự ảnh hưởng vận động của Mặt Trời ; Nếu Thiên can là Bính - thì chu kỳ vận động của nó là Bính kỳ , tương ứng với sự ảnh hưởng vận động của Mặt trăng ; nếu Thiên can là Đinh - thì chu kỳ vận động của nó là Đinh kỳ , tương ứng với sự ảnh hưởng vận động của các Tinh tú . Chu kỳ vận động của Tam Kỳ ( Ất kỳ , Bính kỳ , Đinh kỳ ) và sáu nhóm Thiên can : Mậu , Kỷ , Canh , Tân, Nhâm , Quý phản ánh tác động của Nhật- Nguyệt - Tinh lên vạn vật trên Trái Đất , tạo ra những tính chất cá biệt của số phận vạn vật và con người . Trong Thập thiên can , vị trí Giáp bị ẩn đi ( nên gọi là ĐỘN GIÁP ) . Có lẽ ngày xưa các nha nghiên cứu đã nhận xét sự tác động của 9 hành tinh trong hệ Mặt trời nên đã tính toán tác động của 9 hành tinh này qua 9 vận hạn của con người ( Thái Dương , Thái Âm , La Hầu , Thổ Tú , Thủy Diệu , Thái bạch , Kế Đô , Vân Hớn ) và 9 hạn ( Huỳnh Tuyền , Tam kheo , Ngũ Mộ , Thiên Tinh , Toán Tận ,Thiên La , Địa Võng , Diêm Vương ) .

Độn Giáp còn có một tên khác nữa là Thái Ất ( Thái tức là quá ). Trong vòng vận động các vị trí không gian , lần lượt tính chất âm dương được biểu thị qua Thập Thiên can . Giáp - Dương , Ất - Âm ...Trong trường hợp này , khi Giáp đã ẩn đi , can Ất lại đứng đầu trong chu kỳ vận động của Nhật- Nguyệt - Tinh , phần nào Ất bị thái quá nên các nhà Dịch học gọi là Thái Ất . Để có thể tính toán từng vị trí tức thời các tác động của Nhật- Nguyệt - Tinh lên Trái đất , người ta đã định lượng về Âm - Dương ( Tỷ lệ ) tại từng Tiết Khí ( Một năm có 24 Tiết Khí - Đây là đơn vị Thời gian của Độn Giáp ) , tỷ lệ đó người ta gọi là CỤC . Như vậy , người ta đã xây dựng được Hệ thức lượng Độn Giáp ( Tức là tỷ lệ ÂM - DƯƠNG theo đơn vị Thời gian là Tiết Khí ) và qua đó người ta có thể dự đoán về sự diễn biến các sự vật , con người được sinh ra tại lát cắt Thời gian đó .

2/ TRONG MỌI CHIỀU KHÔNG GIAN TÍNH THEO HỒNG BÀNG DỊCH :

Việc tính toán này không chỉ áp dụng cho con người trên Trái đất , mà có thể tính toán cho tất cả các Thế giới vô hình khác ở các chiều Không gian khác nhau , dienbatn xin không nêu ra ở đây vì tính chất cực kỳ phức tạp của nó . Riêng Thế giới loài người trên Trái Đất , ở hệ Tọa độ Đề các là không gian 3 chiều , kết hợp chiều của Thời Gian , người ta chia ra làm 4 Kỷ Nguyên của Nhân loại ( Điều này Dịch học bình thường chưa hề có khái niệm ) . Bốn Kỷ nguyên đó là :

1/ KHẢM - THÁI ÂM TẠI HƯỚNG BẮC - Kỷ Nguyên THÁI ÂM ( HỦY ) - HẬU THIÊN LÀ CHỦ ĐẠO .

2/ CHẤN MỘC HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ NGUYÊN THIẾU DƯƠNG ( THÀNH ) - TIÊN THIÊN LÀ CHỦ ĐẠO .

3/ LY - THÁI DƯƠNG HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ NGUYÊN THÁI DƯƠNG ( THỊNH ) - TIÊN THIÊN CHỦ ĐẠO .

4/ ĐOÀI - THIẾU ÂM HƯỚNG VỀ BẮC - KỶ NGUYÊN THIẾU ÂM ( SUY ) - HẬU THIÊN CHỦ ĐẠO .

Đó là 4 pha quan trọng nhất trong quá trình tiến hóa nhân loại .

A/BÀY BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN :

 Người ta dùng thuật toán Thái Ất để tính được vòng sao BÁT TƯỚNG LÂM MÔN , từ đó có thể biết được những thăng trầm của ngôi mộ , từ đó có cách xử lý thích hợp khi thời gian thay đổi .

Thiên Phúc Trận phía Bắc, Địa Tải Trận phía Nam, Phong Dương Trận phía Tây, Vân Thùy Trận phiá Đông, Long Phi Trận Đông Nam, Hổ Dực Trận Tây Bắc, Điểu Tường Trận Đông Bắc, Xà Bàn Trận Tây Nam.

Phong Hậu (Thái Bạch Âm Kinh) Bát Trận gọi là Ác Kỳ Đồ, Thiên Trận Càn Tây Bắc, Địa Trận Khôn Tây Nam, Điểu Tường Trận Ly Nam, Vân Trận Khảm Bắc, Phong Trận Tốn Đông Nam, Phi Long Trận Chấn Đông, Xà Bàn Trận Cấn Đông Bắc. Càn Khôn Tốn Khảm là Cửa đóng, Chấn Đoài Ly Cấn cửa mở.

Trong tầng 17 Định Tứ Cát, Tam Kỳ, Bát Môn, Cửu Tinh, .... gọi Thấu Địa Kỳ Môn chính là dùng Kỳ Môn Độn Giáp để định tử phụ, tài quan lộc mã quý nhân tam kỳ tứ cát.

Có 9 Đạo Phù, 6 Phù Lục Giáp, 3 Phù Tam Kỳ. Phù án theo Cục.

Trận có 8 Trận, Thiên trận quẻ Càn, Địa trận quẻ Khôn, Long trận quẻ Chấn, Phong trận quẻ Tốn, Vân trận quẻ Khảm, Điểu trận quẻ Ly, Xà trận quẻ Cấn, Hổ trận quẻ Đoài. Mồi cung tùy theo 9 tinh (Bồng Nhậm Xung Phụ Anh Nhuế Trụ Tâm) gia lâm mà bày trận.

Cửa có 8 cửa, Hưu Sinh Thương Đổ Cảnh Tử Kinh Khai. Môn theo 9 tinh gia thời 1 đóng 1 mở. Tinh gia thời can dương thì mở, thời can âm thì đóng. Đóng thì không phá trận được.

 Thần có 8 Thần, Trực Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Địa, Cửu Thiên, phân bố theo Chi của Tuần Giáp mà có Bát Thần Lâm Môn trấn giữ 8 cửa.

Tướng có 12 Thiên Tướng Thần Hậu, Đại Cát, Công Tào, Thái Xung, Thiên Cương, Thái Ất, Thắng Quang, Tiểu Cát Truyền Tòng, Hà Khôi, và Đăng Minh, phân bố theo Nguyệt Tướng, 4 tướng cư tứ chính, 4 tướng cư tứ duy, 4 tướng giữ 4 góc trung cung.

Cục 5 ngày đổi 1 cục, sau Đông Chí cục Dương, sau Hạ Chí cục Âm.

9 Tinh 10 giờ (giờ âm bằng 2 tiếng) đỗi một lần (tức theo lục giáp tuần)

8 Môn mồi giờ mỗi xoay, đóng mở tuỳ theo Tinh gia thời can.

B/PHƯƠNG THỨC PHÁ TRẬN:

Trước hết phải biết Cửa ở đâu đóng, cửa ở đâu mở. Chỉ có cửa mở mới phá được. Muốn vào được cửa thì phải cửa nào ở đâu Thần gì lâm môn. Qua cửa thì phải Sát Thần (phải biết Ngũ hành của Thần là gì mà ứng phó).

Qua được cửa thì phải biết trận đang diễn là trận gì? Quân nào thuộc Can Thiên Địa nào (6 Giáp Thiên Địa, 6 Mậu Thiên Địa, vv...) đang diễn và tướng nào trong 12 Thiên Tướng đang chỉ huy. Biết được trận đang diền là trận gì thì phá được. Biết được Tướng đang giữ là tướng nào trong 12 tướng thì bắt được, giết được. Phải phá hết 8 trận thì mới bắt được Chủ Soái. Lâm Môn Sát Thần, Phá Trận Chém Tướng thì phải ứng dụng Ngũ hành Sinh Khắc.Nhớ là Trận mỗi giờ mỗi đổi.  Các cửa Sinh, Cảnh, Khai mà vào trận thì tốt lành. Các cửa Thương, Kinh, Hưu mà vào thì thương tổn. Các cửa Đỗ, Tử mà vào thì tử vong. Qua giờ dương, tám cửa được xếp đặt chỉnh tề, chỉ có trung gian còn thiếu người trấn giữ. Như theo góc Đông Nam, cửa thượng Sanh, mà kích nhập, đánh thẳng qua cửa Cảnh ở chánh Tây mà xông ra ắt trận thế phải loạn. Bí quyết Bát Trận của Khổng Minh, là ở trong Kỳ Môn Độn Giáp. Phá trận quan trọng nhất là chử Thời, không nói đến chử thời thì làm sao biết trận nào đóng trận nào mở, đã đóng thì khó mà phá nỗi. Phá trận phải ứng dụng Ngũ Hành. Tại phần trung cung , nên có Chủ trận bày theo Ngũ hành - Âm dương và xoay chủ trận theo 360 độ , như vậy , trận pháp này sẽ xoay theo độ số của Trời - Đất , biến ảo khôn lường . Nên  đặt Thất Tinh Bắc Đẩu vào trung cung theo phương vị tại thiên Chủ trận giống như kim chỉ Nam của Địa bàn và là cái bất biến theo từng cung độ . Dĩ bất biến - Ứng vạn biến chính là đây .

Ngoài Trận Pháp ra, thì Kỳ Môn Độn Giáp củng là một môn huyền học cao siêu, về mặt này thì phải nghiên cứu quyển “Vạn Pháp Qui Tông” sẻ thấy được phù trú về Lục Giáp, Lục Đinh, Cửu Thiên Huyền Nử, vv....

Thật ra trận kỳ môn chủ yếu sử dụng Thiên Can và Bắc Đẩu Thất Tinh, nếu kết hợp thêm Thái Ất và Lục Nhâm vào thì thật là Quỉ Khóc Thần Sầu . Lục Nhâm chuyên về địa chi, Thái Ất chuyên về tinh đẩu vận hành, Kỳ Môn về thiên can, nếu kết hợp được 3, Tam Thức Hợp Nhất, thông cả tam tài thiên địa nhân, trên biết thiên vận, dưới thấu địa lý, giữa tri nhân sự. Việc sử dụng “Đạp Khôi Cương Bộ Đẩu” pháp. Bộ pháp này dùng để thông thần mà sai khiến Lục Đinh Lục Giáp. Muốn khiển Lục Đinh - Lục Giáp mà không biết bộ pháp thì cũng hoài hơi .

Ngoài bộ này ra thì còn nhiều bộ khác nửa:

- Đạp Tiên Thiên Bát Quái Quyết Bộ Cương pháp.

- Đạp Thất Tinh Pháp Quyết Bộ Cương pháp.

- Hậu Thiên Đạp Bát Quái Bộ Cương pháp.

- Thái Ất Phản Quái Bộ Cương pháp.

- Tam Nãi Phu Nhân Đạp Bộ Cương pháp.

- Thái Ất Chánh Nhân Bộ Cương pháp.

- Ngọc Nử Quá Hãi Cương quyết.

- Bộ Âm Đẩu, Bộ Dương Đẩu.

C/ ÁP DỤNG TRẬN PHÁP BÁT QUÁI ĐỒ LÊN MỘ PHẦN.


Trong việc áp dụng trận pháp Bát quái đồ lên mộ phần của dienbatn được sử dụng như sau :

1.    VỀ HÌNH DẠNG.

Mộ chia làm 3 phần hình Bát quái , tượng trưng cho Tam tài : THIÊN – NHÂN –ĐỊA. Ba phần này làm bằng đá xanh rêu nguyên khối, có lỗ rỗng ở giữa để thu khí và làm trục xoay cho cả 3 tầng trận pháp. Mỗi tầng có 8 mặt đều biểu thị cho bát quái CÀN – KHẢM – CẤN – CHẤN –TỐN – LY – KHÔNG – ĐOÀI. Ba tầng này sẽ xoay theo các chiều Âm – Dương khác nhau. Bát môn có các cửa : Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Trận đồ này áp dụng theo thuật số của Hà đồ - Lạc thư với hai vòng quay thuận - nghịch theo Thời gian.


2/ NGUYÊN LÝ ÁP DỤNG :Ta sử dụng một Ăng ten Parabol dùng để thu Khí từ Long mạch về địa Huyệt.Giữa trung tâm của vị trí đã xác định, chúng ta trồng một tháp Thạch anh tím có tác dụng như một cây antena thu sóng.Để có thể tích tụ năng lượng về ÂM – DƯƠNG trạch , sau khi ta đã có antena thu sóng, chúng ta cần có một vật tích tụ năng lượng giống như một cái ác quy. Đó chính là một quả cầu bằng caxidon tùy theo ngũ hành của Khí ta cần thu mà chọn màu phù hợp. Khi đặt những vật này , tốt nhất là phải khởi động năng lượng tự tại của viên đá và vẽ các Linh phù, chủng tử của Phật cùng trì chú bằng mật tông lên đá sẽ khiến cho viên đá phát huy được tối đa việc tích tụ năng lượng.Phần quan trọng nhất là một vòng tròn gồm 5 vòng to dần xếp từ trong ra ngoài bằng các loại đá : Trạch anh, Mã não, Ngọc bích …với 5 màu tương sinh của Ngũ hành và vòng cuối cùng là vòng có Ngũ hành tương ứng với dòng Khí ta định thu về.Sau tất cả những việc trên là trì chú Mật tông hoặc Tiên gia tùy theo cấp độ người Thày để khởi động Trận đồ, cung cấp cho nó một năng lượng ban đầu.
Lý thuyết và công thức Anten phản xạ Parabol.



Ăng ten Parabol .

Là anten có tính định hướng tương đối cao, sử dụng chủ yếu ở dải sóng cực ngắn thông tin di đông và vệ tinh. Anten parabol trong các nguồn khoa học có thể được gọi là anten phản xạ hoặc anten phản xạ parabol. Đây là một thiết bị công nghệ được thiết kế để thu năng lượng. Rơi vào nó, một sóng phẳng được biến đổi thành một hình cầu và tập trung tại tiêu điểm. Quá trình ngược lại cũng có thể xảy ra, khi sóng hình cầu được biến đổi thành sóng phẳng. Điều này đòi hỏi các loại và hình thức khác nhau của thiết bị, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi sử dụng dự kiến. Hình dạng parabol của phản xạ là chìa khóa cho hoạt động của nó - đặc biệt là độ lợi và tính trực tiếp của nó. Như tên của nó, phản xạ parabol được hình thành từ một hình dạng được gọi là paraboloid. Hình dạng này tạo thành bề mặt phản xạ trong ăng-ten cho phép sóng phản xạ bởi bề mặt để duy trì mối quan hệ pha của chúng, nhờ đó cho phép đạt được độ lợi tối đa.

Nói cách khác, năng lượng RF ở dạng sóng điện từ di chuyển tới ăng ten trong mặt sóng phẳng sẽ được phản xạ bởi phản xạ và vẫn ở pha tại tâm điểm. Bằng cách này, toàn bộ tín hiệu vẫn còn trong pha và không có hủy bỏ. Điều này có nghĩa là tín hiệu tối đa được duy trì. Các tín hiệu ngược được phát ra từ tiêu điểm sẽ được phản xạ bởi bộ phản xạ parabol và tạo thành một mặt sóng song song (trong pha) di chuyển ra ngoài từ ăng-ten.

Điều này có nghĩa là tính toàn vẹn pha của hệ thống được giữ lại. Sóng đến thêm tại tiêu điểm, và sóng đi tạo ra một mặt sóng đơn di chuyển song song với phản xạ.



Xin theo dõi tiếp BÀI 6. Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *