Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.BÀI 9.1 LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU: NGHỆ AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.
BÀI 9.1 LOẠT BÀI NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU: NGHỆ AN - VÙNG ĐẤT ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.
Bài 9: Văn hóa đa sắc
tộc và phi vật thể.
Tiêu đề: Hòa quyện và
độc đáo: Bản sắc văn hóa của 6 dân tộc tại Nghệ An.
Lời Tri Ân Và Hướng
Tiếp Cận.
Kính gửi quý độc giả, Sau những năm tháng đắm mình trong
công cuộc điền dã miệt mài tại Nghệ An – vùng đất của những huyền thoại và tinh
thần quật cường – Điện bà Tây Ninh tự hào đã tích lũy được một kho tàng tư liệu
vô giá. Đó là những trang ghi chép thủ công thấm đẫm mồ hôi, những ổ đĩa cứng
chứa đựng hàng ngàn hình ảnh và video, ghi lại từng con suối róc rách, từng ngọn
núi sừng sững, từng di tích lịch sử thấm đẫm dấu thời gian, cùng những câu chuyện
đầy cảm xúc từ người dân bản xứ.
Hôm nay, nhân dịp nông nhàn, chúng tôi xin được sẻ chia những
tư liệu quý báu này, không chỉ như một bài nghiên cứu lịch sử mà còn như một lời
tri ân sâu sắc đến những người bạn xứ Nghệ – những ân nhân đã đồng hành, dẫn lối
chúng tôi qua những con suối sâu, hang động bí ẩn, và bên bếp lửa hồng, kể những
câu chuyện dân gian đầy ý nghĩa. Nhờ họ, chúng tôi đã thấu hiểu hơn về mảnh đất
và con người nơi đây.
Loạt bài này sẽ đưa quý độc giả vào hành trình khám phá sâu
sắc các địa danh và nhân vật lịch sử, văn hóa của Nghệ An, bắt đầu từ nguồn cội
và vươn xa theo dòng chảy thời gian. Với tính chất chuyên sâu, kết hợp với bộ ảnh
và video của Điện bà Tây Ninh, chúng tôi sẽ mô tả chi tiết, phân tích thấu đáo,
đồng thời gợi ý các liên kết hình ảnh và video để dựng nên một bức tranh toàn
diện về vùng đất địa linh nhân kiệt. Chúng tôi hy vọng quý độc giả sẽ kiên nhẫn
đồng hành cùng chúng tôi trong hành trình này. Thân ái! Điện bà Tây Ninh.
Mở Đầu: Nghệ An –
Vùng Đất Của Sự Hòa Quyện Văn Hóa Đa Sắc Tộc.
Nghệ An, vùng đất địa linh nhân kiệt, không chỉ nổi tiếng với
bề dày lịch sử và truyền thống yêu nước mà còn được biết đến như một bức tranh
văn hóa đa sắc màu. Nơi đây là ngôi nhà chung của sáu dân tộc anh em: Kinh,
Thái, Thổ, Khơ Mú, Mông, và Ơ Đu. Mỗi dân tộc mang một bản sắc riêng, được hun
đúc qua hàng thế kỷ đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt và bảo vệ cội nguồn.
Sự hòa quyện của các nền văn hóa này đã tạo nên một bức khảm độc đáo, phản ánh
sự phong phú và bền vững của đời sống tinh thần trên mảnh đất Nghệ An.
Bài viết này sẽ đi sâu vào việc tổng hợp, phân tích và làm
sáng tỏ những nét đặc trưng của văn hóa các dân tộc ở Nghệ An. Chúng ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu về lịch sử hình thành, đời sống kinh tế, văn hóa vật thể (kiến
trúc, trang phục, ẩm thực), và đặc biệt là văn hóa phi vật thể (tín ngưỡng, văn
học dân gian, lễ hội) của từng tộc người. Đồng thời, bài viết cũng sẽ đề cập đến
sự giao thoa, biến đổi và những nỗ lực đáng trân trọng trong công cuộc bảo tồn
bản sắc văn hóa trước những thách thức của thời đại.
Chương 1: Dân Tộc
Kinh – Bản Sắc Của Nền Văn Minh Lúa Nước.
1.1. Nguồn Gốc và Lịch
Sử Phát Triển.
Dân tộc Kinh ở Nghệ An phân bố đều khắp cả tỉnh nhưng tập
trung đông nhất là vùng đồng bằng (Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu....) và thành
thị (Tp. Vinh, Tx. Thái Hòa, Tx. Cửa Lò...). Là cư dân có nguồn gốc bản địa lâu
đời và phát triển từ thời nguyên thuỷ, tổ tiên người Kinh từ rất xa xưa đã định
cư ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ trong đó Nghệ An là một điểm đến.
Theo dấu vết của người vượn/người Việt cổ để lại ở di chỉ khảo
cổ hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu), cho đến cư dân văn hóa Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu), văn
hóa Bàu Tró cho thấy người Việt cổ có mặt ở Nghệ An rất sớm, từ thuở bình minh
của lịch sử loài người. Trải qua các thời kỳ người Việt ở Nghệ An đến nay đã
phát triển đông đúc, sầm uất, hiện đã có trên 1.000 họ, với hơn 11.000 dòng họ.
Sự ra đời và phát triển của người Kinh ở Nghệ An đi liền với nền văn minh, văn
hóa lâu đời và khá phát triển.
Trong thời kỳ khai hoang mở đất, người Kinh đã đấu tranh với
thiên nhiên, thú dữ để sinh tồn và khai khẩn nên các làng, các ấp sầm uất. Cho
đến thời kỳ đấu tranh dựng nước và giữ nước, bằng chính sức lực, trí tuệ, lòng
quả cảm của mình, người Nghệ An đã góp phần không nhỏ làm nên sự phồn thịnh của
đất nước, của xứ Nghệ hôm nay. Nghệ An vinh dự là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của những người con ưu tú như: Quang Trung (Nguyễn Huệ), Hồ Qúy Ly, Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lê Hồng Phong,….
Nền kinh tế nổi trội nhất của dân tộc Kinh nói chung và người
Kinh ở Nghệ An nói riêng là nền nông nghiệp lúa nước. Phát triển nền nông nghiệp
lúa nước, để bảo vệ mùa màng, chống lại thiên tai, địch họa, người Kinh đã sớm
biết đào mương, đắp đê. Ngoài sản xuất lúa nước, người Kinh còn biết phát triển
các nghề khác như chăn nuôi gia súc, gia cầm, làm các nghề thủ công mỹ nghệ đạt
đến trình độ tinh xảo, thành lập được nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ sầm uất,
như hiện nay có các làng nghề: làng nồi đất ở Trù sơn (Đô Lương), nghề làm nước
mắm ở Quỳnh Lưu, nghề dệt vải ở Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu),…
Xứ Nghệ nổi tiếng là đất văn vật với bề dày truyền thống văn
hóa, văn học cổ đa dạng, phong phú: có văn học cổ (truyện kể, ca dao, tục ngữ,…),
có văn học bằng chữ viết với những tác phẩm đồ sộ. Nghệ thuật phát triển sớm và
cũng đạt trình độ cao về mọi mặt: ca hát, diễn xướng, hội họa, điêu khắc,… Người
Kinh cũng đã sớm sử dụng chữ viết như: chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, là chữ
viết chính thống của cả dân tộc Việt Nam. Bên cạnh văn hóa vật chất, thì văn
hóa tâm linh của người Kinh cũng rất phong phú và được chú trọng, trong đó người
Kinh đặc biệt chú trọng văn hóa thờ cúng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên luôn được đặt
ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà, việc thờ cúng được tổ chức thường
xuyên vào các ngày giỗ, lễ tết, các dịp tuần tiết trong năm. Ngoài ra, người
Kinh cũng tổ chức thờ cúng các vị thần, thánh, thổ công, ông táo, thổ địa,… Tết
Nguyên Đán là cái tết lớn nhất trong năm của người Kinh, tuy nhiên, ngoài tết
Nguyên Đán, người Kinh còn có tết Trung thu, tết Đoan Ngọ,... mỗi cái tết đều
có nghi thức và cách tiến hành riêng, thể hiện sự phong phú trong đời sống văn
hóa - tâm linh của người Kinh.
Thiên nhiên khí hậu miền Trung vốn rất khắc nghiệt, nhưng họ
kiên trì chịu đựng, đấu tranh sinh tồn và phát triển. Trong đấu tranh chống thù
trong giặc ngoài, xứ Nghệ là cái nôi của những anh hùng yêu nước, cái nôi của
cách mạng. Họ một lòng đoàn kết đề cao lòng tự tôn dân tộc, họ sẵn sàng hy sinh
vì nghĩa lớn,... Những nét tính cách Nghệ nổi trội đó, con người Nghệ An đã góp
phần làm nên lịch sử đất nước, xây dựng mảnh đất xứ Nghệ vẻ vang hôm nay.
Những đặc trưng đó của người Nghệ đã tạo nên những nét riêng
độc đáo trong văn hóa kiến trúc, đặc biệt là văn hóa nhà ở. Trong cái nền chung
văn hóa nhà ở của người Kinh trên cả nước, người Kinh ở Nghệ An cũng đã tạo cho
mình bản sắc riêng trong kiến trúc nhà ở phù hợp với điều kiện, địa hình, tập
quán của mình. Nhà ở của người Kinh ở Nghệ An, từ nhà ở truyền thống đến nhà ở
hiện đại đều mang phong vị, cốt cách riêng từ các kiểu nhà, kết cấu nhà, cách
bài trí ngôi nhà cho đến khuôn viên của ngôi nhà, thể hiện một quá trình đấu
tranh sinh tồn với thiên tai, địch họa mà tạo dựng nên.
Để hiểu sâu hơn về lịch sử phát triển của dân tộc Kinh ở Nghệ
An, chúng ta cần xét đến bối cảnh địa lý và xã hội. Nghệ An nằm ở vị trí chiến
lược, với sông Lam làm ranh giới tự nhiên, đã trở thành vùng đệm giữa Bắc Bộ và
Trung Bộ. Từ thời kỳ đá mới, các di chỉ như Quỳnh Văn (khoảng 3.000-2.000 TCN)
cho thấy cộng đồng người Việt cổ đã biết làm đồ gốm, săn bắt và trồng trọt sơ
khai. Đến thời kỳ đồ đồng, văn hóa Đông Sơn lan tỏa đến đây, với trống đồng tìm
thấy ở Vinh, chứng minh sự giao lưu văn hóa với các vùng khác.
Trong thời phong kiến, Nghệ An là phủ Diễn Châu, sau là trấn
Nghệ An, nơi sản sinh nhiều sĩ phu yêu nước. Phong trào Cần Vương (1885-1896)
có sự tham gia của Phan Đình Phùng, người Nghệ An, phản ánh tinh thần kháng chiến.
Đến thời hiện đại, Nghệ An là cái nôi của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
(1930-1931), với hơn 100.000 người tham gia biểu tình, dẫn đến sự đàn áp của thực
dân Pháp nhưng cũng góp phần vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Dân số người Kinh ở Nghệ An hiện nay khoảng 3 triệu người, với
tỷ lệ đô thị hóa tăng nhanh, từ 15% năm 2000 lên 25% năm 2023 theo Tổng cục Thống
kê. Sự phát triển này dẫn đến sự thay đổi văn hóa, với sự kết hợp giữa truyền
thống và hiện đại, như sử dụng chữ Quốc ngữ rộng rãi nhưng vẫn giữ ca dao tục
ngữ trong giáo dục.
1.2. Đời Sống Kinh Tế
và Văn Hóa Vật Thể.
Nền kinh tế của dân tộc Kinh ở Nghệ An nổi bật với nông nghiệp
lúa nước, một mô hình canh tác tiên tiến được UNESCO công nhận là di sản văn
hóa phi vật thể qua hệ thống thủy lợi cổ. Người Kinh đã xây dựng hệ thống đê
sông Lam dài hơn 200km, kết hợp với mương máng dẫn nước, giúp chống lũ và tưới
tiêu cho hơn 100.000 ha đất nông nghiệp. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn (2023), năng suất lúa ở Nghệ An đạt 60 tạ/ha, cao hơn
trung bình cả nước nhờ giống lúa mới và cơ giới hóa.
Bên cạnh nông nghiệp, chăn nuôi gia súc gia cầm phát triển,
với mô hình VAC (vườn-ao-chuồng) phổ biến ở đồng bằng. Nghề thủ công mỹ nghệ là
điểm nhấn, với hơn 50 làng nghề được công nhận. Làng nồi đất Trù Sơn sử dụng đất
sét địa phương, nung ở nhiệt độ 800-1000°C, sản phẩm bền, giữ nhiệt tốt, xuất
khẩu sang châu Âu. Nghề nước mắm Quỳnh Lưu sử dụng cá cơm tươi, ủ 12-18 tháng,
tạo hương vị đậm đà, sản lượng hàng nghìn tấn/năm. Làng dệt Quỳnh Đôi với khung
dệt tay, hoa văn hình học, sản xuất vải lụa, thổ cẩm, kết hợp với công nghệ hiện
đại để cạnh tranh.
Văn hóa nhà ở của người Kinh ở Nghệ An phản ánh sự thích ứng
với khí hậu: mái ngói thấp để chống bão, tường đất dày chống nóng. Ngôi nhà
truyền thống có gian thờ tổ tiên ở giữa, hai bên là phòng ngủ, sân trước trồng
cây ăn quả. Theo nghiên cứu của GS. Trần Quốc Vượng, kiến trúc này mang yếu tố
phong thủy, với hướng nhà hướng Nam để đón gió. Trong thời hiện đại, nhà bê
tông kết hợp yếu tố truyền thống, như mái cong, đang phổ biến ở Vinh.
Ẩm thực người Kinh Nghệ An đa dạng, với nguyên liệu từ biển
và đồng bằng. Món cháo lươn Vinh dùng lươn sông Lam, nấu với rau răm, gừng, là
biểu tượng văn hóa, được du lịch quảng bá. Bánh đa kê Quỳnh Lưu làm từ bột kê,
nướng giòn, ăn với mắm tôm. Các món này không chỉ dinh dưỡng mà còn gắn với lễ
hội, như bánh chưng Tết.
1.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Kho Tàng Quý Báu.
Văn học dân gian của người Kinh ở Nghệ An phong phú, với
hàng ngàn câu ca dao, tục ngữ. Ví dụ, "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" dạy đạo
lý. Văn học viết có tác phẩm của Hồ Xuân Hương, nữ sĩ nổi tiếng với thơ Nôm
châm bi xã hội phong kiến.
Hát Ví Giặm là đỉnh cao, với hai hình thức: Ví (hát ruộng đồng)
và Giặm (hát đối đáp). Lời hát mộc mạc, giai điệu ngân nga, thường dùng lục
bát. Theo UNESCO, Ví Giặm có hơn 100 làn điệu, truyền口 từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ở Nghệ An, các nghệ nhân như NSND Hồng Lựu (Nam Đàn) đã biểu diễn quốc tế,
góp phần bảo tồn.
Hát phường vải ở Quỳnh Đôi gắn với nghề dệt, hát kể chuyện
lao động, tình yêu. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên sâu sắc, với lễ giỗ tổ hàng
năm, cúng cơm mới. Tết Nguyên Đán kéo dài 7 ngày, với múa lân, chọi gà. Các lễ
khác như Đoan Ngọ (giết sâu bọ) với trái cây, rượu nếp.
Bảo tồn: Có hơn 300 câu lạc bộ dân ca, chương trình giáo dục
ở trường. Thách thức là thanh niên ít quan tâm, cần tích hợp du lịch như
festival Ví Giặm hàng năm ở Vinh.
Chương 2: Dân Tộc
Thái – Bản Sắc Rực Rỡ Nơi Miền Tây Xứ Nghệ.
2.1. Nguồn Gốc và Lịch
Sử Phát Triển.
Bộ phận dân cư lớn nhất, đóng vai trò rất quan trọng trong
việc thay đổi bộ mặt miền núi Nghệ An trong lịch sử cũng như hiện nay là dân tộc
Thái. Đây là nhóm Thái có số dân sống tập trung lớn vào loại thứ hai của cả nước
(sau Sơn La trên 22 vạn dân).
Sử sách ghi chép lại thì người Thái có mặt ở Nghệ An từ rất
sớm. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn cho rằng các nhóm tộc Thái di cư vào đất Nghệ An sớm
hơn thế kỉ XI-XII, còn theo học giả người Pháp Chamrberlain thì cho rằng người
Thái có mặt ở Nghệ An sớm hơn thế kỉ XI. Những giả thuyết đó được các giáo sư,
học giả đưa ra dựa vào nhiều câu chuyện thiên di, chuyển cư của người Thái gắn
với khai phá nên những cánh đồng, những công trình thủy lợi ở Môn Sơn, Lục Dạ
(Con Cuông), Xá Lượng (Tương Dương),…; giả thuyết đó cũng được khẳng định dựa
vào việc phân tích các hiện vật tìm được trong các di chỉ khảo cổ học ở vùng miền
núi Nghệ An như: Hang Thẩm Ổm (Quỳ Châu), làng Vạc (Quỳ Hợp… Người Thái có mặt ở
Nghệ An có thể từ thế kỉ XI, nhưng đợt thiên di lớn nhất và ồ ạt nhất của người
Thái phải đến thế kỷ XIII, theo đường sông Cả và chia làm nhiều đợt khác nhau.
Con đường di cư của người Thái vào Nghệ An chủ yếu là từ Tây Bắc qua Thanh Hóa
vào Phủ Quỳ, rồi từ Phủ Quỳ di cư sang Con Cuông, Tương Dương; những đợt di cư
khác thì từ Tây Bắc qua Lào vào cư trú dọc sông Nậm Nơn,…
Người Thái ở Nghệ An thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, có ngôn
ngữ /chữ viết riêng gần giống với tiếng Phạn (Ấn Độ) với nhiều kí tự khác nhau
được gọi là chữ Lai Tay, Lai Pao. Người Thái ở Nghệ An được chia làm nhiều
nhóm, ngành khác nhau, gồm 2 ngành: Thái Đen và Thái Trắng nhưng cũng có sách
phân chia làm 3 nhóm: Tày Mường, Tày Thanh và Tày Mười. Nguyên nhân của sự phân
chia các nhóm, ngành của dân tộc Thái hiện nay vẫn chưa được thống nhất, có
sách cho rằng sự phân chia đó dựa vào màu da, có sách lại cho rằng dựa vào đặc
điểm quần áo, nhưng cũng có sách lại phân chia dựa vào đặc điểm địa hình cư trú
và sinh sống. Ngoài các nhóm được phân chia trên dân tộc Thái còn có các nhóm
Tày Khăng, Tày Buộc, Tày Dọ. Các nhóm người Thái không chỉ khác nhau về địa
hình cư trú, mật độ dân cư mà còn khác nhau về văn hóa vật thể cũng như phi vật
thể, tạo nên sự đa dạng, phong phú và đặc sắc trong bản sắc văn hóa của dân tộc
Thái ở Nghệ An.
Di cư vào miền núi Nghệ An từ sớm, người Thái tập trung sinh
sống và sản xuất chủ yếu thượng nguồn sông Lam, sông Con, sông Hiếu, sông
Giăng,... và các vùng núi thấp, thung lũng, trung du nơi có phù sa các con sông
bồi đắp, địa hình bằng phẳng, đồng ruộng rộng lớn,… Nhờ tập quán cư trú đó mà nền
sản xuất chủ yếu dân tộc Thái là trồng lúa nước, một số ít bộ phận ở vùng cao
thì làm nương rẫy. Ngoài ra, người Thái còn làm các nghề thủ công trong đó nổi
tiếng nhất là dệt thổ cẩm; bên cạnh đó trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc gia cầm.
So với các dân tộc khác, người Thái được xem là dân tộc có nền kinh tế phát triển
vượt bậc, chỉ đứng sau dân tộc Kinh.
Không chỉ có nền kinh tế phát triển, văn hóa của người Thái
cũng có bề dày truyền thống và phát triển đặc sắc không kém. Ngoài việc có ngôn
ngữ, chữ viết riêng, người Thái còn có văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú
và độc đáo. Ngôi nhà cổ truyền của người Thái là nhà sàn với kiến trúc, kết cấu,
cách bài trí nhà ở và khuôn viên độc đáo, mang bản sắc riêng. Trang phục truyền
thống của cả nam và nữ của người Thái mặc dù có sự khác nhau giữa các nhóm Tày
Mường, Tày Thanh hay Tày Mười, nhưng đều thể hiện sự tinh tế, khéo léo và sự
tinh xảo trong từng hoa văn trang trí trên trang phục. Các món ăn truyền thống
của người Thái cũng rất phong phú, nhiều món ăn trở thành đặc sản khó quên như:
cơm lam, thịt bò giàng, nếp cẩm, ốc khe, canh ột, hò mọc,…
Đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh của người Thái cũng là
một kho tàng quý báu mà rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, nhà sưu tầm,…
khai thác và viết không bao giờ cạn. Người Thái có tín ngưỡng đa thần giáo như
nhiều dân tộc khác, họ thờ nhiều loại thần như thần rừng, thần sấm, thần lúa,…
và nhiều loại ma như: ma nhà, ma rừng,… Trong vòng đời của người Thái bao gồm rất
nhiều lễ tục như: Lễ đặt tên, lễ trưởng thành, lễ cưới,... Trong năm, người
Thái cũng có rất nhiều lễ hội đặc sắc như: tết truyền thống, lễ xuống đồng, lễ
mừng tiếng sấm đầu năm, lễ cầu mưa,…
Kho tàng văn hóa nghệ thuật của người Thái cũng rất đặc sắc
và phong phú: bộ sử thi đồ sộ Lái Khủn Chưởng, các truyện thơ dài “Lai Lông
mương”, “Lai Nộc Yểng”, “Lai ẹt khay”,… hay các làn điệu dân ca như nhuôn, suối,
lăm, khắp,… và các loại dụng cụ nhạc như: khèn, sáo, cồng chiêng, trống.
Tộc người Thái bao gồm các nhóm: Man Thanh, Hàng Tổng, Tày
Mười thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Đây là bộ phận dân cư lớn nhất, đóng vai
trò rất quan trọng trong việc thay đổi bộ mặt miền núi Nghệ An trong lịch sử
cũng như hiện nay là gần 30 vạn cư dân Thái. Đây là nhóm Thái có số dân sống tập
trung lớn vào loại thứ hai của cả nước (sau Sơn La trên 57 vạn).
Người Thái vào Nghệ An khoảng từ thế kỷ XV - XVII do những
nguyên nhân khác nhau: một bộ phận do chuyển cư tự nhiên từ Lào sang, một bộ phận
do chủ trương chuyển cư của Lê Thái Tổ (thế kỷ XV) khi chinh phạt Đèo Cát Hãn từ
Tây Bắc, một bộ phận khác chuyển cư từ Thanh Hoá vào. Có ý kiến khác lại cho rằng
người Thái đến Nghệ An vào khoảng thế kỷ thứ X. Gần đây, theo tài liệu của một
học giả Pháp, người Thái đã có mặt ở vùng này trước thế kỷ VI. Hầu hết các huyện
miền núi và trung du ở Nghệ An đều có cư dân Thái sinh sống: Anh Sơn, Con
Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ,
Thanh Chương và một số xã thuộc huyện đồng bằng Quỳnh Lưu.
Theo tư liệu tiếng Thái ghi chép còn lại và những truyền
thuyết dân gian cho thấy nhóm Thái đầu tiên vào Nghệ An là nhóm có số dân đông
nhất, cư trú chủ yếu ở dọc Quốc lộ 48A thuộc các huyện Quế Phong, Quỳ Châu,
Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp hiện nay. Nhóm cư dân này được gọi là Hàng Tổng, có nơi gọi
là người Tày Mường hay Tày Chiềng. Do di cư từ Tây Bắc vào có tổ chức theo đơn
vị Mường phìa nên vào Nghệ An họ mang theo tên gọi có ý nghĩa tự xưng như là
người Tày Chiềng, Tày Mường, (người ở vùng trung tâm của “Mường phìa”). Nhóm
Tày Mường và Tày Chiềng cư trú sớm nhất so với các nhóm người khác ở miền núi
Nghệ An. Qua các sách vở bằng chữ Thái, nhóm Tày Mường đã lập làng bản ở Con
Cuông và Tương Dương vào thế kỷ 13 - 14. Ở vùng Quỳ Châu cũ, nhóm Tày Mường đã
lập nghiệp đầu tiên ở Mường Tôn (nay là xã Mường Nọc huyện Quế Phong); Kim Tiến
(gồm các xã Châu Bính và Châu Tiến huyện Quỳ Châu ), Khủn Tinh (gồm các xã Châu
Quang, Châu Thái, Châu Lý, Châu Đình huyện Quỳ Hợp).
Để làm sâu hơn, chúng ta có thể xem xét các nghiên cứu gần
đây. Theo Viện Dân tộc học Việt Nam, sự di cư của người Thái không chỉ là kết
quả của chiến tranh mà còn do tìm kiếm đất đai màu mỡ. Các di chỉ như làng Vạc
(Quỳ Hợp) cho thấy công cụ đồng thau từ thế kỷ XI, chứng minh sự hiện diện sớm.
Trong thời Lê, chính sách "đồn điền" đã khuyến khích người Thái định
cư, tạo nên các Mường như Mường Thanh ở Con Cuông.
Dân số người Thái ở Nghệ An hiện khoảng 300.000 người, chiếm
10% dân số tỉnh, với tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%/năm. Họ đã góp phần vào phát triển
khu vực miền Tây, với các dự án thủy lợi như đập Bản Vẽ (Tương Dương), giúp tưới
tiêu cho hàng nghìn ha ruộng.
2.2. Đời Sống Kinh Tế
Và Văn Hóa Vật Thể.
Người Thái là một trong những cư dân biết làm ruộng nước từ
rất sớm. Một số khâu trong kỹ thuật canh tác đã đạt đến trình độ cao. Dấu vết của
văn hóa “hỏa canh thủy nậu” truyền thống vẫn còn tồn tại ở những vùng thung
lũng hẹp. Bổ sung vào nguồn lương thực và canh tác ruộng nước, đồng bào còn
canh tác nương rẫy với lúa cạn và các cây lương thực hoặc hoa màu. Chu kỳ canh
tác loại nương rẫy này thường từ 3 - 4 năm. Ở một loại nương rẫy khác dùng để
trồng bông, dệt vải và đã áp dụng một số biện pháp thâm canh cao. Rau rừng và
các sản phẩm tự nhiên khác như tôm, cá, cua,... là nguồn thức ăn bổ sung quan
trọng. Người Thái trước đây chỉ trồng lúa nếp, thì nay họ đã trồng lúa tẻ nhiều
hơn với các loại giống mới thay thế các giống địa phương... Trong các loài gia
súc thì con trâu được người Thái quý trọng vì ngoài việc dùng làm sức kéo còn
là vật cúng lễ, họ còn có nhiều kinh nghiệm trong việc nuôi cá ruộng và cá ao.
Việc săn bắn chim thú được tiến hành trong lúc nhàn rỗi và bên cạnh việc tăng
nguồn thức ăn, săn bắn còn nhằm mục đích bảo vệ mùa màng,... Các gia đình người
Thái đều biết làm nghề thủ công. Trong đó có các nghề trồng bông dệt vải, dệt
thổ cẩm rất nổi tiếng. Nghề dệt thổ cẩm Thái là nghề cổ truyền, có tính chất
gia truyền và thu nhập do nghề dệt đem lại ở một số gia đình đóng vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế. Cư dân Thái ở vùng Cửa Rào (huyện Tương Dương)
còn biết làm nghề chạm bạc đồ trang sức; Ở vùng Quế Phong, Kỳ Sơn, Tương Dương
nghề đãi vàng khá phát triển. Ngoài ra người Thái còn có các nghề như lấy cánh
kiến ở Tương Dương, nghề làm gốm, nghề rèn, đan lát.
Nét văn hóa tiêu biểu nhất ở người Thái là nhà cửa và trang
phục. Mỗi bản thường có 30 - 40 nóc nhà, cũng có bản trên 100 nóc nhà. Nhà ở được
cấu trúc theo lối mật tập và thường lớn hơn, chắc chắn hơn so với nhà của đồng
bào các dân tộc khác. Xu hướng nhà sàn của người Thái chuyển dần sang nhà đất
đã xuất hiện nhiều hơn trong những năm gần đây. Một số gia đình làm nhà nửa sàn
nửa đất... Quần áo và đồ trang sức của người Thái Nghệ An có một số nét khác biệt
với người Thái Tây Bắc. Đáng chú ý là chiếc váy phụ nữ có cạp trắng hay đỏ,
chân váy được thêu rực rỡ. Áo phụ nữ Thái điển hình cho lối trang phục của các
cư dân ở vùng Đông Nam Á với 3 loại áo: chui đầu, xẻ nách và xẻ ngực. Trong các
dịp lễ hội, đồng bào dân tộc Thái tổ chức nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc với
các trò chơi nhảy sạp, ném còn,... Hoạt động văn nghệ thì đánh trống, cồng
chiêng, khắc luống và hát xuối, nhuôn đối đáp. Tổ chức thi văn nghệ, thi người
đẹp và các môn thể thao dân tộc như kéo co, bắn nỏ,...
Để mở rộng, nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Nghệ An là một
nghệ thuật tinh xảo, với hoa văn tượng trưng cho thiên nhiên như hoa ban, voi,
rồng. Theo báo cáo của Sở Công Thương Nghệ An (2023), nghề này tạo việc làm cho
hơn 5.000 phụ nữ, sản phẩm xuất khẩu sang Thái Lan, Lào. Nhà sàn của người Thái
có cấu trúc 3 tầng: tầng dưới chăn nuôi, tầng giữa sinh hoạt, tầng trên lưu trữ,
với cột gỗ lim bền vững hàng trăm năm.
Ẩm thực với cơm lam (nếp nướng trong ống tre), thịt giàng
(thịt hun khói), canh ột (canh chua lá rừng), phản ánh sự gắn bó với rừng núi.
Các món này được dùng trong lễ hội, như lễ Kin Pang Then (cầu trời).
2.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể.
Về quan hệ xã hội, hôn nhân và gia đình, trong lịch sử khi
di cư vào Nghệ An, người Thái cũng đã mang theo thiết chế xã hội của họ ở Tây Bắc
vào: chúa đất cai quản Mường và cha truyền con nối. Gia đình Thái là gia đình
nhỏ phụ quyền, một vợ một chồng. Trong đó, quyền lực tập trung trong tay người
cha, người chồng. Hôn nhân truyền thống của người Thái nhiều chỗ còn mang tính
chất “mua bán”. Tiền “cá hua” là giá của người con gái mà chàng rể phải trả dưới
hình thức lễ vật, bạc nén và ở rể. Luật tục xử phạt rất nặng đối với các trường
hợp vi phạm sự ổn định của gia đình như ngoại tình, loạn luân,...
Người Thái cho rằng Pò Then là đứng siêu nhân quyết định cuộc
đời và số phận của con người. Then cai quản các thần, các loại ruộng nương, ma
nương, ma tổ tiên. Mỗi bản đều có các ông Mo nắm giữ phần hồn của người dân. Trật
tự gia đình phụ quyền được khẳng định và củng cố bằng hình thức thờ cúng tổ
tiên. Việc thờ cúng Chúa đất, bản mường, tổ tiên,... tổ chức theo hội hè hàng
năm, theo mùa vụ sản xuất và thường ghép với nghi lễ nông nghiệp. Tín ngưỡng có
liên quan đến nông nghiệp rất được quan tâm như tục đón tiếng sấm đầu tiên, tục
cúng hồn lúa và cúng vua ruộng khi gieo mạ, cấy lúa, lễ cơm mới,...
Kho tàng văn học với sử thi "Lái Khủn Chưởng" kể về
anh hùng chống giặc, dài hàng nghìn dòng. Làn điệu Lăm (hát kể chuyện), Khắp
(hát đối đáp) được biểu diễn trong lễ hội. Nhạc cụ cồng chiêng dùng trong lễ
Kin Chiêng Booc May (lễ hội hoa ban), với nhịp điệu vui tươi.
Bảo tồn: Các lớp dạy chữ Thái ở trường học, festival văn hóa
Thái ở Con Cuông, giúp thế hệ trẻ giữ gìn.
Chương 3: Dân Tộc Thổ
– Nét Độc Đáo Của Sự Giao Thoa Và Âm Nhạc Cồng Chiêng.
3.1. Nguồn Gốc và Lịch
Sử Phát Triển.
Bản sắc văn hóa dân tộc Thổ tại Nghệ An được thể hiện rõ nét
qua nghệ thuật cồng chiêng thiêng liêng, nhiều làn điệu dân ca, dân vũ độc đáo
như hát Thuôm, hát ghẹo, hát dặm và các nhạc cụ truyền thống như đàn Thổ, đàn
Tính tang. Đặc biệt, họ còn duy trì tục ngủ mái trong hôn nhân và có tín ngưỡng
đa dạng thờ cúng vạn vật hữu linh, cùng với các phong tục, lễ hội truyền thống.
Dân tộc Thổ tập trung chủ yếu tại các huyện Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp,
Tân Kỳ.
Về nguồn gốc lai lịch, dân tộc Thổ ở Nghệ An do ba bộ phận hợp
thành từ khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, đa số trong đó có nguồn gốc là người
Kinh từ các huyện đồng bằng miền xuôi do hoàn cảnh xã hội di dân lên đồng hoá với
số người Cuối và người Mường từ Thanh Hoá vào. Trước Cách mạng tháng Tám năm
1945 còn có tên là Côn Khạ, Xá, Kẹo, Mọn, Cuối căn cứ theo nguồn gốc từng nhóm
họ mang tính miệt thị nên đồng bào không chấp nhận. Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, được xem như là một nhóm của dân tộc Mường. Từ tháng 12/1973 thể theo đề
nghị và căn cứ vào những phong tục tập quán, sinh hoạt… Tộc danh Thổ được Nhà
nước chính thức công nhận là một dân tộc riêng biệt nằm trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Thổ là một trong những dân tộc sinh sống xen kẽ cùng
hai dân tộc Kinh và Thái trong cộng đồng các dân tộc ở khu vực miền núi tây bắc
Nghệ An, với dân số khoảng 80.000 người, sống tập trung chủ yếu tại các huyện
Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ và thị xã Thái Hoà, định cư từ khoảng thế kỷ XV đến
thế kỷ XVIII.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, người Thổ được xem như là
một nhóm của dân tộc Mường. Từ tháng 12/1973, thể theo đề nghị và căn cứ vào những
phong tục tập quán, sinh hoạt…Tộc danh Thổ được Nhà nước chính thức công nhận
là một dân tộc riêng biệt nằm trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam.
Người Thổ có nhiều dòng họ, trong đó họ Trương là một họ lớn
chiếm số đông trong cộng đồng, tiếp đến là các họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm…
Theo nghiên cứu của Viện Dân tộc học, sự hình thành dân tộc
Thổ là kết quả của quá trình giao thoa văn hóa, với yếu tố Kinh chiếm ưu thế
nhưng hấp thụ phong tục Mường và Cuối. Trong lịch sử, họ đã tham gia các cuộc
kháng chiến, như chống Pháp ở Quỳ Hợp, góp phần vào di sản yêu nước của Nghệ
An. Dân số hiện nay khoảng 80.000 người, với tỷ lệ đô thị hóa thấp, giữ gìn bản
sắc qua cộng đồng làng bản.
3.2. Đời Sống Kinh Tế
Và Văn Hóa Vật Thể.
Đời sống của đồng bào dân tộc Thổ chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp làm nương rẫy, trồng lúa nước và chăn nuôi. Công cụ sản xuất điển hình
là chiếc “cày nại” (cần nọn) gần giống chiếc cày chìa vôi của dân tộc Kinh.
Ngoài ra còn có chiếc gậy chọc lỗ tra hạt “cần nón”, “tắm rói”. Đây là công cụ
điển hình của phương thức canh tác nương rẫy. Ngoài chăn nuôi và sản xuất nông
nghiệp, người Thổ còn rất giỏi săn bắn và đánh bắt cá. Không những giỏi săn bắn
thú rừng, người Thổ còn rất giỏi đánh bắt cá trên các ao hồ, sông suối. Nghề
đánh bắt cá bằng những dụng cụ đánh bắt đặc trưng khá đa dạng như chài lưới,
đăng, xúc... được xem là nghề cổ truyền. Đặc biệt tất cả các dụng cụ dùng trong
công việc đánh bắt cá đều tự tay họ làm lấy thể hiện những nét tinh tế trong
nghề đan lát của mình.
Ngày trước đồng bào Thổ ở nhà sàn và nhà trệt lợp tranh như
người Kinh. Nhà sàn dân tộc Thổ gần giống nhà sàn người Mường. Nay phần lớn đã ở
nhà trệt theo kiểu miền xuôi nhưng cách bố trí trong nhà vẫn theo truyền thống
dân tộc mình.
Khác với người Kinh, người Mường, hôn nhân trong cộng đồng
dân tộc Thổ thường là hôn nhân nội tộc. Chế độ hôn nhân này có thể xem như là một
biểu hiện cao nhất về ý thức củng cố cộng đồng trong điều kiện sống xen kẽ với
các dân tộc khác. Ngày trước còn nhiều hủ tục như ở rể, cưới vợ lẽ... nay đã
bãi bỏ. Hiện tại, một số nhóm họ ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp và Tân Kỳ vẫn còn phong tục
“ngủ mái” - một hình thức kết bạn, đi tìm hiểu người yêu. Mang dấu ấn của sự cộng
cư nhiều thành phần sắc tộc, người Thổ thờ thần. Hầu như trong tất cả mọi làng
người Thổ đều có đền miếu thờ cúng quanh năm các vị thần và thành hoàng làng.
Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của người Thổ khá phong phú, họ
thờ các thần như: thần Đông, thần Tây, Cao Sơn (tức thượng đẳng tối kinh), thần
Cố (chuyên săn bắn),… Trong những dịp tết, lễ hội,… họ tổ chức tế ở nhà làng và
hàng năm tổ chức cúng ma bản một lần vào tháng giêng để cầu mong sự che chở,
bình yên, no đủ. Cúng ma bản là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng lớn nhất của người
Thổ và do già làng làm lễ, trong ngày này, bà con dân bản được nghỉ ngơi, ca
hát và nhảy múa.
Về văn học dân gian, người Thổ cũng có những tác phẩm như:
Mo Mường, Kể Đáng,… và các điệu hát như: Đu đu điềng điềng, Ên ên -Ạc ạc, hát
Thuôm, hát Cuối, hát ghẹo, hát dặm,… với hình thức hát xướng. Tuy nhiên, các
tác phẩm này chịu ảnh hưởng khá lớn từ các dân tộc khác như: Thái, Kinh.
Ở Nghệ An, dân tộc Thổ có dân số lớn thứ 3 trong cộng đồng
các dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn, chỉ đứng sau dân tộc Kinh và Thái. Tuy
nhiên, do đặc điểm cư trú xen kẽ giữa các dân tộc khác nên bản sắc văn hóa của người
Thổ hiện nay chịu ảnh hưởng và bị đồng hóa khá lớn.
Những nét văn hoá của
đồng bào dân tộc Thổ ở Nghệ An.
Đời sống của đồng bào dân tộc Thổ chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp làm nương rẫy, trồng lúa nước và chăn nuôi. Công cụ sản xuất điển hình
là chiếc “ cày nại” (cần nọn) gần giống chiếc cày chìa vôi của dân tộc Kinh.
Ngoài ra còn có chiếc gậy chọc lỗ tra hạt “cần
nón”, “tắm rói”- Đây là công cụ điển hình của phương thức canh tác nương rẫy.
Ngoài chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp, người Thổ còn rất giỏi săn bắn và đánh
bắt cá. Từ xưa họ đã săn bắt tập thể bằng các loại bẫy đơn giản như bẫy sập,
thòng lọng, lưới…có thể bắt được cả những
loại thú lớn như voi, hổ , bò rừng…Kết thúc những buổi săn là việc chia thịt
thú rừng săn được cho tất cả các gia đình trong làng không phân biệt giàu
nghèo. Người Thổ còn rất giỏi đánh bắt cá trên các ao hồ, sông suối. Nghề đánh
bắt cá bằng những dụng cụ đánh bắt đặc trưng khá đa dạng như chài lưới, đăng,
xúc..được xem là nghề cổ truyền. Đặc biệt
tất cả các dụng cụ dùng trong công việc đánh bắt cá đều tự tay họ làm .
Ngày trước đồng bào Thổ ở nhà sàn và nhà đất lợp tranh như
người Kinh. Nhà sàn dân tộc Thổ gần giống nhà sàn người Mường vùng Tây Bắc, Việt
Bắc. Nay phần lớn đã ở nhà đất theo kiểu miền xuôi nhưng cách bố trí trong nhà
vẫn theo truyền thống dân tộc mình. Đồng bào dân tộc Thổ không có tập quán trồng
bông dệt vải…quần áo của họ thường mua bán trao đổi với người Thái và người
Kinh, do vậy y phục dân tộc Thổ không đồng nhất, không có bản sắc riêng. Đàn
ông thường mặc giống người Kinh, phụ nữ có sự khác biệt tuỳ theo từng vùng, có
nơi mặc váy Thái, váy dài có có sọc viền chân váy (vùng Quỳ Hợp, Tân Kỳ và một
số địa phương thuộc Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hoà như ở vùng làng Đóng , làng
Dong..) Có nơi váy của phụ nữ như của người Kinh (vùng Lâm La - Nghĩa Đàn). Áo
của phụ nữ Thổ thường là loại áo 5 thân màu nâu hoặc trắng gần giống với áo của
người Kinh.
Khác với người Kinh, người Mường, hôn nhân trong cộng đồng
dân tộc Thổ thường là hôn nhân nội tộc. Chế độ hôn nhân này có thể xem như là một
biểu hiện cao nhất về ý thức củng cố cộng đồng trong điều kiện sống xen kẽ với
các dân tộc khác. Ngày trước còn nhiều hủ tục như ở rể, cưới vợ lẽ..nay đã bãi
bỏ. Hiện tại, một số nhóm họ dân tộc Thổ ở Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp và Tân Kỳ vẫn còn
phong tục “ngủ mái”- Một hình thức kết bạn, đi tìm hiểu người yêu. Thường khi
người con trai con gái đến tuổi cập kê, được phép của gia đình cô gái , người
con trai đến “ngủ mái” tại nhà cô gái - người mình chọn để tìm hiểu. Trong đêm
“ngủ mái”, trai gái có quyền tự do tâm sự với nhau một cách lành mạnh. Tục lệ
lên án và có những hình phạt nặng các hành vi dung tục mờ ám trong đêm “ngủ
mái”. Sau đêm “ngủ mái” nếu người con trai và người con gái đồng ý lấy nhau thì
bàn các bước thực hiện những nghi thức bắt buộc như nhờ người làm mai mối (ông
Pin) sau đó là những cuộc thăm hỏi thường xuyên rồi dạm hỏi và xin cưới…
Mang dấu ấn của sự cộng cư nhiều thành phần sắc tộc, người
Thổ thờ thần. Hầu như trong tất cả mọi làng người Thổ đều có đền miếu thờ cúng
quanh năm các vị thần và thành hoàng
làng. Có làng thờ tới 15 vị thần. Mỗi nghề lại thờ một vị thần với những hình
thức nghi lễ riêng. Những người làm nghề tôn giáo - các bậc sư sãi - có vị vị
trí khá cao trong cộng đồng. Quan niệm của đồng bào cho rằng vạn vật đều có
linh hồn. Khi có người ốm, người ta cúng “ vía mụ bà” và buộc “ vòng vía” cho bệnh
nhân. Thường trong các buổi cúng, thầy cúng dùng tiếng Cuối để khấn. Người Thổ
rất coi trọng lễ xuống đồng ( cầu móng)
đầu năm mới, lễ cúng cơm mới, lễ mừng nhà mới…với những nghi thức trang
trọng. Hàng năm vào dịp lễ xuống đồng, làng chọn một người đàn ông khoẻ mạnh
làm ăn khấm khá, nhẹ vía để làm người phát nhát dao đầu tiên và cũng là người
chọc lỗ tra hạt giống đầu tiên (gọi là chủ giống).
Để mở rộng, nền kinh tế của người Thổ kết hợp giữa nương rẫy
và lúa nước, với chu kỳ canh tác 3-5 năm để đất phục hồi. Săn bắn tập thể với bẫy
sập, chia thịt công bằng, phản ánh tinh thần cộng đồng. Nghề đan lát tinh xảo,
sản phẩm như giỏ, đăng cá, được bán ở chợ địa phương.
Nhà ở chuyển từ sàn sang trệt, nhưng giữ bố trí truyền thống:
bếp lửa trung tâm, bàn thờ thần ở góc. Trang phục phụ nữ với váy dài viền sọc,
áo 5 thân, chịu ảnh hưởng Thái nhưng giản dị hơn. Tục ngủ mái là hình thức tìm
hiểu lành mạnh, với quy định nghiêm ngặt để tránh lạm dụng, phản ánh giá trị đạo
đức.
3.3. Văn Hóa Phi Vật
Thể – Kho Tàng Âm Nhạc Cồng Chiêng Và Hát Thuôm.
Cùng với những nhạc cụ truyền thống như sáo, khèn, người Thổ
còn có những nhạc cụ của dân tộc mình như cây đàn Thổ (gần giống cây đàn đáy của
người Kinh). Đặc biệt phải kể đến cây đàn Tính tang - loại đàn được làm từ một ống
tre có hai dây bằng chính thanh cật tre tước ra và căng ngay trên phần mặt có cữ
tăng giảm âm vực, sử dụng bằng cách dùng một thanh tre nhỏ có bọc vải một đầu
gõ lên, cho âm thanh rất hay. Từ nhạc cụ đơn giản này, hiện tại một số nghệ
nhân dân tộc Thổ tại Quỳ Hợp đã cải tiến thành một giàn đàn gồm 8 ống dài ngắn
theo cung bậc với cách sử dụng như với loại đàn Tam thập lục …hầu như trong mọi
gia đình, dòng họ của đồng bào Thổ ở Nghệ An đều có những dàn cồng chiêng được
các thế hệ lưu giữ với cách sử dụng của các nghệ nhân rất độc đáo, thể hiện qua
những âm hưởng tiết tấu và những vũ điệu sinh động diễn tả những sinh hoạt
trong đời sống hàng ngày.
Nghệ thuật cồng chiêng của người Thổ là một di sản thiêng
liêng, được sử dụng trong các dịp lễ hội như cưới hỏi, mừng nhà mới, lễ cầu
mùa, đám tang, và mừng năm mới. Theo nghiên cứu từ Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam, cồng chiêng Thổ thường gồm 5-7 chiếc, với cách chơi độc đáo: một người
chơi nhiều chiếc, tạo nhịp điệu phức tạp. Ở làng Bui, Nghĩa Mai (Nghĩa Đàn), hội
cồng chiêng được tổ chức hàng năm vào mùa Xuân, với tiếng chiêng vang vọng, kết
hợp múa sạp, thu hút hàng trăm người tham gia. Tại Thái Hòa, giao lưu cồng
chiêng hát đối là sự kiện văn hóa nổi bật, với màn cồng tư hát giao duyên, vũ
điệu kết đoàn. Cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà còn là vật kết nối tâm linh,
thể hiện tâm tư cộng đồng.
Hát Thuôm là làn điệu dân ca độc đáo, thường hát đối đáp, ghẹo
tình, với lời thơ mộc mạc, giai điệu da diết. Bên cạnh đó, hát ghẹo, hát dặm,
hát cuối mang ảnh hưởng Kinh nhưng được biến tấu với nhịp cồng chiêng. Ở Quỳ Hợp,
các câu lạc bộ hát Thuôm hoạt động, dạy cho thanh niên. Theo báo Thanh Hóa (có
giao thoa với Nghệ An), cồng chiêng trong đời sống tâm linh Thổ dùng trong mọi
dịp, từ vui đến buồn.
Tín ngưỡng đa dạng: Thờ vạn vật hữu linh, tổ tiên, thần nghề
nghiệp. Lễ cúng ma bản tháng Giêng là lớn nhất, với ca hát, nhảy múa. Bảo tồn:
Thành lập câu lạc bộ cồng chiêng ở Nghĩa Đàn, phục dựng nhà cổ, dạy dân ca ở
trường. Theo Sở Văn hóa Nghệ An, có hơn 20 câu lạc bộ, với nỗ lực xã hội hóa
mua sắm cồng chiêng.
Hoạt động bảo tồn và phát huy:
Thành lập câu lạc bộ: Các câu lạc bộ văn hóa dân gian, cồng
chiêng đã được thành lập để sưu tầm, phát triển và giao lưu văn hóa.
Phục dựng nhà cổ: Phục dựng nhà sàn cổ của người Thổ tại
khuôn viên Nhà Văn hóa cộng đồng để lưu giữ giá trị truyền thống cho thế hệ
sau.
Khuyến khích thế hệ trẻ: Nhiều địa phương tổ chức các chương
trình thi văn nghệ, đưa dân ca vào trường học để truyền dạy cho thế hệ trẻ.
Hỗ trợ văn hóa: Vận động người dân đóng góp, huy động vốn xã
hội hóa để mua sắm cồng chiêng và phục hồi các nghề thủ công truyền thống như dệt
võng gai.
Vì bài này rất
dài nên Điện bà Tây Ninh sẽ chia làm 2 bài. Phần 2 sẽ tiếp nối với :
Chương 4: Dân
Tộc Khơ Mú – Tinh Thần Kiên Cường Nơi Rẻo Cao Với Múa Au Eo Và Lễ Tết Cơm Mới.
Chương 5: Dân
Tộc Mông – Sức Sống Vượt Lên Đại Ngàn Với Tiếng Khèn Và Lễ Giỗ Họ.
Chương 6: Dân
Tộc Ơ Đu – Tấm Thảm Văn Hóa Đang Dần Phai Màu Với Lễ Chăm Phtrong Và Nỗ Lực Bảo
Tồn Ngôn Ngữ.
Tổng Kết: Sức
Mạnh Từ Sự Hòa Quyện và Tiềm Năng Phát Triển Bền Vững.
Xin cảm ơn
quý độc giả đã kiên nhẫn theo dõi. Thân ái. Điện bà Tây Ninh.
HẾT BÀI 9. 1
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét