TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 4.

7/04/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 4.

3. NGUYÊN LÝ CỦA VIỆC THU DẪN KHÍ.

a/LÝ THUYẾT VỀ TRƯỜNG KHÍ.

"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,

Vũ khí hung tàn có thể ngăn.

Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,

Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.

Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,

Ðời nào cũng có bậc anh minh.

Mỗi khi sông núi vang lời gọi,

Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".

Cố GS-TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG trong cuốn TÍCH HỢP ÐA VĂN HÓA ÐÔNG TÂY CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC TƯƠNG LAI cũng đã cảnh báo về cuộc chiến này.Trong cuộc chiến tranh Tâm linh này,vũ khí nguyên tử chỉ là những trò chơi trẻ con và sự tàn phá không chỉ tính là một vài Ðất nước mà là cả một nền Văn minh của Nhân loại.Cái thuộc tính xu cát tỵ hung của con người, sẽ dần dần đẩy Văn minh Nhân loại vào cuộc chiến tự hủy diệt và bắt đầu một nền Văn minh mới được thành lập dưới THỜI ÐẠI DI LẶC THÁNH ÐỨC.

Con người có khả năng làm những điều tốt đẹp nhất cho đồng loại và đồng thời cũng có thể làm những điều tồi tệ nhất mà không có một giới hạn nào có thể cản ngăn.Ðó cũng chính là hai mặt Âm Dương đối lập nhưng cùng tồn tại song song.Cứu cánh cho việc đó chính là công việc của các Tôn giáo đang thực hiện là hướng con người vào CHÂN- THIỆN- MỸ.dienbatn xin được trình bày vấn đề này khi có dịp thích hợp.

Trở lại vấn đề Phong thủy.Thực ra nói đến thuật Phong thủy thực ra cũng chỉ là một bộ môn của nền Văn minh tối cổ đã bị hủy diệt do chính con người.

Cái gốc của Phong thủy cũng như tất cả các vấn đề khác của TRIẾT HỌC ÐÔNG PHƯƠNG như KINH DỊCH,Y THUẬT,TỬ VI LÝ SỐ,BÁT TỰ HÀ LẠC,THÁI ẤT,ÐỘN GIÁP,TỬ BÌNH vv đều dựa trên cơ sở chặt chẽ của THUYẾT ÂM DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Ðây chính là một siêu công thức Vũ trụ,có thể lý giải những vấn đề từ vi mô đến Vĩ mô và đồng thời có khả năng dự báo.Ðây cũng chính là công thức mơ ước của các nhà Khoa học hiện đại.Tuy nhiên, đây cũng chính là công thức của Tâm linh,của những chiều không gian khác.Thuyết ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH có thể lý giải tuyệt vời những vấn đề của Khoa học hiện đại, nhưng Khoa học hiện đại không thể lý giải những vấn đề về Tâm linh.Khoa học của Không gian ba chiều không thể lý giải được những vấn ðề của Không gian nhiều hơn ba chiều;Nhưng Tri thức của không gian nhiều hơn ba chiều lại có thể lý giải được những vấn đề của Không gian ba chiều.Nói theo Toán học thì Không gian ba chiều nằm trong Tập của không gian đa chiều.Cái tối ưu là sự kết hợp giữa Tâm linh và Khoa học sẽ làm cho con người tiến rất mau vào biển tri thức đã có sẵn.

Bây giờ ta trở lại những vấn đề đơn giản hơn của những thuật Phong thủy cụ thể.

Trong Phong thủy,cái quan trọng nhất vẫn là vấn đề trường Khí.Khí ở đây không phải là Không khí hay một chất khí cụ thể nào cả.Ở nước ngoài người ta dịch Khí là SHA,hay Qi,tuy nhiên cũng chưa gọi đúng bản chất của nó.Thực ra ,nói theo từ của Khoa học,KHÍ là một dạng của Năng lượng,có vô số dạng thù hình khác nhau ,tùy theo điều kiện cụ thể.Trong Phong thủy người ta nói :"Tụ là hình- Tán là Khí" hay "Nhất bổn tán vạn thù- Vạn thù quy nhất bổn". Ðó chính là những khái niệm về bản chất của Khí.Theo Ðịnh luật bảo toàn năng lượng đã khái quát : "NĂNG LƯỢNG KHÔNG TỰ NHIÊN SINH RA VÀ CŨNG KHÔNG TỰ NHIÊN MẤT ÐI,NĂNG LƯỢNG CHỈ BIẾN ÐỔI TỪ DẠNG NÀY SANG DẠNG KHÁC".Các dạng thù hình của Khí thật là muôn hình vạn trạng nhưng bản chất của nó vẫn là dạng Năng lượng.Khí cũng không thoát khỏi quy luật của siêu công thức ÂM DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Tức là Khí cũng có những tính chất âm dương - Ngũ hành cụ thể cho từng dạng thù hình.Những tính chất này tùy theo tương sinh hay tương khắc mà tác động lên các vật thể khác mà đem lại sự tốt hay xấu,thuận hay không thuận cho sự vận động của những vật thể khác.Nhiệm vụ của thuật Phong thủy là tìm ra điều kiện tối ưu cho cuộc sống của con người phù hợp với môi trường sống của mình.Tất cả các Trường phái Phong thủy đều phải tuân theo quy luật đó.

Kinh dịch viết " Tinh Khí là vật " , " Thiên địa yên ấm, vạn vật nảy sinh " . Hai câu đó nói rằng nguyên tố cơ bản của vũ trụ là Khí. Khí ở trạng thái hỗ độn thì trời đất chưa sinh. Khí trong, nhẹ nổi lên thành trời, khí nặng, đục chìm xuống thành đất. Trời bắt đầu phân thành dương trên , âm dưới . Khi dương Khí ở trên giao hòa với Khí Âm ở dưới thì sinh thành vạn vật. Linh Khí giao nhau sinh ra con người và vạn vật. Cho nên Khí ở khắp nơi , tồn tại mọi lúc, tạo thành vạn vật. Chúng ta cũng cần phải hiểu rằng : Khí này có bản chất bao quát hơn khí mà chúng ta thở hàng ngày. Khí mà chúng ta thở hàng ngày chỉ là một dạng thù hình của Khí mà chúng ta đang xét. Các cụ xưa có câu : " Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất bổn " - Đó chính là tính chất đặc trưng của KHÍ mà chúng ta đang xem xét.

Như vậy đến đây bắt buộc chúng ta cần phải có một định nghĩa cụ thể về KHÍ. Trong tất cả các sách từ trước đến nay, Khí không được định nghĩa cụ thể mà chỉ nêu ra những tính chất cụ thể của khí như :

" Theo sách cổ để lại “Khí” gặp gió thì tán, nghĩa là “Khí” nhẹ, lẫn vào không khí nên bị gió cuốn đi. Nếu gió nhẹ vừa phải sẽ có tác dụng dẫn khí lưu thông, được coi là tốt. Còn gió mạnh làm tán khí, mất khí lại là không tốt.

Sách cũng ghi “Khí” gặp nước thì dừng. Thường thì khí trong tự nhiên vận động dựa theo sức mang của không khí, khi gặp vật cản sẽ đổi hướng theo dòng khí. Khí gặp nước thì dừng nghĩa là nước có khả năng giữ khí lại , khái niệm chuyên môn của phong thuỷ là “Tụ khí”. Hay nói một cách mang tính hình tượng hơn là nước có khả năng hút khí, hòa tan khí. Nước chảy chậm rãi, có chỗ dừng là rất tốt vì mang được khí tươi mới đến và lưu lại ở đó. Đó là nguyên nhân để các chuyên gia phong thuỷ nhìn dòng nước chảy để dự đoán khí vận trong lòng đất mà từ chuyên môn gọi là “Long mạch”. Tính chất của khí sẽ khác nhau tuỳ theo sự tụ thuỷ, sức chảy mạnh yếu trong lưu thông của dòng nước…..

Như vậy trong mô hình cơ học chất lưu đề nghị để nghiên cứu sự vận động, “Khí” được mô phỏng như là một chất lưu có các đặc tính sau:

* Có tính tụ hoặc tán.

* Có khối lượng quán tính nhỏ, dễ bị gió cuốn đi

* Có thể coi như độ nhớt động học thấp

* Có thể coi như có tính dính ướt mạnh với các vật thể có độ ẩm và nhiệt độ phù hợp, đặc biệt là vật thể sống, sinh vật.

“Khí” cần lưu động nhẹ nhàng, bình ổn mới có tác dụng tương tác tốt. Cũng giống như với các chất lưu khác, dòng chảy tầng bình ổn là dòng chảy lý tưởng. được coi là mang sinh khí đến.

Dòng chảy hỗn tạp, chảy rối, dòng xoáy hay các dạng dòng chảy hẹp, vòi phun, dòng xung kích đều không tốt, gây nguy hiểm.

Chúng ta có thể hình dung tính chất thủy khí động học của “Khí phong thủy” gần giống của nước, trừ tác dụng của trọng lực, để dễ dàng cho việc khảo sát. Dòng nước chảy siết, nước xoáy mạnh cũng tạo ra xung khí, tạp khí. Nếu dòng nước bẩn thỉu, hôi hám thì khí cũng sẽ bị uế tạp, không còn mang được năng lượng sống cho con người nữa." ( Thạc sỹ Hà Mạnh Hùng ).

 Theo thiển ý của dienbatn tất cả những tính chất đã nêu ở trên chỉ là những dạng thù hình cụ thể của Khí mà chưa đi vào đúng bản chất của Khí. Với câu : " Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất bổn " - Đó chính là tính chất đặc trưng của KHÍ mà chúng ta đang xem xét.

ĐỊNH NGHĨA KHÍ VÀ TRƯỜNG KHÍ CỦA DIENBATN :

 Khí trong Phong thủy là một dạng năng lượng cơ bản để sinh ra mọi hình thức thù hình của vũ trụ và có quy luật vận động tuân theo quy luật vận động của Vũ trụ. Một tập hợp các dòng năng lượng sẽ tạo nên một Trường năng lượng có mật độ năng lượng thay đổi cả về độ lớn và chiều chuyển động. Trường năng lượng là dạng tồn tại của vật chất mà các tương tác cơ bản được thực hiện thông qua nó. Năng lượng tạo ra trường năng lượng này không phải do các hạt cơ bản như điện tử, proton... mà là những hạt có cấu trúc từ các quark với điện tích phân số. Chúng vẫn chưa được tìm ra. Tuy chưa tìm ra bản chất của chúng nhưng bằng nhiều cách, chúng ta vẫn có thể đo được chúng . Trong một không gian vật lý, có thể tồn tại nhiều trường năng lượng và các trường năng lượng này đều tuân theo Định luật bảo toàn năng lượng. Đối với thuyết Tương đối Einstein, chúng ta có thể vắn tắt như sau: Mỗi hệ quy chiếu quán tính đều tương đương nhau và vận tốc ánh sáng là tối đa. Trong khuôn khổ lý thuyết Einstein, đó là tiền đề. Nên trong một hệ tiền đề khác, thế giới khác rất có thể tồn tại vật chất nào đó có vận tốc nhanh hơn ánh sáng. Ví dụ: Chúng ta có một Hạt có khối lượng ảo thì tự nhiên nó chuyển động nhanh hơn ánh sáng. Trường năng lượng của chúng ta đang xem xét có chiều không gian >= 3. Tùy theo số chiều không gian càng lớn thì tính chất của trường năng lượng này càng tinh khiết ( nhẹ, trong ). Quy luật vận động của chiều không gian lớn bao gồm toàn bộ quy luật của chiều không gian nhỏ và quy luật vận động của chiều không gian nhỏ không bao gồm toàn bộ quy luật vận động của chiều không gian lớn hơn. Trong các chiều không gian > 3 thì không còn tồn tại khái niêm không gian, thời gian và vận tốc ánh sáng không phải là lớn nhất. Thời gian trong các chiều không gian lớn hơn 3 có thể co lại hay kéo dài, có thể chồng quá khứ và tương lai lên với nhau và có thể thắng được lực hấp dẫn bằng ý chí của mình. Như vậy tại đó không có khái niệm về Thời gian.

Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, tất cả mọi dạng vật chất mà chúng ta có thể nhận biết đều là những dạng thù hình của KHÍ - Trường năng lượng đặc biệt tuân theo quy luật Âm - Dương , Ngũ hành.

Octonion và lý thuyết hạt cơ bản của GS.TSNguyễn Hoàng Phương.

" Vũ trụ là một hệ thống sinh học cần phải có 2 phần không thể thiếu được :

1/ Phần cứng : Vật lý học với tính chất duy lý của nó .

2/ Phần mềm : Kinh dịch với tính Minh triết của nó . Ý đồ thống nhất Đông - Tây của nhà Phật là không phải loại trừ một trong hai phía khoa học trên mà là tìm cách gộp cả hai phía trong một sơ đồ chung " 

Một vật là một Thái cực nên thái cực chia thành âm dương. Do vậy mọi vật đều do hai khí âm - dương cấu thành. Sự đối lập và thống nhất của Khí biểu hiện thành trạng thái vật chất . Âm - dương đối lập và thống nhất là quy luật vận động của vũ trụ , nhưng giữa âm khí và dương khí không phải lúc nào cũng cân bằng nhau. Chúng có thể biểu hiện nhiều hơn hoặc ít hơn, hoặc biểu hiện thành bao dung nhau. 

Âm - dương chuyển hóa gọi là biến. Cực dương sinh âm , cực âm sinh dương. Âm dương vận hành gọi là thông - Cùng tắc biến - Biến tắc thông. Âm - dương không biến , không thông thì trời đất không tồn tại .  Sự biến hóa của âm - dương trên gọi là Đạo, dưới gọi là Khí . Nói về vạn vật là nói về Đạo, nói về hình của vạn vật là nói về Khí. " Nhất âm - Nhất dương chi vi Đạo " là cái lý này. Trong Phong thủy, phần mộ gọi là âm trạch, nhà cửa gọi là dương trạch. Địa lý Phong thủy lấy âm - dương trạch làm đối tượng nghiên cứu. Tất nhiên là chúng ta thực hiện trong hệ tọa độ Đề các - Tức là trong không gian 3 chiều. Tuy nhiên nhiều trường hợp , chúng ta vẫn cần phải có kiến thức về những chiều không gian >3 mới giải quyết chính xác công việc nghiên cứu. Các phương vị trong không gian đều là âm - dương đối lập - thống nhất. Hậu thiên Bát quái chia thành 24 sơn và hướng . Sơn và hướng lại được chia thành âm và dương, giới hạn của chúng rất rõ không thể lẫn lộn . Sự vận hành của Khí cũng chia ra âm - Dương , âm vận hành nghịch, dương vận hành thuận.  Tọa Sơn và lập hướng đều phải căn cứ theo sự vượng, suy của hai khí âm - dương.

Trong vũ trụ này, cái duy nhất không biến đổi - Chính là sự biến đổi. Sự biến đổi của Khí là vĩnh hằng, không ngừng nghỉ. Vòng chu kỳ : Trường sinh - Mộc dục - Quan đới - Lâm quan - Đế vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng cứ luân chuyển không ngừng không nghỉ. Trong Địa lý thì thất sắc ( 7 màu ), cửu Khí ( 9 khí ) biến đổi tuần hoàn trong sự dịch chuyển của thời gian , biến đổi tuần hoàn theo mùa, biến đổi tuần hoàn trong sự thuận nghịch của Âm - Dương. làm Phong thủy chính là phương pháp tìm cách xu cát - Tỵ hung. Chúng ta nghiên cứu Phong thủy và áp dụng vào cuộc sống không phải là tìm vũ khí chống lại Trời, chống lại quy luật vận động của vũ trụ mà chính là dựa trên sự hiểu biết của mình để hòa đồng cùng quy luật vận động của vũ trụ, thuận theo quy luật vận động của vũ trụ ngõ hầu tìm cho mình một cuộc sống an vui , hài hòa.

Quan hệ giữa những trường năng lượng đó với con người biểu thị mối quan hệ Thiên _ Địa - Nhân là nội dung của Địa động học. Việc xuất hiện các sóng ác xạ liên quan mật thiết tới quá trình tự cân bằng năng lượng , cân bằng sinh thái.

" “Trên hành tinh của chúng ta sự sống được bắt đầu và duy trì bởi các bức xạ, đồng thời cũng bị hủy diệt bởi những sự dao động mất cân đối của nó”.

Cũng như Y học, ngoài nền Y học chính thống ra còn một nền Y học thay thế, Y tế dự phòng (alternative medicine) song song tồn tại với nó. Khoa học tự nhiên cũng có nhiều vấn đề chưa giải thích được, nhưng đại đa số quần chúng bình dân vẫn xem chúng như gắn liền với cuộc sống của họ. Là những nhà khoa học chân chính, chúng ta không nên có một thái độ thiếu khoa học là bác bỏ thẳng thừng những điều mà chính chúng ta chưa thể lý giải được. Trên tinh thần đó, một sự tiếp cận mới gần đây khuyến cáo ta cần phải quan tâm đến việc mỗi người đều có liên quan mật thiết đến nơi ở của mình. Và phải làm thế nào để có thể thuần hoá các địa điểm trên đang bị chi phối bởi những sức mạnh hiện diện một cách vô hình: các trường hay bức xạ khác nhau, năng lượng, khí hậu sinh học, thuỷ thổ… Đó là một thách thức mới đặt ra với những người làm công tác khoa học, nhất là những người chuyên nghiên cứu môn Năng lượng Cảm xạ học. Cần phải đặc biệt quan tâm đến những hiện tượng xảy ra xung quanh nơi ở của bạn vì chúng có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của bạn. Điều cần thiết là phải làm thế nào để có một sự đồng nhất giữa sóng rung động của bạn với sóng rung động của chính nơi bạn ở. Đó là điều thiết yếu cho một sự hài hòa và thích hợp.

Ngày nay ta biết rằng vũ trụ là một hệ thống gồm các yếu tố sống động tùy thuộc vào nhau, không thể tách rời ra, luôn luôn chuyển động, vừa là yếu tố vật chất vừa là ý thức. Từ khái niệm năng lượng, nhiều nhà nghiên cứu đưa thêm khái niệm tinh thần, tư tưởng cũng có liên quan đến thế giới vật chất. Tính thống nhất của vũ trụ theo vật lý học hiện đại cũng gần với quan điểm của Phật giáo về cái Bản thể, cái Một, cái Duy nhất, phù hợp với quan điểm Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của phương Đông. Sự khám phá ra tính thống nhất, tính tổng thể dạng toàn đồ (hologram) của vũ trụ có thể coi là 1 bước ngoặt lớn về nhận thức thế giới quanh ta.

Trên bề mặt của trái đất có một từ trường mà chiều của nó được xác định bằng la bàn.                   

Từ trường của trái đất là cái hiện hữu và luôn vận động nghĩa là luôn cùng một hướng và cùng một giá trị ở một nơi định sẵn. Người ta xác định địa từ trường qua các toạ độ của nó.

Vả lại, các đường giới hạn bắt buộc của từ trường trái đất không nằm trên mặt đất. Chúng chui sâu trong lòng đất theo hướng của vùng có mật độ từ tính cao ở cực Bắc. Góc hợp thành giữa đường ngang và trục của kim lúc dao động tự do là vào khoảng 65o trong vùng: đó là độ nghiêng. Ta dễ dàng tìm thấy hướng Bắc qua việc xác định hướng của bóng một sợi dây đúng lúc 12 giờ trưa. La bàn chỉ hướng Bắc từ tính tạo với hướng Bắc địa lý một góc nhỏ gọi là độ lệch – thay đổi từ từ theo năm tháng và khác biệt theo từng vùng trên bán cầu.

Các tọa độ này sẽ thay đổi theo địa điểm và nếu ta thể hiện trên bản đồ từ tính các đường cong nối các điểm khác nhau mà một trong các toạ độ này có cùng một trị số với nhau. Chúng biểu hiện các bất thường của địa phương liên hệ với các đặc tính sinh học của lòng đất. Nơi đó được sử dụng cho  các đo lường từ tính để thăm dò địa vật lý. Nhà Địa Sinh học dùng một máy địa từ trường để phát hiện  các dị thường của từ trường bên trong một ngôi nhà, cơ quan.

Thông thường, cường độ từ trường của các điểm bình thường trên mặt đất cỡ 0,5 miligram. Gaus là đơn vị đo cường độ từ trường, 1 gaus = 1.000 miligram.

Trong thời gian sóng điện từ lan toả, một số sóng chạy dài trên đất, số khác tự biến mất, số khác thì phản chiếu vào lòng đất ngang tầm của tầng điện ly (tầng ion hoá học).

Một số sóng điện từ khi lướt qua trên mặt đất thì một phần do đất hấp thụ nơi mà có các dòng điện tự tạo ra ở một độ sâu nào đó, dòng điện này càng xuống sâu càng giảm. Các sóng dài và các sóng có tần số yếu dễ dàng xuyên thấu do vậy các dòng điện trên bề mặt đặc biệt yếu vì năng lượng được phân bố ở độ sâu.

          Đối với sóng ngắn, trái lại, các dòng điện trên mặt sẽ cao hơn và ảnh hưởng của nó gia tăng theo tần số.

          Dòng điện cũng gia tăng với tính dẫn điện từ của đất. Đất có tính dẫn điện cao là đất ẩm ướt ở trên mặt, do đó dòng điện rung động với một cường độ mạnh hơn.

          Trong một số trường hợp, chúng có thể có tác động nguy hại cho đời sống.

Hàng ngày vào bất cứ lúc nào, cơ thể ta bị các bức xạ chiếu vào, ngay cả lúc bình thường ta không nhận ra. Phần lớn các bức xạ đến với chúng ta từ khoảng ngoài không gian, mặt trời, các vì sao.

Một số bức xạ khác được hình thành một cách tự nhiên trên bề mặt của trái đất. Chúng đến phần lớn từ sự phóng xạ của các khối đá trong lòng đất ví dụ như uranium.

Các bức xạ là một phương tiện vận chuyển cho năng lượng tại một điểm: từ chỗ phát đến chỗ thu. Thường chúng di chuyển theo đường thẳng dưới dạng bức xạ.

Các bức xạ vô hình là những sóng vô tuyến, bức xạ hồng ngoại, cực tím, tia X, tia gamma, tất cả những sóng này truyền qua không gian với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng tức 300.000km/giây.

Ngày nay,  Các nhà Địa vật lý nghiên cứu cấu tạo của địa cầu thấy rằng mọi sự bất thường trong cấu tạo địa chất đều thường dẫn đến một sự xáo trộn ở bề mặt trái đất, tác động đến con người.  Các nhà Thiên văn vật lý đã chứng minh thiên hà giống như sao chổi từ tính, khi di chuyển trong không  trung tạo ra các hiện tượng bão từ, địên từ cảm ứng trong lòng đất , đại dương và trong không gian. Các Bác sĩ Y năng lượng đã tìm thấy trong khoa Địa sinh học một lời giải đáp cho một số tác nhân sinh bệnh.  Thông thường, khi địa từ trường thay đổi, môi trường sống bị tác động, con người dễ bị mất quân bình và kéo theo tật bệnh. Nguyên nhân này đôi lúc mang vẻ bí ẩn vì mấy ai nghĩ đến những hệ thống điện từ trường chằng chịt có thể làm xáo trộn cuộc sống do các tác động cộng hưởng của trường điện từ từ bên ngoài với các dòng điện trong cơ thể con người, nhất là khi dùng điện không đúng cách có thể gây nguy hại từ mức độ nhẹ như : đau đầu, mất ngủ đến sinh bệnh nặng như: căng thẳng, suy nhược, hen suyễn, ung thư . . . chưa kể đến những xáo trộn trong cuộc sống lứa đôi dẫn đến ly hôn.

Và con người nhận ra rằng: muốn sống thỏai mái, khỏe mạnh thì phải sống trong một môi trường vừa có tính chất hóa học hợp lý, vừa có tính chất vật lý phù hợp.

MẠNG LƯỚI HARTMAN.

Địa sinh học hiện đại bắt đầu có vào những năm 50 nhờ Ernst Hartman, Bác sĩ người Đức của trường đại học Heidelberg.

Bs Hartman đã phát hiện lại rằng tổ tiên chúng ta từ lâu rồi, chắc chắn là từ thời Cổ Đại đã biết trái đất bị bao phủ với kiểu nào đó bởi một lưới sóng điện từ trường phát ra đồng thời từ vũ trụ và từ đất Và bao phủ đồng đều khắp quả đất, (ngoại trừ một vài vùng như Hi-mã-lạp-sơn, thì trục bắc – nam của nó giãn xa hơn). Từ đất, lưới sóng này được gọi là mạng lưới Hartman hay mạng lưới H. Vậy những đặc trưng chính xác của mạng lưới này là gì?

 

Trước tiên, mạng lưới này gồm những lực đạo (ligne de force) hướng về bốn phương trời. Các lực đạo nằm thẳng góc với nhau tạo thành một tấm lưới mà mỗi ô lưới (hình chữ nhật) có kích thước chừng 2m theo chiều Bắc-Nam và 2,5m theo chiều Đông-Tây. Bề dày của các lực đạo này là 21cm, chúng dựng đứng thẳng góc với bề mặt của trái đất tạo thành những bức tường vô hình cao luc-daovà vượt qua tất cả các chướng ngại trên mặt đất, thế đất, công thự. Thực tế, bức xạ của lòng đất là bức xạ gần như tự nhiên dâng lên từ đất dưới hình dạng của những bức tường mịn màng và không thể thấy được, bề dày độ 21 cm, lên cao thật cao, ngay cả ở tầng thứ 18 của một toà nhà cao tầng, người ta còn có thể xác định vị trí của chúng (nhưng lưu ý, càng lên cao, thì vùng trung tính càng thu hẹp lại, vì vậy càng ở gần mặt đất càng tốt). Cần nói thêm rằng, càng có nhiều lớp thẳng đứng, thì mạng lưới Hartman càng có nhiều lớp nằm ngang, chúng khởi động vào khoảng 60 cm từ mặt đất.

Sự cấu tạo của thế đất, sự hiện diện của dòng nước, các phay địa chất, các dây cáp, các khối từ trường quan trọng, các bức xạ hay mọi dị thường có thể biến đổi sự đồng thể hoá (déshomogénéisation) của khu vực, kể cả mạng lưới Hartman: các lực đạo bị lệch và các ô chữ nhật có thể thay đổi theo chiều dài từ 2 đến 3,5m và chiều rộng thay đổi từ 1,8m đến 2,5 m. Theo nguyên tắc, tại một vùng trung tính, mạng lưới toàn cầu là một mạng lưới chặt chẽ giữa các mắc, trừ trường hợp nếu có những sóng nguy hại khác hiện ra theo chiều thẳng đứng. Nhưng địa từ trường của lực đạo của mạng Hartman giao nhau tạo thành các gút địa sinh bệnh. Tính chung, cứ 4 điểm cho mỗi hình chữ nhật. Theo chiều thẳng đứng của các nút địa sinh bệnh này xuất hiện một sóng độc hại vừa gây rối loạn vừa mang tính chất lâu dài.

Người Trung Hoa cổ gọi chúng là”các lối đi của ma quỷ”. Qua hình dưới đây, bạn có thể ghi nhận tại những giao điểm của những lực đạo của mạng lưới là những gút được gọi là gút Hartman, những gút được các nhà địa sinh học gọi là “những điểm gây bệnh từ lòng đất” (géopathogènes) Chúng hợp thành những hình vuông với cạnh xấp xỉ là 21 cm, đó là nơi có yếu tố nguy hại cao nhất. Như thế có nghĩa là những nơi đó có khả năng tạo thuận lợi cho bệnh phát sinh hay bệnh tiến triển. Những nơi giao nhau của lực đạo này được gọi là gút lưới, còn được gọi là gút Hartman hay gút H. Tại những nơi giao nhau này, sựrung động cực kỳ thấp.

Vì thế nhất thiết phải tránh những gút đó. Vùng trung tính là vùng tốt, nếu không bị nhiễu độc hại khác, là vùng nằm ở giữa các ô lưới này. Đây là điểm mà người ta có thể hoàn toàn đặt giường ngủ

Cảm xạ phong thủy là một công cụ hỗ trợ rất cần thiết và tuyệt vời đối với bất cứ ai nghiên cứu và thực hành Phong thủy. Nó như một chiếc đèn chiếu sáng cho con đường nghiên cứu của mỗi chúng ta. Cảm xạ mang lại cho chúng ta rất nhiều khả năng mà những môn học khác không làm được. Khi luyện tập đến một mức độ nào đó, chúng ta dễ dàng cảm nhận được sự di chuyển của những dòng Khí , những điều còn bị chôn dấu ở dưới mặt đất. Ngày xưa các cụ không gọi là Phong thủy mà gọi là Địa lý - Tức là nghiên cứu cái lý của đất. Nếu không hiểu rõ dưới lòng đất mình đang đứng như thể nào ? Có cái gì đang vận động, có mồ mả, xương cốt không ? Có những phay đất dịch chuyển không ? Có những dòng nước ngầm dịch chuyển theo phương nào thì dù chúng ta có học nhuần nhuyễn những môn khác như Bát trạch, Huyền không cũng chỉ là cái vỏ, chưa thấu đáo tận cùng của cái ruột Phong thủy. Phong thủy chính là tổng hợp tất cả những hiểu biết của con người nhằm sống hòa hợp cùng thiên nhiên, tận dụng tất cả những cái tốt và xấu của thiên nhiên cho mục đích sống của con người.Trong Tam tài THIÊN - ĐỊA - NHÂN , con người sánh vai cùng Trời - Đất và có quyền sống sánh ngang Trời - Đất khi hiểu rõ nguyên lý : Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất bản.

 Thân ái, dienbatn. XIN THEO DÕI TIẾP BÀI 5.

Xem chi tiết…

TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 3.

6/30/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 3.


2.MỘT SỐ HÌNH THỨC MAI TÁNG.

Mai táng là biện pháp xử lý xác người chết với nhiều hình thức khác nhau. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều hình thức mai táng như: địa táng (thổ táng), hỏa táng, thủy táng, không táng (thiên táng), huyền táng, điểu táng… nhưng ở Việt Nam phổ biến hiện nay là địa táng và hỏa táng.

1/Địa táng (Thổ táng).

“Địa táng hay còn gọi là thổ táng là một hình thức mai táng của loài người. Trong các hình thức mai táng: hoả táng, thuỷ táng, không táng, thổ táng… thì địa táng là hình thức phổ biến rộng rãi hơn cả.

Địa táng gồm có 2 loại:

– Một loại chôn cất xuống đất vĩnh viễn, trừ phi “mả động”, nghĩa là khi trong gia đình xảy ra sự cố gì bất trắc (có người ốm nặng, mất mùa, cửa nhà sa sút, chết bất đắc kì tử…), người ta mới phải cải táng.

– Một loại chôn xuống đất một thời gian nhất định (tuỳ theo tập tục quy định), sau đó bắt buộc phải cải táng (tức là lấy xương cốt còn lại đem chôn lầ nữa ở chỗ khác hay địa điểm cũ) lần này mới chôn vĩnh viễn”.

Địa táng hay còn gọi là thổ táng là một hình thức mai táng truyền thống của người Việt. 

Hình thức này có ở Việt Nam từ rất lâu đời. Gồm có nhiều kiểu quan tài, phổ biến nhất là quan tài hình vò (hay chum) và hình thuyền có trong nền văn hóa cổ Sa Huỳnh, Đông Sơn và trãi khắp vùng Đông Nam Á.

– Quan tài hình vò (còn gọi mộ vò, mộ chum): người xưa dùng vò để mai táng người đã khuất. Ở Sa Huỳnh, lần đầu tiên người ta lại sử dụng thuật ngữ mộ chum. Ở Làng Cả, người Đông Sơn lại dùng nồi gốm, vv. Vò hay chum được để hở hoặc đậy bằng những vung đặc biệt hoặc các hiện vật gốm nhưng cùng loại hình. Có trường hợp trong một chum, vò to còn có nhiều vò chum nhỏ đặt bên trong. Một số nhà nghiên cứu đề nghị nên sử dụng thuật ngữ mộ có quan tài gốm. Khi dụng cụ không vừa chiều dài của thi thể, người xưa có thể ghép 2 cái, hoặc đục đáy cái thứ ba để lồng vào giữa. Những quan tài được ghép bằng hai ba hiện vật thường được đặt nằm ngang. Loại hình này có phạm vi phân bố rất rộng vào thời đại sắt sớm ở khắp vùng lục địa và hải đảo Đông Nam Á. Trong thời đại đá mới, chúng tồn tại phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới nhất là đối với những cư dân chuyên làm nông nghiệp.

Chum táng đặc trưng Sa Huỳnh bằng đất nung. Hình cho thấy chum đang phát hiện, còn chôn trong đất, phần miệng bị bể, bên trong có vật táng.

– Quan tài hình thuyền: “người xưa dùng quan tài hình thuyền để mai táng. Còn gọi là quan tài thân cây khoét rỗng. Quan tài là một đoạn thân cây khoét rỗng lòng, chừa hai đầu hay ghép thêm hai miếng ván. Nắp quan tài có mộng hay chốt để khớp với quan tài. Trong đồ tuỳ táng thường có mái chèo. Phổ biến trong khu vực văn hoá Đông Sơn ở các vùng trũng. Ở Việt Nam hiện nay đã có gần 30 di tích cóquan tai hình thuyền thuộc văn hoá Đông Sơn được nghiên cứu. Nổi tiếng như khu mộ Việt Khê (Hải Phòng), Châu Can (Hà Tây). Tàn dư của loại quan tài này vẫn còn tồn tại nhiều nơi ở Việt Nam. Quan tài hình thuyền cũng được phát hiện ở Tứ Xuyên (Trung Quốc), Thái Lan, Philippin .

2/Hỏa táng.

Còn gọi hoả thiêu. Đây là phương pháp xử lí thi hài bằng cách đốt cháy thành tro (dùng gỗ, dầu mazut, dầu hoả, khí đốt; dùng điện là tốt nhất); tro của hài cốt tuỳ theo phong tục của cộng đồng mà cho vào bình kín để thờ cúng trong gia đình hoặc nơi thờ tự của tôn giáo như chùa, vv. hoặc để ở một nơi công cộng hoặc theo nguyện vọng của người quá cố (ví dụ như rải ngoài thiên nhiên).

Thuận tiện: sạch, gọn, không gây ô nhiễm môi trường, không phải cải táng, không tốn đất mở rộng nghĩa địa; tiện đối với trường hợp người chết ở nước ngoài không thể đem thi hài về nước.

Bất tiện: phi tang nếu là một vụ chết người có nghi ngờ về mặt pháp lí, không điều tra được nguyên nhân gây tử vong. Trước khi cho phép hỏa táng phải có giấy chứng nhận của thầy thuốc điều trị, của cơ sở y tế là chết tự nhiên; nếu có nghi vấn phải làm giám định y pháp trước khi hỏa táng.

Ở Việt Nam, trước đây tục hỏa táng không phổ biến lắm, chủ yếu ở người Khơ Me theo đạo Phật. Mỗi phum, sóc người Khơ Me có nơi hỏa táng riêng, nhiên liệu chủ yếu là củi. Trước khi hỏa táng, người ta tiến hành những nghi thức có tính tôn giáo nhằm đưa hồn người chết về thế giới bên kia. Hiện nay một số nơi ở nước ta như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… đã bắt đầu áp dụng hỏa táng.

Trong những tư liệu khảo cổ học cũng cho thấy tục hỏa táng đã có trong nền văn hóa Sa Huỳnh vì tìm thấy những mộ chum chứa tro cốt. Hiện vẫn chưa khẳng định được đây xuất phát từ tín ngưỡng bản địa hay du nhập từ bên ngoài.

3/Huyền táng (táng treo)

Hay còn gọi là tục táng treo. Một kiểu chôn người chết không phổ biến rộng rãi như địa táng nhưng xuất hiện rất nhiều trong thời xưa. Theo cách này, người ta để thi thể người chết lộ thiên, hoặc để nằm trên một tấm phên, hoặc để nằm trong quan tài hình thuyền. Có nhiều cách để quan tài như:

– Đặt quan tài trên chạc ba một cái cây to hoặc treo lủng lẳng trên cành cây.

– Đặt quan tài dưới vòm mái đá hay trong hang đá ở lưng chừng núi, có khi đặt nằm sâu trong hang động. Những hang động thường nằm gần sông, có rào chắn cẩn thận, là hang thiên tạo hay do con người đào khoét. Hang được ngăn ra nhiều phòng, tạo chỗ để nhiều quan tài.

– Dùng những đoạn gỗ to ghim vào vách núi làm điểm tựa cho quan tài hoặc cắm một đầu quan tài vào những hốc đá trên lưng chừng núi,.

– Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều di chỉ về hình thức huyền táng này ở các dân tộc thiểu số miền núi và trung du như: quan tài treo ở động Ma, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Hang đá với nhiều mộ treo ở xã Tân Lập, huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La. Những rừng ma của các dân tộc ở Tây Nguyên nổi tiếng các làng Biên Loong, Đak Xay, Dục Lang và Vai Trang của dân tộc Giẻ-triêng ở xã Đak Long, huyện Đak Glei tỉnh Kon Tum … Hiện nay, táng treo không còn nữa vì tục này gây ô nhiễm môi trường, bệnh dịch…

4/Thủy táng.

Là hình thức thả trực tiếp xác người chết xuống sông, biển, hồ… hiện nay hình thức này không còn vì gây ô nhiềm môi trường. Tuy nhiên trong những trường hợp bất đắc dĩ vẫn còn sử dụng. Nó liên quan nhiều đến điều kiện và môi trường sống cũng như ý nghĩa tâm linh của những cư dân sử dụng hình thức này. Thủy táng không chỉ có ở Việt Nam mà khá phổ biến ở những cư dân ven biển, trên các đảo nhỏ ở vùng Đông Nam Á (cả những vùng thuộc văn hóa Đông Nam Á cổ đại).

Hình thức này cũng xuất hiện trong tác phẩm văn học “Mùa hoa cải bên sông” của nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã được đạo diễn Khải Hưng chuyển thể thành phim “Lời nguyền của dòng sông” với hình ảnh thủy táng người vợ của lão chài họ Phạm. Hay bộ phim “Mùa len trâu” do Nguyễn Võ Nghiêm Minh làm đạo diễn với hình ảnh thủy táng người cha của Kìm giữa đồng nước mênh mông, đồng thời bộ phim này có hình ảnh cả tục táng treo trên cây, khi nước xuống mới đem chôn (mặc dù không đúng thật 100%). Điều này phần nào thể hiện cách thưc mai táng chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên.

5/Thiền táng (tượng táng).

Thiền táng (táng trong tư thế ngồi thiền) hay Tượng táng (làm thành tượng để táng), là một loại hình rất hiếm hiện nay chỉ được tìm thấy ở Trung Quốc và Việt Nam. Đặc biệt chỉ thấy ở những nhà sư Phật Giáo. Các tượng nhà sư vẫn còn nguyên vẹn xương cốt, nội tạng… được đặt trong tư thế thiền định. Đây là một hình thức táng vẫn đang dược nghiên cứu vì sự đặc biệt của nó.

Ở Việt Nam có hai trường hợp thiền tảng nổi tiếng là của nhà sư Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, tức Thành Đạo Tự, thuộc làng Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.

“Theo truyền thuyết trong dân gian có nói rằng là hai thiền sư vào nhập thất có dặn là ta vào nhập thất 100 ngày, có gõ mõ niệm phật, hết 100 ngày thì toàn thân sẽ khô đi, thơm tho, nếu thực sự như thế thì để nguyên còn nếu có mùi như mọi người thì đem chôn… Đến nay di hài của hai nhà sư vẫn còn được lưu giữ theo thế ngồi thiền”.

Dienbatn xin viết chi tiết về hình thức Địa táng thường thấy ở Việt nam.

Trong cùng một đất nước, nhưng ở 2 miền Bắc và Nam Việt lại có hình thức Địa táng khác nhau.

Tại miền Nam, chủ yếu là chôn một lần và không cải táng. Trước kia, khi trong nhà có người chết, gia đình thường “ đào sâu, chôn chặt” phía trước nhà. Người ta thường sử dụng các loại gỗ chịu nước như cây Sao, cây Sến, lấy nguyên thân cây lớn, xẻ một tấm nắp và tấm còn lại đục rỗng để làm quan tài. Gỗ Sao, Sến chịu nước rất tốt nên thường được làm tàu , thuyền. Những cỗ quan tài làm bằng Gỗ Sao, Sến thường tồn tại dưới đất đến vài trăm năm. Đặc biệt tấm nắp quan tài rất dày nên hầu như không bị trường hợp bị mục sụp xuống mà người ta gọi là “ sụp ván Thiên “. Người miền Nam đa phần khi chôn cất không nhờ Thày Phân Kim – Điểm Hướng, mà chỉ đặt ang áng theo địa hình. Ngày nay , tại miền Nam vì các loại Gỗ Sao, Sến hiếm dần nên hình thước Hỏa táng được sử dụng rộng rãi.

Tại miền Bắc Việt nam, trước giờ vẫn chủ yếu là chôn xong một thời gian đủ cho xương cốt sạch sẽ thì tiến hành Cải táng, cho xương cốt vào tiểu, quách rồi đem chôn tại khu đất mới. Khu đất chôn đầu tiên thường gọi là khu Hung táng.

Những gia đình giầu có và có địa vị cao trong xã hội còn có tục Địa táng gần giống với miền Nam nhưng làm quy củ hơn. Đó chính là tục tẩm , ướp xác và chôn luôn một lần. Đây là một quy trình cực kỳ phức tạp và đòi hỏi chi phí rất lớn, cần có Thày Địa lý và Thày Pháp giỏi kết hợp.

Quan tài để dùng trong trường hợp này đa phần làm bằng gỗ Vàng tâm rất dày, nhiều trường hợp sử dụng nguyên một khúc gốc cây Vàng tâm cổ thụ.


Gỗ vàng tâm là một trong số những loại gỗ vô cùng quý, nó được sử dụng chủ yếu cho những vật dụng mang tính tâm linh như: quan tài, đồ thờ,… ỗ vàng tâm là một loại sản phẩm từ cây Vàng tâm hay còn được gọi là Cây mỡ (theo dân gian) và nó là một loại thực vật nằm trong họ Mộc Lan.

Gỗ vàng tâm là một loại gỗ tốt với những đặc điểm như: khó biến dạng, nứt nẻ khi gặp thời tiết hanh khô, hạn chế được mối mọt, độ bền của nó vô cùng cao với tuổi thọ lên tới tận hàng nghìn năm.

Ngoài ra, gỗ vàng tâm có đặc tính khá nhẹ, thơm, có độ bền cao trong môi trường nước, rất thích hợp để làm các đồ thờ cúng, tiểu, quan tài, quách,…

Gỗ vàng tâm được lấy từ một loại cây cũng có tên là Cây Vàng tâm, đây là một loại cây thân gỗ với kích thước lớn từ 25 đến 35 m và đường kính rộng từ 74 đến 85cm. Tốc độ tăng trưởng của cây Vàng tâm ở mức trung bình và nó chỉ được tái sinh bằng hạt. Thời điểm ra hoa của loại cây này rơi vào khoảng tháng 3 tháng 4.

Những vùng có Vàng tâm tại Việt Nam đó là: Nghệ An (Quỳ Châu), Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang Quảng Bình (Ba Rền).

Với những đặc điểm và tính chất như: mùi thơm đặc biệt, độ bền đến hàng nghìn năm, chịu được nơi ẩm ướt lẫn thời tiết khô,… nên rất thích hợp để làm quan tài.

So với những loại gỗ khác, nó có nhiều đặc tính và giá trị về mặt công dụng hơn. Những loại gỗ khác thường sẽ dễ bị mối mọt đào khoét hay dễ bị ảnh hưởng với những tác động của môi trường xung quanh.

Để tránh nhầm lẫn gỗ Ngọc Am, gỗ lát, gỗ dổi thì gỗ vàng tâm có đặc tính xốp hơn. Khi đem gỗ vàng tâm đi đốt, ta sẽ ngửi thấy mùi thơm đặc biệt của gỗ. Đồng thời, sẽ có tiếng lép bép khi đốt thi thoảng xì ra như một chiếc que diêm cháy. Có thể nói đây là đặc điểm quan trọng nhất giúp chúng ta phân biệt được tính thật giả của Gỗ vàng tâm.

Ngoài ra, sau khi làm quan , quách bằng gỗ vàng tâm, thường có độ dày từ 10 – 20 cm , tùy điều kiện của gia đình mà người ta thường ghép vào mặt bên trong một lớp gỗ Ngọc Am.


Gỗ Ngọc Am của dienbatn.

MỘT CHÚT KHÁI NIỆM VỀ CÂY NGỌC AM VÀ TINH DẦU NGỌC AM .
Cây Ngọc Am còn gọi là Hoàng Đàn Rủ thuộc họ Cupressaceae ( Cunninghamia hoặc Cupressus ) . Tên La tinh là Cupressus funebris ( Trung Quốc gọi là San Mộc ) . Cây này nằm trong bộ Thông Pinales , nhưng lại thuộc họ Hoàng Đàn ( Cupressaceae ) . Cây lớn cao độn khoảng 20 m , thường xuất hiện rải rác ở độ cao 250 - 1.500 m, thường phân bố ở sườn và đỉnh núi đá vôi . Các địa danh có loại cây này xuất hiện như dãy núi Cai Kinh ( Lạng Sơn ) , Na Hang ( Tuyên Quang ) , Thạch An ( Cao Bằng ) . Ngoài ra còn thấy xuất hiện ở miền Trung Việt nam và miền Nam - Trung Quốc . Hoàng Đàn Rủ ( Ngọc Am ) là cây cho gỗ quý , không bị mối mọt . Gỗ mục có mùi thơm dùng làm hương ( Nhang ) rất tốt . Rễ và cả gỗ thân cây dùng để cất tinh dầu . Cứ khoảng 150 Kg gỗ , cất được 7-8 lít dầu . Rễ hàm lượng tinh dầu còn cao hơn Tinh dầu dùng làm thuốc xoa bóp và chữa bệnh ngoài da . Vỏ cây nấu cao chữa đau bụng . Người Trung Quốc dùng quả trị phong hàn , cảm mạo , đau dạ dày và thổ huyết . Lá cây dùng để trị bỏng . Trong việc ướp xác , từ xưa người ta thường truyền tụng về tính chất giữ xác ướp được hàng trăm năm của tinh dầu Ngọc Am . Trong các triều đại Phong kiến , có quy định rất rõ ràng đến phẩm bậc nào mới được sử dụng tinh dầu Ngọc Am để ướp xác . Ngày xưa , dưới triều Tự Đức , Quan án Sát tỉnh Quảng Bình là Nguyễn Khắc Nguyên ( Người làng Mộng Phụ - Sơn Tây ) , vì giữ chức vụ cao tại vùng có nhiều tinh dầu Ngọc Am ( Quảng Bình ) , nên đã lén dùng tinh dầu Ngọc Am để ướp xác cho mẹ . Việc bị vỡ lở , đến tai Vua Tự Đức , ông bị biếm chức , nhưng vẫn cảm thấy hài lòng . Qua đó chúng ta thấy tinh dầu Ngọc Am có tác dụng như thế nào . PGS.TS NGUYỄN LÂN CƯỜNG cho chúng tôi biết : Nhưng bộ quần áo của xác ướp vườn đào Nhật Tân , khi để vào trong phòng kín , chỉ sau một đêm , tất cả muỗi và côn trùng trong phòng chết hết . Điều đó chứng tỏ dầu Ngọc Am có tính kháng khuẩn và độc tính cao .
CÁC THỚ GỖ DỌC CỦA HOÀNG ĐÀN RỦ ( NGỌC AM ) .

CẤU TRÚC GỖ HOÀNG ĐÀN RỦ ( NGỌC AM ) DƯỚI KÍNH HIỂN VI LIECA DMRE .

(Phần này dienbatn có sử dụng tài liệu và ảnh của PGS.TS NGUYỄN LÂN CƯỜNG.)

Gỗ Ngọc Am dùng làm quan tài, hoặc nếu sử dụng tinh dầu Ngọc Am bôi lên xác thịt người đã chết thì đến cả trăm năm xác thịt vẫn tươi nguyên… quần áo niệm vẫn còn nguyên không hề rách nát. Khi khai quật mộ lên có khi cách xa hàng trăm mét vẫn ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng, tuyệt nhiên không có mùi gây gây của xương thịt người. Người được chôn cất được tẩm liệm theo phương pháp này được coi là chôn vĩnh viễn, không cần cải táng.
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại tinh dầu với thành phần chiết xuất đa dạng, mang đến những tác dụng tích cực cho sức khỏe và làm đẹp. Trong đó tinh dầu Ngọc Am là một trong những sản phẩm cực kỳ tốt nhưng có giá khá đắt nên vẫn chưa được dùng phổ biến.

Ngọc Am là một cây gỗ quý với rất nhiều công dụng khác nhau, cây này chỉ có ở vùng núi cao tại một số tỉnh Tây Bắc nước ta. Hiện nay gỗ Ngọc Am ngày càng trở nên khan hiếm nên giá trị kinh tế cũng rất cao.

Người ta đã nghiên cứu và chiết xuất ra loại tinh dầu gỗ Ngọc Am với rất nhiều công dụng tốt cho sức khỏe, hỗ trợ làm đẹp.

Gỗ Ngọc Am rất quý, quý từ trong cái tên (am là nằm sâu trong lòng đất, ngọc am là ngọc trong đất) đến công dụng của nó. Chính vì vậy mà trong quá trình chế tác ra tượng, đồ thờ, đồ trang trí đắt tiền, người ta sẽ giữ lại gỗ vụn và mùn cưa của Ngọc Am để chưng cất ra Tinh dầu Ngọc Am. Thành phần chính của Tinh Dầu Ngọc Am là: α-cedrene (16.9%), cedrol (7.6%), and β-cedrene (5.7%). Gỗ Ngọc Am từ lâu đã nổi tiếng bởi công dụng của tinh dầu có thể ướp xác hàng nghìn năm không bị mối mọt. Không biết đó là câu chuyện có thật hay chỉ là những lời đồn thổi của giới buôn gỗ chuyên nghiệp vùng Hoàng Su Phì. Nhưng sự thật đang diễn ra là người Trung Quốc vẫn trả giá cao khi ai đó có Ngọc Am để bán. Các nhà khoa học của Nhật Bản sau khi nghiên cứu tinh dầu Ngọc Am đã kết luận tinh dầu Ngọc Am có độc tính với tế bào, gây đông vón protein tế bào ở người và động thực vật nên gỗ và dầu Ngọc Am chỉ thích hợp cho việc bảo tồn tế bào, bảo tồn xác ướp theo kinh nghiệm của người xưa. Đó cũng là lý do vì sao trước đây người ta không làm các đồ vật bằng loại gỗ này bởi độc tính quá cao. Nhưng dầu ngọc am không được nhiều nên người ta nghĩ cách làm giả, dùng tinh dầu thông và pơ mu trộn với một lượng nhỏ ngọc am rồi đem bán.

Tinh dầu Ngọc Am của dienbatn,

 Một vấn đề quan trọng nữa khi ướp xác là việc bó xác. Người ta thường bó xác rất cẩn thận và rất nhiều lớp bằng một loại vải trắng thường sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc từ những loại cây thiên nhiên như cây gai, cây bông và cây lanh. Vải thổ cẩm được dệt hoàn toàn thủ công. Loại vải này thường phải mua từ bên Lào hay của người dân tộc. Sau khi bó xác cẩn thận hàng trăm lớp vải, người ta dùng mật ong rừng tẩm lên các lớp vải cho kín , không để khí lọt vào. Sau khi mật ong khôn, người ta mới cho xác ướp vào quan tài Vàng tâm có lót Ngọc am. Dưới quan tài thường có một tấm ván bằng vàng tâm có khoan chùm sao Thất tinh ( Chòm sao Đại Hùng ) . Lớp gạo nếp rang phủ bên dưới tấm ván khoan chùm Thất tinh .



Lớp gạo nếp rang phủ bên dưới tấm ván khoan chùm Thất tinh .
Cuối cùng người ta đổ tinh Dầu Ngọc Am ngập hết xác bên trong.

" Cho đến nay ở Việt Nam đã phát hiện được khoảng 52 mộ hợp chất , nhưng phần lớn tập trung ở miền Bắc . Có những mộ đã được khai quật, có mộ bị kẻ gian phá trộm để tìm kiếm hiện vật hoặc một số khác chỉ mới phát hiện ( xem phần phụ lục ) . " Mộ hợp chất " còn gọi là " Mộ trong quan ngoài quách " , " Mộ ướp xác ", " Mộ quách tam hợp ", " Mộ bao kín " , " Mộ có xác " , hay " Mộ cổ " ...Theo chúng tôi , mộ hợp chất là cách gọi tương đối hợp lý và dễ hiểu hơn cả . Nếu mộ hợp chất có tường bao quanh 3 mặt , bên trong là mộ đôi thì chúng tôi gọi là " Mộ hợp chất song táng " . Loại mộ này chưa phát hiện ở miền bắc , chỉ có ở phía Nam của nước ta . Mộ hợp chất có một đặc điểm chung nhất là có quách hợp chất bao ở bên ngoài . Quách hợp chất mà người ta gọi là " Tam hợp " thông thường gồm 3 chất : vôi , cát , mật . Ngoài ra người ta còn trộn thêm vỏ nhuyễn thể đã bị hun, đốt nghiền nhỏhay giấy bản hoặc nước cháo loãng ...Người ta còn dùng nước cây Niệt Dó trộn lẫn có tác dũng như chất hồ làm liên kết các hợp chất với nhau , khiến cho nước bên ngoài không thấm vào được . Chính vì vậy người ta gọi là mộ hợp chất .
Một số mộ lại có quách gỗ bao kínầi mặt của quan tài . Xác được giữ lại chính nhờ các loại dầu ướp xác và quan , quách kìn , tạo môi trường yếm khí .  

 
Xin theo dõi tiếp BÀI 4. Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 2.

6/22/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH.

BÀI 2.


II. NGUYÊN LÝ TRẤN TRẠCH VÀ THU KHÍ VỀ ÂM DƯƠNG TRẠCH.

1.ỨNG DỤNG BÁT QUÁI TRẬN ĐỒ TRONG VIỆC ĐẶT MỘ PHẦN.

PHẦN 1 : SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ LÝ THUYẾT TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .

Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.

THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.

ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.

NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.

Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.

THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.

ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.

NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.

Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.

Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc.

NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ.

Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.

Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng.

Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:

-Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước.

-Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia.

-Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị.

-Hóa giải theo ý muốn.

Biết được Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ.

-Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu...

-Trị liệu bằng Trường Sinh học.

Ngày xưa ở Trung quốc,Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây dựng,kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.

1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nước,con người..

2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm ba nguyên tắc :

a/Trời chưởng quản Địa,Nhân.

b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con người,nên phải biết vận dụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống.

c/Vận mạng ,hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết,tức là Âm trạch.Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết thì xem cái mồ ".

3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào).

4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng tốt đến mạch khí.

Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hưởng đến hoạt động của Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng tử thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt,sức khỏe dồi dào,kinh tế phát triển lên mãi.

Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định.

PHONG THỦY.
Phong : Là Gió.
Thủy :Là nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Nghiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa".
Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc.
TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khí của chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc.
HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai.
Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn,xem tinh tú trên trời.Sao Tử vi ở phương Bắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở phương Nam;Sao Thái vi ở phương Tây,nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương.Lấy tứ chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long,và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ).Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó,thấy cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa ,dị thảo thì phải biết đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ vệ sơn chạy đến đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này,xem cục thế lớn,nhỏ,tốt xấu.Sau cùng quan sát xem tính tình,ăn ở của dân địa phương nơi đây thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long.

Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương hỗ với nhau,Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ".Tóm lại thuật Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán,nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ.

Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly,hội hợp của tụ và tán.

Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa mạch hoạt bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.Ðịa mạch xuất hiện ở giữa,xung quanh có Sa trướng trùng trùng.Sa trướng của nó có gần có xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế cử đỉnh,có chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn,khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc ,thì Ðịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần,tựa hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ,muôn hình vạn trạng.Minh đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn lượn xung quanh,bốn phương tám hướng không có nơi nào bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội.Nơi được như vậy được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy."

Như vậy chúng ta thấy rằng , việc đầu tiên của một nhà Địa lý - Phong Thủy là phải " cân " được Phúc đức của Gia chủ mà hãy chọn Địa Huyệt cho tương xứng . Nói nôm na là nếu Phúc đức của dòng họ người ta mới như nguồn điện 110 v thì phải đặt vào Địa Huyệt có tầm cỡ 110v , nếu Thày tham hoặc thân chủ tham , chọn Địa Huyệt có năng lượng 220 v , thì lợi thành gia hại , có khi là tuyệt diệt cả dòng họ người ta . Thày thuốc lỡ tay khi mổ bất quá chỉ thiệt hại một mạng người . Thày Địa Lý vì chủ quan hay sơ xuất , thậm chí làm hại cả họ nhà người ta . Do vậy , cả Thày và Gia chủ phải hết sức cẩn thận từng ly từng lý , phải soi cho rõ ngọn nguồn hãy bắt tay vàp Phân Kim , Cắm Huyệt .

VỀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI :
Đã có nhiều lần người viết đề cập đến Trận đồ Bát quái này. Tên đầy đủ là BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN. Tục truyền rằng trận đồ này do hậu duệ của Khổng Minh Gia Cát Lượng lưu truyền lại từ xưa qua bao thăng trầm của dòng họ. Trận pháp này chỉ truyền lại cho đời sau, mỗi đời một người nắm giữ. Sau này vì một lý do nào đó lọt ra đến ngoài, nhưng số người nắm giữ được bí mật này cũng rất ít. Sư phụ của người viết là một trong số những người được truyền lại và tiếp tục truyền lại cho người viết trận đồ Bát quái này. Vì không được phép phổ biến nên người viết chỉ có thể nói sơ qua một chút để các bạn hình dung. Đây là một trận pháp áp dụng theo Bát môn có các cửa : Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh - Khai. Trận đồ này áp dụng theo thuật số của Hà đồ - Lạc thư với hai vòng quay thuận - nghịch theo Thời gian. Trận đồ này bao gồm tổng hợp những thủ thuật dùng trong Phong thủy, Dịch lý, Thái ất.... với rất nhiều loại Linh phù, Chú của Tiên gia...Thường khi thực hiện, Pháp sư dùng 9 hũ bằng gốm, đặt theo 9 phương vị của Trời đất. Trong 9 hũ đó chứa đựng 5 thứ kim loại : Vàng - Bạc - Đồng - Chì - Sắt và rất nhiều loại Linh phù Trấn trạch ( Âm hoặc Dương trạch ). Trận đồ này chỉ được phép thực hiện trong một số ngày nhất định mà thôi. Người ta có thể dùng đèn cầy , nhang , đá hay bản thân người để thực hiện Trận đồ này tùy theo mục đích công việc. Công dụng của Trận đồ này qua hàng ngàn năm đã chứng tỏ uy lực mạnh mẽ của nó : Dùng trấn Âm , Dương trạch ( kể cả Chùa chiền, nhà cửa, Kinh thành, hoá giải được những Trấn yểm...). Người viết chưa đủ Năng lượng để thực hiện những Trận đồ với quy mô lớn, nhưng có dùng để Trấn trạch và hoá giải những cuộc đất xấu, những ngôi mộ bị Trùng tang liên táng hoặc phát sinh những việc xấu sau khi tang... đều thấy hiệu quả rõ rệt. Đã từng có hai lần, trong hai căn nhà có thực hiện Trận đồ Trấn trạch, khi bị kẻ trộm viếng thăm, do tác dụng của Trận đồ xoay chuyển , kẻ trộm vào được trong nhà, nhưng như bị u mê, không biết được đường ra, mặc dù một nhà thì chìa khóa cửa còn cắm ở trong ổ, một nhà thì để cửa trống. Hai tên trộm, một tên bị hàng rào đè giữ lại và bị bắt ( Tại Nghệ an ), một tên khi sực tỉnh phải nhẩy từ tầng hai xuống bị què chân (Tại Hà Nội ). Đây là hai chuyện có thật 100 %, nếu bạn nào quan tâm , người viết sẽ cung cấp địa chỉ để tìm hiểu. Trận đồ Bát môn này quay đủ 360 độ theo thời gian theo hai vòng thuận nghịch nên có thể hóa giải được Cửu tinh của Huyền không . Lý thuyết về Trận đồ rất phức tạp , người viết không nêu ra ở đây.
Có lần người viết kết hợp với 
Thiên sứ đi làm mộ cho một Gia đình hậu duệ 9 đời của Mạc Thiên Tích. Ngôi mộ này, không hiểu lý do gì, cứ mỗi lần đắp lên , xây xi măng cẩn thận , nhưng chỉ ít ngày sau lại bị sụp và chỉ sụp ở một góc đầu mộ. Sự sụp mộ này kéo theo tình trạng thê thảm của người con trai lớn trong gia đình. Người viết cùng Thiên sứ khảo sát thấy rằng ngôi mộ nằm bên cạnh một dòng nước chẩy ngầm phía dưới và chính hiện tượng này gây sụp phần mộ. Hai anh em không biết tính làm sao để có thể ngăn cản dòng nước ngầm đi ngang qua đầu mộ. Bàn đi , tính lại mãi , cuối cùng người viết quyết định dùng BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN để hóa giải. Lúc này , người viết mới được Ân Sư truyền dạy môn này , thật tình cũng không được tin tưởng cho lắm. Nhưng vì không thể có cách nào khả dĩ hơn nên hai anh em quyết định thực hiện BÁT QUAI THIÊN ĐỒ TRẬN này để cứu nguy cho thân chủ của mình. Sau khi chọn được ngày tháng kỹ lưỡng , hai anh em cùng Gia đình họ Mạc bắt tay trấn yểm ngôi mộ. Thiên sứ có bấm một quẻ : Nếu Trận đồ thành công thì sau khi Trận đồ Trấn yểm được thực hiện , khoảng 30 phút sau , tại địa điểm bố trí Trận đồ sẽ có mưa to. Tất cả mọi người đều không tin vì lúc đó đang mùa khô thì làm sao mà có mưa cho được???

Sau khi bố trí xong mọi việc , người viết bắt đầu thực hiện việc trấn yểm theo đúng bài bản mà Ân Sư đã truyền dạy. Công việc được tiến hành tốt đẹp trong khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó về một quán bia gần bên cạnh đợi Trời mưa. Sau 25 phút Trời vẫn cứ nắng chang chang , người viết và Thiên sứ tưởng chừng không phải uống bia Heineken nữa mà là đang uống những viên Kí ninh. 26, 27 , 28 phút trôi qua trong lo âu , hồi hộp. Tới phút thứ 29 , bỗng trên đầu bắt đầu vần vũ một đám mây đen và sang phút thứ 30 , Trời đổ mưa ầm ầm. Điều kỳ lạ là đám mưa chỉ xẩy ra trong vòng bán kính 500 m , xung quanh Trận đồ Trấn yểm. Có lẽ trong cuộc đời của người viết và của cả Thiên sứ , chưa bao giờ có được một trận mưa đáng ghi nhớ như thế. Trời đã không phụ lòng người , lời cầu xin đã thấu tới tai Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rồi từ đó về sau này , ngôi mộ của dòng họ Mạc không còn bị sụp nữa , con cháu bắt đầu làm ăn khá dần. Đây cũng là một kỷ niệm đẹp của người viết về một Trận đồ Trấn yểm.





Dienbatn - Xin theo dõi tiếp BÀI 3.

Xem chi tiết…

TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 1.

6/21/2023 |

 TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH.

BÀI 1.



MỞ ĐẦU .

Trong thực tế ngày nay , với xu hướng Đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ, việc các Phong thủy sư đi tìm kiếm Long mạch hay Huyệt trường là một điều vô vọng. Mặt khác tại một số nơi còn hoang sơ , dù theo đúng các phương pháp Long – Huyệt – Sa - Thủy thì vẫn còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến Trường khí của Âm – Dương trạch. Tạm thời có thể nêu ra một số việc cần lưu ý, đó là : 

* Cuộc đất mà từ trước đã có các thày Phong thủy, do chưa tụ đủ Phúc hoặc chưa tìm được người đủ phúc mà trao tặng nên dùng thuật Xích Long thu giữ để không ai có thể đặt mộ vào khu vực đó được.

* Cuộc đất bị người Tàu trấn yểm tàn phá Long mạch

*Cuộc đất từ ngày xưa đã có mộ người Tàu đặt ngầm ở dưới hoặc là khu vực chôn dấu của có Thần giữ của coi giữ.

* Cuộc đất nằm trên những phay đất di chuyển hoặc có những dòng sông nước ngầm chảy ở bên dưới. Có nhiều khu đất rất đẹp về hình thế, nhưng do ở sâu phía dưới ( thường từ 50-90 m ) có những dòng sông ngầm ( nóng hay lạnh ) chảy bên dưới rất xiết và tạo ra một vùng trường Khí đầy ác xạ cũng rất khó hóa giải. Thông thường những Phong thủy sư khi đi tầm Long cắm Huyệt chỉ để ý đến những dòng nước ở phía trên mặt đất, hầu như từ xưa đến nay chưa có một tài liệu nào nói đến những dòng nước ngầm, những hang động ngầm dưới đất. Trong quá trình điền dã, tìm hiểu, dienbatn thấy những vấn đề đó hết sức quan trọng và thực tế phải dựa vào những số liệu, những mũi khoan thăm dò Địa chất Thủy văn mới có thể nhìn nhận được thấu đáo cuộc đất mình đang xem xét.

Để có thể hóa giải những vấn đề trên, các Phong thủy sư phải am hiểu thật nhiều môn học như : Kinh dịch, Thái Ất dương minh , Độn giáp , Địa lý về Âm trạch, Bát diệu thủy pháp và tam hợp ngũ hành, Tý Ngọ lưu trú và Linh quy bát pháp, Cảm xạ địa khí, phải nghiên cứu và thực hành thuần thục các loại bùa chú của Tiên gia, của Mật tông.....

Đó là một kiến thức thật sự đồ sộ đòi hỏi nhiều thời gian, sự đam mê giành cả cuộc đời.dienbatn và một vài đạo hữu cùng khóa đã bỏ ra gần 40 năm nghiên cứu những điều đó, nay đã bước vào tuổi về chiều, tóc bạc, chân chồn mà nhiều khi vẫn phải tự thú nhận rằng : Hầu như chưa biết gì. Những gì đã làm chỉ là gắng gượng để đền đáp sự yêu quý của thân chủ, Phúc chủ - May thày, chỉ cầu mong sao cho gia chủ đủ phúc để mình được hưởng chữ may là mãn nguyện lắm rồi.

Sau khi đã tìm cách hóa giải được những trở ngại trên khu ÂM – DƯƠNG trạch ,  việc cần làm ngay là phải tạo được một hàng rào tâm linh trên khu huyệt mộ để các tương tác xấu khác không xâm phạm vào được. Việc này giống như chúng ta đã giải tỏa được mặt bằng, ngay lập tức chúng ta phải xây dựng hàng rào để tránh bị tái chiếm hoặc để ngăn chặn xì ke, ma túy, dân vô gia cư xông vào lấn chiếm.

Từ xưa, kinh nghiệm về trấn trạch cả âm phần và dương phần, các Pháp sư, Phong thủy sư có rất nhiều kinh nghiệm và có rất nhiều sách cổ nói về vấn đề này.

Các Phong thủy sư sau khi đã thực hiện đầy đủ những bước ở trên thường có một động tác là thu khí của cả khu vực về khu vực ÂM – DƯƠNG trạch mình đang làm. Hầu như không có sách nào nói về vấn đề này, dienbatn trong quá trình đi ta bà điền dã được một Ân Sư chỉ dạy, không dám dấu làm của riêng, xin chép ra để giữ gìn cho đời sau.

Để làm được điều này, Phong thủy sư phải nhận biết được ngũ hành, sắc thái và đường đi của dòng Sinh khí trong khu vực đặt Huyệt mộ.

Sau khi rung động thư giãn, chúng ta đã loại bỏ được tất cả các tạp niệm , chúng ta tiếp tục đến việc nâng Khí, gọi màu. Khi chúng ta rung động đến khu vực đỉnh đầu là Luân xa 7 và xuất hiện màu chàm là chúng ta đã hòa đồng được cùng với Vũ trụ. Khi đó con mắt thứ 3 của chúng ta được mở ra và con người thực sự bước vào chiều không gian thứ 4, thấy được những điều thiêng liêng . Con mắt thứ 3 sẽ cho thấy được ngũ hành, sắc thái và đường đi của dòng Sinh khí trong khu vực đặt ÂM – DƯƠNG trạch.

Khi đã biết được ngũ hành, sắc thái và đường đi của dòng Sinh khí trong khu vực đặt ÂM – DƯƠNG trạch, chúng ta có thể bắt đầu việc thu khí.

Ngoài ra khi cần chỉnh hướng dòng Khí, ta cần dùng các thuật toán trong Loan đầu như xác định phân kim tốt nhất cho hướng của ÂM – DƯƠNG trạch. Các phương pháp đó bao gồm : LẬP HƯỚNG THEO THỦY. (Theo Địa lý chính tông và Ngũ quyết ), LẬP HƯỚNG THEO LONG NHẬP THỦ ,  LẬP HƯỚNG THEO HƯỚNG HƯỚNG PHÁT VI, LẬP HƯỚNG THEO PHÂN CHÂM, LẬP HƯỚNG THEO 24 SƠN – HƯỚNG. PHÂN KIM – KHAI MÔN – PHÓNG THỦY – TẠO TÁNG. ( Theo Địa lý Đại toàn ). LẬP HƯỚNG THEO 72 LONG HƯỚNG CÁT HUNG ( Từ sách THẬP NHỊ TRƯỢNG – Dương Quân Tùng).

Từ những tính toán trên ta xác định chính xác phân kim mà ta cần thu Khí về Âm hay Dương trạch.

MỤC LỤC BÀI VIẾT.

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TÌM HIỂU VÀ GIẢI QUYẾT.

I.VÀI NÉT VỀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .

II. NGUYÊN LÝ TRẤN TRẠCH VÀ THU KHÍ VỀ ÂM DƯƠNG TRẠCH.

III.NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI THỰC HIỆN VIỆC TRẤN TRẠCH VÀ THU KHÍ VỀ ÂM DƯƠNG TRẠCH.

IV.THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ CỤ THỂ CÓ THỂ THẤY ĐƯỢC SAU KHI TRẤN TRẠCH VÀ THU KHÍ VỀ ÂM DƯƠNG TRẠCH.

PHẦN I. VÀI NÉT VỀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .


Trong các cuộc chiến tranh ngày xưa , người ta rất chú trọng đến việc lập trận . Kể từ những cuộc chiến của thời Tam quốc với những cách Trận đồ Bát quái của Khổng minh Gia cát lượng đến những trận đồ của phương Tây như trong trận OATECLO của NAPOLEON . Như vậy , việc thực hiện Trận pháp là hoàn toàn có thật và đã đạt được những hiệu quả rất cao . Trận pháp là một môn nghiên cứu đỉnh cao của nghệ thuật quân sự hàng ngàn năm nay . Tại Việt nam chúng ta cũng có cuốn sách : Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo về nghệ thuật quân sự, có lẽ chủ yếu là bày binh bố trận, nhưng đến nay đã bị thất lạc. Ông sưu tập binh pháp các nhà, làm thành Bát quái Cửu cung đồ, và đặt tên tác phẩm như vậy. Người ta chỉ còn biết được một ít nội dung tác phẩm này, qua lời đề tựa của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư vẫn còn lưu giữ được.
Trong lời tựa của Trần Khánh Dư : " Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết.
Ngày xưa, Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ nước Ngô đem người đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập (Sách Tấn thư chép là Mã Long) nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.
Cho nên trận nghĩa là "trần", là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh điền để đặt binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công sửa lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay, trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. Như Lý Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình (sách Thái bạch âm kinh nói về binh pháp), những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực.
Sách gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung, đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô (ám chỉ nhà Nguyên), phía nam uy hiếp Lâm Ấp (Chiêm Thành). "
Trích từ Đại Việt sử ký toàn thư:
" Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó. "
Trong cổ thi của Trung quốc có bài BÁT TRẬN ĐỒ của ĐỖ PHỦ ca ngợi Khổng minh như sau :
Bát trận đồ
Công cái tam phân quốc
Danh thành Bát trận đồ
Giang lưu thạch bất chuyển
Di hận thất thôn Ngô
Dịch Nghĩa:
Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba
Nổi danh trận đồ Bát quái
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển
Để lại hận đă thất kế thôn tính Ngô
Dịch Thơ:
Bát Trận Đồ
Vơ công trùm lợp thời Tam Quốc
Danh tiếng làm nên Bát trận đồ
Đá vẫn nằm trơ dòng nước chảy
Hận còn để măi lỡ thôn Ngô
Bản dịch của Trần Trọng San
Tam phân quốc công cao tột bực
Bát trận đồ danh nức muôn đời
Nước trôi đá vẫn không dời
Ngậm ngùi nỗi chẳng nghe lời đánh Ngô
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Chú thích:
-Bát trận đồ: do Khổng Minh thời Tam quốc dựng thành, ở huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn bị quân Thục vây hăm tại đây, nhưng nhờ được nhạc phụ của Khổng Minh là Hoàng Thừa Nghiện chỉ đường nên ra thoát được
-Tam phân quốc: Khổng Minh chưa ra khỏi nhà đă biết thiên hạ thế chia làm ba, Thục Ngô Ngụy
-Thôn Ngô: Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vân Trường, bị thua to về tay Lục Tốn.
Các sách cổ của Trung quốc cũng có rất nhiều tác phẩm viết về cách lập trận như các cuốn : DƯƠNG ĐẨU NGU CƠ , THỦY KINH CHÚ , VŨ LƯỢC CHÍ , QUA KÍP ĐÀN BINH ...
Trong các loại hình thế trận , người ta nghiên cứu phát minh ra nhiều loại trận đồ với nhiều mục đích khác nhau : BÁT QUÁI TRẬN ĐỒ , VIÊN TRẬN ĐỒ , PHƯƠNG TRẬN ĐỒ , TRỰC TRẬN ĐỒ , KHÚC TRẬN ĐỒ , NHUỆ TRẬN ĐỒ TRƯỜNG XÀ TRẬN ĐỒ .....

SỬ DỤNG TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI VÀO TRẤN YỂM VÀ ĐẶT MỘ PHẦN .
Người ta có thể dùng TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vào việc TRẤN YỂM một khu đất hay địa huyệt nào đó với hai mục đích ngược nhau : Làm cho khu vực đó tốt lên hay là triệt phá Long mạch của vùng đất hay Địa Huyệt đó . Đó là hai chiều tương sinh và tương khắc của Ngũ hành - Âm , Dương .
Việc xây dựng một TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vì mục đích gì đi chăng nữa , người Chủ trận phải hiểu tường tận cách bố trí Trận pháp . Ngoài việc xác định rõ vị trí của Huyệt kết ở đâu , hướng của Long Nhập thủ như thế nào trong 72 Long Thấu Địa , Thiên Môn - Địa hộ ở đâu , Tính chất Âm - Dương ,Ngũ hành của Khí Huyệt như thế nào , người bố trí Trận đồ phải rất giỏi về Ngũ Tử Khí Long ( Phận biệt các loại Khí Hỏa Khanh , Không hư , Bảo Châu ) , phải thành thạo các thuật Toán an Ngũ Thân , Lộc , Mã , Quý , Tứ cát , Tam Kỳ , Bát Môn , an các Thiên Can , Địa Chi lên Bát Quái Đồ Hỗn Thiên . Những thuật này liên quan mật thiết đến Thuật tính Thái Ất , Độn Giáp .



Dienbatn - Xin theo dõi tiếp BÀI II.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *