Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.BÀI 9.2 LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU: NGHỆ AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.
BÀI 9.2 LOẠT BÀI
NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU: NGHỆ AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.
Bài 9. 2: Văn hóa đa
sắc tộc và phi vật thể. Tiêu đề: Hòa quyện và độc đáo: Bản sắc văn hóa của 6
dân tộc tại Nghệ An.
Lời Tri Ân Và Hướng Tiếp Cận.
Kính gửi quý độc giả, Sau những năm tháng đắm mình trong
công cuộc điền dã miệt mài tại Nghệ An – vùng đất của những huyền thoại và tinh
thần quật cường – Điện bà Tây Ninh tự hào đã tích lũy được một kho tàng tư liệu
vô giá. Đó là những trang ghi chép thủ công thấm đẫm mồ hôi, những ổ đĩa cứng
chứa đựng hàng ngàn hình ảnh và video, ghi lại từng con suối róc rách, từng ngọn
núi sừng sững, từng di tích lịch sử thấm đẫm dấu thời gian, cùng những câu chuyện
đầy cảm xúc từ người dân bản xứ.
Hôm nay, nhân dịp nông nhàn, chúng tôi xin được sẻ chia những
tư liệu quý báu này, không chỉ như một bài nghiên cứu lịch sử mà còn như một lời
tri ân sâu sắc đến những người bạn xứ Nghệ – những ân nhân đã đồng hành, dẫn lối
chúng tôi qua những con suối sâu, hang động bí ẩn, và bên bếp lửa hồng, kể những
câu chuyện dân gian đầy ý nghĩa. Nhờ họ, chúng tôi đã thấu hiểu hơn về mảnh đất
và con người nơi đây.
Loạt bài này sẽ đưa quý độc giả vào hành trình khám phá sâu
sắc các địa danh và nhân vật lịch sử, văn hóa của Nghệ An, bắt đầu từ nguồn cội
và vươn xa theo dòng chảy thời gian. Với tính chất chuyên sâu, kết hợp với bộ ảnh
và video của Điện bà Tây Ninh, chúng tôi sẽ mô tả chi tiết, phân tích thấu đáo,
đồng thời gợi ý các liên kết hình ảnh và video để dựng nên một bức tranh toàn
diện về vùng đất địa linh nhân kiệt. Chúng tôi hy vọng quý độc giả sẽ kiên nhẫn
đồng hành cùng chúng tôi trong hành trình này. Thân ái! Điện bà Tây Ninh.
Vì bài này rất dài nên Điện bà Tây Ninh sẽ chia làm 2 bài.
Phần 2 sẽ tiếp nối với :
Chương 4: Dân Tộc Khơ Mú – Tinh Thần Kiên Cường Nơi Rẻo Cao
Với Múa Au Eo Và Lễ Tết Cơm Mới.
Chương 5: Dân Tộc Mông – Sức Sống Vượt Lên Đại Ngàn Với Tiếng
Khèn Và Lễ Giỗ Họ.
Chương 6: Dân Tộc Ơ Đu – Tấm Thảm Văn Hóa Đang Dần Phai Màu
Với Lễ Chăm Phtrong Và Nỗ Lực Bảo Tồn Ngôn Ngữ.
Tổng Kết: Sức Mạnh Từ Sự Hòa Quyện và Tiềm Năng Phát Triển Bền
Vững.
Xin cảm ơn quý độc giả đã kiên nhẫn theo dõi. Thân ái. Điện
bà Tây Ninh.
Chương 4: Dân Tộc Khơ
Mú – Tinh Thần Kiên Cường Nơi Rẻo Cao Với Múa Au Eo Và Lễ Tết Cơm Mới.
4.1. Nguồn Gốc và Lịch
Sử Phát Triển.
Bản sắc văn hóa dân tộc Khơ Mú tại Nghệ An thể hiện rõ nét
qua các lĩnh vực như trang phục (áo cài khuy bạc, hoa văn độc đáo), văn nghệ
dân gian (hát Tơm, kèn môi, múa lắc hông), tín ngưỡng (thờ đa thần, coi trọng
ma nhà), nghề thủ công truyền thống (đan lát, dệt thổ cẩm), lễ hội (Tết cơm mới,
lễ cúng bản), và lối sống (nhà sàn, quan niệm về ma, ẩm thực). Tuy nhiên, các
giá trị này đang dần bị mai một do những thay đổi trong đời sống kinh tế và xã
hội.
Theo số liệu điều tra từ cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc
năm 2000 thì dân tộc Khơ Mú có 56.542 người, đứng thứ 23 trong 54 dân tộc anh
em trên đất nước Việt Nam. So với các tỉnh thành khác trong cả nước, Nghệ An là
nơi tập trung đông dân tộc Khơ Mú nhất với 37.000 người, chiếm 8% dân số toàn tỉnh
và chiếm 50% tổng số người Khơ Mú cả nước.
Theo Tiến sĩ Hoàng Xuân Lương trong “Người Kư Mụ ở Nghệ An”
thì người Khơ Mú ở Nghệ An có nguồn gốc từ Lào di cư sang cách đây khoảng 200
năm. Do các tỉnh miền Tây Nghệ An nối liền về địa hình - văn hóa với các tỉnh
Xiêng Khoảng, Hủa Phăn của Lào nên việc di cư của dân cư của hai bên diễn ra
khá dễ dàng. Các đợt thiên di của người Khơ Mú sang Nghệ An diễn ra theo nhiều
đợt khác nhau, đợt đầu tiên trong cuộc đấu tranh chống lại phong kiến Xiêm La,
thực dân Pháp và bọn địa chủ cường hào, người Khơ Mú đã ở lại và sinh sống tại
các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, trong đó tập trung đông nhất tại huyện
Kỳ Sơn, sau này còn có nhiều đợt di cư rải rác khác.
Về mặt nhân chủng học, người Khơ mú thuộc loại hình trung
gian giữa nhóm Inđônêđiêng và Nam Á, thuộc ngôn ngữ Môn - Khơme. Tộc danh Khơ
Mú là tên gọi chung thống nhất cả nước mang tính pháp lý từ khi có bảng danh mục
các thành phần dân tộc Việt Nam do Tổng Cục thống kê công bố năm 1979. Trước
đây, dân tộc này có nhiều tên gọi khác nhau, đó là các tên tự gọi, tên do các
dân tộc khác gọi ở những vùng và những thời kỳ khác nhau. Ở Lào, người Khơ Mú
được gọi là bằng các tên như Xá Khao, Khạ, Bit hoặc được gộp chung vào các nhóm
tộc người ở rẻo giữa khác được gọi là Lào Thênh, Lào Thơng. Còn ở Thái Lan họ
còn được gọi bằng cái tên Kamú, Phu Thênh, Kha Mu, Kham Mu.
Trước đây, người Thái gọi người Khơ Mú là “Tây Tênh”. Tên gọi
này có nghĩa là dân tộc ở trên cùng quả bầu được chui ra đầu tiên. Theo giải
thích của nhiều người Thái thì tên gọi này hàm ý tôn trọng ngưòi Khơ Mú. Một thời
gian về sau, người Thái lại gọi người Khơ Mú bằng một cái tên mới là “Tây
Thênh”, sau tên gọi “Tây Thênh” là tên gọi “Xá” hay “Xà” tuỳ theo giọng phát âm
của từng vùng. Cho đến nay, nghĩa đen của từ “Xà” có nghĩa là “cái giàn gác bếp"
vì giàn gác bếp thường là rất đen cho nên họ thường gọi người có da đen là “Xà”
với ý đen như gác bếp (đắm khư xà, đắm khư thênh) đó là câu nói cứa miệng của
người Thái. Tuy nhiên từ khi các tộc Môn- Khơme nói chung, trong đó có người
Khơ Mú, lệ thuộc vào người Thái thì tộc danh “Xá” hay “Xà”, càng mang hàm ý miệt
thị.
Phong tục cưới xin của
người Khơ mú ở Nghệ An.
Đến năm 1960, khi nhà nước tiến hành cuộc Tổng điều tra dân
số lần thứ nhất, người Khơ Mú được gọi là Tày Hạy, còn ở Lai Châu, Sơn La vẫn
được gọi là lá Xá (Xà). Từ tên gọi Xá, người Khơ Mú được các dân tộc khác gọi bằng
những tên khác nhau như Xá Cẩu (Thái), Khá Klẩu (LaLa), Klẩu (Kháng), Mãng Cẩu
(Hmông). Ở một số địa phương người Khơ Mú còn được gọi bằng các tên khác nữa
như Tềnh (Mộc Châu), Pu Thênh hay Tày Hạy (Thanh Hoá, Nghệ An), Mứn Xen (Lai
Châu), hay còn được gọi là tên Việt Cang. Tất cả các tên gọi như đã nêu đều có
nghĩa là người Xá có tục bối tóc ngược. Nhưng cái tên Tềnh, Pu Thênh có nghĩa
là người ở trên (núi) cao. Tày Hạy có nghĩa là người chuyên làm rẫy. Mứn Xen có
nghĩa là người có tục ăn trầu hay nhổ nước bọt. Việt Cang có nghĩa là người Việt
ở lưng chừng núi.
Ở Nghệ An, người Khơ Mú được người Thái ở đây gọi là Tày Hạy.
Tên Tày Hạy được đồng bào người Khơ Mú và người Thái ở đây coi là một tên chính
thống thân quen, gần gũi. Thậm chí có những người Khơ Mú (chủ yếu là giới trẻ)
họ không biết, không hiểu họ là dân tộc Khơ Mú nữa mà chỉ biết họ là những người
Tày Hạy - một dân tộc gần gũi với người Thái, đối với người Khơ Mú họ thích gọi
là người Tày Hạy hơn là Khơ Mú. Bởi tên gọi Khơ Mú trong đó có từ “mú” có thể
nói đây là từ không thân thiện thậm chí còn mang tính miệt thị, vì “mú” nghĩa
là lợn. Tuy nhiên, người Khơ Mú thích và tự gọi mình là Khmụ, Kưm Mụ, Cư Mụ vì
khi phát âm cũng như khi viết thì có nghĩa là "người", thể hiện sự
tôn trọng đối với bản thân và dân tộc họ.
Như vậy, tính đến nay ở Nghệ An dân tộc Khơ Mú đã có 7 tên gọi
qua các thời kỳ lịch sử khác nhau: Cư Mụ, Khơ Mú, Mãng Cẩu, Pu Thênh, Kưm Mụ,
Xà, Tày Hạy. Nhưng dù với gọi tên này hay tên khác đi nữa thì ngay từ ban đầu,
dân tộc này đã có một ý thức dân tộc rõ ràng, thể hiện tính cách của một dân tộc
thống nhất.
Đặc điểm hình dạng của người Khơ Mú là dáng người thấp, da
đen, tóc xoăn, đầu dài, mũi to và dô. Đặc điểm hình dạng này gắn liền với truyền
thuyết về “nguồn gốc loài gốc loài người sinh ra từ quả bầu” và di tích huyền
thoại đó còn được ngộ định vào một tảng đá lớn tại bản Tẩu Pung (bản có tên là
Quả Bầu Khổng Lồ) ở Mường Thanh - Điện Biên. Truyện quả bầu ở người Thái cũng kể
rằng chính tổ tiên người Khơ Mú đã chui từ quả bầu khổng lồ ra trước theo lỗ
dùi bằng sắt nung đỏ nên mới có nước da ngăm đen. Tổ tiên người Thái ra sau bằng
lỗ dao khoét nên có nước da trắng hơn, nên tục ngữ Thái có câu: “pu tay ọc hu
pa, pu xà óc hu chi” (có nghĩa người Thái chui từ quả bầu ra sau theo lỗ khoét
của dao, còn người Khơ Mú (Xà) chui từ quả bầu ra trước theo lỗ dùi bằng sắt
nung).
Lịch sử đấu tranh của người Khơ Mú còn gắn liền với truyện kể
về vị anh hùng huyền thoại có tên là Chương Han là một vị tù trưởng anh hùng,
tài giỏi, đã tập hợp và tổ chức được hàng nghìn binh mã, đánh đông dẹp bắc,
chinh phục được nhiều vùng rộng lớn. Hình tượng vị anh hùng Chương Han đã trở
thành biểu tượng của khát vọng tự do, niềm kiêu hãnh của đồng bào Khơ Mú, đi
vào truyện thơ "Tạo Khủn Chương".
Ở Nghệ An, người Khơ Mú sinh sống chủ yếu ở các huyện Kỳ
Sơn, Tương Dương, Quế Phong, dân số hơn 71.000 người, chiếm khoảng 48,9% dân số
Khơ Mú ở nước ta hiện nay.
Theo Tiến sĩ Hoàng Xuân Lương trong “Người Kư Mụ ở Nghệ An”
thì người Khơ Mú ở Nghệ An có nguồn gốc từ Lào di cư sang cách đây khoảng 200
năm. Do các tỉnh miền Tây Nghệ An nối liền về địa hình - văn hóa với các tỉnh
Xiêng Khoảng, Hủa Phăn của Lào nên việc di cư của dân cư của hai bên diễn ra
khá dễ dàng. Các đợt thiên di của người Khơ Mú sang Nghệ An diễn ra theo nhiều
đợt khác nhau, đợt đầu tiên trong cuộc đấu tranh chống lại phong kiến Xiêm La,
thực dân Pháp và bọn địa chủ cường hào, người Khơ Mú đã ở lại và sinh sống tại
các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, trong đó tập trung đông nhất tại huyện
Kỳ Sơn, sau này còn có nhiều đợt di cư rải rác khác.
Về mặt nhân chủng học, người Khơ Mú thuộc loại hình trung
gian giữa nhóm Inđônêđiêng và Nam Á, thuộc ngôn ngữ Môn - Khơme. Tộc danh Khơ
Mú là tên gọi chung thống nhất cả nước mang tính pháp lý từ khi có bảng danh mục
các thành phần dân tộc Việt Nam do Tổng Cục thống kê công bố năm 1979. Trước
đây, dân tộc này có nhiều tên gọi khác nhau, đó là các tên tự gọi, tên do các
dân tộc khác gọi ở những vùng và những thời kỳ khác nhau. Ở Lào, người Khơ Mú
được gọi là bằng các tên như Xá Khao, Khạ, Bit hoặc được gộp chung vào các nhóm
tộc người ở rẻo giữa khác được gọi là Lào Thênh, Lào Thơng. Còn ở Thái Lan họ
còn được gọi bằng cái tên Kamú, Phu Thênh, Kha Mu, Kham Mu. Ở Nghệ An, người
Khơ Mú được người Thái ở đây gọi là Tày Hạy. Như vậy, tính đến nay ở Nghệ An
dân tộc Khơ Mú đã có 7 tên gọi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau: Cư Mụ, Khơ
Mú, Mãng Cẩu, Pu Thênh, Kưm Mụ, Xà, Tày Hạy. Nhưng dù với gọi tên này hay tên
khác đi nữa thì ngay từ ban đầu, dân tộc này đã có một ý thức dân tộc rõ ràng,
thể hiện tính cách của một dân tộc thống nhất.
Đặc điểm hình dạng của người Khơ Mú là dáng người thấp, da
đen, tóc xoăn, đầu dài, mũi to và dô. Đặc điểm hình dạng này gắn liền với truyền
thuyết về “nguồn gốc loài người sinh ra từ quả bầu” kể rằng chính tổ tiên người
Khơ Mú đã chui từ quả bầu khổng lồ ra trước theo lỗ dùi bằng sắt nung đỏ nên mới
có nước da ngăm đen. Tổ tiên người Thái ra sau bằng lỗ dao khoét nên có nước da
trắng hơn, nên tục ngữ Thái có câu: “pu tay ọc hu pa, pu xà óc hu chi” (có
nghĩa người Thái chui từ quả bầu ra sau theo lỗ khoét của dao, còn người Khơ Mú
(Xà) chui từ quả bầu ra trước theo lỗ dùi bằng sắt nung).
Lịch sử đấu tranh của người Khơ Mú còn gắn liền với truyện kể
về vị anh hùng huyền thoại có tên là Chương Han là một vị tù trưởng anh hùng,
tài giỏi, đã tập hợp và tổ chức được hàng nghìn binh mã, đánh đông dẹp bắc,
chinh phục được nhiều vùng rộng lớn. Hình tượng vị anh hùng Chương Han đã trở
thành biểu tượng của khát vọng tự do, niềm kiêu hãnh của đồng bào Khơ Mú, đi
vào truyện thơ “Tạo Khủn Chương”.
Để làm sâu, sự di cư từ Lào là kết quả của chiến tranh và
kinh tế, với Kỳ Sơn là trung tâm. Dân số hiện 71.000 người, tăng nhờ chính sách
hỗ trợ. Truyền thuyết quả bầu nhấn mạnh vị trí "người đầu tiên", thể
hiện tự hào dân tộc.
4.2. Đời Sống Kinh Tế
Và Văn Hóa Vật Thể.
Do đến muộn hơn nên địa bàn cư trú của người Khơ Mú thường
là những nơi núi cao, đất dốc, rất khó khăn cho việc trồng trọt, do đó loại
hình canh tác duy nhất của người Khơ Mú là nương rẫy (người Khơ Mú gọi nương là
hơrê). Cây trồng chủ yếu của họ là lúa nương, ngoài ra họ còn trồng thêm các loại
hoa màu khác như: ngô, sắn,… Do điều kiện sản xuất khó khăn, kỹ thuật thô sơ
nên nguồn thu nhập từ sản xuất của người Khơ Mú rất thấp, khiến đời sống của bà
con phần lớn là đói nghèo, dẫn đến việc du canh, du cư của đồng bào. Bên cạnh
trồng trọt, người Khơ Mú chăn nuôi gia súc gia cầm, nhưng chủ yếu là tự cung tự
cấp, phục vụ nhu cầu tiêu dùng, chưa có ý thức phát triển thành chăn nuôi hàng
hóa. Người Khơ Mú còn có các nghề thủ công truyền thống như rèn sắt, làm mộc,
đan lát... Tuy không phong phú, song lại có những lĩnh vực rất tinh xảo, trong
đó đặc biệt hơn cả là nghề đan lát với các sản phẩm từ đan lát như: gùi, mâm,
ghế, giỏ đựng cơm, hộp đựng kim chỉ, chiếc plum để đựng quần áo, cốt, bồ để đựng
thóc lúa, các đồ dùng như nống, sàng, sẩy lúa gạo v.v... Đến nay, các nghề thủ
công này vẫn được duy trì, phát triển như là vốn văn hóa truyền thống quý báu của
dân tộc Khơ Mú.
Người Khơ Mú không có chữ viết riêng như những dân tộc khác,
nhưng lại tiếp xúc ngôn ngữ rất nhanh, họ chịu ảnh hưởng và tiếp thu tiếng
Thái. Do đó, hiện nay hầu hết người Khơ Mú ở Nghệ An đều thông thạo tiếng Thái,
họ dùng ngôn ngữ Thái để giao tiếp với các dân tộc khác. Nền văn hóa dân gian của
người Khơ Mú khá phong phú và đặc sắc, họ có các điệu hát đặc trưng như: hát
tơm, điệu múa hòvor, re ré,… với các nhạc cụ cồng chiêng, sáo đệm, khèn bè,
khèn môi, pí tơm, các bộ gõ bằng tre nứa… Kho tàng truyện cổ tích, truyện kể tô
tem của họ cũng rất phong phú và độc đáo, trong đó tiêu biểu là truyện thơ
"Tạo Khủn Chương".
Tín ngưỡng, tôn giáo của người Khơ Mú còn rất sơ khai, phức
tạp, tuy nhiên lại không chịu ảnh hưởng của các loại tôn giáo khác như: Phật
giáo, Công giáo. Họ tin ở đa thần và quan niệm “vạn vật hữu linh”, mọi vật đều
có linh hồn và sự linh thiêng nên họ thờ và cúng những vật như cây đa, tảng đá,
gốc cây to, con suối.v.v... Người Khơ Mú cũng quan niệm trong cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày của họ có Ma, Ma thì có con Ma ác và con Ma lành với nhiều loại ma
như: Ma Trời, là loại ma to nhất, đáng tôn trọng nhất và cũng đáng sợ nhất, Ma
đất, Ma rẫy, Ma rừng, Ma tổ tiên v.v... Họ cũng tin rằng mọi hoạt động đời sống
hàng ngày của họ đều do các lực lượng “siêu nhiên” chi phối, lực lượng siêu
nhiên này được gọi là hrôi (Ma). Chính vì thế mà người Khơ Mú cũng tin vào nhiều
thủ thuật có thể đẩy thế giới “ma” ra khỏi thế giới con người, bằng nhiều cách
khác nhau như: niệm thần chú, dùng dao hơ lửa cắt xung quanh người ốm hoặc vẩy
nước, ngậm nước phun vào người ốm... Do quan niệm đó nên vị trí của thầy Mo hết
sức quan trọng trong các nghi lễ.
Mặc dù đời sống kinh tế của người Khơ Mú còn nghèo đói, khó
khăn, nhưng họ sở hữu một nền văn hóa đặc sắc, phong phú, đa dạng và giàu bản sắc.
Tuy nhiên, ý thức bảo tồn, lưu giữ và phát huy của người Khơ Mú còn thấp, do đó
đòi hỏi phải có sự quan tâm, chú trọng của các cấp ngành liên quan trong công
tác bảo tồn và lưu giữ, tránh sự mai một, đồng hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện
nay.
Thêm chi tiết: Nương rẫy với chu kỳ luân canh, trồng lúa
nương năng suất thấp nhưng bền vững. Nghề đan lát tạo sản phẩm xuất khẩu, như
gùi tre ở Kỳ Sơn. Nhà sàn với hai bếp, bếp thiêng cúng ma nhà. Trang phục phụ nữ
với "láp la" dây lưng sặc sỡ, nam mộc mạc.
4.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Múa Au Eo Và Lễ Tết Cơm Mới.
Âm nhạc: Người Khơ Mú có các nhạc cụ truyền thống như kèn
môi, ống gõ, sáo, đàn, và trống.
Văn học dân gian: Làn điệu dân ca Tơm mang đậm tính sử thi
và trữ tình, thường hát theo lối đối đáp.
Múa: Múa Xoè và các điệu múa lắc hông (như múa Au eo), mô phỏng
các động tác lao động, là nét đặc sắc và có kỹ thuật cao, thể hiện tinh thần cộng
đồng và gắn bó với thiên nhiên.
Múa Au eo là điệu múa lắc hông đặc trưng, mô phỏng động tác
lao động như gặt lúa, hái quả, với nhịp nhanh, lắc eo linh hoạt, thường biểu diễn
trong lễ hội. Theo nghiên cứu "Sử dụng chất liệu múa Khơ Mú trên sân khấu
hiện nay" từ Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh, múa Au eo được biến tấu
trong múa đương đại, giữ giá trị dân gian. Ở Thanh Chương, múa Au eo kết hợp
hát Tơm trong lễ mừng nhà mới, thể hiện vui mừng.
Lễ Tết cơm mới là lễ hội quan trọng, tổ chức sau vụ gặt
tháng 10 âm lịch, dịp vui của bản sau một năm lao động. Theo Ủy ban Dân tộc, Tết
cơm mới bao gồm cúng hồn lúa, ăn uống cộng đồng, hát múa. Ở Kỳ Sơn, lễ này kéo
dài 3 ngày, với thầy Mo cúng hrôi (ma), cầu mùa màng bội thu. Lễ cầu phúc Tết Mạ
Grợ (gần giống) ở Sơn La có giao thoa, với nghi lễ tâm linh.
Bảo tồn: Sự thay đổi canh tác dẫn đến mai một lễ nghi. Nhiều
người lớn tuổi mất, hoạt động văn hóa không thường xuyên. Cần đầu tư cơ sở vật
chất, lớp dạy múa, lễ hội.
Chương 5: Dân Tộc
Mông – Sức Sống Vượt Lên Đại Ngàn Với Tiếng Khèn Và Lễ Giỗ Họ.
5.1. Nguồn Gốc và Địa
Bàn Cư Trú.
Bản sắc văn hóa của Dân tộc Mông tại Nghệ An thể hiện qua
các khía cạnh độc đáo như trang phục truyền thống với hoa văn thổ cẩm tinh xảo,
văn hóa ẩm thực phong phú với các món như rượu ngô, bánh ngô, thịt gác bếp,
truyền thống thờ cúng tổ tiên và ma bếp sâu sắc, lễ hội và các nghi thức tâm
linh như giỗ họ, lối sống gắn bó với núi rừng, cùng với các hoạt động du lịch cộng
đồng phát huy giá trị văn hóa.
Đồng bào Mông ở Nghệ An có trên 6.926 hộ/33.716 khẩu, cư trú
ở 91 bản, thuộc 28 xã, thị trấn của 3 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong;
trong đó có 6 xã thuần người Mông. Theo các nhà nghiên cứu dân tộc học Việt Nam
thì người Mông có nguồn gốc từ phía Nam Trung Quốc. Trước đây, họ là một bộ phận
của dân tộc Dao ở Trung Quốc, cho đến thế kỷ VII-IX mới phát triển và tách ra
thành một dân tộc độc lập. Qua những biến động của lịch sử Trung Quốc, để tránh
chế độ phong kiến hà khắc và sự bóc lột tàn độc của bọn chúa đất, từ thời Thái
bình Thiên Quốc đến khi Trung Quốc giải phóng (1949), người Mông đã tổ chức nhiều
đợt thiên di. Một bộ phận lớn người Mông di chuyển từ tỉnh Quý Châu (Trung Quốc)
đến phía Tây Bắc Việt Nam và cư trú ổn định, lâu dài ở đây. Tuy nhiên, do lối sống
du canh du cư nên một bộ phận người Mông lại tiếp tục di cư từ các tỉnh phía
Tây Bắc sang Xiêng Khoảng (Lào), một bộ phận từ Sơn La sang Sầm Nưa (Lào). Và từ
các tỉnh này của nước bạn Lào, người Mông lại di cư sang các tỉnh miền Tây Nghệ
An, trong đó huyện Kỳ Sơn là huyện tập trung người Mông sớm nhất và đông nhất.
Người Mông thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, với nhiều tên gọi
khác nhau như: Mèo, Mẹo, Miếu Hạ, Mán trắng. Người Mông ở Nghệ An có hai ngành:
Mông trắng và Mông đen, sự phân chia này không phải dựa vào màu da như một số
tài liệu đã viết, mà chủ yếu dựa vào trang phục truyền thống của hai ngành này.
Do di cư đến Nghệ An muộn hơn những dân tộc khác nên địa bàn
cư trú chủ yếu của dân tộc Mông là những vùng đồi núi cao, có độ dốc lớn. Cư
trú ở địa bàn núi cao nên sản xuất chủ yếu của người Mông là làm nương rẫy, trồng
các loại cây lương thực như lúa, nếp, ngô,… Trước đây, khi chưa được khai hóa,
người Mông trồng thuốc phiện khá nhiều, diện tích cây thuốc phiện được họ canh
tác trong rừng sâu gây khó khăn cho việc phá bỏ của các cấp chính quyền. Ngày
nay, do được tuyên truyền sâu rộng, nên người Mông đã bỏ dần tập quán này, chuyển
đổi dần sang việc trồng rừng mang lại kinh tế cao; Chăn nuôi gia súc gia cầm
khá phát triển; Nghề thủ công truyền thống cũng khá phát triển như rèn đúc, làm
giấy, mộc, đan lát,…
Tổ chức xã hội của người Mông theo mô hình làng bản. Các gia
đình thường sống gần nhau, quây tụ khoảng từ vài ba chục nóc nhà thì lập thành
làng. Đứng đầu làng là trưởng làng, người điều hành mọi công việc trong làng,
tiếp đó là trưởng họ. Những gia đình cùng dòng họ thường quần tụ, sống gần nhau
tạo thành làng, thành bản. Trong đời sống tín ngưỡng người Mông đặc biệt chú trọng
lễ cúng ma làng vào tháng giêng hàng năm. Vì quan niệm mọi loại vật đều có linh
hồn nên ngoài cúng ma làng đồng bào Mông còn cúng nhiều loại ma như: ma trâu
(nhiu dáng), ma nhà (xủa cá), ma cửa (xìa mình), ma lơn (bùa dáng), ma bếp (hú
sinh),…
Người Mông có nền văn hóa nghệ thuật khá giàu có, đặc biệt
là truyện kể và âm nhạc, nổi bật trong kho tàng truyện kể của đồng bào là tác
phẩm “Tiếng khèn của Gia Ba Sử”, “Vừ Lin Thoong và Lỳ Ta Xa”, “Truyện Vừ Lông Pốc”,…
Âm nhạc của người Mông cũng khá phát triển với các điệu hát nổi tiếng, đóng dấu
như là “thương hiệu” riêng của họ như là: điệu Cử xia, lù tẩu, vàng hủa, xến, xằng
lề,....
Văn hóa của người Mông ở Nghệ An hiện nay là sự đan xen giữa
văn hóa truyền thống với văn hóa hiện đại. Những giá trị tốt đẹp của văn hóa
truyền thống được lưu giữ, bảo tồn không chỉ bám rễ trong sinh hoạt văn hóa
truyền thống mà còn ảnh hưởng, thâm nhập vào đời sống văn hóa mới, tạo nên sự
phong phú, bổ ích cho sinh hoạt văn hóa hiện nay của đồng bào.
Mỗi cộng đồng dân tộc đều có một nền văn hóa khác nhau và
chính sự khác nhau đó đã làm nên sự đa dạng cho nền văn hóa Nghệ An nói riêng,
Việt Nam nói chung. Tuy đa dạng nhưng là một thể thống nhất trong từng sắc thái
văn hóa của cộng đồng các dân tộc, làm phong phú và tạo nên tính đoàn kết cao,
là nền tảng để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Đồng bào Mông ở Nghệ An có trên 6926 hộ/33.716 khẩu, cư trú ở
91 bản, thuộc 28 xã, thị trấn của 3 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong;
trong đó có 5 xã thuần người Mông. Địa bàn cư trú rải rác nằm trên các sườn núi
cao dọc theo vùng biên giới Việt - Lào. Người Mông cư trú tại 3 huyện rẻo cao dọc
biên giới Việt - Lào là: Kỳ Sơn, Tương Dương và Quế Phong. Kỳ Sơn có 5 xã thuần
Mông là Mường Lống, Huồi Tụ, Nậm Cắn, Tây Sơn, Đoọc Mạy và 3 xã Người Môngchiếm
đa số là Bắc Lý, Na Ngoi, Mường Típ. Tương Dương có 6 xã có người Mông là Nhôn
Mai, Tam Hợp, Mai Sơn, Lưu Kiền, Xá Lượng và Hữu Khuông. Quế Phong chỉ có ở xã
Tri Lễ và Nậm Giải.
Đặt chân đến các huyện miền núi phía Tây Nghệ An như Kỳ Sơn,
Tương Dương, Quế Phong, ta dễ dàng nhận ra những bản làng người Mông ẩn mình giữa
mây ngàn. Những ngôi nhà trình tường vững chãi, mái lợp gỗ pơ mu bạc màu theo
năm tháng, tựa lưng vào núi, hướng mặt ra những thung lũng xanh mướt. Cách bố
trí không gian sống, từ gian bếp ấm áp đến nơi thờ cúng tổ tiên trang trọng, đều
phản ánh sự gắn kết mật thiết với thiên nhiên và lòng biết ơn đối với những người
đi trước.
Bản sắc văn hóa Mông ở Nghệ An còn được thể hiện một cách
sinh động qua những âm thanh và sắc màu. Tiếng khèn Mông trầm bổng, da diết,
không chỉ là nhạc cụ mà còn là phương tiện giao tiếp, là tiếng lòng của cộng đồng
trong những dịp lễ hội, cưới hỏi hay đơn giản là lúc nghỉ ngơi sau một ngày lao
động vất vả. Những điệu múa uyển chuyển, nhịp nhàng theo tiếng khèn càng làm
tăng thêm sự cuốn hút cho những buổi sinh hoạt cộng đồng.
Không thể không nhắc đến những bộ trang phục truyền thống rực
rỡ, được tạo nên bởi đôi bàn tay khéo léo của những người phụ nữ Mông. Từ việc
trồng lanh, dệt vải, nhuộm màu bằng các loại cây rừng đến thêu thùa, trang trí
những họa tiết tinh xảo, tất cả đều là một quá trình tỉ mỉ, công phu, chứa đựng
những giá trị thẩm mỹ và biểu tượng văn hóa sâu sắc. Mỗi đường kim mũi chỉ, mỗi
gam màu đều kể một câu chuyện về lịch sử, về niềm tin và khát vọng của cộng đồng.
Nét văn hóa tiêu biểu của người Mông diễn ra trong các ngày
tết như Tết Năm mới, Tết Đoan ngọ (mồng 5 tháng 5 âm lịch), lễ mừng cơm mới,...
Trong các ngày lễ, đồng bào dân tộc Mông tổ chức các hoạt động văn hóa với các
trò chơi dân gian như: Ném còn, bắn tên, đẩy gậy, kéo co, chơi khèn (vừa thổi vừa
múa). Các loại kèn lá, kèn môi thường xuyên được sử dụng trong các đợt sinh hoạt
tập thể. Văn hóa người Mông còn được thể hiện qua trang phục của người phụ nữ rất
cầu kỳ với nhiều màu sắc và nhiều loại trang sức đẹp.
Cộng đồng người Mông
và văn hóa tâm linh.
Đơn vị cư trú sơ khai của người Mông là "giào", một
tổ chức tương tự như bản của người Thái hay thôn, xóm của người Kinh, song quy
mô hộ gia đình thường nhỏ gọn hơn, dao động từ 15 đến 20 hộ, gắn kết bởi huyết
thống dòng họ. Mỗi giào tự quản bằng luật tục riêng và nổi bật tinh thần tương
thân tương ái. Người đứng đầu giào là ông "Lùng thầu", một nhân vật
uy tín được dân bầu chọn. Khi cần thiết, hai ba giào có thể liên kết thành
"liên giào", dưới sự lãnh đạo của "Nại bản". Đến cấp cao
hơn, khoảng 10 đến 15 giào hợp thành "phống", do "Tà Xẻng"
đứng đầu, chức danh này về sau được gọi là Lý trưởng. Những người có vị thế
trong xã hội Mông thường thuộc các dòng họ lớn, sở hữu uy quyền đáng kể và
không ít người kiêm nhiệm vai trò thầy cúng. Dẫu vậy, họ vẫn duy trì lối sống
lao động trực tiếp và mối quan hệ gần gũi với cộng đồng.
Trong văn hóa Mông, quan hệ dòng họ có một vị trí thiêng
liêng. Dù cách xa về địa lý hay chưa từng quen biết, những người cùng dòng tộc
vẫn chia sẻ những quy ước chung về giao tiếp, thờ cúng, tang ma,... Mỗi dòng họ
mang tên một loài vật, đi kèm những điều kiêng kỵ mang đậm dấu ấn tô tem, tương
tự như tín ngưỡng của người Thái, người Khơ Mú: họ Vừ, họ Và tránh ăn tim lợn;
họ Lỳ kiêng ăn lá lách của động vật bốn chân,... Gia đình Mông truyền thống là
gia đình phụ quyền bền vững, hiếm khi xảy ra tình trạng ngoại tình hay ly hôn.
Cộng đồng có những hình thức xử lý nghiêm khắc đối với những gia đình bất hòa.
Khi người chồng qua đời, tục lệ "nối dây" quy định chị dâu phải kết
hôn với em trai chồng. Con trai trong gia đình được giáo dục về lao động và lễ
nghi từ thuở ấu thơ: mười tuổi đã quen thuộc với việc bắn nỏ và làm nương rẫy,
mười lăm tuổi đã thông thạo các bài cúng tổ tiên và thành thạo nghề thủ công
truyền thống. Sau nghi lễ "thành đinh", các chàng trai được đổi tên
và có thể tiến hành tục "cướp vợ" theo phong tục của dân tộc. Dấu vết
của chế độ mẫu hệ vẫn còn khá rõ nét trong xã hội Mông, thể hiện qua vai trò
quan trọng của người cậu trong việc dựng vợ gả chồng cho cháu gái, tương tự như
người cha thứ hai. Theo quan niệm của người Mông, thế giới tồn tại vô vàn loại
ma như ma trâu, ma lợn, ma nhà, ma cửa,... và đồng bào tin rằng mọi vật đều có
linh hồn.
Giữ lửa văn hóa nơi
biên cương.
Sống trên những vùng đất biên giới, người Mông ở Nghệ An
không chỉ đối diện với những khó khăn về kinh tế, xã hội mà còn phải nỗ lực để
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trước sự giao thoa và
tác động của cuộc sống hiện đại. Các phong tục tập quán, lễ hội truyền thống
như Tết Nguyên đán, lễ hội xuống đồng, lễ cúng bản… vẫn được duy trì và trao
truyền qua các thế hệ.
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực đáng ghi nhận, việc bảo tồn
bản sắc văn hóa Mông ở Nghệ An vẫn còn nhiều thách thức. Sự mai một của tiếng
nói, trang phục truyền thống trong giới trẻ, sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa
ngoại lai… đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa từ các cấp chính quyền, các tổ chức văn
hóa và đặc biệt là ý thức tự tôn văn hóa của chính cộng đồng người Mông.
Hướng tới tương lai,
giữ gìn cội nguồn.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa của người Mông ở Nghệ An trên các rẻo cao biên giới Việt -
Lào không chỉ là trách nhiệm của riêng cộng đồng mà còn là nhiệm vụ chung của
toàn xã hội. Cần có những chính sách, chương trình cụ thể để hỗ trợ việc dạy và
học tiếng Mông, khôi phục và phát triển các nghề thủ công truyền thống, bảo tồn
các lễ hội văn hóa đặc sắc và thúc đẩy du lịch cộng đồng gắn với văn hóa Mông.
Bản sắc văn hóa của người Mông ở Nghệ An là một viên ngọc
quý trong bức tranh văn hóa đa dạng của Việt Nam. Việc trân trọng, giữ gìn và
phát huy những giá trị văn hóa độc đáo này không chỉ góp phần làm phong phú
thêm đời sống tinh thần của cộng đồng mà còn tạo động lực cho sự phát triển bền
vững của vùng đất biên cương. Hãy cùng nhau chung tay để tiếng khèn Mông mãi
ngân vang, sắc màu thổ cẩm mãi rực rỡ trên những rẻo cao Nghệ An.
Nhắc đến huyện Kỳ Sơn là nói đến một huyện huyện miền núi
cao, biên giới phía Tây tỉnh Nghệ An với
4 hệ dân tộc cùng sinh sống là: Thái, Khơ Mú, Mông, Kinh và Hoa với những đặc trưng văn hóa khác nhau tạo nên
sự đa dạng, phong phú, giàu bản sắc. Kỳ Sơn có 6 xã thuần Mông là Mường Lống,
Huồi Tụ, Nậm Cắn, Tây Sơn, Nậm Càn, Đoọc Mạy và 4 xã có dân tộc Mông sinh sống
là Bắc Lý, Mỹ Lý, Na Ngoi, Mường Típ. Tổng số nhân khẩu dân tộc Mông trên địa
bàn huyện là hơn 34 nghìn người.
Nhằm phát triển du lịch theo Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên địa bàn tỉnh
Nghệ An giai đoạn 2017 - 2030, Huyện Kỳ Sơn đã xây dựng, phê duyệt và đang thực
hiện Đề án “xây dựng và phát triển du lịch
huyện Kỳ Sơn giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030”; Trong đó tập trung
xây dựng các tuyến du lịch gắn với việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá truyền
thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện Kỳ Sơn nói chung và
dân tộc Mông nói riêng. Với những cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, những điểm
săn mây lý tưởng, khí hậu mát mẻ thì bản sắc văn hoá của đồng bào dân tộc Mông
cũng là điểm nhấn, thu hút và tạo nên tính tò mò muốn khám phá, hoà mình vào
văn hoá đời sống của đồng bào.
Nói đến văn hóa của dân tộc Mông tại huyện Kỳ Sơn người ta
thường nhớ đến bộ trang phục với màu sắc rực rỡ, nét hoa văn riêng biệt, nổi bật,
sự đa dạng và phong phú của bản sắc văn hoá dân tộc Mông được thể hiện qua các
phong tục tập quán, quan niệm về trời đất và con người, vạn vật. Hàng năm công
tác tổ chức các lễ hội truyền thống mang ý nghĩa tốt đẹp về đạo lý “uống nước
nhớ nguồn”; hoạt động văn hoá, văn nghệ, trò chơi dân gian của dân tộc được
Mông được tổ chức tạo không khí vui tươi sôi nổi như:
Về hoạt động ngày lễ: Trong các ngày lễ, đồng bào dân tộc
Mông tổ chức các hoạt động văn hóa với các trò chơi dân gian như: Ném pao tìm bạn
tình đây là một hoạt động giao lưu giữa các vùng, miền đồng thời thông qua hoạt
động này các bạn trẻ nam, nữ tìm đến nhau kết duyên thông qua tần suất ném pao
cho nhau, hay những điệu múa khèn xoay chuyển độc đáo với những làn điệu hát cự
xia riêng biệt…hoạt động này khách du lịch sẽ được hoà mình để cùng trải nghiệm.
Còn vào các ngày tết như: Tết Năm mới thường diễn ra hoạt động
bò chận, trâu chận...đây là những hoạt động văn hoá dân gian truyền thống có từ
lâu đời và vẫn được lưu giữu cho đến hôm nay, điều này đã tô điểm thêm nét văn
hoá tạo nên đa dạng và lưu truyền cho các thế hệ mai sau.
Để sâu hơn, nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư qua các biến động
lịch sử như cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc (1850-1864), tìm đất sống tự do. Ở
Nghệ An, Kỳ Sơn có hơn 34.000 người Mông, với 6 xã thuần. Du lịch cộng đồng ở
Mường Lống phát triển, kết hợp văn hóa Mông.
5.2. Văn Hóa Vật Thể
Độc Đáo.
Trang phục truyền thống.
Thổ cẩm đa sắc màu: Phụ nữ Mông nổi tiếng với trang phục
thêu hoa văn thổ cẩm rực rỡ và tinh xảo, phản ánh sự khéo léo và thẩm mỹ.
Sử dụng bạc: Trang phục được trang trí bằng các đồng xu bạc ở
thắt lưng và vòng cổ, tượng trưng cho vẻ đẹp và giá trị.
Y phục nam giới: Trang phục nam giới khá đơn giản với áo
khoác và mũ, thường được sử dụng trong các dịp lễ, Tết hoặc đám tang.
Văn hóa ẩm thực.
Đặc sản địa phương: Ẩm thực Mông phong phú với các sản phẩm
như rượu ngô, rượu sắn, bánh ngô, bánh dày, thịt gác bếp, rau cải Mông, dưa
Mông và nếp cẩm.
Món ăn tốt cho sức khỏe: Gà đen nấu sâm đất là một món ăn đặc
trưng với hương vị thơm ngon, rất tốt cho sức khỏe.
Nhà ở trình tường vững chãi, thích ứng với núi cao. Thổ cẩm
từ lanh, nhuộm màu tự nhiên, hoa văn kể chuyện lịch sử.
5.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Tiếng Khèn Và Lễ Giỗ Họ.
Văn hóa tâm linh và
tín ngưỡng.
Thờ cúng tổ tiên: Người Mông rất coi trọng việc thờ cúng tổ
tiên, coi đó là sự báo hiếu và cầu mong sự che chở từ ông bà.
Ma bếp: Ma bếp là một yếu tố tâm linh quan trọng, người phụ
nữ lớn tuổi thường là người giữ mối quan hệ với ma bếp, cầu xin sự phù hộ trong
việc nấu nướng và cuộc sống.
Giỗ họ: Đây là một nét văn hóa độc đáo, là dịp để các thành
viên trong dòng họ sum họp, tưởng nhớ cội nguồn và báo hiếu tổ tiên, với các
nghi thức cúng tế trang trọng.
Lễ giỗ họ (Tết họ) là hoạt động tâm linh độc đáo, mỗi dòng họ
có ngày riêng, thường sau đám tang hoặc Tết. Theo Báo Quân đội Nhân dân, giỗ họ
ở Nghệ An là dịp sum họp, cúng tế, ăn uống, giữ đoàn kết dòng tộc. Ở Kỳ Sơn, giỗ
họ kết hợp múa khèn, ném còn.
Tiếng khèn là ngôn ngữ giao tiếp độc đáo, trầm bổng, dùng
trong lễ hội, đám tang. Nghệ thuật chế tác khèn từ tre, đồng, với 6 ống, tạo âm
thanh đa dạng. Múa khèn (Tha Khềnh) uyển chuyển, xoay chuyển, biểu diễn ở chợ
phiên, đám giỗ. Theo Báo Tuyên Quang, khèn là thông điệp tâm tư, linh thiêng nối
mường trời mường đất.
Lối sống và lễ hội.
Gắn bó với thiên nhiên: Dân tộc Mông sống gắn bó với núi rừng,
điều này thể hiện qua các phong tục và kiến trúc nhà cửa truyền thống.
Các lễ hội: Lễ hội là dịp để người Mông thể hiện các giá trị
văn hóa và truyền thống của dân tộc.
Du lịch cộng đồng.
Phát huy giá trị văn hóa: Hoạt động du lịch cộng đồng đã
giúp người Mông nâng cao ý thức giữ gìn văn hóa, bảo vệ cảnh quan.
Phát triển kinh tế: Du lịch cộng đồng còn góp phần xây dựng
homestay, phát triển các sản phẩm thủ công và nông nghiệp, tạo thu nhập cho người
dân.
Bảo tồn: Dạy tiếng Mông, khôi phục nghề thủ công, du lịch cộng
đồng ở Kỳ Sơn.
Chương 6: Dân Tộc Ơ Đu – Tấm Thảm Văn Hóa Đang
Dần Phai Màu Với Lễ Chăm Phtrong Và Nỗ Lực Bảo Tồn Ngôn Ngữ.
6.1. Nguồn Gốc và Thực
Trạng.
Bản sắc văn hóa của Dân tộc Ơ Đu tại Nghệ An thể hiện qua
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, lễ hội «Tết mừng tiếng sấm» (Chăm Phtrong), phong
tục hôn nhân phức tạp, tập quán sinh sống trong nhà sàn với hai bếp và quan niệm
về «ma nhà». Tuy nhiên, bản sắc này đang đối mặt với nguy cơ mai một, cần sự
quan tâm, bảo tồn từ các cấp chính quyền.
Tương Dương là nơi duy nhất ở Việt Nam nói chung và Nghệ An
nói riêng có dân tộc Ơ Đu cư trú. Mặc dù là dân tộc ít người nhất trong cộng đồng
54 dân tộc Việt Nam và 5 dân tộc thiểu số ở Nghệ An nhưng dân tộc Ơ Đu có lịch
sử hình thành và cư trú khá lâu đời.
Dân tộc Ơ Đu thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me, họ có ngôn ngữ,
tiếng nói riêng mặc dù hiện nay những nét văn hóa độc đáo đó đang bị đồng hóa,
mất dần do đặc thù sống xen kẽ với các dân tộc khác của người Ơ Đu. Họ sống tập
trung ở ven sông Nậm Mộ và Nậm Nơn với 3 trung tâm lớn là vùng Xốp Tăm (Tà Kạ
và Keng Đu huyện Kỳ Sơn hiện nay), Mường Lâm (Hữu Khuông huyện Tương Dương hiện
nay), Mường Mèn (Yên Hòa huyện Tương Dương hiện nay). Ở nơi này, đời sống của
người Ơ Đu phát triển khá phồn thịnh với nghề đánh cá, buôn bán dọc các con
sông,… Tuy nhiên, do gặp thời kỳ loạn lạc, cùng sự chèn ép của các dân tộc khác
di cư ồ ạt sang nên dân tộc Ơ Đu bị dồn vào những nơi hẻo lánh đầu nguồn con suối,
hoặc những vùng núi cao, hiểm trở. Thậm chí để an toàn, một bộ phận không nhỏ
người Ơ Đu phải thay đổi tên họ, giọng nói, tập quán của dân tộc mình sống đan
xen, phụ thuộc vào các dân tộc khác.
Mặc dù là dân tộc ít người nhưng lịch sử hình thành của người
Ơ Đu khá lâu đời, bên cạnh đó ý thức về dân tộc của họ vẫn rõ nét nên họ có đời
sống văn hóa độc đáo, riêng biệt và đậm đà bản sắc. Tuy nhiên việc nghiên cứu,
bảo tồn và lưu giữ cũng đang đặt ra nhiều vấn đề đối với các nhà nghiên cứu
cũng như các cơ quan ban ngành liên quan, quan tâm. Trình độ canh tác, sản xuất
của người Ơ Đu được duy trì cho đến ngày hôm nay, họ sống nửa cày ruộng, nửa
làm nương với trình độ kỹ thuật tương đối cao. Ngoài ra, người Ơ Đu còn biết dệt
vải, thêu, đan lát và tận dụng lợi thế sống ven sông nên tổ chức buôn bán tấp nập,
sầm uất.
Người Ơ Đu chỉ có một họ duy nhất là họ Lò và được chia làm
hai chi là Lò Văn và Lò May. Gia đình của người Ơ Đu là gia đình nhỏ phụ quyền,
phân định thứ trưởng rất rõ ràng. Tư tưởng phụ quyền trong gia đình của người Ơ
Đu được thể hiện trong vài trò của người đàn ông trong gia đình. Họ là chủ gia
đình, có quyền quyết định mọi việc, đàn bà không có quyền thừa tự, và chỉ có bổn
phận chăm sóc chồng con, không được quyết định những việc trong gia đình từ việc
nhỏ đến việc lớn và khi về nhà chồng, người phụ nữ được gọi theo tên chồng và họ
chồng. Tuy nhiên, người Ơ Đu có phong tục ở rể trong 3 - 4 năm đầu mới cưới lại
thể hiện tư tưởng mẫu hệ là tàn dư trước đây để lại.
Phong tục, tập quán của người Ơ Đu khá phong phú và đặc sắc,
trong đó tiêu biểu là phong tục cưới xin và lễ đón tiếng sấm đầu năm. Điều đặc
biệt trong hôn nhân của người Ơ Đu là tục ở rể. Sau đám cưới, thường con rể sẽ ở
trong nhà vợ khoảng từ 3-4 năm, nếu có tiền Klay Glây (tiền giá đầu của người
con gái) nộp cho nhà gái thì chỉ phải ở rể trong 1 năm. Trong thời gian ở rể
này người con trai hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào nhà gái, thậm chí tên họ
cũng phải gọi theo tên họ của vợ. Người Ơ Đu tính năm mới bắt đầu từ khi có tiếng
sấm đầu tiên nên lễ đón tiếng sấm được tổ chức khá trọng thể.
Cũng giống như nhiều dân tộc thiểu số khác, đồng bào quan niệm
con người ta ngoài thể xác còn có phần hồn, phần hồn thường nằm ở chỏm tóc, đỉnh
đầu nên đồng bào rất kiêng xoa đầu trẻ con. Xuất phát từ quan niệm đó mà người
Ơ Đu cho rằng có rất nhiều loại ma và tổ chức thờ cúng rất nhiều loại ma, đặc
biệt là ma nhà và các vị thần là các Then như Then Luông, Then Vi, Then Bắc,
Then Na,… Mặc dù các Then này mang yếu tố của dân tộc Thái, nhưng nó cũng thể
hiện đời sống tâm linh đa dạng và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh
thần của bà con đồng bào Ơ Đu.
Dân tộc Ơ Đu là một trong những cộng đồng dân tộc ít người
nhất Việt Nam, người Ơ Đu sống theo gia đình nhỏ, tính phụ quyền bộc lộ rõ rệt
trong gia đình nhiều hơn các dân tộc khác.
Người Ơ Đu còn có tên gọi khác là người Tày Hạt, thuộc dân tộc
ít người, Ơ Đu là một trong 5 dân tộc ít người nhất của Việt Nam (Brâu, Rơ Măm,
Pu Péo, Si La, Ơ Đu), cư trú chủ yếu ở huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Đồng
bào Ơ Đu có khoảng 600 người họ sống xen kẽ với đồng bào Thái, Khơ Mú và người
Mông.
Tiếng Ơ Đu thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ Me, ngữ hệ Nam Á, nhưng
các thế hệ người Ơ Đu còn lại đến giờ quên gần hết tiếng nói. Họ quên cả phong
tục, tập quán. Một số rất ít ỏi đều trên 80 tuổi còn nói khoảng 100 từ cả những
từ họ còn nhớ đã có sự pha trộn của cả ngôn ngữ Thái và Khơ Mú. Vì thế, những
người còn nói được tiếng thì cộng đồng vô cùng coi trọng. Khi về già, người ơ
Đu còn có ý thức học lại ngôn ngữ dân tộc để tìm về cội nguồn.
Người Ơ Đu sống theo gia đình nhỏ, tính phụ quyền bộc lộ rõ
rệt trong gia đình nhiều hơn các dân tộc khác. Người đàn ông toàn quyền quyết định
các việc trong gia đình, đàn bà không được hưởng quyền thờ tự. Xưa kia người Ơ
Đu sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá và muông thú.
Người Ơ Đu ở nhà sàn, kiến trúc nhà ở của họ thường có 4
mái, lợp bằng nứa hoặc tranh, đầu nhà quay vào núi, cột nhà chôn xuống dưới đất.
Ngôi nhà thường có 4-8 cột, tương ứng với nhà từ 1-3 gian. Khi dựng nhà bao giờ
người Ơ Đu cũng dựng cột chính trước. Theo quan niệm của họ thì đó là cột góc
ma ở. Sau mới đến các cột góc khác theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống
dưới.
Trong nhà, bếp của người Ơ Đu có 2 bếp, Phong tục tập quán của
người Ơ Đu ngày xưa là phải có 2 bếp. Bếp đặt ngoài là bếp tiếp khách, không được
nấu nướng, kể cả rau củ quả, thịt… cũng không được nấu mà chỉ được phép nấu
cơm, tiếp khách và sưởi ấm. Còn bếp trong là bếp nấu nướng phục vụ bữa ăn gia
đình. Phía trên gác bếp thường hay để đồ đan lát, dụng cụ nứa, tre mang trên rừng
mà chưa kịp chẻ, đan sản phẩm thì bó lại để trên gác bếp cho khô.
Trước kia, người Ơ Đu cư trú 2 bên bờ sống Nậm Mộ, Nậm Nơn,
thuộc dãy Trường Sơn, dọc theo biên giới Việt Lào của tỉnh Nghệ An, nhưng do
nhiều biến cố lịch sử nên họ phải dời đi nơi khác hoặc phải ở lẫn vào dân tộc
khác. Hiện nay họ sống rải rác trong nhiều bản của vùng sâu vùng xa thuộc thuộc
huyện Tương Dương của tỉnh Nghệ An, nhưng tập trung ở 2 bản Kim Hòa, Sốp Phột,
xã Kim Đa.
Bà Mạc Thị Tím, trưởng bản Văng Môn, xã Nga My huyện Tương
Dương, cho biết: "Hiện tại mấy cụ già thì biết nói tiếng Ơ Đu, còn những
người trẻ hầu hết nói toàn tiếng Thái. Nhưng khi chuyển đến đây rồi thì chúng
tôi cũng mở được lớp dạy tiếng Ơ Đu, những tiếng chào hỏi, giao tiếp, mời ăn
cơm, mời uống nước thì cũng được học và truyền dạy lại cho con cháu."
Người Ơ Đu sống theo gia đình nhỏ, tính phụ quyền bộc lộ rõ
rệt trong gia đình nhiều hơn các dân tộc khác. Người đàn ông toàn quyền quyết định
các việc trong gia đình, đàn bà không được hưởng quyền thừa tự. Xưa kia người Ơ
Đu sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá và muông thú. Bà Mạc Thị Tím cho biết:
"Trước đây các cụ sống trên rừng. Thịt lợn, thịt gà thì thi thoảng mới có
và thường ở dưới xuôi. Còn sóc, chuột là thức ăn hàng ngày trong mỗi bữa cơm do
thành viên gia đình tự đi kiếm săn bắt hái lượm về cho nên là ngày lễ trong mâm
cơm cúng không thể bỏ được những món ăn này. Vì đó là những món ăn quan trọng
hàng ngày nên buộc phải có trong mâm cơm cúng."
Người Ơ Đu ở nhà sàn, kiến trúc nhà ở của họ thường có 4
mái, lợp bằng nứa hoặc tranh, đầu nhà quay vào núi, cột nhà chôn xuống dưới đất.
Ngôi nhà thường có 4-8 cột, tương ứng với nhà từ 1-3 gian. Khi dựng nhà bao giờ
người Ơ Đu cũng dựng cột chính trước. Theo quan niệm của họ thì đó là cột góc
ma ở. Sau mới đến các cột góc khác theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống
dưới.
Trong nhà, bếp của người ơ Đu có 2 bếp. Ông Lò Văn Cự ở xã
Nga My cho biết: "Phong tục tập quán của người Ơ Đu ngày xưa là phải có 2
bếp. Bếp đặt ngoài là bếp tiếp khách, không được nấu nướng, kể cả rau củ quả,
thịt… cũng không được nấu mà chỉ được phép nấu cơm, tiếp khách và sưởi ấm. Còn
bếp trong là bếp nấu nướng phục vụ bữa ăn gia đình. Phía trên gác bếp thường
hay để đồ đan lát, dụng cụ nứa, tre mang trên rừng mà chưa kịp chẻ, đan sản phẩm
thì bó lại để trên gác bếp cho khô."
Về Tôn giáo tín ngưỡng của người Ơ Đu, họ gọi hồn là mẹ, ma
là bụa, ma nhà là bụa rinh, chi phối mọi hoạt động của gia đình. Khi bị đau ốm
họ cùng xin ma nhà đi bước nữa, tức cưới ma khác để vui không làm hại đến mọi
người trong gia đình.
Văn hóa truyền thống của đồng bào Ơ Đu ở tỉnh Nghệ An là một
phần không thể thiếu trong bức tranh văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Chính những nét văn hóa riêng có ấy làm phong phú đời sống tinh thần của đồng
bào Ơ Đu, tạo nên sự độc đáo cần được gìn giữ.
Văn hóa truyền thống của người Ơ Đu hiện nay tồn tại như những
hoài niệm. Nhưng điều đó chưa hẳn là những tín hiệu buồn. Bởi nếu nhìn một cách
tích cực, rõ ràng người Ơ Đu đã tìm ra những cách thích ứng phù hợp trong lịch
sử phát triển của mình.
Nhận diện văn hóa
truyền thống của người Ơ Đu.
Gia đình người Ơ Đu sống theo chế độ phụ quyền, người đàn
ông là người có quyền quyết định cao nhất trong nhà, và cũng được coi là trụ cột
gia đình. Cũng như các tộc người khác, người Ơ Đu cũng tuân thủ quy tắc ngoại
hôn để không làm suy thoái nòi giống. Người đàn ông chủ động đi hỏi vợ, và trước
đây, họ có tục ở rể trong vòng 1 năm sau đó mới đón vợ con về nhà nội. Dòng họ
của người Ơ Đu rất ít. Hiện chỉ thấy có một họ là họ Lo được chia thành hai
nhánh là Lo anh và Lo em.
Làng bản của người Ơ Đu gọi là Plung, trước đây chủ yếu ở
các khu vực đầu nguồn khe suối nên có nhiều bản gọi theo tên khe như bản Xốp Pột
gọi theo nơi khe Pột và khe Com gặp nhau; bản Xốp Cháo gọi theo tên là khe
Cháo; Bản Com gọi theo tên là khe Com; Bản Pủng gọi theo tên khe Pủng…. Nhà cửa
của người Ơ Đu chủ yếu quay vào hướng núi.
Người Ơ Đu sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nương rẫy, chăn
nuôi nhỏ và một vài nghề thủ công cơ bản. Kỹ thuật sản xuất của họ còn hạn chế
hơn nhiều so với các cộng đồng xung quanh. Họ trồng lúa trên nương, là loại cây
trồng chủ yếu. Bên cạnh đó còn trồng thêm các loại cây khác như bông, đay, ngô,
các loại rau cỏ. Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, chó, một số gia đình ở gần suối
còn nuôi thêm ngan, vịt để bổ sung thực phẩm cho gia đình. Nhìn chung, nền kinh
tế nông nghiệp của người Ơ Đu phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Năm thuận
lợi thì sẽ sung túc hơn và năm thời tiết khắc nghiệt thì lại đói kém. Họ cũng
còn dựa nhiều vào kinh tế săn bắt, hái lượm. Thủ công nghiệp của người Ơ Đu chủ
yếu là dệt vải thô, đan lát đồ tre mây để phục vụ nhu cầu trong gia đình và một
vài nghề thiết yếu khác.
Người Ơ Đu chủ yếu ăn đồ nếp. Ngoài cơm thì còn có thịt từ
chăn nuôi hoặc săn bắt trong rừng và rau cỏ trồng hoặc lấy từ rừng. Họ có nhiều
món ẩm thực đặc trưng của dân tộc mình. Người Ơ Đu uống nước nấu lá rừng và uống
rượu cần. Trang phục truyền thống của người Ơ Đu do họ tự dệt và may, thường tối
màu và dày, thô.
Cũng như các cộng đồng khác, người Ơ Đu cũng có nhiều nét
văn hóa tinh thần đặc sắc. Từ các phong tục tập quán đến dân ca, dân vũ cũng
như các lễ hội dân gian. Tiêu biểu là lễ hội đón tiếng sấm đầu năm. Tuy nhiên,
theo thời gian, các yếu tố văn hóa của người Ơ Đu đã thay đổi theo hướng mai một
dần các yếu tố văn hóa truyền thống.
Sự mai một các yếu tố
văn hóa truyền thống.
Cho đến hiện nay, các yếu tố văn hóa truyền thống của người
Ơ Đu đã bị mai một, mất mát đi rất nhiều. Từ kết cấu làng bản, nhà cửa đến các
sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần đều thay đổi. Các phương thức mưu sinh
cũng thay đổi và ngày càng được hiện đại hóa. Không những vậy, các yếu tố văn
hóa vật thể và phi vật thể cũng mai một, mất mát nhanh chóng và thay vào đó là
những yếu tố văn hóa mới.
Trước hết là kết cấu làng bản và nhà cửa. Hiện nay, chỉ còn
bản Văng Môn là bản người Ơ Đu riêng biệt (dù có một vài hộ gia đình người Thái
sống xen kẽ cùng), còn lại là các hộ gia đình sống rải rác ở các thôn bản bên cạnh
người Thái và Khơ Mú. Riêng ở bản Văng Môn, là bản tái định cư nên được lựa chọn
địa điểm dựng bản khá thuận lợi khi nằm ngay cạnh đường lớn. Các ngôi nhà cũng
được xây dựng kiên cố hơn. Nhưng các ngôi nhà hiện nay cũng không hướng vào núi
như trước kia nữa, mà chủ yếu hướng ra đường. Các trang thiết bị cũng thay đổi,
và cả cảnh quan nương vườn cũng như chuồng chăn nuôi gia súc. Ngày trước, các bản
của người Ơ Đu thường ở đầu khe, đầu suối, khá sâu xa và khó khăn hơn trong việc
đi lại thì hiện nay bản Văng Môn lại ở ngay đường chính. Còn những hộ gia đình
sống xen kẽ ở các bản Thái hay Khơ Mú thì kết cấu nhà cửa cũng khá giống với những
gia đình xung quanh, chủ yếu là ở nhà sàn.
Trang phục truyền thống của người Ơ Đu cũng bị mai một dần.
Hiện nay còn rất ít người biết dệt may đồ truyền thống. Trong một thời gian
dài, họ đổi lấy trang phục của người Thái hoặc Khơ Mú để mặc. Còn giờ họ chủ yếu
mua áo quần ngoài thị trường để sử dụng. Gần đây có một số dự án đang muốn khôi
phục lại trang phục truyền thống nhưng chưa đạt hiệu quả mấy.
Một trong những mất mát lớn nhất chính là ngôn ngữ Ơ Đu hiện
nay gần như không còn nữa. Ở bản Văng Môn hiện nay chỉ còn một người đàn ông biết
nói tiếng Ơ Đu, thì cũng đã lớn tuổi. Còn lại không biết gì nhiều về tiếng Ơ
Đu. Có những lần, Ban Dân tộc tỉnh đã mời người Ơ Đu từ Lào qua để giao lưu và
mong muốn mời họ tham gia giúp đỡ để khôi phục lại tiếng Ơ Đu nhưng chưa thể thực
hiện được. Hiện nay, người Ơ Đu chủ yếu nói tiếng Kinh, tiếng Thái và cả tiếng
Khơ Mú.
Hầu hết các yếu tố văn hóa truyền thống từ vật thể đến phi vật
thể đều không còn lại bao nhiêu. Những bài dân ca, dân vũ hiện nay không còn mấy
người biết được. Lễ hội cũng bị mất mát hết, gần đây người ta nỗ lực khôi phục
lại lễ hội đón tiếng sấm của người Ơ Đu nhưng vẫn còn nhiều vấn đề phải xem xét
lại. Những phong tục tập quán cũng không còn được thực hành nhiều trong cuộc sống
nữa.
Quá trình tiếp xúc và
biến đổi văn hóa của người Ơ Đu.
Văn hóa Ơ Đu có hai cuộc tiếp xúc và biến đổi mạnh mẽ. Cuộc
tiếp xúc đầu tiên là với các cộng đồng sinh sống bên cạnh mà chủ yếu là người
Thái và Khơ Mú. Cuộc tiếp xúc thứ hai là với văn hóa người Kinh.
Trong cuộc tiếp xúc văn hóa với người Thái và Khơ Mú, văn hóa
Ơ Đu bị biến đổi nhiều. Nhiều yếu tố văn hóa của người Thái đã ảnh hưởng mạnh
và có tính chi phối đối với các yếu tố văn hóa Ơ Đu. Người Thái có dân số đông
hơn và trình độ phát triển cũng cao hơn người Ơ Đu nên tác động mạnh đến văn
hóa Ơ Đu. Trong suy nghĩ của người Thái thì người Ơ Đu là thấp kém hơn. Họ gọi
người Ơ Đu là Tày Hạt, nghĩa là người đói rách, và xem đó như là thân phận
“cuông”, “nhóc”. Người Thái và người Ơ Đu cũng có quan hệ hôn nhân với nhau.
Chính vì tiếp xúc gần với một cộng đồng dân cư đông đúc hơn và phát triển hơn
nên người Ơ Đu cũng tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa của người Thái. Họ chủ yếu
nói tiếng Thái, tiếp thu và thực hành một số phong tục tập quán của người Thái.
Mua trang phục của người Thái để mặc. Và người Ơ Đu cũng biết hát các bài hát
truyền thống của người Thái. Trong một khoảng thời gian dài giao lưu, tiếp xúc
văn hóa, người Ơ Đu dần tiếp nhận các yếu tố văn hóa Thái và nó lấn át dần các
yếu tố văn hóa truyền thống của mình. Đây có thể coi là quá trình Thái hóa văn
hóa Ơ Đu, nó diễn ra vào khoảng giữa nửa sau thế kỷ 20 trở về trước.
Bên cạnh người Thái thì người Khơ Mú cũng có ảnh hưởng đến
văn hóa của người Ơ Đu. Có nhiều hộ gia đình Ơ Đu sinh sống giữa những người
Khơ Mú cũng dần tiếp nhận các yếu tố văn hóa Khơ Mú từ ngôn ngữ, trang phục cho
đến các phong tục tập quán. Dù không phổ biến và mạnh mẽ như ảnh hưởng của người
Thái nhưng cũng không thể phủ nhận được tác động của văn hóa Khơ Mú đến văn hóa
Ơ Đu. Những người Khơ Mú khi về làm dâu Ơ Đu cũng đã mang nhiều yếu tố văn hóa
Khơ Mú về theo, nhất là những tri thức về canh tác nương rẫy, về chăn nuôi hay
tri thức về chăm sóc sức khỏe.
Cuộc tiếp xúc với văn hóa người Kinh ở miền xuôi lên đối với
người Ơ Đu cũng vô cùng mạnh mẽ. Dù chỉ mới hơn nửa thế kỷ nhưng hệ quả của nó
thì vô cùng to lớn. Tiếp xúc với văn hóa người Kinh cũng gắn liền với quá trình
hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Từ những năm 1960 đến những năm 1980 là giai đoạn
người Kinh di cư lên mạnh mẽ nhất. Ban đầu họ sinh sống chủ yếu ở các thị trấn.
Càng về sau thì sự di dân cả tự giác lẫn tự phát trở nên nhiều hơn nên người
Kinh cũng xen lẫn vào sinh sống trong các làng bản. Tiếng Kinh trở thành phổ
thông nên các dân tộc hầu hết đều phải học thông qua các chương trình giáo dục
của Nhà nước. Rồi đến yếu tố thị trường cũng như những con đường khác mà dần
văn hóa người Kinh trở nên phổ biến ở vùng dân tộc và ảnh hưởng đến hầu hết các
cộng đồng tộc người thiểu số. Hiện nay, hầu hết người Ơ Đu biết nói tiếng Kinh,
mặc trang phục giống người Kinh và tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa của người
Kinh mà họ coi đó là hiện đại hóa.
Tóm lại, ngày nay chúng ta quan tâm nhiều đến các bản sắc
văn hóa của các dân tộc thiểu số rất ít người như Ơ Đu. Nhưng mọi nền văn hóa đều
vận động và biến đổi. Người Ơ Đu cũng không ngoại lệ. Nhìn nhận lại quá trình
biến đổi văn hóa của người Ơ Đu cũng có thể thấy bên cạnh không ngừng nỗ lực giữ
gìn những giá trị văn hóa truyền thống vốn luôn đối diện với nhiều thách thức,
họ còn tìm cách tích hợp các giá trị văn hóa mới một cách năng động để phục vụ
cuộc sống của mình. Đây là một tín hiệu quan trọng./.
Theo các nhà nghiên cứu, người Ơ Đu có ngôn ngữ riêng, với bản
sắc văn hóa phong phú và đặc sắc. Thời hưng thịnh, người Ơ Đu sống độc lập,
không xen kẽ với dân tộc nào; thường giao thương với người Kinh, Thái, Khơ Mú.
Đối với người Ơ Đu, năm mới được bắt đầu từ ngày có tiếng sấm đầu tiên trong
năm (lễ Chăm phtrong). Lễ mừng tiếng sấm là lễ hội lớn nhất trong năm của người
Ơ Đu, thường kéo dài từ 3 đến 7 ngày.
Nghi lễ đầu tiên trong ngày diễn ra lễ Chăm phtrong là phong
tước cho các chức sắc trong bản như trưởng họ, già làng. Những nhà có người chết
trong năm thì mời thầy mo về nhà làm lễ tiễn linh hồn người chết về với tổ
tiên, đồng thời tiến hành nghi lễ bỏ tang cho người góa bụa để sau lễ mừng tiếng
sấm, họ có thể đi bước nữa. Tại lễ này, những đứa trẻ sinh ra trong năm sẽ được
đặt tên và làm lễ nhập họ.
Ngoài lễ đón tiếng sấm đầu năm, người Ơ Đu còn tổ chức lễ rước
hồn lúa và ăn cơm mới, về sau này còn ăn cả Tết Nguyên đán theo người Kinh. Người
Ơ Đu cũng ở nhà sàn như người Thái. Song, kiến trúc nhà sàn của họ thường có 4
mái, lợp bằng nứa hoặc tranh, đầu nhà quay vào núi, cột chôn, một ngôi nhà thường
có 4-8 cột, tương ứng với nhà 1 gian hoặc 3 gian. Khi dựng nhà bao giờ người Ơ
Đu cũng dựng cột chính trước, sau đó mới đến các cột khác theo thứ tự từ trái
sang phải, từ trên xuống dưới.
Người Ơ Đu cũng quan niệm thế giới bên kia giống người Thái,
song ngoài các then Luông, then Vi, then Bắc còn có thêm then Na cai quản ruộng
nương vì họ cho rằng những người bị hổ báo ăn thịt hoặc mất tích trong rừng là
do then Na bắt đi làm người hầu trông coi ruộng nương. Người Ơ Đu cũng kiêng
không được xoa đầu trẻ con vì họ cho rằng, nếu làm vậy linh hồn sẽ sợ đi mất,
trẻ con sẽ ốm đau. Theo chế độ phụ quyền nên người đàn ông Ơ Đu có quyền quyết
định tất thảy mọi việc trong nhà, phụ nữ không được hưởng thừa tự.
Chia sẻ những hiểu biết của mình về bản sắc văn hóa của người
Ơ Đu, bà Hoàng Thị Quỳnh Anh, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
Nghệ An cho biết: Dân tộc Ơ Đu đã từng có một quá khứ huy hoàng với nền văn hóa
đặc sắc, song trải qua bao thăng trầm của lịch sử, các thế hệ con cháu người Ơ
Đu theo hệ ngôn ngữ Phrom Ơ Đu, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á)
đã "quên" hết tiếng nói, phong tục tập quán của tộc người mình. Kể cả
người già nhất (còn 5 cụ trên 80 tuổi) cũng chỉ còn nhớ bập bõm, song đã bị pha
trộn với tiếng nói, văn hóa của dân tộc Thái, Khơ Mú.
Những năm qua, để bảo tồn văn hóa truyền thống của tộc người
Ơ Đu, ngành văn hóa huyện Tương Dương đã mở lớp dạy tiếng Ơ Đu bằng hình thức
truyền miệng, nhưng việc bảo tồn gặp rất nhiều khó khăn do người dân Ơ Đu chưa
có ý thức dùng tiếng nói của mình để giao tiếp trong sinh hoạt. Điều đáng báo động
là các quan hệ xã hội, văn hóa của người Ơ Đu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ văn hóa
Thái, Khơ Mú, như sử dụng thành thạo các nhạc cụ của hai dân tộc này, trang phục
mặc theo kiểu người Thái, người Kinh.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến không gian văn hóa, phong tục,
tập quán, tín ngưỡng, ngôn ngữ của người Ơ Đu đang bị mất dần, thay vào đó là
không gian văn hóa lai tạp với người Thái, người Khơ Mú là ở ý thức bảo tồn nòi
giống của người Ơ Đu còn nhiều hạn chế và nguồn lực đầu tư chưa có, phương pháp
tiến hành bảo tồn chưa đúng và thiếu đồng bộ. Nhất là việc bảo tồn và phát triển
tộc người Ơ Đu mới chỉ dừng lại ở mặt nâng cao đời sống vật chất, còn yếu tố
văn hóa thì diễn ra quá chậm, không hiệu quả.
Thiết nghĩ, để bảo tồn và phát triển văn hóa của tộc người Ơ
Đu, rất cần có sự quyết tâm từ Trung ương đến địa phương, trước hết là khôi phục
lại không gian văn hóa người Ơ Đu bao gồm quy hoạch lại bản Văng Môn theo cấu
trúc không gian làng bản truyền thống của người Ơ Đu cổ xưa và phục dựng một số
lễ hội quan trọng như lễ Chăm phtrong, lễ ăn cơm mới, rước hồn lúa và mừng nhà
mới.
Đồng thời, UBND tỉnh Nghệ An cần giao cho huyện Tương Dương
thực hiện đề tài khoa học nghiên cứu, biên soạn giáo trình, tài liệu để dạy người
Ơ Đu nói tiếng dân tộc mình trên cơ sở tham khảo tiếng Ơ Đu của người Ơ Đu ở bản
Khạp, huyện Mường Khum (Lào). Bên cạnh đó, ngành văn hóa cần thường xuyên tổ chức
các hoạt động giao lưu văn hóa với người Ơ Đu (Lào) ở bản giáp biên để người Ơ
Đu Nghệ An dần có ý thức phục hồi và sử dụng tiếng nói của dân tộc mình, học lại
nghề dệt thổ cẩm để mặc trang phục truyền thống.
Về lâu dài, các cấp, các ngành cũng cần có cơ chế, chính
sách đặc thù để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất; bố trí
sử dụng cán bộ tộc người Ơ Đu đã tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học, trung
học chuyên nghiệp để thông qua đội ngũ này có thể bảo tồn được một tộc người
đang đứng trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa, phong tục, tín ngưỡng của dân
tộc mình...
Dân số khoảng 600 người, nguy cơ mai một cao. Lịch sử phồn
thịnh ở ven sông, nhưng biến cố dẫn đến phân tán.
6.2. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Lễ Chăm Ph trong Và Nỗ Lực Bảo Tồn Ngôn Ngữ.
Tín ngưỡng và Lễ hội.
Tết mừng tiếng sấm (Chăm Ph trong): Đây là lễ hội quan trọng
nhất, lấy tiếng sấm làm tín hiệu bắt đầu năm mới. Lễ hội bao gồm việc phong chức
cho các chức sắc trong bản, đổi tên cho người trưởng thành và tổ chức lễ nhập họ
cho trẻ em.
Thờ cúng tổ tiên: Các nghi lễ cúng tổ tiên đóng vai trò quan
trọng, thể hiện lòng kính trọng và sự kết nối với cội nguồn.
Phong tục và Tập quán.
Hôn nhân: Theo truyền thống, người Ơ Đu không được kết hôn với
nhau trong cùng dân tộc, do đó con dâu, con rể thường là người dân tộc khác.
Quan niệm «ma nhà» (bụa rinh): Người Ơ Đu tin rằng «ma nhà»
chi phối mọi hoạt động gia đình. Khi gặp vấn đề, họ có thể «xin ma nhà đi bước
nữa», tức là cưới một «ma nhà» khác để thay thế.
Kiến trúc nhà sàn: Nhà của người Ơ Đu có kiến trúc 4 mái, lợp
bằng nứa hoặc tranh, với hai bếp riêng biệt: một bếp ngoài để tiếp khách và sưởi
ấm, bếp trong để nấu nướng.
Tình trạng hiện tại.
Giảm sút: Do sống xen lẫn với các dân tộc khác, bản sắc văn
hóa riêng biệt của người Ơ Đu có nguy cơ bị đồng hóa và mai một.
Bảo tồn và phát huy: Cần có sự quan tâm của các cấp chính
quyền thông qua các chính sách giữ gìn, khôi phục và phát huy những giá trị văn
hóa độc đáo của dân tộc Ơ Đu.
Lễ Chăm Phtrong là lễ lớn nhất, kéo dài 3-7 ngày, với nghi
thức phong tước, bỏ tang, nhập họ. Theo VietnamPlus, lễ tính năm mới theo tiếng
sấm, độc đáo, phản ánh gắn bó thiên nhiên. Ở Tương Dương, lễ được khôi phục, với
thầy mo dẫn dắt.
Nỗ lực bảo tồn ngôn ngữ: Mở lớp dạy tiếng Ơ Đu truyền miệng ở
Văng Môn, giao lưu với Ơ Đu Lào ở bản Khạp. Theo Báo Biên phòng, ngôn ngữ riêng
nhưng quên hết, chỉ còn 100 từ pha trộn. Dự án từ Sở Văn hóa, biên soạn giáo
trình, khuyến khích sử dụng hàng ngày. Ý thức bảo tồn thấp, cần chính sách đặc
thù.
Tổng Kết: Sức Mạnh Từ
Sự Hòa Quyện và Tiềm Năng Phát Triển Bền Vững.
Văn hóa của sáu dân tộc ở Nghệ An là bức tranh đa sắc, với sự
giao thoa tạo sức mạnh đoàn kết. Từ Ví Giặm Kinh đến cồng chiêng Thổ, múa Au eo
Khơ Mú, khèn Mông, Chăm Phtrong Ơ Đu, tất cả làm phong phú văn hóa Việt Nam. Nỗ
lực bảo tồn qua lớp học, lễ hội, du lịch là cần thiết. Nghệ An có tiềm năng du
lịch văn hóa, từ biển Cửa Lò đến sinh thái Pù Mát, kết nối lịch sử và dân tộc.
Điện bà Tây Ninh xin gửi lời tri ân sâu sắc đến những người
bạn xứ Nghệ đã đồng hành trong hành trình nghiên cứu này. Xin cảm ơn quý độc giả
đã kiên nhẫn theo dõi. Hãy cùng đón chờ Bài
10 : Tổng kết và tiềm năng phát triển.
Tiêu đề: Sức hấp dẫn
không thể chối từ: Tiềm năng du lịch Nghệ An.
Nội dung: Tổng kết lại các điểm nổi bật của 9 bài viết trước.
Nhấn mạnh Nghệ An không chỉ có bề dày lịch sử mà còn sở hữu tài nguyên du lịch
phong phú, từ du lịch biển (Cửa Lò, Bãi Lữ) đến du lịch văn hóa - lịch sử và du
lịch sinh thái (Vườn quốc gia Pù Mát). Thân ái. Điện bà Tây Ninh.
SO SÁNH 2 TRƯỜNG HỢP NGUYỄN ÁNH VÀ QUANG TRUNG QUỲ LẠY TRONG 2 CUỘC TIẾP KIẾN VUA XIÊM VÀ VUA CÀN LONG NHÀ THANH. ( Điện bà Tây Ninh hỏi chuyện AI ).
1/ HÌNH 1 : Nguyễn
Ánh trong lần cầu viện vua Xiêm.
Dienbatn : Nhờ bạn
dịch giúp dòng chữ thái trong ảnh ra tiếng Việt.
AI : Dựa vào hình ảnh bạn cung cấp, dòng chữ cần dịch là:
"A painting of Ong Chiang Sua, a Vietnamese ruler, in
audience with King Rama I in the Amarin Throne Hall in Bangkok 1782."
Dịch sang tiếng Việt, dòng chữ này có nghĩa là:
"Một bức tranh vẽ Ông Chiêu Sương, một vị vua Việt Nam,
đang diện kiến Vua Rama I tại Điện Amarin ở Bangkok năm 1782."
Ghi chú về các tên riêng:
Ong Chiang Sua: Đây có thể là phiên âm của một nhân vật lịch
sử Việt Nam, nhưng tên "Ông Chiêu Sương" là cách dịch phổ biến trong
tài liệu lịch sử Việt Nam khi đề cập đến sự kiện này.
King Rama I: Vua Rama I (hay Ramathibodi I), vị vua khai quốc
Triều đại Chakri của Thái Lan.
Amarin Throne Hall: Điện Amarin Winitchai (hay Amarin
Winichai), một phần của Cung điện Hoàng gia Thái Lan (Grand Palace) ở Bangkok.
Dòng chữ trong ảnh mô tả một sự kiện lịch sử quan trọng
trong quan hệ Việt Nam – Thái Lan (Xiêm La) vào cuối thế kỷ 18.
1. "Ong Chiang
Sua" là ai?
Tên "Ong Chiang Sua" (hoặc Ong Chiang Sue/Su trong
một số tài liệu khác) là cách người Xiêm (Thái Lan) gọi nhân vật lịch sử Việt
Nam là Nguyễn Ánh (tức Vua Gia Long sau này).
Nguyễn Ánh là chúa Nguyễn, người đang trên đường khôi phục
cơ nghiệp sau khi bị nghĩa quân Tây Sơn đánh bại.
Năm 1782, sau khi thất bại nặng nề trước quân Tây Sơn, Nguyễn
Ánh phải lưu vong và tìm kiếm sự giúp đỡ từ các quốc gia láng giềng, trong đó
có Xiêm La.
Do đó, "Ong Chiang Sua, a Vietnamese ruler" trong
chú thích chính là Chúa Nguyễn Ánh (người mà lúc đó đang xưng vương, tìm cách
phục quốc).
2. Bối cảnh lịch sử:
Buổi diện kiến năm 1782.
Thời điểm (1782): Đây là năm lịch sử quan trọng đối với cả
Việt Nam và Xiêm La.
Tại Xiêm La: Tướng Chakri (Phật vương) vừa lật đổ Vua Taksin
và lên ngôi, lấy hiệu là Vua Rama I (Phra Phutthayotfa Chulalok), lập ra triều
đại Chakri và dời đô sang Bangkok.
Tại Việt Nam: Nguyễn Ánh đang phải chạy trốn và cần một đồng
minh mạnh để chống lại quân Tây Sơn.
Sự kiện: Bức tranh mô tả Nguyễn Ánh (hoặc phái đoàn của ông)
đến diện kiến Vua Rama I tại Điện Amarin (Amarin Winitchai Throne Hall) ở
Bangkok để cầu viện.
Ý nghĩa: Cuộc gặp này đánh dấu việc thiết lập mối quan hệ đồng
minh quân sự giữa Nguyễn Ánh và Xiêm La. Mặc dù sự giúp đỡ ban đầu không thành
công (nhất là sau thất bại ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785), nhưng nó là một
mốc quan trọng trong giai đoạn phục quốc đầy gian khó của Nguyễn Ánh.
Tóm lại, bức tranh mô tả cảnh Nguyễn Ánh (Ong Chiang Sua) đến
Bangkok gặp Vua Rama I để xin viện binh vào năm 1782, ngay sau khi Vua Rama I
lên ngôi và lập nên triều đại mới.
Dienbatn : Hình ảnh
trên tôi thấy không giống Nguyễn ánh vì lúc đó ông mới có 21 tuổi.
AI : Đây là một nhận xét rất sắc sảo và chính xác về mặt lịch
sử! Bạn đã chỉ ra một điều quan trọng về nguồn gốc và thời điểm của bức tranh.
Phân tích vấn đề về nhân vật trong tranh.
Tuổi của Nguyễn Ánh (1782):
Nguyễn Ánh sinh năm 1762.
Năm 1782, ông 20 tuổi (hoặc 21 tuổi, tính theo tuổi mụ). Ở độ
tuổi này, ông chắc chắn là một người trẻ tuổi, không có vẻ ngoài già dặn như
người đàn ông râu tóc bạc ngồi trong bức tranh.
Nhân vật trong bức tranh:
Người đàn ông ngồi quay lưng lại với Vua Rama I (tức người
đang diện kiến, được cho là "Ong Chiang Sua") rõ ràng là một người lớn
tuổi với râu tóc đã bạc.
Nguồn gốc của bức tranh:
Thông tin tra cứu cho thấy bức tranh này không phải là tác
phẩm được vẽ ngay trong năm 1782, mà được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ 20 (khoảng
năm 1918), tức là rất lâu sau sự kiện lịch sử đó.
Tác giả là Phra Witthayaprachong (Chang Chotichittraka), một
họa sĩ Thái Lan.
Bức tranh này nằm trong một bộ tác phẩm mô tả các sự kiện lịch
sử của Thái Lan (Ayutthaya và Bangkok).
Kết luận về sự sai lệch,
Bức tranh này mang tính chất minh họa, ký họa lại sự kiện lịch
sử, chứ không phải là ảnh chân dung được vẽ trực tiếp theo nguyên mẫu.
Sự sai lệch về ngoại hình có thể được giải thích như sau:
Ký họa theo trí nhớ hoặc mô tả: Họa sĩ đã vẽ nhân vật Nguyễn
Ánh dựa trên các mô tả truyền miệng hoặc tài liệu lịch sử của Xiêm La về
"vị vua Việt Nam cầu viện", nhưng đã thể hiện ông với vẻ ngoài của một
nhân vật quyền lực, già dặn mà không tính đến tuổi tác thực sự của ông vào năm
1782.
Tượng trưng cho "vị vua" (ruler/chúa): Trong nghệ
thuật ký họa lịch sử, việc mô tả một người cầm quyền (ruler) với vẻ ngoài uy
nghi, lớn tuổi thường được sử dụng để tăng tính trang trọng, quyền lực và kinh
nghiệm, bất kể tuổi tác thật của họ lúc bấy giờ.
Nhầm lẫn với nhân vật khác: Mặc dù chú thích (cả tiếng Anh
và tiếng Việt trong các nguồn) đều khẳng định nhân vật đó là Nguyễn Ánh (Ong
Chiang Sua), nhưng vẫn có khả năng họa sĩ đã nhầm lẫn hoặc tổng hợp hình ảnh của
một vị quan chức hoặc sứ thần lớn tuổi nào đó đi cùng phái đoàn Nguyễn Ánh.
Tuy nhiên, dựa trên các tài liệu chính thức của Thái Lan và
quốc tế, bức tranh này được xác nhận là mô tả Nguyễn Ánh (Ong Chiang Sua) diện
kiến Vua Rama I vào năm 1782, dù nhân vật Nguyễn Ánh được thể hiện với vẻ ngoài
sai lệch so với tuổi thật của ông lúc bấy giờ.
Dienbatn : Bạn
cho biết hoàn cảnh lịch sử của sự kiện này. Và theo phép ngoại giao tư thế của
Nguyễn ánh như vậy biểu thị điều gì ?
AI : Bạn hỏi về hoàn cảnh lịch sử của sự kiện và ý nghĩa tư
thế ngoại giao của Nguyễn Ánh. Đây là một vấn đề rất thú vị trong quan hệ Xiêm
– Việt.
1. Hoàn cảnh lịch sử
của sự kiện (1782).
Sự kiện Nguyễn Ánh diện kiến Vua Rama I ở Bangkok vào năm
1782 diễn ra trong bối cảnh lịch sử đầy biến động:
Tình hình Đàng Trong:
Nguyễn Ánh cầu cứu.
Thất bại trước Tây
Sơn: Năm 1782, sau khi liên tiếp bị quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ đánh bại và
chiếm giữ Gia Định, lực lượng của Chúa Nguyễn Ánh gần như tan rã, buộc ông phải
chạy trốn. Đây là một trong những lần lưu vong khó khăn nhất của ông.
Mục tiêu cầu viện:
Để duy trì sự nghiệp khôi phục cơ nghiệp, Nguyễn Ánh cần một đồng minh quân sự
mạnh. Ông chọn Xiêm La (Thái Lan) – một quốc gia láng giềng có tiềm lực và cũng
có lợi ích trong việc kiềm chế Tây Sơn đang trỗi dậy.
Hành trình: Nguyễn Ánh phải di chuyển đến các đảo (như Thổ
Châu, Phú Quốc) trước khi quyết định sang cầu viện Xiêm La. Việc diện kiến Vua
Rama I là đỉnh điểm của chuyến cầu viện ngoại giao này.
Tình hình Xiêm La:
Triều đại Chakri mới thành lập.
Đảo chính và dời đô: Đầu năm 1782, xảy ra cuộc đảo chính lớn
ở Xiêm La. Tướng Chakri (Phật vương) phế truất và hành quyết vua Taksin.
Rama I lên ngôi: Ngày 6 tháng 4 năm 1782, Tướng Chakri lên
ngôi, lấy hiệu là Rama I, lập ra triều đại Chakri (vẫn tồn tại đến ngày nay) và
chính thức dời đô từ Thonburi sang Bangkok (Rattanakosin).
Nhu cầu đồng minh: Vua Rama I cần củng cố vương triều mới và
cũng muốn mở rộng ảnh hưởng của Xiêm La đối với khu vực, đặc biệt là Campuchia
và phía Nam Việt Nam. Việc giúp đỡ Nguyễn Ánh không chỉ là hành động ngoại giao
mà còn là chiến lược quân sự để can thiệp vào chính sự Việt Nam.
Tóm lại: Cuộc gặp năm 1782 là cuộc hội kiến giữa một vị vua
mới lên ngôi, đang xây dựng vương triều (Rama I), với một vị chúa đang lưu
vong, cầu xin viện trợ (Nguyễn Ánh), nhằm thiết lập một liên minh chống lại Tây
Sơn.
2. Ý nghĩa của tư thế
diện kiến trong ảnh.
Tư thế của Nguyễn Ánh (Ong Chiang Sua) và những người đi
cùng trong bức tranh thể hiện rõ nghi thức ngoại giao của người Xiêm (Thái Lan)
thời phong kiến, đặc biệt là trong bối cảnh mối quan hệ giữa một người cầu viện
và một quốc vương.
Giải thích về tư thế "Krập" (Kowtow kiểu Xiêm).
Tư thế mà Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng đang thực hiện được gọi
là Krập (Krap) hoặc Kneeling Bow (quỳ lạy) trong nghi thức triều đình Xiêm La,
hay còn được gọi là tư thế "Kráp Krôm" (cúi mình lạy trước triều
đình) hoặc "Karn Kow" (khom mình).
Tính quy chuẩn trong cung đình Xiêm:
Trong cung điện Xiêm La, tất cả mọi người, kể cả quý tộc và
quan lại cấp cao, khi diện kiến nhà vua đều phải nằm rạp mình xuống, không được
ngồi cao hơn hoặc đứng thẳng trước mặt vua. Điều này thể hiện sự tôn kính tuyệt
đối đối với vị quân chủ, được coi là vị thần (Deva-Raja) trên mặt đất.
Vua Rama I ngồi trên Bàn thờ Sáng (Busabok), một bệ cao lộng
lẫy, làm tăng thêm sự khác biệt về cấp bậc.
Ý nghĩa đối với Nguyễn
Ánh:
Thân phận người cầu viện: Mặc dù Nguyễn Ánh lúc đó đã xưng
Vương, nhưng khi đến cầu viện tại triều đình Xiêm La, ông buộc phải tuân thủ
nghi thức ngoại giao và triều đình của nước chủ nhà. Tư thế này biểu thị sự thần
phục, tôn trọng và sự lệ thuộc tạm thời vào quyền lực của Vua Rama I để nhận được
sự giúp đỡ.
Biểu thị mối quan hệ "Trên – Dưới": Tư thế nằm rạp
cho thấy Nguyễn Ánh chấp nhận vị thế thấp hơn (về mặt ngoại giao và quân sự) so
với Vua Rama I để đạt được mục đích cuối cùng là khôi phục cơ nghiệp.
"Ông chánh-sứ" (Ong Chiang Sua): Một số tài liệu gọi
Nguyễn Ánh là "Ông chánh-sứ" (người đứng đầu phái đoàn), càng nhấn mạnh
rằng ông không được tiếp đón bằng nghi thức ngang hàng giữa hai quốc vương, mà
là một vị khách quan trọng nhưng đang ở vị thế cầu viện, do đó phải thực hiện
nghi lễ của triều đình Xiêm.
Tóm lại, tư thế của Nguyễn Ánh trong bức tranh là sự chấp nhận
nghi thức ngoại giao của Xiêm La tại thời điểm đó, phản ánh đúng thân phận người
cầu viện trong bối cảnh chính trị khó khăn năm 1782.
Dienbatn : Chính
vì vậy mà ngày nay người ta nói Nguyễn ánh cõng rắn cắn gà nhà. Đánh giá như vậy
có sai lầm gì không ?
AI : Đây là phần trình bày lại quan điểm đa chiều về nhận định
"Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà", tập trung làm rõ bối cảnh và sự phức
tạp của vấn đề:
Đánh giá về nhận định "Nguyễn Ánh cõng rắn
cắn gà nhà".
Nhận định "Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà" là một
lời phê phán lịch sử phổ biến nhưng cần được xem xét một cách đa chiều. Về bản
chất, nó không hoàn toàn sai khi đánh giá hành động, nhưng lại thiếu tính toàn
diện khi bỏ qua bối cảnh thời đại.
1. Cơ sở để phê phán
(Góc nhìn Hiện đại).
Nếu nhìn từ quan điểm về chủ quyền quốc gia và tinh thần dân
tộc hiện đại, hành động cầu viện ngoại bang của Nguyễn Ánh là một sự vi phạm
nghiêm trọng đối với nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ.
Đưa quân ngoại bang vào đất nước: Hành động cầu viện Xiêm La
(1784) và sau đó là ký kết các hiệp ước với Pháp (qua Bá Đa Lộc) nhằm mục đích
đưa quân đội nước ngoài vào lãnh thổ để chống lại một thế lực nội bộ (Tây Sơn).
Đây chính là hành động "cõng rắn" – mời thế lực bên ngoài tham gia
vào nội chiến.
Nguy cơ mất chủ quyền: Việc quân Xiêm La ào ạt tiến vào
phương Nam đã dẫn đến sự kiện lịch sử đau thương là trận Rạch Gầm – Xoài Mút. Nếu
Tây Sơn không chiến thắng tuyệt đối, đất nước đứng trước nguy cơ bị Xiêm La chiếm
giữ hoặc can thiệp sâu vào chính trị, gây tổn hại lớn đến lợi ích quốc gia.
Phản bội phong trào dân tộc: Vào thời điểm đó, Tây Sơn là lực
lượng đã đánh đổ chúa Nguyễn ở Đàng Trong và chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, tạo ra xu
hướng thống nhất đất nước. Việc Nguyễn Ánh liên kết với ngoại bang để chống lại
lực lượng này bị xem là đối nghịch với lợi ích dân tộc.
2. Phản biện và Bối cảnh
(Góc nhìn Phong kiến).
Tuy nhiên, việc đánh giá Nguyễn Ánh phải được đặt trong bối
cảnh chính trị của thời đại phong kiến thế kỷ 18:
Ưu tiên Gia tộc thay vì Quốc gia: Trong xã hội phong kiến, mục
tiêu tối thượng của người trị vì không phải là "quốc gia" theo nghĩa
dân tộc hiện đại, mà là phục hồi cơ nghiệp và bảo vệ ngôi vị của dòng họ (Gia tộc).
Đối với Nguyễn Ánh, Tây Sơn là kẻ thù diệt vong gia tộc, và mọi phương tiện để
chiến thắng (kể cả cầu viện) đều được coi là hợp pháp và cần thiết để "phục
quốc" (phục hồi triều đại).
Chiến thuật phổ biến trong Nội chiến: Lịch sử Việt Nam và
các quốc gia châu Á có nhiều tiền lệ về việc các bên trong nội chiến tìm kiếm sự
hỗ trợ từ nước ngoài khi bị dồn vào đường cùng. Hành động của Nguyễn Ánh chỉ là
một chiến thuật sinh tồn và giành lại quyền lực trong bối cảnh nội chiến khốc
liệt.
Tình thế nguy cấp: Năm 1782, sau khi liên tiếp thất bại trước
Tây Sơn, Nguyễn Ánh đang là một chúa lưu vong, bị truy sát. Cầu viện Xiêm La
không phải là một lựa chọn lý tưởng mà là giải pháp sinh tồn cuối cùng để duy
trì lực lượng và hy vọng phục quốc.
3. Kết luận về tính
công bằng.
Nhận định "Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà" là một
lời cảnh tỉnh đanh thép về sự nguy hiểm của việc rước họa ngoại xâm. Tuy nhiên,
nó sẽ công bằng hơn nếu được hiểu là hệ quả tất yếu của tư duy chính trị phong
kiến và tình thế nội chiến thời bấy giờ, chứ không chỉ là hành động cá nhân
mang tính phản bội.
Bạn có muốn tôi làm rõ hơn về mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và
người Pháp (Bá Đa Lộc) hoặc vai trò của Tây Sơn trong sự kiện này không?
Để làm rõ nhận định lịch sử "Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà
nhà," tôi sẽ phân tích chi tiết hai sự kiện cầu viện ngoại bang lớn nhất của
Nguyễn Ánh, bao gồm việc cầu viện Xiêm La (Thái Lan) và cầu viện Pháp, cùng với
đánh giá hậu quả của chúng.
Phân tích chi tiết: Hành động "Cõng rắn cắn
gà nhà" của Nguyễn Ánh.
Hành động cầu viện ngoại bang của Nguyễn Ánh không phải là một
quyết định đơn lẻ mà là một chuỗi các nỗ lực ngoại giao-quân sự nhằm mưu cầu sự
sống còn và phục hồi cơ nghiệp.
I. Cầu viện Xiêm La
(Thái Lan).
Đây là sự kiện liên quan trực tiếp đến bức tranh bạn cung cấp
(diện kiến Vua Rama I năm 1782).
A. Hoàn cảnh và Mục
đích.
Hoàn cảnh: Sau
nhiều thất bại liên tiếp trước Tây Sơn, đặc biệt là cuộc rút chạy năm 1782,
Nguyễn Ánh chỉ còn là một chúa lưu vong với tàn quân yếu ớt.
Mục đích: Xin viện
binh từ Xiêm La, quốc gia có vị trí địa lý gần gũi và có quyền lực quân sự
trong khu vực, để lấy lại Gia Định.
B. Hành động
"Cõng Rắn" (1784).
Sau khi Nguyễn Ánh diện kiến và được Vua Rama I chấp thuận,
quân Xiêm đã tổ chức một cuộc can thiệp quy mô lớn vào Việt Nam.
Năm 1784, Vua Rama I cử tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương dẫn
một đạo quân hùng hậu, ước tính lên tới 5 vạn quân và 300 chiến thuyền, tiến
vào Hà Tiên và từ đó tiến sâu vào Đồng bằng sông Cửu Long.
Hậu quả tiềm tàng: Nếu lực lượng này chiến thắng, Xiêm La chắc
chắn sẽ đòi hỏi những nhượng bộ lớn về lãnh thổ, nhân lực, và chính trị, biến
Nguyễn Ánh thành một chúa chư hầu lệ thuộc, đe dọa trực tiếp đến chủ quyền vùng
đất phía Nam Việt Nam.
C. Hậu quả lịch sử:
Thất bại ở Rạch Gầm – Xoài Mút (1785).
Nhờ tài thao lược của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn đã tổ chức trận
phục kích kinh điển tại Rạch Gầm – Xoài Mút.
Quân Xiêm bị tiêu diệt gần như hoàn toàn (chỉ còn khoảng 2-3
ngàn quân sống sót rút về), giúp giải trừ hoàn toàn mối họa Xiêm La khỏi lãnh
thổ Việt Nam.
Bản thân Nguyễn Ánh cũng phải tháo chạy sang Xiêm La một lần
nữa, nhưng sự can thiệp quy mô của Xiêm đã chấm dứt tại đây.
II. Cầu viện Pháp
(Thông qua Hiệp ước Versailles 1787).
Sau thất bại với Xiêm La, Nguyễn Ánh chuyển sang cầu viện một
thế lực phương Tây.
A. Hoàn cảnh và Mục
đích.
Hoàn cảnh: Nguyễn
Ánh nhận ra Xiêm La không phải là đối thủ của Tây Sơn. Ông tìm kiếm một lực lượng
có ưu thế về kỹ thuật quân sự hiện đại.
Mục đích: Thông
qua Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), Nguyễn Ánh muốn Pháp giúp đỡ bằng
quân đội và trang thiết bị để đánh bại Tây Sơn.
B. Hành động
"Cõng Rắn" (1787).
Nguyễn Ánh cử Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh cùng Bá Đa Lộc sang
Pháp.
Ngày 28 tháng 11 năm 1787, Hiệp ước Versailles được ký kết
giữa đại diện Nguyễn Ánh (Bá Đa Lộc) và Vua Louis XVI của Pháp.
Điều khoản Hiệp ước: Đổi lại việc Pháp cung cấp quân đội,
tàu chiến, vũ khí và quân nhu, Nguyễn Ánh phải nhượng cho Pháp cảng Đà Nẵng và
đảo Côn Lôn (Côn Đảo), cùng với việc độc quyền thương mại.
C. Hậu quả lịch sử: Mối
họa Pháp thuộc.
Mối họa tiềm tàng: Hiệp ước Versailles, nếu được thực hiện,
sẽ biến Việt Nam thành thuộc địa sớm hơn 70 năm (trước năm 1858) và tạo điều kiện
cho Pháp thiết lập căn cứ quân sự ngay lập tức. Đây chính là hành động "cắn
gà nhà" có nguy cơ lớn nhất.
May mắn lịch sử: Do Cách mạng Pháp bùng nổ (1789), chính phủ
Pháp không có khả năng thực hiện cam kết trong hiệp ước. Bá Đa Lộc đã tự bỏ tiền
túi và tuyển mộ một đội quân tình nguyện (gồm các sĩ quan và kỹ sư Pháp) sang
giúp Nguyễn Ánh, tập trung vào huấn luyện quân đội và chế tạo vũ khí hiện đại
(chứ không phải quân chính quy của Pháp).
Kết quả: Sự giúp đỡ kỹ thuật này đóng vai trò quan trọng
giúp Nguyễn Ánh xây dựng lực lượng mạnh mẽ, nhưng may mắn là mối họa thuộc địa
Pháp đã không xảy ra ngay lập tức, dù nó đã đặt nền móng cho sự can thiệp của
Pháp sau này.
III. Tổng kết đánh
giá.
Hành động của Nguyễn Ánh có thể được xem là thực dụng chính
trị tột cùng của một vị chúa phong kiến.
Tính phe phái: Đối với Nguyễn Ánh, kẻ thù lớn nhất là Tây
Sơn. Mọi lực lượng có thể giúp ông tiêu diệt kẻ thù đều được chấp nhận, bất chấp
rủi ro về chủ quyền.
Tính nguy hiểm: Mặc dù Nguyễn Ánh cuối cùng đã thống nhất đất
nước và trở thành Vua Gia Long, nhưng ông đã đánh đổi chủ quyền và mở đường cho
sự can thiệp của ngoại bang. Chính những nhân tố và mối quan hệ ông tạo ra với
Pháp (như sử dụng các sĩ quan Pháp) đã trở thành cái cớ để Pháp quay trở lại và
xâm lược Việt Nam vào thế kỷ 19.
Vì vậy, nhận định "Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà"
mang một giá trị lịch sử sâu sắc, cảnh báo về sự trả giá của việc dựa vào ngoại
bang để giải quyết nội chiến.
Bạn có muốn tôi làm rõ hơn về vai trò của Giám mục Bá Đa Lộc
hoặc cách Nguyễn Ánh sử dụng sự giúp đỡ kỹ thuật của Pháp để chiến thắng Tây
Sơn không?
Dienbatn : Tôi
cũng từng thấy bức tranh vua Quang trung cúi lậy nhà Thanh. Bạn có tư liệu đó
không và hãy nói rõ về việc này.
AI : Thắc mắc của bạn rất chính xác và thú vị, vì nó liên
quan đến một sự kiện lịch sử phức tạp và gây hiểu lầm trong việc miêu tả ngoại
giao triều đình: việc Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) cử người thay thế đi diện kiến
triều đình nhà Thanh.
Tôi sẽ cung cấp thông tin chi tiết về sự kiện này.
Vua Quang Trung và Nghi lễ triều kiến nhà
Thanh.
Sự kiện mà bạn thấy trong bức tranh mô tả cảnh một vị vua Việt
Nam cúi lạy trước vua Trung Quốc (Càn Long) thực chất là nghi lễ tại triều đình
nhà Thanh vào năm 1790, nhưng nhân vật đó không phải là Vua Quang Trung (Nguyễn
Huệ) thật.
1. Bối cảnh lịch sử.
Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa (1789): Vua Quang Trung đại
phá quân Thanh, đánh bại cuộc xâm lược của nhà Thanh vào Đại Việt.
Nhu cầu hòa hoãn:
Sau chiến thắng, Vua Quang Trung nhận thấy việc tiếp tục chiến tranh với nhà
Thanh là không cần thiết và tốn kém. Mục tiêu chính là củng cố vương triều và
thống nhất đất nước.
Ngoại giao khéo léo:
Vua Càn Long của nhà Thanh cũng muốn kết thúc chiến tranh một cách danh dự để
giữ thể diện thiên triều.
Điều kiện nhà Thanh:
Nhà Thanh yêu cầu Vua Quang Trung phải đích thân sang Bắc Kinh triều kiến để được
phong vương, theo đúng lệ chư hầu của Trung Hoa.
2. Sự kiện "Giả
vương" sang triều kiến.
Vua Quang Trung, với bản lĩnh chính trị và sự khôn khéo, đã
tìm ra giải pháp để thỏa mãn yêu cầu của nhà Thanh mà vẫn giữ được uy thế của một
vị vua chiến thắng:
Nhân vật thay thế: Vua Quang Trung đã cử một người đóng thế
(thường được cho là tướng Phạm Công Trị hoặc một người có ngoại hình tương đồng)
sang Bắc Kinh.
Thời gian: Phái đoàn "Giả vương" này đến Bắc Kinh
vào năm 1790, nhân dịp lễ mừng thọ 80 tuổi của Vua Càn Long.
Nghi thức: Người đóng thế đã thực hiện đầy đủ các nghi lễ
chư hầu, bao gồm cả việc thực hiện nghi thức tam quỳ cửu khấu (cúi lạy) trước
Vua Càn Long tại Tử Cấm Thành. Bức tranh bạn thấy chính là miêu tả lại cảnh
này.
Mục đích của Quang
Trung:
Giữ thể diện quốc gia:
Vua Quang Trung không phải cúi lạy trước một vị vua nước ngoài.
Giữ thể diện cho nhà
Thanh: Việc có "vua An Nam" đích thân sang triều kiến giúp Vua
Càn Long giữ được danh dự thiên triều sau thất bại quân sự.
Kiểm tra và thăm dò:
Phái đoàn còn có nhiệm vụ bí mật quan sát tình hình, địa lý và quân sự của nhà
Thanh.
3. Về bức tranh
"Quang Trung cúi lạy".
Bức tranh bạn thấy là một tác phẩm được vẽ bởi họa sĩ triều
đình nhà Thanh, nhằm ghi lại sự kiện ngoại giao này.
Trong các sử liệu của nhà Thanh (như Đại Thanh thực lục), sự
kiện này được ghi lại một cách trọng thể, khẳng định Vua An Nam đã đích thân
sang triều kiến.
Tuy nhiên, sử Việt (như Đại Nam Thực Lục của triều Nguyễn,
hay các nguồn tư liệu của Tây Sơn) và các nghiên cứu lịch sử đều xác nhận đó là
người giả.
Tóm lại: Việc Vua Quang Trung cử người đóng thế sang triều
kiến nhà Thanh là một đỉnh cao của nghệ thuật ngoại giao Việt Nam thời bấy giờ:
dùng nghi thức giả để đổi lấy hòa bình, củng cố vương triều, và chứng minh uy
thế sau chiến thắng quân sự.
Bạn muốn tôi so sánh cụ thể sự khác biệt giữa hành động cầu
viện ngoại bang của Nguyễn Ánh và hành động ngoại giao hòa hoãn của Vua Quang
Trung không?
So sánh Chiến lược Ngoại giao: Nguyễn Ánh và Vua Quang Trung
Sự khác biệt trong chiến lược ngoại giao giữa Nguyễn Ánh và
Vua Quang Trung là minh chứng rõ ràng cho hai triết lý chính trị đối lập trong
bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ 18.
1. Chiến lược của
Nguyễn Ánh: Cầu viện và Lệ thuộc.
Hành động của Nguyễn Ánh được định hình bởi tình thế sinh tồn
và mục tiêu khôi phục cơ nghiệp gia tộc bằng mọi giá.
Bối cảnh: Nguyễn Ánh là bên yếu thế, đang lưu vong sau khi bị
Tây Sơn đánh bại và truy đuổi.
Mục đích cốt lõi: Nhận viện trợ quân sự tuyệt đối từ bên
ngoài để tiêu diệt đối thủ nội bộ (Tây Sơn) và giành lại ngai vàng.
Phương thức hành động:
Ông sẵn sàng ký kết các hiệp ước (như Hiệp ước Versailles
1787 với Pháp) để đổi lấy sự can thiệp quân sự, chấp nhận nhượng bộ lãnh thổ
(như cảng Đà Nẵng, Côn Lôn) và lợi ích kinh tế.
Ông chấp nhận thân phận yếu thế, thể hiện qua việc tuân thủ
nghiêm ngặt các nghi thức triều đình nước bạn (ví dụ: tư thế nằm rạp "Krập"
trước Vua Rama I ở Xiêm La), biểu thị sự lệ thuộc về chính trị và quân sự.
Rủi ro và Bản chất: Hành động này mang nguy cơ mất chủ quyền
rất lớn, có thể khiến Việt Nam trở thành chư hầu của Xiêm La hoặc thuộc địa của
Pháp sớm hơn. Bản chất của hành động này là dùng ngoại lực để tiêu diệt nội lực
– đó chính là cơ sở cho nhận định "cõng rắn cắn gà nhà".
2. Chiến lược của Vua
Quang Trung: Hòa hoãn và Độc lập.
Hành động của Vua Quang Trung được định hình bởi uy thế của
kẻ chiến thắng và mục tiêu củng cố vương triều, bảo vệ thành quả quân sự.
Bối cảnh: Vua Quang Trung là bên thắng thế sau chiến thắng
Ngọc Hồi – Đống Đa, có quyền lực tuyệt đối trong tay.
Mục đích cốt lõi: Đổi lấy hòa bình lâu dài và sự công nhận
chính thống từ nhà Thanh, nhằm dồn toàn lực vào xây dựng và ổn định đất nước.
Phương thức hành động:
Ông chấp nhận yêu cầu triều kiến của nhà Thanh nhưng dùng
chiến thuật ngoại giao khôn khéo và tinh vi bằng cách cử người đóng thế sang Bắc
Kinh vào năm 1790.
Người đóng thế thực hiện đầy đủ nghi lễ tam quỳ cửu khấu
(cúi lạy), qua đó thỏa mãn yêu cầu về thể diện của Vua Càn Long, nhưng lại giữ
vững được uy danh và sự tôn nghiêm của một vị hoàng đế chiến thắng (Nguyễn Huệ
thật không phải cúi lạy).
Rủi ro và Bản chất: Hành động này gần như không có rủi ro về
chủ quyền hay kinh tế. Ông chỉ chấp nhận một nghi lễ tượng trưng để đối lấy một
nền hòa bình có lợi, khẳng định vị thế của mình. Bản chất của chiến lược này là
dùng ngoại giao khôn khéo để bảo vệ thành quả quân sự và chủ quyền quốc gia.
Kết luận về Sự đối lập
Chiến lược.
Sự khác biệt lớn nhất nằm ở vị thế ngoại giao và mục đích tối
hậu:
Nguyễn Ánh là một người cầu xin viện trợ trong tình thế nguy
kịch, buộc phải đánh đổi chủ quyền để giành lại quyền lực cá nhân/gia tộc.
Vua Quang Trung là một vị vua củng cố chiến thắng trên thế
chủ động, sử dụng trí tuệ ngoại giao để buộc cường quốc phương Bắc công nhận
mình mà không phải chịu bất kỳ tổn hại thực tế nào về lãnh thổ hay quyền lợi quốc
gia.
Sự tương phản này lý giải vì sao hành động của Nguyễn Ánh bị
phê phán nặng nề trong lịch sử, trong khi hành động của Vua Quang Trung được ca
ngợi là một đỉnh cao của nghệ thuật ngoại giao.
Bức tranh này là một phần của bộ tranh được họa sĩ triều
đình nhà Thanh vẽ để ghi lại các sự kiện trọng đại trong dịp lễ mừng thọ 80 tuổi
của Vua Càn Long.
Thông tin về Bức
tranh.
Mô tả bức tranh Vua
Quang Trung "giả" triều kiến Càn Long.
Bức tranh này là một cuộn tranh dài được vẽ bởi các họa sĩ
triều đình nhà Thanh (Trung Quốc) vào khoảng năm 1790.
Bố cục: Bức tranh mô tả một buổi thiết triều long trọng.
Vua Càn Long: Ngồi trên ngai vàng cao, trang nghiêm và uy
nghi, được bao quanh bởi các quan lại và lính canh của nhà Thanh.
Nhân vật Việt Nam (Giả vương): Người này (đóng vai Vua Quang
Trung) mặc trang phục triều phục của Việt Nam hoặc trang phục được nhà Thanh
ban cho. Nhân vật đang thực hiện nghi lễ tam quỳ cửu khấu (quỳ gối và cúi lạy
chạm đất) trước ngai vàng của Càn Long.
Điểm nhấn: Nhân vật Việt Nam đang ở tư thế rất thấp, thể hiện
sự thần phục, tương phản hoàn toàn với vị thế cao của Vua Càn Long.
Chủ đề: Mô tả cảnh Vua Càn Long tiếp kiến "Vua An
Nam" tại Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh.
Chi tiết quan trọng: Nhân vật Việt Nam đang cúi lạy chính là
người đóng thế (giả vương), thể hiện việc triều đình nhà Thanh tin rằng Vua
Quang Trung đã đích thân sang triều kiến.
Ý nghĩa: Bức tranh này là tư liệu quý giá ghi lại sự kiện
ngoại giao lịch sử, nơi Vua Quang Trung đã dùng sự khôn khéo chính trị để đổi lấy
sự công nhận và hòa bình, tránh được họa binh đao mà vẫn giữ được uy thế của một
vị vua đã đại phá quân Thanh.
Dienbatn : Tôi muốn
hỏi thêm về lịch sử : Trong suốt quá trình lịch sử, có triều đại nào ở Việt nam
đã có hành động tương tự như Nguyễn ánh và Quang trung trong 2 trường hợp trên
không ?
AI : Đây là một câu hỏi rất hay, đi sâu vào chiến lược ngoại
giao và sinh tồn của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử, các triều đại Việt Nam đã nhiều
lần có những hành động ngoại giao tương tự như Nguyễn Ánh (cầu viện ngoại bang)
và Quang Trung (ngoại giao hòa hoãn/chủ động), bởi đó là những chiến thuật sinh
tồn cơ bản trong mối quan hệ với các cường quốc láng giềng.
Các Hành động Tương tự
Nguyễn Ánh (Cầu viện ngoại bang).
Hành động cầu viện hoặc nhận viện trợ quân sự/chính trị từ
các thế lực bên ngoài (đặc biệt là phương Bắc) thường diễn ra khi triều đình
lâm vào thế yếu, nội bộ chia rẽ hoặc bị đe dọa diệt vong. Đây là những ví dụ điển
hình:
1. Triều đại nhà Lý
(Thế kỷ 13).
Hoàn cảnh: Cuối thời nhà Lý, nội bộ rối ren, triều đình bị
quyền thần nhà Trần nắm giữ.
Hành động: Công chúa Lý Chiêu Hoàng (dưới sự sắp đặt của Trần
Thủ Độ) đã kết hôn với Trần Cảnh (Trần Thái Tông) và nhường ngôi, mở đầu cho
nhà Trần. Mặc dù không trực tiếp cầu viện ngoại bang, nhưng việc kết thúc triều
đại bằng một cuộc hôn nhân chính trị đã tạo điều kiện cho một thế lực mới (nhà
Trần) lên nắm quyền, và chính nhà Trần sau này đã phải đối mặt với nguy cơ bị
ngoại bang (Mông Cổ) can thiệp.
2. Triều đại nhà Lê
(Thế kỷ 15).
Hoàn cảnh: Khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ
(1400).
Hành động: Con cháu nhà Trần đã sang cầu cứu nhà Minh (Trung
Quốc). Nhà Minh lấy cớ "phù Trần diệt Hồ" để đưa quân sang xâm lược Đại
Ngu (tên nước thời nhà Hồ), tiêu diệt nhà Hồ và biến Việt Nam thành quận Giao
Chỉ của nhà Minh suốt 20 năm (1407-1427).
Đánh giá: Đây là trường hợp "cõng rắn cắn gà nhà"
rõ ràng nhất, dẫn đến mất nước hoàn toàn trong hai thập kỷ, chỉ vì tranh chấp nội
bộ triều đình.
3. Thời kỳ Trịnh –
Nguyễn Phân tranh (Thế kỷ 17).
Hoàn cảnh: Các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng
Trong đối đầu.
Hành động: Cả hai bên đều tìm cách mua vũ khí và công nghệ
quân sự từ các thế lực phương Tây (Bồ Đào Nha, Hà Lan, sau này là Pháp) để củng
cố sức mạnh chiến đấu chống lại đối phương. Dù không mời quân đội nước ngoài
can thiệp trực tiếp, nhưng hành động này là một hình thức nhờ cậy ngoại lực để
duy trì vị thế trong cuộc nội chiến.
Các Hành động Tương tự
Quang Trung (Ngoại giao Chủ động).
Hành động ngoại giao chủ động của Quang Trung, thể hiện qua
việc dùng nghi lễ giả để đổi lấy hòa bình, là một chiến thuật khôn khéo ít triều
đại có thể thực hiện được. Tuy nhiên, về bản chất, chiến lược dùng ngoại giao
trên thế thắng để bảo vệ lợi ích quốc gia đã có tiền lệ:
1. Triều đại nhà Tiền
Lê (Thế kỷ 10).
Hoàn cảnh: Lê Hoàn (Lê Đại Hành) lên ngôi sau khi đánh bại
quân Tống (981), giành độc lập vững chắc.
Hành động: Nhà Tống sau khi thất bại vẫn muốn duy trì quan hệ
chư hầu. Lê Hoàn đã gửi sứ thần sang triều cống theo lệ, nhưng giữ vững vị thế
của mình, không bị ép buộc nhún nhường. Ông chấp nhận danh nghĩa "quốc
vương chư hầu" để đổi lấy sự yên ổn lâu dài ở biên giới phía Bắc, tập
trung phát triển đất nước.
So sánh với Quang Trung: Cả hai đều chấp nhận nghi lễ ngoại
giao (triều cống, xưng thần) để bảo vệ hòa bình và lợi ích quốc gia trên thế của
người chiến thắng, không nhượng bộ thực chất.
2. Triều đại nhà Trần
(Thế kỷ 13).
Hoàn cảnh: Sau ba lần kháng chiến thắng lợi chống quân
Nguyên Mông.
Hành động: Các vua Trần, điển hình là Trần Nhân Tông và Trần
Anh Tông, mặc dù thắng trận rực rỡ, vẫn phải duy trì quan hệ ngoại giao mềm dẻo
với nhà Nguyên. Họ chấp nhận nộp cống phẩm và thực hiện một số nghi lễ chư hầu
tượng trưng để tránh một cuộc chiến tranh báo thù quy mô lớn khác từ một đế chế
hùng mạnh.
3. Triều đại nhà Lê
Sơ (Thế kỷ 15).
Hoàn cảnh: Lê Lợi (Lê Thái Tổ) sau khi đánh đuổi quân Minh
(1427) đã phải đối diện với việc nhà Minh không chịu công nhận ông là vua.
Hành động: Lê Lợi đã khôn khéo cho phép giả vờ tìm con cháu
nhà Trần để nhường ngôi (theo yêu cầu của nhà Minh), nhưng cuối cùng vẫn giữ
ngôi. Ông chấp nhận danh xưng "An Nam Quốc Vương" và thực hiện triều
cống để được nhà Minh chính thức công nhận, hợp thức hóa vương triều và đem lại
hòa bình.
So sánh với Quang Trung: Cả hai đều dùng nghi thức giả (giả
vờ tìm con cháu nhà Trần/dùng người đóng thế) để giải quyết vấn đề ngoại giao với
Trung Quốc, chứng tỏ sự khôn khéo ngoại giao vượt trội.
Tóm lại, trong lịch sử Việt Nam, hành động cầu viện hay ngoại
giao hòa hoãn đều là những lựa chọn chiến lược lặp đi lặp lại. Hành động của
Nguyễn Ánh thuộc nhóm sinh tồn bằng ngoại lực, còn hành động của Quang Trung
thuộc nhóm bảo vệ thành quả bằng ngoại giao khôn khéo.
Bài 13. Phong thủy luận.
Xin theo dõi tiếp bài 14. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 26. Thần Thánh Trung hoa.
Xin theo dõi tiếp bài 27. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
BÀI 9.1 LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU: NGHỆ AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.
BÀI 9.1 LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU: NGHỆ AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.
Bài 9: Văn hóa đa sắc
tộc và phi vật thể.
Tiêu đề: Hòa quyện và
độc đáo: Bản sắc văn hóa của 6 dân tộc tại Nghệ An.
Lời Tri Ân Và Hướng
Tiếp Cận.
Kính gửi quý độc giả, Sau những năm tháng đắm mình trong
công cuộc điền dã miệt mài tại Nghệ An – vùng đất của những huyền thoại và tinh
thần quật cường – Điện bà Tây Ninh tự hào đã tích lũy được một kho tàng tư liệu
vô giá. Đó là những trang ghi chép thủ công thấm đẫm mồ hôi, những ổ đĩa cứng
chứa đựng hàng ngàn hình ảnh và video, ghi lại từng con suối róc rách, từng ngọn
núi sừng sững, từng di tích lịch sử thấm đẫm dấu thời gian, cùng những câu chuyện
đầy cảm xúc từ người dân bản xứ.
Hôm nay, nhân dịp nông nhàn, chúng tôi xin được sẻ chia những
tư liệu quý báu này, không chỉ như một bài nghiên cứu lịch sử mà còn như một lời
tri ân sâu sắc đến những người bạn xứ Nghệ – những ân nhân đã đồng hành, dẫn lối
chúng tôi qua những con suối sâu, hang động bí ẩn, và bên bếp lửa hồng, kể những
câu chuyện dân gian đầy ý nghĩa. Nhờ họ, chúng tôi đã thấu hiểu hơn về mảnh đất
và con người nơi đây.
Loạt bài này sẽ đưa quý độc giả vào hành trình khám phá sâu
sắc các địa danh và nhân vật lịch sử, văn hóa của Nghệ An, bắt đầu từ nguồn cội
và vươn xa theo dòng chảy thời gian. Với tính chất chuyên sâu, kết hợp với bộ ảnh
và video của Điện bà Tây Ninh, chúng tôi sẽ mô tả chi tiết, phân tích thấu đáo,
đồng thời gợi ý các liên kết hình ảnh và video để dựng nên một bức tranh toàn
diện về vùng đất địa linh nhân kiệt. Chúng tôi hy vọng quý độc giả sẽ kiên nhẫn
đồng hành cùng chúng tôi trong hành trình này. Thân ái! Điện bà Tây Ninh.
Mở Đầu: Nghệ An –
Vùng Đất Của Sự Hòa Quyện Văn Hóa Đa Sắc Tộc.
Nghệ An, vùng đất địa linh nhân kiệt, không chỉ nổi tiếng với
bề dày lịch sử và truyền thống yêu nước mà còn được biết đến như một bức tranh
văn hóa đa sắc màu. Nơi đây là ngôi nhà chung của sáu dân tộc anh em: Kinh,
Thái, Thổ, Khơ Mú, Mông, và Ơ Đu. Mỗi dân tộc mang một bản sắc riêng, được hun
đúc qua hàng thế kỷ đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt và bảo vệ cội nguồn.
Sự hòa quyện của các nền văn hóa này đã tạo nên một bức khảm độc đáo, phản ánh
sự phong phú và bền vững của đời sống tinh thần trên mảnh đất Nghệ An.
Bài viết này sẽ đi sâu vào việc tổng hợp, phân tích và làm
sáng tỏ những nét đặc trưng của văn hóa các dân tộc ở Nghệ An. Chúng ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu về lịch sử hình thành, đời sống kinh tế, văn hóa vật thể (kiến
trúc, trang phục, ẩm thực), và đặc biệt là văn hóa phi vật thể (tín ngưỡng, văn
học dân gian, lễ hội) của từng tộc người. Đồng thời, bài viết cũng sẽ đề cập đến
sự giao thoa, biến đổi và những nỗ lực đáng trân trọng trong công cuộc bảo tồn
bản sắc văn hóa trước những thách thức của thời đại.
Chương 1: Dân Tộc
Kinh – Bản Sắc Của Nền Văn Minh Lúa Nước.
1.1. Nguồn Gốc và Lịch
Sử Phát Triển.
Dân tộc Kinh ở Nghệ An phân bố đều khắp cả tỉnh nhưng tập
trung đông nhất là vùng đồng bằng (Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu....) và thành
thị (Tp. Vinh, Tx. Thái Hòa, Tx. Cửa Lò...). Là cư dân có nguồn gốc bản địa lâu
đời và phát triển từ thời nguyên thuỷ, tổ tiên người Kinh từ rất xa xưa đã định
cư ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ trong đó Nghệ An là một điểm đến.
Theo dấu vết của người vượn/người Việt cổ để lại ở di chỉ khảo
cổ hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu), cho đến cư dân văn hóa Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu), văn
hóa Bàu Tró cho thấy người Việt cổ có mặt ở Nghệ An rất sớm, từ thuở bình minh
của lịch sử loài người. Trải qua các thời kỳ người Việt ở Nghệ An đến nay đã
phát triển đông đúc, sầm uất, hiện đã có trên 1.000 họ, với hơn 11.000 dòng họ.
Sự ra đời và phát triển của người Kinh ở Nghệ An đi liền với nền văn minh, văn
hóa lâu đời và khá phát triển.
Trong thời kỳ khai hoang mở đất, người Kinh đã đấu tranh với
thiên nhiên, thú dữ để sinh tồn và khai khẩn nên các làng, các ấp sầm uất. Cho
đến thời kỳ đấu tranh dựng nước và giữ nước, bằng chính sức lực, trí tuệ, lòng
quả cảm của mình, người Nghệ An đã góp phần không nhỏ làm nên sự phồn thịnh của
đất nước, của xứ Nghệ hôm nay. Nghệ An vinh dự là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của những người con ưu tú như: Quang Trung (Nguyễn Huệ), Hồ Qúy Ly, Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lê Hồng Phong,….
Nền kinh tế nổi trội nhất của dân tộc Kinh nói chung và người
Kinh ở Nghệ An nói riêng là nền nông nghiệp lúa nước. Phát triển nền nông nghiệp
lúa nước, để bảo vệ mùa màng, chống lại thiên tai, địch họa, người Kinh đã sớm
biết đào mương, đắp đê. Ngoài sản xuất lúa nước, người Kinh còn biết phát triển
các nghề khác như chăn nuôi gia súc, gia cầm, làm các nghề thủ công mỹ nghệ đạt
đến trình độ tinh xảo, thành lập được nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ sầm uất,
như hiện nay có các làng nghề: làng nồi đất ở Trù sơn (Đô Lương), nghề làm nước
mắm ở Quỳnh Lưu, nghề dệt vải ở Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu),…
Xứ Nghệ nổi tiếng là đất văn vật với bề dày truyền thống văn
hóa, văn học cổ đa dạng, phong phú: có văn học cổ (truyện kể, ca dao, tục ngữ,…),
có văn học bằng chữ viết với những tác phẩm đồ sộ. Nghệ thuật phát triển sớm và
cũng đạt trình độ cao về mọi mặt: ca hát, diễn xướng, hội họa, điêu khắc,… Người
Kinh cũng đã sớm sử dụng chữ viết như: chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, là chữ
viết chính thống của cả dân tộc Việt Nam. Bên cạnh văn hóa vật chất, thì văn
hóa tâm linh của người Kinh cũng rất phong phú và được chú trọng, trong đó người
Kinh đặc biệt chú trọng văn hóa thờ cúng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên luôn được đặt
ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà, việc thờ cúng được tổ chức thường
xuyên vào các ngày giỗ, lễ tết, các dịp tuần tiết trong năm. Ngoài ra, người
Kinh cũng tổ chức thờ cúng các vị thần, thánh, thổ công, ông táo, thổ địa,… Tết
Nguyên Đán là cái tết lớn nhất trong năm của người Kinh, tuy nhiên, ngoài tết
Nguyên Đán, người Kinh còn có tết Trung thu, tết Đoan Ngọ,... mỗi cái tết đều
có nghi thức và cách tiến hành riêng, thể hiện sự phong phú trong đời sống văn
hóa - tâm linh của người Kinh.
Thiên nhiên khí hậu miền Trung vốn rất khắc nghiệt, nhưng họ
kiên trì chịu đựng, đấu tranh sinh tồn và phát triển. Trong đấu tranh chống thù
trong giặc ngoài, xứ Nghệ là cái nôi của những anh hùng yêu nước, cái nôi của
cách mạng. Họ một lòng đoàn kết đề cao lòng tự tôn dân tộc, họ sẵn sàng hy sinh
vì nghĩa lớn,... Những nét tính cách Nghệ nổi trội đó, con người Nghệ An đã góp
phần làm nên lịch sử đất nước, xây dựng mảnh đất xứ Nghệ vẻ vang hôm nay.
Những đặc trưng đó của người Nghệ đã tạo nên những nét riêng
độc đáo trong văn hóa kiến trúc, đặc biệt là văn hóa nhà ở. Trong cái nền chung
văn hóa nhà ở của người Kinh trên cả nước, người Kinh ở Nghệ An cũng đã tạo cho
mình bản sắc riêng trong kiến trúc nhà ở phù hợp với điều kiện, địa hình, tập
quán của mình. Nhà ở của người Kinh ở Nghệ An, từ nhà ở truyền thống đến nhà ở
hiện đại đều mang phong vị, cốt cách riêng từ các kiểu nhà, kết cấu nhà, cách
bài trí ngôi nhà cho đến khuôn viên của ngôi nhà, thể hiện một quá trình đấu
tranh sinh tồn với thiên tai, địch họa mà tạo dựng nên.
Để hiểu sâu hơn về lịch sử phát triển của dân tộc Kinh ở Nghệ
An, chúng ta cần xét đến bối cảnh địa lý và xã hội. Nghệ An nằm ở vị trí chiến
lược, với sông Lam làm ranh giới tự nhiên, đã trở thành vùng đệm giữa Bắc Bộ và
Trung Bộ. Từ thời kỳ đá mới, các di chỉ như Quỳnh Văn (khoảng 3.000-2.000 TCN)
cho thấy cộng đồng người Việt cổ đã biết làm đồ gốm, săn bắt và trồng trọt sơ
khai. Đến thời kỳ đồ đồng, văn hóa Đông Sơn lan tỏa đến đây, với trống đồng tìm
thấy ở Vinh, chứng minh sự giao lưu văn hóa với các vùng khác.
Trong thời phong kiến, Nghệ An là phủ Diễn Châu, sau là trấn
Nghệ An, nơi sản sinh nhiều sĩ phu yêu nước. Phong trào Cần Vương (1885-1896)
có sự tham gia của Phan Đình Phùng, người Nghệ An, phản ánh tinh thần kháng chiến.
Đến thời hiện đại, Nghệ An là cái nôi của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
(1930-1931), với hơn 100.000 người tham gia biểu tình, dẫn đến sự đàn áp của thực
dân Pháp nhưng cũng góp phần vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Dân số người Kinh ở Nghệ An hiện nay khoảng 3 triệu người, với
tỷ lệ đô thị hóa tăng nhanh, từ 15% năm 2000 lên 25% năm 2023 theo Tổng cục Thống
kê. Sự phát triển này dẫn đến sự thay đổi văn hóa, với sự kết hợp giữa truyền
thống và hiện đại, như sử dụng chữ Quốc ngữ rộng rãi nhưng vẫn giữ ca dao tục
ngữ trong giáo dục.
1.2. Đời Sống Kinh Tế
và Văn Hóa Vật Thể.
Nền kinh tế của dân tộc Kinh ở Nghệ An nổi bật với nông nghiệp
lúa nước, một mô hình canh tác tiên tiến được UNESCO công nhận là di sản văn
hóa phi vật thể qua hệ thống thủy lợi cổ. Người Kinh đã xây dựng hệ thống đê
sông Lam dài hơn 200km, kết hợp với mương máng dẫn nước, giúp chống lũ và tưới
tiêu cho hơn 100.000 ha đất nông nghiệp. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn (2023), năng suất lúa ở Nghệ An đạt 60 tạ/ha, cao hơn
trung bình cả nước nhờ giống lúa mới và cơ giới hóa.
Bên cạnh nông nghiệp, chăn nuôi gia súc gia cầm phát triển,
với mô hình VAC (vườn-ao-chuồng) phổ biến ở đồng bằng. Nghề thủ công mỹ nghệ là
điểm nhấn, với hơn 50 làng nghề được công nhận. Làng nồi đất Trù Sơn sử dụng đất
sét địa phương, nung ở nhiệt độ 800-1000°C, sản phẩm bền, giữ nhiệt tốt, xuất
khẩu sang châu Âu. Nghề nước mắm Quỳnh Lưu sử dụng cá cơm tươi, ủ 12-18 tháng,
tạo hương vị đậm đà, sản lượng hàng nghìn tấn/năm. Làng dệt Quỳnh Đôi với khung
dệt tay, hoa văn hình học, sản xuất vải lụa, thổ cẩm, kết hợp với công nghệ hiện
đại để cạnh tranh.
Văn hóa nhà ở của người Kinh ở Nghệ An phản ánh sự thích ứng
với khí hậu: mái ngói thấp để chống bão, tường đất dày chống nóng. Ngôi nhà
truyền thống có gian thờ tổ tiên ở giữa, hai bên là phòng ngủ, sân trước trồng
cây ăn quả. Theo nghiên cứu của GS. Trần Quốc Vượng, kiến trúc này mang yếu tố
phong thủy, với hướng nhà hướng Nam để đón gió. Trong thời hiện đại, nhà bê
tông kết hợp yếu tố truyền thống, như mái cong, đang phổ biến ở Vinh.
Ẩm thực người Kinh Nghệ An đa dạng, với nguyên liệu từ biển
và đồng bằng. Món cháo lươn Vinh dùng lươn sông Lam, nấu với rau răm, gừng, là
biểu tượng văn hóa, được du lịch quảng bá. Bánh đa kê Quỳnh Lưu làm từ bột kê,
nướng giòn, ăn với mắm tôm. Các món này không chỉ dinh dưỡng mà còn gắn với lễ
hội, như bánh chưng Tết.
1.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Kho Tàng Quý Báu.
Văn học dân gian của người Kinh ở Nghệ An phong phú, với
hàng ngàn câu ca dao, tục ngữ. Ví dụ, "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" dạy đạo
lý. Văn học viết có tác phẩm của Hồ Xuân Hương, nữ sĩ nổi tiếng với thơ Nôm
châm bi xã hội phong kiến.
Hát Ví Giặm là đỉnh cao, với hai hình thức: Ví (hát ruộng đồng)
và Giặm (hát đối đáp). Lời hát mộc mạc, giai điệu ngân nga, thường dùng lục
bát. Theo UNESCO, Ví Giặm có hơn 100 làn điệu, truyền口 từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ở Nghệ An, các nghệ nhân như NSND Hồng Lựu (Nam Đàn) đã biểu diễn quốc tế,
góp phần bảo tồn.
Hát phường vải ở Quỳnh Đôi gắn với nghề dệt, hát kể chuyện
lao động, tình yêu. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên sâu sắc, với lễ giỗ tổ hàng
năm, cúng cơm mới. Tết Nguyên Đán kéo dài 7 ngày, với múa lân, chọi gà. Các lễ
khác như Đoan Ngọ (giết sâu bọ) với trái cây, rượu nếp.
Bảo tồn: Có hơn 300 câu lạc bộ dân ca, chương trình giáo dục
ở trường. Thách thức là thanh niên ít quan tâm, cần tích hợp du lịch như
festival Ví Giặm hàng năm ở Vinh.
Chương 2: Dân Tộc
Thái – Bản Sắc Rực Rỡ Nơi Miền Tây Xứ Nghệ.
2.1. Nguồn Gốc và Lịch
Sử Phát Triển.
Bộ phận dân cư lớn nhất, đóng vai trò rất quan trọng trong
việc thay đổi bộ mặt miền núi Nghệ An trong lịch sử cũng như hiện nay là dân tộc
Thái. Đây là nhóm Thái có số dân sống tập trung lớn vào loại thứ hai của cả nước
(sau Sơn La trên 22 vạn dân).
Sử sách ghi chép lại thì người Thái có mặt ở Nghệ An từ rất
sớm. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn cho rằng các nhóm tộc Thái di cư vào đất Nghệ An sớm
hơn thế kỉ XI-XII, còn theo học giả người Pháp Chamrberlain thì cho rằng người
Thái có mặt ở Nghệ An sớm hơn thế kỉ XI. Những giả thuyết đó được các giáo sư,
học giả đưa ra dựa vào nhiều câu chuyện thiên di, chuyển cư của người Thái gắn
với khai phá nên những cánh đồng, những công trình thủy lợi ở Môn Sơn, Lục Dạ
(Con Cuông), Xá Lượng (Tương Dương),…; giả thuyết đó cũng được khẳng định dựa
vào việc phân tích các hiện vật tìm được trong các di chỉ khảo cổ học ở vùng miền
núi Nghệ An như: Hang Thẩm Ổm (Quỳ Châu), làng Vạc (Quỳ Hợp… Người Thái có mặt ở
Nghệ An có thể từ thế kỉ XI, nhưng đợt thiên di lớn nhất và ồ ạt nhất của người
Thái phải đến thế kỷ XIII, theo đường sông Cả và chia làm nhiều đợt khác nhau.
Con đường di cư của người Thái vào Nghệ An chủ yếu là từ Tây Bắc qua Thanh Hóa
vào Phủ Quỳ, rồi từ Phủ Quỳ di cư sang Con Cuông, Tương Dương; những đợt di cư
khác thì từ Tây Bắc qua Lào vào cư trú dọc sông Nậm Nơn,…
Người Thái ở Nghệ An thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, có ngôn
ngữ /chữ viết riêng gần giống với tiếng Phạn (Ấn Độ) với nhiều kí tự khác nhau
được gọi là chữ Lai Tay, Lai Pao. Người Thái ở Nghệ An được chia làm nhiều
nhóm, ngành khác nhau, gồm 2 ngành: Thái Đen và Thái Trắng nhưng cũng có sách
phân chia làm 3 nhóm: Tày Mường, Tày Thanh và Tày Mười. Nguyên nhân của sự phân
chia các nhóm, ngành của dân tộc Thái hiện nay vẫn chưa được thống nhất, có
sách cho rằng sự phân chia đó dựa vào màu da, có sách lại cho rằng dựa vào đặc
điểm quần áo, nhưng cũng có sách lại phân chia dựa vào đặc điểm địa hình cư trú
và sinh sống. Ngoài các nhóm được phân chia trên dân tộc Thái còn có các nhóm
Tày Khăng, Tày Buộc, Tày Dọ. Các nhóm người Thái không chỉ khác nhau về địa
hình cư trú, mật độ dân cư mà còn khác nhau về văn hóa vật thể cũng như phi vật
thể, tạo nên sự đa dạng, phong phú và đặc sắc trong bản sắc văn hóa của dân tộc
Thái ở Nghệ An.
Di cư vào miền núi Nghệ An từ sớm, người Thái tập trung sinh
sống và sản xuất chủ yếu thượng nguồn sông Lam, sông Con, sông Hiếu, sông
Giăng,... và các vùng núi thấp, thung lũng, trung du nơi có phù sa các con sông
bồi đắp, địa hình bằng phẳng, đồng ruộng rộng lớn,… Nhờ tập quán cư trú đó mà nền
sản xuất chủ yếu dân tộc Thái là trồng lúa nước, một số ít bộ phận ở vùng cao
thì làm nương rẫy. Ngoài ra, người Thái còn làm các nghề thủ công trong đó nổi
tiếng nhất là dệt thổ cẩm; bên cạnh đó trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc gia cầm.
So với các dân tộc khác, người Thái được xem là dân tộc có nền kinh tế phát triển
vượt bậc, chỉ đứng sau dân tộc Kinh.
Không chỉ có nền kinh tế phát triển, văn hóa của người Thái
cũng có bề dày truyền thống và phát triển đặc sắc không kém. Ngoài việc có ngôn
ngữ, chữ viết riêng, người Thái còn có văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú
và độc đáo. Ngôi nhà cổ truyền của người Thái là nhà sàn với kiến trúc, kết cấu,
cách bài trí nhà ở và khuôn viên độc đáo, mang bản sắc riêng. Trang phục truyền
thống của cả nam và nữ của người Thái mặc dù có sự khác nhau giữa các nhóm Tày
Mường, Tày Thanh hay Tày Mười, nhưng đều thể hiện sự tinh tế, khéo léo và sự
tinh xảo trong từng hoa văn trang trí trên trang phục. Các món ăn truyền thống
của người Thái cũng rất phong phú, nhiều món ăn trở thành đặc sản khó quên như:
cơm lam, thịt bò giàng, nếp cẩm, ốc khe, canh ột, hò mọc,…
Đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh của người Thái cũng là
một kho tàng quý báu mà rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, nhà sưu tầm,…
khai thác và viết không bao giờ cạn. Người Thái có tín ngưỡng đa thần giáo như
nhiều dân tộc khác, họ thờ nhiều loại thần như thần rừng, thần sấm, thần lúa,…
và nhiều loại ma như: ma nhà, ma rừng,… Trong vòng đời của người Thái bao gồm rất
nhiều lễ tục như: Lễ đặt tên, lễ trưởng thành, lễ cưới,... Trong năm, người
Thái cũng có rất nhiều lễ hội đặc sắc như: tết truyền thống, lễ xuống đồng, lễ
mừng tiếng sấm đầu năm, lễ cầu mưa,…
Kho tàng văn hóa nghệ thuật của người Thái cũng rất đặc sắc
và phong phú: bộ sử thi đồ sộ Lái Khủn Chưởng, các truyện thơ dài “Lai Lông
mương”, “Lai Nộc Yểng”, “Lai ẹt khay”,… hay các làn điệu dân ca như nhuôn, suối,
lăm, khắp,… và các loại dụng cụ nhạc như: khèn, sáo, cồng chiêng, trống.
Tộc người Thái bao gồm các nhóm: Man Thanh, Hàng Tổng, Tày
Mười thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Đây là bộ phận dân cư lớn nhất, đóng vai
trò rất quan trọng trong việc thay đổi bộ mặt miền núi Nghệ An trong lịch sử
cũng như hiện nay là gần 30 vạn cư dân Thái. Đây là nhóm Thái có số dân sống tập
trung lớn vào loại thứ hai của cả nước (sau Sơn La trên 57 vạn).
Người Thái vào Nghệ An khoảng từ thế kỷ XV - XVII do những
nguyên nhân khác nhau: một bộ phận do chuyển cư tự nhiên từ Lào sang, một bộ phận
do chủ trương chuyển cư của Lê Thái Tổ (thế kỷ XV) khi chinh phạt Đèo Cát Hãn từ
Tây Bắc, một bộ phận khác chuyển cư từ Thanh Hoá vào. Có ý kiến khác lại cho rằng
người Thái đến Nghệ An vào khoảng thế kỷ thứ X. Gần đây, theo tài liệu của một
học giả Pháp, người Thái đã có mặt ở vùng này trước thế kỷ VI. Hầu hết các huyện
miền núi và trung du ở Nghệ An đều có cư dân Thái sinh sống: Anh Sơn, Con
Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ,
Thanh Chương và một số xã thuộc huyện đồng bằng Quỳnh Lưu.
Theo tư liệu tiếng Thái ghi chép còn lại và những truyền
thuyết dân gian cho thấy nhóm Thái đầu tiên vào Nghệ An là nhóm có số dân đông
nhất, cư trú chủ yếu ở dọc Quốc lộ 48A thuộc các huyện Quế Phong, Quỳ Châu,
Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp hiện nay. Nhóm cư dân này được gọi là Hàng Tổng, có nơi gọi
là người Tày Mường hay Tày Chiềng. Do di cư từ Tây Bắc vào có tổ chức theo đơn
vị Mường phìa nên vào Nghệ An họ mang theo tên gọi có ý nghĩa tự xưng như là
người Tày Chiềng, Tày Mường, (người ở vùng trung tâm của “Mường phìa”). Nhóm
Tày Mường và Tày Chiềng cư trú sớm nhất so với các nhóm người khác ở miền núi
Nghệ An. Qua các sách vở bằng chữ Thái, nhóm Tày Mường đã lập làng bản ở Con
Cuông và Tương Dương vào thế kỷ 13 - 14. Ở vùng Quỳ Châu cũ, nhóm Tày Mường đã
lập nghiệp đầu tiên ở Mường Tôn (nay là xã Mường Nọc huyện Quế Phong); Kim Tiến
(gồm các xã Châu Bính và Châu Tiến huyện Quỳ Châu ), Khủn Tinh (gồm các xã Châu
Quang, Châu Thái, Châu Lý, Châu Đình huyện Quỳ Hợp).
Để làm sâu hơn, chúng ta có thể xem xét các nghiên cứu gần
đây. Theo Viện Dân tộc học Việt Nam, sự di cư của người Thái không chỉ là kết
quả của chiến tranh mà còn do tìm kiếm đất đai màu mỡ. Các di chỉ như làng Vạc
(Quỳ Hợp) cho thấy công cụ đồng thau từ thế kỷ XI, chứng minh sự hiện diện sớm.
Trong thời Lê, chính sách "đồn điền" đã khuyến khích người Thái định
cư, tạo nên các Mường như Mường Thanh ở Con Cuông.
Dân số người Thái ở Nghệ An hiện khoảng 300.000 người, chiếm
10% dân số tỉnh, với tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%/năm. Họ đã góp phần vào phát triển
khu vực miền Tây, với các dự án thủy lợi như đập Bản Vẽ (Tương Dương), giúp tưới
tiêu cho hàng nghìn ha ruộng.
2.2. Đời Sống Kinh Tế
Và Văn Hóa Vật Thể.
Người Thái là một trong những cư dân biết làm ruộng nước từ
rất sớm. Một số khâu trong kỹ thuật canh tác đã đạt đến trình độ cao. Dấu vết của
văn hóa “hỏa canh thủy nậu” truyền thống vẫn còn tồn tại ở những vùng thung
lũng hẹp. Bổ sung vào nguồn lương thực và canh tác ruộng nước, đồng bào còn
canh tác nương rẫy với lúa cạn và các cây lương thực hoặc hoa màu. Chu kỳ canh
tác loại nương rẫy này thường từ 3 - 4 năm. Ở một loại nương rẫy khác dùng để
trồng bông, dệt vải và đã áp dụng một số biện pháp thâm canh cao. Rau rừng và
các sản phẩm tự nhiên khác như tôm, cá, cua,... là nguồn thức ăn bổ sung quan
trọng. Người Thái trước đây chỉ trồng lúa nếp, thì nay họ đã trồng lúa tẻ nhiều
hơn với các loại giống mới thay thế các giống địa phương... Trong các loài gia
súc thì con trâu được người Thái quý trọng vì ngoài việc dùng làm sức kéo còn
là vật cúng lễ, họ còn có nhiều kinh nghiệm trong việc nuôi cá ruộng và cá ao.
Việc săn bắn chim thú được tiến hành trong lúc nhàn rỗi và bên cạnh việc tăng
nguồn thức ăn, săn bắn còn nhằm mục đích bảo vệ mùa màng,... Các gia đình người
Thái đều biết làm nghề thủ công. Trong đó có các nghề trồng bông dệt vải, dệt
thổ cẩm rất nổi tiếng. Nghề dệt thổ cẩm Thái là nghề cổ truyền, có tính chất
gia truyền và thu nhập do nghề dệt đem lại ở một số gia đình đóng vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế. Cư dân Thái ở vùng Cửa Rào (huyện Tương Dương)
còn biết làm nghề chạm bạc đồ trang sức; Ở vùng Quế Phong, Kỳ Sơn, Tương Dương
nghề đãi vàng khá phát triển. Ngoài ra người Thái còn có các nghề như lấy cánh
kiến ở Tương Dương, nghề làm gốm, nghề rèn, đan lát.
Nét văn hóa tiêu biểu nhất ở người Thái là nhà cửa và trang
phục. Mỗi bản thường có 30 - 40 nóc nhà, cũng có bản trên 100 nóc nhà. Nhà ở được
cấu trúc theo lối mật tập và thường lớn hơn, chắc chắn hơn so với nhà của đồng
bào các dân tộc khác. Xu hướng nhà sàn của người Thái chuyển dần sang nhà đất
đã xuất hiện nhiều hơn trong những năm gần đây. Một số gia đình làm nhà nửa sàn
nửa đất... Quần áo và đồ trang sức của người Thái Nghệ An có một số nét khác biệt
với người Thái Tây Bắc. Đáng chú ý là chiếc váy phụ nữ có cạp trắng hay đỏ,
chân váy được thêu rực rỡ. Áo phụ nữ Thái điển hình cho lối trang phục của các
cư dân ở vùng Đông Nam Á với 3 loại áo: chui đầu, xẻ nách và xẻ ngực. Trong các
dịp lễ hội, đồng bào dân tộc Thái tổ chức nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc với
các trò chơi nhảy sạp, ném còn,... Hoạt động văn nghệ thì đánh trống, cồng
chiêng, khắc luống và hát xuối, nhuôn đối đáp. Tổ chức thi văn nghệ, thi người
đẹp và các môn thể thao dân tộc như kéo co, bắn nỏ,...
Để mở rộng, nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Nghệ An là một
nghệ thuật tinh xảo, với hoa văn tượng trưng cho thiên nhiên như hoa ban, voi,
rồng. Theo báo cáo của Sở Công Thương Nghệ An (2023), nghề này tạo việc làm cho
hơn 5.000 phụ nữ, sản phẩm xuất khẩu sang Thái Lan, Lào. Nhà sàn của người Thái
có cấu trúc 3 tầng: tầng dưới chăn nuôi, tầng giữa sinh hoạt, tầng trên lưu trữ,
với cột gỗ lim bền vững hàng trăm năm.
Ẩm thực với cơm lam (nếp nướng trong ống tre), thịt giàng
(thịt hun khói), canh ột (canh chua lá rừng), phản ánh sự gắn bó với rừng núi.
Các món này được dùng trong lễ hội, như lễ Kin Pang Then (cầu trời).
2.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể.
Về quan hệ xã hội, hôn nhân và gia đình, trong lịch sử khi
di cư vào Nghệ An, người Thái cũng đã mang theo thiết chế xã hội của họ ở Tây Bắc
vào: chúa đất cai quản Mường và cha truyền con nối. Gia đình Thái là gia đình
nhỏ phụ quyền, một vợ một chồng. Trong đó, quyền lực tập trung trong tay người
cha, người chồng. Hôn nhân truyền thống của người Thái nhiều chỗ còn mang tính
chất “mua bán”. Tiền “cá hua” là giá của người con gái mà chàng rể phải trả dưới
hình thức lễ vật, bạc nén và ở rể. Luật tục xử phạt rất nặng đối với các trường
hợp vi phạm sự ổn định của gia đình như ngoại tình, loạn luân,...
Người Thái cho rằng Pò Then là đứng siêu nhân quyết định cuộc
đời và số phận của con người. Then cai quản các thần, các loại ruộng nương, ma
nương, ma tổ tiên. Mỗi bản đều có các ông Mo nắm giữ phần hồn của người dân. Trật
tự gia đình phụ quyền được khẳng định và củng cố bằng hình thức thờ cúng tổ
tiên. Việc thờ cúng Chúa đất, bản mường, tổ tiên,... tổ chức theo hội hè hàng
năm, theo mùa vụ sản xuất và thường ghép với nghi lễ nông nghiệp. Tín ngưỡng có
liên quan đến nông nghiệp rất được quan tâm như tục đón tiếng sấm đầu tiên, tục
cúng hồn lúa và cúng vua ruộng khi gieo mạ, cấy lúa, lễ cơm mới,...
Kho tàng văn học với sử thi "Lái Khủn Chưởng" kể về
anh hùng chống giặc, dài hàng nghìn dòng. Làn điệu Lăm (hát kể chuyện), Khắp
(hát đối đáp) được biểu diễn trong lễ hội. Nhạc cụ cồng chiêng dùng trong lễ
Kin Chiêng Booc May (lễ hội hoa ban), với nhịp điệu vui tươi.
Bảo tồn: Các lớp dạy chữ Thái ở trường học, festival văn hóa
Thái ở Con Cuông, giúp thế hệ trẻ giữ gìn.
Chương 3: Dân Tộc Thổ
– Nét Độc Đáo Của Sự Giao Thoa Và Âm Nhạc Cồng Chiêng.
3.1. Nguồn Gốc và Lịch
Sử Phát Triển.
Bản sắc văn hóa dân tộc Thổ tại Nghệ An được thể hiện rõ nét
qua nghệ thuật cồng chiêng thiêng liêng, nhiều làn điệu dân ca, dân vũ độc đáo
như hát Thuôm, hát ghẹo, hát dặm và các nhạc cụ truyền thống như đàn Thổ, đàn
Tính tang. Đặc biệt, họ còn duy trì tục ngủ mái trong hôn nhân và có tín ngưỡng
đa dạng thờ cúng vạn vật hữu linh, cùng với các phong tục, lễ hội truyền thống.
Dân tộc Thổ tập trung chủ yếu tại các huyện Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp,
Tân Kỳ.
Về nguồn gốc lai lịch, dân tộc Thổ ở Nghệ An do ba bộ phận hợp
thành từ khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, đa số trong đó có nguồn gốc là người
Kinh từ các huyện đồng bằng miền xuôi do hoàn cảnh xã hội di dân lên đồng hoá với
số người Cuối và người Mường từ Thanh Hoá vào. Trước Cách mạng tháng Tám năm
1945 còn có tên là Côn Khạ, Xá, Kẹo, Mọn, Cuối căn cứ theo nguồn gốc từng nhóm
họ mang tính miệt thị nên đồng bào không chấp nhận. Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, được xem như là một nhóm của dân tộc Mường. Từ tháng 12/1973 thể theo đề
nghị và căn cứ vào những phong tục tập quán, sinh hoạt… Tộc danh Thổ được Nhà
nước chính thức công nhận là một dân tộc riêng biệt nằm trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Thổ là một trong những dân tộc sinh sống xen kẽ cùng
hai dân tộc Kinh và Thái trong cộng đồng các dân tộc ở khu vực miền núi tây bắc
Nghệ An, với dân số khoảng 80.000 người, sống tập trung chủ yếu tại các huyện
Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ và thị xã Thái Hoà, định cư từ khoảng thế kỷ XV đến
thế kỷ XVIII.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, người Thổ được xem như là
một nhóm của dân tộc Mường. Từ tháng 12/1973, thể theo đề nghị và căn cứ vào những
phong tục tập quán, sinh hoạt…Tộc danh Thổ được Nhà nước chính thức công nhận
là một dân tộc riêng biệt nằm trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam.
Người Thổ có nhiều dòng họ, trong đó họ Trương là một họ lớn
chiếm số đông trong cộng đồng, tiếp đến là các họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm…
Theo nghiên cứu của Viện Dân tộc học, sự hình thành dân tộc
Thổ là kết quả của quá trình giao thoa văn hóa, với yếu tố Kinh chiếm ưu thế
nhưng hấp thụ phong tục Mường và Cuối. Trong lịch sử, họ đã tham gia các cuộc
kháng chiến, như chống Pháp ở Quỳ Hợp, góp phần vào di sản yêu nước của Nghệ
An. Dân số hiện nay khoảng 80.000 người, với tỷ lệ đô thị hóa thấp, giữ gìn bản
sắc qua cộng đồng làng bản.
3.2. Đời Sống Kinh Tế
Và Văn Hóa Vật Thể.
Đời sống của đồng bào dân tộc Thổ chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp làm nương rẫy, trồng lúa nước và chăn nuôi. Công cụ sản xuất điển hình
là chiếc “cày nại” (cần nọn) gần giống chiếc cày chìa vôi của dân tộc Kinh.
Ngoài ra còn có chiếc gậy chọc lỗ tra hạt “cần nón”, “tắm rói”. Đây là công cụ
điển hình của phương thức canh tác nương rẫy. Ngoài chăn nuôi và sản xuất nông
nghiệp, người Thổ còn rất giỏi săn bắn và đánh bắt cá. Không những giỏi săn bắn
thú rừng, người Thổ còn rất giỏi đánh bắt cá trên các ao hồ, sông suối. Nghề
đánh bắt cá bằng những dụng cụ đánh bắt đặc trưng khá đa dạng như chài lưới,
đăng, xúc... được xem là nghề cổ truyền. Đặc biệt tất cả các dụng cụ dùng trong
công việc đánh bắt cá đều tự tay họ làm lấy thể hiện những nét tinh tế trong
nghề đan lát của mình.
Ngày trước đồng bào Thổ ở nhà sàn và nhà trệt lợp tranh như
người Kinh. Nhà sàn dân tộc Thổ gần giống nhà sàn người Mường. Nay phần lớn đã ở
nhà trệt theo kiểu miền xuôi nhưng cách bố trí trong nhà vẫn theo truyền thống
dân tộc mình.
Khác với người Kinh, người Mường, hôn nhân trong cộng đồng
dân tộc Thổ thường là hôn nhân nội tộc. Chế độ hôn nhân này có thể xem như là một
biểu hiện cao nhất về ý thức củng cố cộng đồng trong điều kiện sống xen kẽ với
các dân tộc khác. Ngày trước còn nhiều hủ tục như ở rể, cưới vợ lẽ... nay đã
bãi bỏ. Hiện tại, một số nhóm họ ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp và Tân Kỳ vẫn còn phong tục
“ngủ mái” - một hình thức kết bạn, đi tìm hiểu người yêu. Mang dấu ấn của sự cộng
cư nhiều thành phần sắc tộc, người Thổ thờ thần. Hầu như trong tất cả mọi làng
người Thổ đều có đền miếu thờ cúng quanh năm các vị thần và thành hoàng làng.
Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của người Thổ khá phong phú, họ
thờ các thần như: thần Đông, thần Tây, Cao Sơn (tức thượng đẳng tối kinh), thần
Cố (chuyên săn bắn),… Trong những dịp tết, lễ hội,… họ tổ chức tế ở nhà làng và
hàng năm tổ chức cúng ma bản một lần vào tháng giêng để cầu mong sự che chở,
bình yên, no đủ. Cúng ma bản là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng lớn nhất của người
Thổ và do già làng làm lễ, trong ngày này, bà con dân bản được nghỉ ngơi, ca
hát và nhảy múa.
Về văn học dân gian, người Thổ cũng có những tác phẩm như:
Mo Mường, Kể Đáng,… và các điệu hát như: Đu đu điềng điềng, Ên ên -Ạc ạc, hát
Thuôm, hát Cuối, hát ghẹo, hát dặm,… với hình thức hát xướng. Tuy nhiên, các
tác phẩm này chịu ảnh hưởng khá lớn từ các dân tộc khác như: Thái, Kinh.
Ở Nghệ An, dân tộc Thổ có dân số lớn thứ 3 trong cộng đồng
các dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn, chỉ đứng sau dân tộc Kinh và Thái. Tuy
nhiên, do đặc điểm cư trú xen kẽ giữa các dân tộc khác nên bản sắc văn hóa của người
Thổ hiện nay chịu ảnh hưởng và bị đồng hóa khá lớn.
Những nét văn hoá của
đồng bào dân tộc Thổ ở Nghệ An.
Đời sống của đồng bào dân tộc Thổ chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp làm nương rẫy, trồng lúa nước và chăn nuôi. Công cụ sản xuất điển hình
là chiếc “ cày nại” (cần nọn) gần giống chiếc cày chìa vôi của dân tộc Kinh.
Ngoài ra còn có chiếc gậy chọc lỗ tra hạt “cần
nón”, “tắm rói”- Đây là công cụ điển hình của phương thức canh tác nương rẫy.
Ngoài chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp, người Thổ còn rất giỏi săn bắn và đánh
bắt cá. Từ xưa họ đã săn bắt tập thể bằng các loại bẫy đơn giản như bẫy sập,
thòng lọng, lưới…có thể bắt được cả những
loại thú lớn như voi, hổ , bò rừng…Kết thúc những buổi săn là việc chia thịt
thú rừng săn được cho tất cả các gia đình trong làng không phân biệt giàu
nghèo. Người Thổ còn rất giỏi đánh bắt cá trên các ao hồ, sông suối. Nghề đánh
bắt cá bằng những dụng cụ đánh bắt đặc trưng khá đa dạng như chài lưới, đăng,
xúc..được xem là nghề cổ truyền. Đặc biệt
tất cả các dụng cụ dùng trong công việc đánh bắt cá đều tự tay họ làm .
Ngày trước đồng bào Thổ ở nhà sàn và nhà đất lợp tranh như
người Kinh. Nhà sàn dân tộc Thổ gần giống nhà sàn người Mường vùng Tây Bắc, Việt
Bắc. Nay phần lớn đã ở nhà đất theo kiểu miền xuôi nhưng cách bố trí trong nhà
vẫn theo truyền thống dân tộc mình. Đồng bào dân tộc Thổ không có tập quán trồng
bông dệt vải…quần áo của họ thường mua bán trao đổi với người Thái và người
Kinh, do vậy y phục dân tộc Thổ không đồng nhất, không có bản sắc riêng. Đàn
ông thường mặc giống người Kinh, phụ nữ có sự khác biệt tuỳ theo từng vùng, có
nơi mặc váy Thái, váy dài có có sọc viền chân váy (vùng Quỳ Hợp, Tân Kỳ và một
số địa phương thuộc Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hoà như ở vùng làng Đóng , làng
Dong..) Có nơi váy của phụ nữ như của người Kinh (vùng Lâm La - Nghĩa Đàn). Áo
của phụ nữ Thổ thường là loại áo 5 thân màu nâu hoặc trắng gần giống với áo của
người Kinh.
Khác với người Kinh, người Mường, hôn nhân trong cộng đồng
dân tộc Thổ thường là hôn nhân nội tộc. Chế độ hôn nhân này có thể xem như là một
biểu hiện cao nhất về ý thức củng cố cộng đồng trong điều kiện sống xen kẽ với
các dân tộc khác. Ngày trước còn nhiều hủ tục như ở rể, cưới vợ lẽ..nay đã bãi
bỏ. Hiện tại, một số nhóm họ dân tộc Thổ ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp và Tân Kỳ vẫn còn
phong tục “ngủ mái”- Một hình thức kết bạn, đi tìm hiểu người yêu. Thường khi
người con trai con gái đến tuổi cập kê, được phép của gia đình cô gái , người
con trai đến “ngủ mái” tại nhà cô gái - người mình chọn để tìm hiểu. Trong đêm
“ngủ mái”, trai gái có quyền tự do tâm sự với nhau một cách lành mạnh. Tục lệ
lên án và có những hình phạt nặng các hành vi dung tục mờ ám trong đêm “ngủ
mái”. Sau đêm “ngủ mái” nếu người con trai và người con gái đồng ý lấy nhau thì
bàn các bước thực hiện những nghi thức bắt buộc như nhờ người làm mai mối (ông
Pin) sau đó là những cuộc thăm hỏi thường xuyên rồi dạm hỏi và xin cưới…
Mang dấu ấn của sự cộng cư nhiều thành phần sắc tộc, người
Thổ thờ thần. Hầu như trong tất cả mọi làng người Thổ đều có đền miếu thờ cúng
quanh năm các vị thần và thành hoàng
làng. Có làng thờ tới 15 vị thần. Mỗi nghề lại thờ một vị thần với những hình
thức nghi lễ riêng. Những người làm nghề tôn giáo - các bậc sư sãi - có vị vị
trí khá cao trong cộng đồng. Quan niệm của đồng bào cho rằng vạn vật đều có
linh hồn. Khi có người ốm, người ta cúng “ vía mụ bà” và buộc “ vòng vía” cho bệnh
nhân. Thường trong các buổi cúng, thầy cúng dùng tiếng Cuối để khấn. Người Thổ
rất coi trọng lễ xuống đồng ( cầu móng)
đầu năm mới, lễ cúng cơm mới, lễ mừng nhà mới…với những nghi thức trang
trọng. Hàng năm vào dịp lễ xuống đồng, làng chọn một người đàn ông khoẻ mạnh
làm ăn khấm khá, nhẹ vía để làm người phát nhát dao đầu tiên và cũng là người
chọc lỗ tra hạt giống đầu tiên (gọi là chủ giống).
Để mở rộng, nền kinh tế của người Thổ kết hợp giữa nương rẫy
và lúa nước, với chu kỳ canh tác 3-5 năm để đất phục hồi. Săn bắn tập thể với bẫy
sập, chia thịt công bằng, phản ánh tinh thần cộng đồng. Nghề đan lát tinh xảo,
sản phẩm như giỏ, đăng cá, được bán ở chợ địa phương.
Nhà ở chuyển từ sàn sang trệt, nhưng giữ bố trí truyền thống:
bếp lửa trung tâm, bàn thờ thần ở góc. Trang phục phụ nữ với váy dài viền sọc,
áo 5 thân, chịu ảnh hưởng Thái nhưng giản dị hơn. Tục ngủ mái là hình thức tìm
hiểu lành mạnh, với quy định nghiêm ngặt để tránh lạm dụng, phản ánh giá trị đạo
đức.
3.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Kho Tàng Âm Nhạc Cồng Chiêng Và Hát Thuôm.
Cùng với những nhạc cụ truyền thống như sáo, khèn, người Thổ
còn có những nhạc cụ của dân tộc mình như cây đàn Thổ (gần giống cây đàn đáy của
người Kinh). Đặc biệt phải kể đến cây đàn Tính tang - loại đàn được làm từ một ống
tre có hai dây bằng chính thanh cật tre tước ra và căng ngay trên phần mặt có cữ
tăng giảm âm vực, sử dụng bằng cách dùng một thanh tre nhỏ có bọc vải một đầu
gõ lên, cho âm thanh rất hay. Từ nhạc cụ đơn giản này, hiện tại một số nghệ
nhân dân tộc Thổ tại Quỳ Hợp đã cải tiến thành một giàn đàn gồm 8 ống dài ngắn
theo cung bậc với cách sử dụng như với loại đàn Tam thập lục …hầu như trong mọi
gia đình, dòng họ của đồng bào Thổ ở Nghệ An đều có những dàn cồng chiêng được
các thế hệ lưu giữ với cách sử dụng của các nghệ nhân rất độc đáo, thể hiện qua
những âm hưởng tiết tấu và những vũ điệu sinh động diễn tả những sinh hoạt
trong đời sống hàng ngày.
Nghệ thuật cồng chiêng của người Thổ là một di sản thiêng
liêng, được sử dụng trong các dịp lễ hội như cưới hỏi, mừng nhà mới, lễ cầu
mùa, đám tang, và mừng năm mới. Theo nghiên cứu từ Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam, cồng chiêng Thổ thường gồm 5-7 chiếc, với cách chơi độc đáo: một người
chơi nhiều chiếc, tạo nhịp điệu phức tạp. Ở làng Bui, Nghĩa Mai (Nghĩa Đàn), hội
cồng chiêng được tổ chức hàng năm vào mùa Xuân, với tiếng chiêng vang vọng, kết
hợp múa sạp, thu hút hàng trăm người tham gia. Tại Thái Hòa, giao lưu cồng
chiêng hát đối là sự kiện văn hóa nổi bật, với màn cồng tư hát giao duyên, vũ
điệu kết đoàn. Cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà còn là vật kết nối tâm linh,
thể hiện tâm tư cộng đồng.
Hát Thuôm là làn điệu dân ca độc đáo, thường hát đối đáp, ghẹo
tình, với lời thơ mộc mạc, giai điệu da diết. Bên cạnh đó, hát ghẹo, hát dặm,
hát cuối mang ảnh hưởng Kinh nhưng được biến tấu với nhịp cồng chiêng. Ở Quỳ Hợp,
các câu lạc bộ hát Thuôm hoạt động, dạy cho thanh niên. Theo báo Thanh Hóa (có
giao thoa với Nghệ An), cồng chiêng trong đời sống tâm linh Thổ dùng trong mọi
dịp, từ vui đến buồn.
Tín ngưỡng đa dạng: Thờ vạn vật hữu linh, tổ tiên, thần nghề
nghiệp. Lễ cúng ma bản tháng Giêng là lớn nhất, với ca hát, nhảy múa. Bảo tồn:
Thành lập câu lạc bộ cồng chiêng ở Nghĩa Đàn, phục dựng nhà cổ, dạy dân ca ở
trường. Theo Sở Văn hóa Nghệ An, có hơn 20 câu lạc bộ, với nỗ lực xã hội hóa
mua sắm cồng chiêng.
Hoạt động bảo tồn và phát huy:
Thành lập câu lạc bộ: Các câu lạc bộ văn hóa dân gian, cồng
chiêng đã được thành lập để sưu tầm, phát triển và giao lưu văn hóa.
Phục dựng nhà cổ: Phục dựng nhà sàn cổ của người Thổ tại
khuôn viên Nhà Văn hóa cộng đồng để lưu giữ giá trị truyền thống cho thế hệ
sau.
Khuyến khích thế hệ trẻ: Nhiều địa phương tổ chức các chương
trình thi văn nghệ, đưa dân ca vào trường học để truyền dạy cho thế hệ trẻ.
Hỗ trợ văn hóa: Vận động người dân đóng góp, huy động vốn xã
hội hóa để mua sắm cồng chiêng và phục hồi các nghề thủ công truyền thống như dệt
võng gai.
Vì bài này rất
dài nên Điện bà Tây Ninh sẽ chia làm 2 bài. Phần 2 sẽ tiếp nối với :
Chương 4: Dân
Tộc Khơ Mú – Tinh Thần Kiên Cường Nơi Rẻo Cao Với Múa Au Eo Và Lễ Tết Cơm Mới.
Chương 5: Dân
Tộc Mông – Sức Sống Vượt Lên Đại Ngàn Với Tiếng Khèn Và Lễ Giỗ Họ.
Chương 6: Dân
Tộc Ơ Đu – Tấm Thảm Văn Hóa Đang Dần Phai Màu Với Lễ Chăm Phtrong Và Nỗ Lực Bảo
Tồn Ngôn Ngữ.
Tổng Kết: Sức
Mạnh Từ Sự Hòa Quyện và Tiềm Năng Phát Triển Bền Vững.
Xin cảm ơn
quý độc giả đã kiên nhẫn theo dõi. Thân ái. Điện bà Tây Ninh.
HẾT BÀI 9. 1
Bài 12. Phong thủy luận.
Xin theo dõi tiếp bài 13. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.
Bài 25. Thần Thánh Trung hoa.
Xin theo dõi tiếp bài 26. Cảm ơn các bạn đã theo dõi. Thân ái. dienbatn.