Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 4.
3. NGUYÊN LÝ CỦA VIỆC THU DẪN KHÍ.
a/LÝ THUYẾT VỀ TRƯỜNG KHÍ.
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
Cố GS-TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG trong cuốn
TÍCH HỢP ÐA VĂN HÓA ÐÔNG TÂY CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC TƯƠNG LAI cũng đã cảnh
báo về cuộc chiến này.Trong cuộc chiến tranh Tâm linh này,vũ khí nguyên tử chỉ
là những trò chơi trẻ con và sự tàn phá không chỉ tính là một vài Ðất nước mà
là cả một nền Văn minh của Nhân loại.Cái thuộc tính xu cát tỵ hung của con người,
sẽ dần dần đẩy Văn minh Nhân loại vào cuộc chiến tự hủy diệt và bắt đầu một nền
Văn minh mới được thành lập dưới THỜI ÐẠI DI LẶC THÁNH ÐỨC.
Con người có khả năng làm những điều tốt đẹp
nhất cho đồng loại và đồng thời cũng có thể làm những điều tồi tệ nhất mà không
có một giới hạn nào có thể cản ngăn.Ðó cũng chính là hai mặt Âm Dương đối lập
nhưng cùng tồn tại song song.Cứu cánh cho việc đó chính là công việc của các
Tôn giáo đang thực hiện là hướng con người vào CHÂN- THIỆN- MỸ.dienbatn xin được
trình bày vấn đề này khi có dịp thích hợp.
Trở lại vấn đề Phong thủy.Thực ra nói đến
thuật Phong thủy thực ra cũng chỉ là một bộ môn của nền Văn minh tối cổ đã bị hủy
diệt do chính con người.
Cái gốc của Phong thủy cũng như tất cả các
vấn đề khác của TRIẾT HỌC ÐÔNG PHƯƠNG như KINH DỊCH,Y THUẬT,TỬ VI LÝ SỐ,BÁT TỰ
HÀ LẠC,THÁI ẤT,ÐỘN GIÁP,TỬ BÌNH vv đều dựa trên cơ sở chặt chẽ của THUYẾT ÂM
DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Ðây chính là một siêu công thức Vũ trụ,có thể lý giải những vấn
đề từ vi mô đến Vĩ mô và đồng thời có khả năng dự báo.Ðây cũng chính là công thức
mơ ước của các nhà Khoa học hiện đại.Tuy nhiên, đây cũng chính là công thức của
Tâm linh,của những chiều không gian khác.Thuyết ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH có thể lý
giải tuyệt vời những vấn đề của Khoa học hiện đại, nhưng Khoa học hiện đại
không thể lý giải những vấn đề về Tâm linh.Khoa học của Không gian ba chiều
không thể lý giải được những vấn ðề của Không gian nhiều hơn ba chiều;Nhưng Tri
thức của không gian nhiều hơn ba chiều lại có thể lý giải được những vấn đề của
Không gian ba chiều.Nói theo Toán học thì Không gian ba chiều nằm trong Tập của
không gian đa chiều.Cái tối ưu là sự kết hợp giữa Tâm linh và Khoa học sẽ làm
cho con người tiến rất mau vào biển tri thức đã có sẵn.
Bây giờ ta trở lại những vấn đề đơn giản hơn
của những thuật Phong thủy cụ thể.
Trong Phong thủy,cái quan trọng nhất vẫn
là vấn đề trường Khí.Khí ở đây không phải là Không khí hay một chất khí cụ thể
nào cả.Ở nước ngoài người ta dịch Khí là SHA,hay Qi,tuy nhiên cũng chưa gọi
đúng bản chất của nó.Thực ra ,nói theo từ của Khoa học,KHÍ là một dạng của Năng
lượng,có vô số dạng thù hình khác nhau ,tùy theo điều kiện cụ thể.Trong Phong
thủy người ta nói :"Tụ là hình- Tán là Khí" hay "Nhất bổn tán vạn
thù- Vạn thù quy nhất bổn". Ðó chính là những khái niệm về bản chất của
Khí.Theo Ðịnh luật bảo toàn năng lượng đã khái quát : "NĂNG LƯỢNG KHÔNG TỰ
NHIÊN SINH RA VÀ CŨNG KHÔNG TỰ NHIÊN MẤT ÐI,NĂNG LƯỢNG CHỈ BIẾN ÐỔI TỪ DẠNG NÀY
SANG DẠNG KHÁC".Các dạng thù hình của Khí thật là muôn hình vạn trạng
nhưng bản chất của nó vẫn là dạng Năng lượng.Khí cũng không thoát khỏi quy luật
của siêu công thức ÂM DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Tức là Khí cũng có những tính chất âm
dương - Ngũ hành cụ thể cho từng dạng thù hình.Những tính chất này tùy theo
tương sinh hay tương khắc mà tác động lên các vật thể khác mà đem lại sự tốt
hay xấu,thuận hay không thuận cho sự vận động của những vật thể khác.Nhiệm vụ của
thuật Phong thủy là tìm ra điều kiện tối ưu cho cuộc sống của con người phù hợp
với môi trường sống của mình.Tất cả các Trường phái Phong thủy đều phải tuân
theo quy luật đó.
Kinh dịch viết " Tinh Khí là vật
" , " Thiên địa yên ấm, vạn vật nảy sinh " . Hai câu đó nói rằng
nguyên tố cơ bản của vũ trụ là Khí. Khí ở trạng thái hỗ độn thì trời đất chưa
sinh. Khí trong, nhẹ nổi lên thành trời, khí nặng, đục chìm xuống thành đất. Trời
bắt đầu phân thành dương trên , âm dưới . Khi dương Khí ở trên giao hòa với Khí
Âm ở dưới thì sinh thành vạn vật. Linh Khí giao nhau sinh ra con người và vạn vật.
Cho nên Khí ở khắp nơi , tồn tại mọi lúc, tạo thành vạn vật. Chúng ta cũng cần
phải hiểu rằng : Khí này có bản chất bao quát hơn khí mà chúng ta thở hàng
ngày. Khí mà chúng ta thở hàng ngày chỉ là một dạng thù hình của Khí mà chúng
ta đang xét. Các cụ xưa có câu : " Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất
bổn " - Đó chính là tính chất đặc trưng của KHÍ mà chúng ta đang xem xét.
Như vậy đến đây bắt buộc chúng ta cần phải
có một định nghĩa cụ thể về KHÍ. Trong tất cả các sách từ trước đến nay, Khí
không được định nghĩa cụ thể mà chỉ nêu ra những tính chất cụ thể của khí như :
" Theo sách cổ để lại “Khí” gặp gió
thì tán, nghĩa là “Khí” nhẹ, lẫn vào không khí nên bị gió cuốn đi. Nếu gió nhẹ
vừa phải sẽ có tác dụng dẫn khí lưu thông, được coi là tốt. Còn gió mạnh làm
tán khí, mất khí lại là không tốt.
Sách cũng ghi “Khí” gặp nước thì dừng. Thường
thì khí trong tự nhiên vận động dựa theo sức mang của không khí, khi gặp vật cản
sẽ đổi hướng theo dòng khí. Khí gặp nước thì dừng nghĩa là nước có khả năng giữ
khí lại , khái niệm chuyên môn của phong thuỷ là “Tụ khí”. Hay nói một cách
mang tính hình tượng hơn là nước có khả năng hút khí, hòa tan khí. Nước chảy chậm
rãi, có chỗ dừng là rất tốt vì mang được khí tươi mới đến và lưu lại ở đó. Đó
là nguyên nhân để các chuyên gia phong thuỷ nhìn dòng nước chảy để dự đoán khí
vận trong lòng đất mà từ chuyên môn gọi là “Long mạch”. Tính chất của khí sẽ
khác nhau tuỳ theo sự tụ thuỷ, sức chảy mạnh yếu trong lưu thông của dòng nước…..
Như vậy trong mô hình cơ học chất lưu đề
nghị để nghiên cứu sự vận động, “Khí” được mô phỏng như là một chất lưu có các
đặc tính sau:
* Có tính tụ hoặc tán.
* Có khối lượng quán tính nhỏ, dễ bị gió
cuốn đi
* Có thể coi như độ nhớt động học thấp
* Có thể coi như có tính dính ướt mạnh với
các vật thể có độ ẩm và nhiệt độ phù hợp, đặc biệt là vật thể sống, sinh vật.
“Khí” cần lưu động nhẹ nhàng, bình ổn mới
có tác dụng tương tác tốt. Cũng giống như với các chất lưu khác, dòng chảy tầng
bình ổn là dòng chảy lý tưởng. được coi là mang sinh khí đến.
Dòng chảy hỗn tạp, chảy rối, dòng xoáy hay
các dạng dòng chảy hẹp, vòi phun, dòng xung kích đều không tốt, gây nguy hiểm.
Chúng ta có thể hình dung tính chất thủy
khí động học của “Khí phong thủy” gần giống của nước, trừ tác dụng của trọng lực,
để dễ dàng cho việc khảo sát. Dòng nước chảy siết, nước xoáy mạnh cũng tạo ra
xung khí, tạp khí. Nếu dòng nước bẩn thỉu, hôi hám thì khí cũng sẽ bị uế tạp,
không còn mang được năng lượng sống cho con người nữa." ( Thạc sỹ Hà Mạnh
Hùng ).
Theo thiển ý của dienbatn tất cả những tính chất
đã nêu ở trên chỉ là những dạng thù hình cụ thể của Khí mà chưa đi vào đúng bản
chất của Khí. Với câu : " Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất bổn
" - Đó chính là tính chất đặc trưng của KHÍ mà chúng ta đang xem xét.
ĐỊNH NGHĨA KHÍ VÀ TRƯỜNG KHÍ CỦA DIENBATN
:
Khí
trong Phong thủy là một dạng năng lượng cơ bản để sinh ra mọi hình thức thù
hình của vũ trụ và có quy luật vận động tuân theo quy luật vận động của Vũ trụ.
Một tập hợp các dòng năng lượng sẽ tạo nên một Trường năng lượng có mật độ năng
lượng thay đổi cả về độ lớn và chiều chuyển động. Trường năng lượng là dạng tồn
tại của vật chất mà các tương tác cơ bản được thực hiện thông qua nó. Năng lượng
tạo ra trường năng lượng này không phải do các hạt cơ bản như điện tử,
proton... mà là những hạt có cấu trúc từ các quark với điện tích phân số. Chúng
vẫn chưa được tìm ra. Tuy chưa tìm ra bản chất của chúng nhưng bằng nhiều cách,
chúng ta vẫn có thể đo được chúng . Trong một không gian vật lý, có thể tồn tại
nhiều trường năng lượng và các trường năng lượng này đều tuân theo Định luật bảo
toàn năng lượng. Đối với thuyết Tương đối Einstein, chúng ta có thể vắn tắt như
sau: Mỗi hệ quy chiếu quán tính đều tương đương nhau và vận tốc ánh sáng là tối
đa. Trong khuôn khổ lý thuyết Einstein, đó là tiền đề. Nên trong một hệ tiền đề
khác, thế giới khác rất có thể tồn tại vật chất nào đó có vận tốc nhanh hơn ánh
sáng. Ví dụ: Chúng ta có một Hạt có khối lượng ảo thì tự nhiên nó chuyển động
nhanh hơn ánh sáng. Trường năng lượng của chúng ta đang xem xét có chiều không
gian >= 3. Tùy theo số chiều không gian càng lớn thì tính chất của trường
năng lượng này càng tinh khiết ( nhẹ, trong ). Quy luật vận động của chiều
không gian lớn bao gồm toàn bộ quy luật của chiều không gian nhỏ và quy luật vận
động của chiều không gian nhỏ không bao gồm toàn bộ quy luật vận động của chiều
không gian lớn hơn. Trong các chiều không gian > 3 thì không còn tồn tại
khái niêm không gian, thời gian và vận tốc ánh sáng không phải là lớn nhất. Thời
gian trong các chiều không gian lớn hơn 3 có thể co lại hay kéo dài, có thể chồng
quá khứ và tương lai lên với nhau và có thể thắng được lực hấp dẫn bằng ý chí của
mình. Như vậy tại đó không có khái niệm về Thời gian.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, tất cả
mọi dạng vật chất mà chúng ta có thể nhận biết đều là những dạng thù hình của
KHÍ - Trường năng lượng đặc biệt tuân theo quy luật Âm - Dương , Ngũ hành.
Octonion và lý thuyết hạt cơ bản của GS.TSNguyễn Hoàng
Phương.
" Vũ trụ là một hệ thống sinh học cần phải có 2 phần không thể thiếu được :
1/ Phần cứng : Vật lý học với tính chất duy lý của nó .
2/ Phần mềm : Kinh dịch với tính Minh triết của nó . Ý đồ thống nhất Đông -
Tây của nhà Phật là không phải loại trừ một trong hai phía khoa học trên mà là
tìm cách gộp cả hai phía trong một sơ đồ chung "
Một vật là một Thái cực nên thái cực chia
thành âm dương. Do vậy mọi vật đều do hai khí âm - dương cấu thành. Sự đối lập
và thống nhất của Khí biểu hiện thành trạng thái vật chất . Âm - dương đối lập
và thống nhất là quy luật vận động của vũ trụ , nhưng giữa âm khí và dương khí
không phải lúc nào cũng cân bằng nhau. Chúng có thể biểu hiện nhiều hơn hoặc ít
hơn, hoặc biểu hiện thành bao dung nhau.
Âm - dương chuyển hóa gọi là biến. Cực dương sinh âm , cực âm sinh
dương. Âm dương vận hành gọi là thông - Cùng tắc biến - Biến tắc thông. Âm -
dương không biến , không thông thì trời đất không tồn tại . Sự biến hóa của âm - dương trên gọi là Đạo,
dưới gọi là Khí . Nói về vạn vật là nói về Đạo, nói về hình của vạn vật là nói
về Khí. " Nhất âm - Nhất dương chi vi Đạo " là cái lý này. Trong Phong
thủy, phần mộ gọi là âm trạch, nhà cửa gọi là dương trạch. Địa lý Phong thủy lấy
âm - dương trạch làm đối tượng nghiên cứu. Tất nhiên là chúng ta thực hiện
trong hệ tọa độ Đề các - Tức là trong không gian 3 chiều. Tuy nhiên nhiều trường
hợp , chúng ta vẫn cần phải có kiến thức về những chiều không gian >3 mới giải
quyết chính xác công việc nghiên cứu. Các phương vị trong không gian đều là âm
- dương đối lập - thống nhất. Hậu thiên Bát quái chia thành 24 sơn và hướng .
Sơn và hướng lại được chia thành âm và dương, giới hạn của chúng rất rõ không
thể lẫn lộn . Sự vận hành của Khí cũng chia ra âm - Dương , âm vận hành nghịch,
dương vận hành thuận. Tọa Sơn và lập hướng
đều phải căn cứ theo sự vượng, suy của hai khí âm - dương.
Trong vũ trụ này, cái duy nhất không biến đổi - Chính là sự biến đổi. Sự
biến đổi của Khí là vĩnh hằng, không ngừng nghỉ. Vòng chu kỳ : Trường sinh - Mộc
dục - Quan đới - Lâm quan - Đế vượng - Suy - Bệnh - Tử - Mộ - Tuyệt - Thai - Dưỡng
cứ luân chuyển không ngừng không nghỉ. Trong Địa lý thì thất sắc ( 7 màu ), cửu
Khí ( 9 khí ) biến đổi tuần hoàn trong sự dịch chuyển của thời gian , biến đổi
tuần hoàn theo mùa, biến đổi tuần hoàn trong sự thuận nghịch của Âm - Dương.
làm Phong thủy chính là phương pháp tìm cách xu cát - Tỵ hung. Chúng ta nghiên
cứu Phong thủy và áp dụng vào cuộc sống không phải là tìm vũ khí chống lại Trời,
chống lại quy luật vận động của vũ trụ mà chính là dựa trên sự hiểu biết của
mình để hòa đồng cùng quy luật vận động của vũ trụ, thuận theo quy luật vận động
của vũ trụ ngõ hầu tìm cho mình một cuộc sống an vui , hài hòa.
Quan hệ giữa những trường năng lượng đó với
con người biểu thị mối quan hệ Thiên _ Địa - Nhân là nội dung của Địa động học.
Việc xuất hiện các sóng ác xạ liên quan mật thiết tới quá trình tự cân bằng
năng lượng , cân bằng sinh thái.
" “Trên hành tinh của chúng ta sự sống
được bắt đầu và duy trì bởi các bức xạ, đồng thời cũng bị hủy diệt bởi những sự
dao động mất cân đối của nó”.
Cũng như Y học, ngoài nền Y học chính thống
ra còn một nền Y học thay thế, Y tế dự phòng (alternative medicine) song song tồn
tại với nó. Khoa học tự nhiên cũng có nhiều vấn đề chưa giải thích được, nhưng
đại đa số quần chúng bình dân vẫn xem chúng như gắn liền với cuộc sống của họ.
Là những nhà khoa học chân chính, chúng ta không nên có một thái độ thiếu khoa
học là bác bỏ thẳng thừng những điều mà chính chúng ta chưa thể lý giải được.
Trên tinh thần đó, một sự tiếp cận mới gần đây khuyến cáo ta cần phải quan tâm
đến việc mỗi người đều có liên quan mật thiết đến nơi ở của mình. Và phải làm
thế nào để có thể thuần hoá các địa điểm trên đang bị chi phối bởi những sức mạnh
hiện diện một cách vô hình: các trường hay bức xạ khác nhau, năng lượng, khí hậu
sinh học, thuỷ thổ… Đó là một thách thức mới đặt ra với những người làm công
tác khoa học, nhất là những người chuyên nghiên cứu môn Năng lượng Cảm xạ học.
Cần phải đặc biệt quan tâm đến những hiện tượng xảy ra xung quanh nơi ở của bạn
vì chúng có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của bạn. Điều cần thiết là phải làm
thế nào để có một sự đồng nhất giữa sóng rung động của bạn với sóng rung động của
chính nơi bạn ở. Đó là điều thiết yếu cho một sự hài hòa và thích hợp.
Ngày nay ta biết rằng vũ trụ là một hệ thống
gồm các yếu tố sống động tùy thuộc vào nhau, không thể tách rời ra, luôn luôn
chuyển động, vừa là yếu tố vật chất vừa là ý thức. Từ khái niệm năng lượng, nhiều
nhà nghiên cứu đưa thêm khái niệm tinh thần, tư tưởng cũng có liên quan đến thế
giới vật chất. Tính thống nhất của vũ trụ theo vật lý học hiện đại cũng gần với
quan điểm của Phật giáo về cái Bản thể, cái Một, cái Duy nhất, phù hợp với quan
điểm Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của phương Đông. Sự khám phá ra tính thống nhất,
tính tổng thể dạng toàn đồ (hologram) của vũ trụ có thể coi là 1 bước ngoặt lớn
về nhận thức thế giới quanh ta.
Trên bề mặt của trái đất có một từ trường
mà chiều của nó được xác định bằng la bàn.
Từ trường của trái đất là cái hiện hữu và
luôn vận động nghĩa là luôn cùng một hướng và cùng một giá trị ở một nơi định sẵn.
Người ta xác định địa từ trường qua các toạ độ của nó.
Vả lại, các đường giới hạn bắt buộc của từ
trường trái đất không nằm trên mặt đất. Chúng chui sâu trong lòng đất theo hướng
của vùng có mật độ từ tính cao ở cực Bắc. Góc hợp thành giữa đường ngang và trục
của kim lúc dao động tự do là vào khoảng 65o trong vùng: đó là độ nghiêng. Ta dễ
dàng tìm thấy hướng Bắc qua việc xác định hướng của bóng một sợi dây đúng lúc
12 giờ trưa. La bàn chỉ hướng Bắc từ tính tạo với hướng Bắc địa lý một góc nhỏ
gọi là độ lệch – thay đổi từ từ theo năm tháng và khác biệt theo từng vùng trên
bán cầu.
Các tọa độ này sẽ thay đổi theo địa điểm
và nếu ta thể hiện trên bản đồ từ tính các đường cong nối các điểm khác nhau mà
một trong các toạ độ này có cùng một trị số với nhau. Chúng biểu hiện các bất
thường của địa phương liên hệ với các đặc tính sinh học của lòng đất. Nơi đó được
sử dụng cho các đo lường từ tính để thăm
dò địa vật lý. Nhà Địa Sinh học dùng một máy địa từ trường để phát hiện các dị thường của từ trường bên trong một
ngôi nhà, cơ quan.
Thông thường, cường độ từ trường của các
điểm bình thường trên mặt đất cỡ 0,5 miligram. Gaus là đơn vị đo cường độ từ
trường, 1 gaus = 1.000 miligram.
Trong thời gian sóng điện từ lan toả, một
số sóng chạy dài trên đất, số khác tự biến mất, số khác thì phản chiếu vào lòng
đất ngang tầm của tầng điện ly (tầng ion hoá học).
Một số sóng điện từ khi lướt qua trên mặt
đất thì một phần do đất hấp thụ nơi mà có các dòng điện tự tạo ra ở một độ sâu
nào đó, dòng điện này càng xuống sâu càng giảm. Các sóng dài và các sóng có tần
số yếu dễ dàng xuyên thấu do vậy các dòng điện trên bề mặt đặc biệt yếu vì năng
lượng được phân bố ở độ sâu.
Đối với sóng ngắn, trái lại, các dòng điện trên mặt sẽ cao hơn và ảnh hưởng
của nó gia tăng theo tần số.
Dòng điện cũng gia tăng với tính dẫn điện từ của đất. Đất có tính dẫn điện
cao là đất ẩm ướt ở trên mặt, do đó dòng điện rung động với một cường độ mạnh
hơn.
Trong một số trường hợp, chúng có thể có tác động nguy hại cho đời sống.
Hàng ngày vào bất cứ lúc nào, cơ thể ta bị
các bức xạ chiếu vào, ngay cả lúc bình thường ta không nhận ra. Phần lớn các bức
xạ đến với chúng ta từ khoảng ngoài không gian, mặt trời, các vì sao.
Một số bức xạ khác được hình thành một
cách tự nhiên trên bề mặt của trái đất. Chúng đến phần lớn từ sự phóng xạ của
các khối đá trong lòng đất ví dụ như uranium.
Các bức xạ là một phương tiện vận chuyển
cho năng lượng tại một điểm: từ chỗ phát đến chỗ thu. Thường chúng di chuyển
theo đường thẳng dưới dạng bức xạ.
Các bức xạ vô hình là những sóng vô tuyến,
bức xạ hồng ngoại, cực tím, tia X, tia gamma, tất cả những sóng này truyền qua
không gian với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng tức 300.000km/giây.
Ngày nay,
Các nhà Địa vật lý nghiên cứu cấu tạo của địa cầu thấy rằng mọi sự bất
thường trong cấu tạo địa chất đều thường dẫn đến một sự xáo trộn ở bề mặt trái
đất, tác động đến con người. Các nhà
Thiên văn vật lý đã chứng minh thiên hà giống như sao chổi từ tính, khi di chuyển
trong không trung tạo ra các hiện tượng
bão từ, địên từ cảm ứng trong lòng đất , đại dương và trong không gian. Các Bác
sĩ Y năng lượng đã tìm thấy trong khoa Địa sinh học một lời giải đáp cho một số
tác nhân sinh bệnh. Thông thường, khi địa
từ trường thay đổi, môi trường sống bị tác động, con người dễ bị mất quân bình
và kéo theo tật bệnh. Nguyên nhân này đôi lúc mang vẻ bí ẩn vì mấy ai nghĩ đến
những hệ thống điện từ trường chằng chịt có thể làm xáo trộn cuộc sống do các
tác động cộng hưởng của trường điện từ từ bên ngoài với các dòng điện trong cơ
thể con người, nhất là khi dùng điện không đúng cách có thể gây nguy hại từ mức
độ nhẹ như : đau đầu, mất ngủ đến sinh bệnh nặng như: căng thẳng, suy nhược,
hen suyễn, ung thư . . . chưa kể đến những xáo trộn trong cuộc sống lứa đôi dẫn
đến ly hôn.
Và con người nhận ra rằng: muốn sống thỏai
mái, khỏe mạnh thì phải sống trong một môi trường vừa có tính chất hóa học hợp
lý, vừa có tính chất vật lý phù hợp.
MẠNG LƯỚI HARTMAN.
Địa sinh học hiện đại bắt đầu có vào những năm 50 nhờ Ernst Hartman, Bác sĩ
người Đức của trường đại học Heidelberg.
Bs Hartman đã phát hiện lại rằng tổ tiên chúng ta từ lâu rồi, chắc chắn là
từ thời Cổ Đại đã biết trái đất bị bao phủ với kiểu nào đó bởi một lưới sóng
điện từ trường phát ra đồng thời từ vũ trụ và từ đất Và bao phủ đồng đều khắp
quả đất, (ngoại trừ một vài vùng như Hi-mã-lạp-sơn, thì trục bắc – nam của nó
giãn xa hơn). Từ đất, lưới sóng này được gọi là mạng lưới Hartman hay mạng lưới
H. Vậy những đặc trưng chính xác của mạng lưới này là gì?
Sự cấu tạo của thế đất, sự hiện diện của dòng nước, các phay địa chất, các
dây cáp, các khối từ trường quan trọng, các bức xạ hay mọi dị thường có thể
biến đổi sự đồng thể hoá (déshomogénéisation) của khu vực, kể cả mạng lưới
Hartman: các lực đạo bị lệch và các ô chữ nhật có thể thay đổi theo chiều dài
từ 2 đến 3,5m và chiều rộng thay đổi từ 1,8m đến 2,5 m. Theo nguyên tắc, tại
một vùng trung tính, mạng lưới toàn cầu là một mạng lưới chặt chẽ giữa các mắc,
trừ trường hợp nếu có những sóng nguy hại khác hiện ra theo chiều thẳng đứng.
Nhưng địa từ trường của lực đạo của mạng Hartman giao nhau tạo thành các gút
địa sinh bệnh. Tính chung, cứ 4 điểm cho mỗi hình chữ nhật. Theo chiều thẳng
đứng của các nút địa sinh bệnh này xuất hiện một sóng độc hại vừa gây rối loạn
vừa mang tính chất lâu dài.
Người Trung Hoa cổ gọi chúng là”các lối đi của ma quỷ”. Qua hình dưới đây,
bạn có thể ghi nhận tại những giao điểm của những lực đạo của mạng lưới là
những gút được gọi là gút Hartman, những gút được các nhà địa sinh học gọi là
“những điểm gây bệnh từ lòng đất” (géopathogènes) Chúng hợp thành những hình
vuông với cạnh xấp xỉ là 21 cm, đó là nơi có yếu tố nguy hại cao nhất. Như thế
có nghĩa là những nơi đó có khả năng tạo thuận lợi cho bệnh phát sinh hay bệnh
tiến triển. Những nơi giao nhau của lực đạo này được gọi là gút lưới, còn được
gọi là gút Hartman hay gút H. Tại những nơi giao nhau này, sựrung động cực kỳ
thấp.
Vì thế nhất thiết phải tránh những gút đó. Vùng trung tính là vùng tốt, nếu
không bị nhiễu độc hại khác, là vùng nằm ở giữa các ô lưới này. Đây là điểm mà
người ta có thể hoàn toàn đặt giường ngủ
Cảm xạ phong thủy là một công cụ hỗ trợ rất
cần thiết và tuyệt vời đối với bất cứ ai nghiên cứu và thực hành Phong thủy. Nó
như một chiếc đèn chiếu sáng cho con đường nghiên cứu của mỗi chúng ta. Cảm xạ
mang lại cho chúng ta rất nhiều khả năng mà những môn học khác không làm được.
Khi luyện tập đến một mức độ nào đó, chúng ta dễ dàng cảm nhận được sự di chuyển
của những dòng Khí , những điều còn bị chôn dấu ở dưới mặt đất. Ngày xưa các cụ
không gọi là Phong thủy mà gọi là Địa lý - Tức là nghiên cứu cái lý của đất. Nếu
không hiểu rõ dưới lòng đất mình đang đứng như thể nào ? Có cái gì đang vận động,
có mồ mả, xương cốt không ? Có những phay đất dịch chuyển không ? Có những dòng
nước ngầm dịch chuyển theo phương nào thì dù chúng ta có học nhuần nhuyễn những
môn khác như Bát trạch, Huyền không cũng chỉ là cái vỏ, chưa thấu đáo tận cùng
của cái ruột Phong thủy. Phong thủy chính là tổng hợp tất cả những hiểu biết của
con người nhằm sống hòa hợp cùng thiên nhiên, tận dụng tất cả những cái tốt và
xấu của thiên nhiên cho mục đích sống của con người.Trong Tam tài THIÊN - ĐỊA -
NHÂN , con người sánh vai cùng Trời - Đất và có quyền sống sánh ngang Trời - Đất
khi hiểu rõ nguyên lý : Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất bản.
TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH. BÀI 3.
Mai táng là biện pháp xử lý xác người chết
với nhiều hình thức khác nhau. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều hình thức
mai táng như: địa táng (thổ táng), hỏa táng, thủy táng, không táng (thiên
táng), huyền táng, điểu táng… nhưng ở Việt Nam phổ biến hiện nay là địa táng và
hỏa táng.
1/Địa táng (Thổ táng).
“Địa táng hay còn gọi là thổ táng là một
hình thức mai táng của loài người. Trong các hình thức mai táng: hoả táng, thuỷ
táng, không táng, thổ táng… thì địa táng là hình thức phổ biến rộng rãi hơn cả.
Địa táng gồm có 2 loại:
– Một loại chôn cất xuống đất vĩnh viễn,
trừ phi “mả động”, nghĩa là khi trong gia đình xảy ra sự cố gì bất trắc (có người
ốm nặng, mất mùa, cửa nhà sa sút, chết bất đắc kì tử…), người ta mới phải cải
táng.
– Một loại chôn xuống đất một thời gian nhất
định (tuỳ theo tập tục quy định), sau đó bắt buộc phải cải táng (tức là lấy
xương cốt còn lại đem chôn lầ nữa ở chỗ khác hay địa điểm cũ) lần này mới chôn
vĩnh viễn”.
Địa táng hay còn gọi là thổ táng là một hình thức mai táng truyền thống của người Việt.
Hình thức này có ở Việt Nam từ rất lâu đời.
Gồm có nhiều kiểu quan tài, phổ biến nhất là quan tài hình vò (hay chum) và
hình thuyền có trong nền văn hóa cổ Sa Huỳnh, Đông Sơn và trãi khắp vùng Đông
Nam Á.
– Quan tài hình vò (còn gọi mộ vò, mộ
chum): người xưa dùng vò để mai táng người đã khuất. Ở Sa Huỳnh, lần đầu tiên
người ta lại sử dụng thuật ngữ mộ chum. Ở Làng Cả, người Đông Sơn lại dùng nồi
gốm, vv. Vò hay chum được để hở hoặc đậy bằng những vung đặc biệt hoặc các hiện
vật gốm nhưng cùng loại hình. Có trường hợp trong một chum, vò to còn có nhiều
vò chum nhỏ đặt bên trong. Một số nhà nghiên cứu đề nghị nên sử dụng thuật ngữ
mộ có quan tài gốm. Khi dụng cụ không vừa chiều dài của thi thể, người xưa có
thể ghép 2 cái, hoặc đục đáy cái thứ ba để lồng vào giữa. Những quan tài được
ghép bằng hai ba hiện vật thường được đặt nằm ngang. Loại hình này có phạm vi
phân bố rất rộng vào thời đại sắt sớm ở khắp vùng lục địa và hải đảo Đông Nam
Á. Trong thời đại đá mới, chúng tồn tại phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới nhất
là đối với những cư dân chuyên làm nông nghiệp.
Chum táng đặc trưng Sa Huỳnh bằng đất
nung. Hình cho thấy chum đang phát hiện, còn chôn trong đất, phần miệng bị bể,
bên trong có vật táng.
– Quan tài hình thuyền: “người xưa dùng
quan tài hình thuyền để mai táng. Còn gọi là quan tài thân cây khoét rỗng. Quan
tài là một đoạn thân cây khoét rỗng lòng, chừa hai đầu hay ghép thêm hai miếng
ván. Nắp quan tài có mộng hay chốt để khớp với quan tài. Trong đồ tuỳ táng thường
có mái chèo. Phổ biến trong khu vực văn hoá Đông Sơn ở các vùng trũng. Ở Việt
Nam hiện nay đã có gần 30 di tích cóquan tai hình thuyền thuộc văn hoá Đông Sơn
được nghiên cứu. Nổi tiếng như khu mộ Việt Khê (Hải Phòng), Châu Can (Hà Tây).
Tàn dư của loại quan tài này vẫn còn tồn tại nhiều nơi ở Việt Nam. Quan tài
hình thuyền cũng được phát hiện ở Tứ Xuyên (Trung Quốc), Thái Lan, Philippin .
2/Hỏa táng.
Còn gọi hoả thiêu. Đây là phương pháp xử
lí thi hài bằng cách đốt cháy thành tro (dùng gỗ, dầu mazut, dầu hoả, khí đốt;
dùng điện là tốt nhất); tro của hài cốt tuỳ theo phong tục của cộng đồng mà cho
vào bình kín để thờ cúng trong gia đình hoặc nơi thờ tự của tôn giáo như chùa,
vv. hoặc để ở một nơi công cộng hoặc theo nguyện vọng của người quá cố (ví dụ
như rải ngoài thiên nhiên).
Thuận tiện: sạch, gọn, không gây ô nhiễm
môi trường, không phải cải táng, không tốn đất mở rộng nghĩa địa; tiện đối với
trường hợp người chết ở nước ngoài không thể đem thi hài về nước.
Bất tiện: phi tang nếu là một vụ chết người
có nghi ngờ về mặt pháp lí, không điều tra được nguyên nhân gây tử vong. Trước
khi cho phép hỏa táng phải có giấy chứng nhận của thầy thuốc điều trị, của cơ sở
y tế là chết tự nhiên; nếu có nghi vấn phải làm giám định y pháp trước khi hỏa
táng.
Ở Việt Nam, trước đây tục hỏa táng không
phổ biến lắm, chủ yếu ở người Khơ Me theo đạo Phật. Mỗi phum, sóc người Khơ Me
có nơi hỏa táng riêng, nhiên liệu chủ yếu là củi. Trước khi hỏa táng, người ta
tiến hành những nghi thức có tính tôn giáo nhằm đưa hồn người chết về thế giới
bên kia. Hiện nay một số nơi ở nước ta như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… đã bắt
đầu áp dụng hỏa táng.
Trong những tư liệu khảo cổ học cũng cho
thấy tục hỏa táng đã có trong nền văn hóa Sa Huỳnh vì tìm thấy những mộ chum chứa
tro cốt. Hiện vẫn chưa khẳng định được đây xuất phát từ tín ngưỡng bản địa hay
du nhập từ bên ngoài.
3/Huyền táng (táng treo)
Hay còn gọi là tục táng treo. Một kiểu
chôn người chết không phổ biến rộng rãi như địa táng nhưng xuất hiện rất nhiều
trong thời xưa. Theo cách này, người ta để thi thể người chết lộ thiên, hoặc để
nằm trên một tấm phên, hoặc để nằm trong quan tài hình thuyền. Có nhiều cách để
quan tài như:
– Đặt quan tài trên chạc ba một cái cây to
hoặc treo lủng lẳng trên cành cây.
– Đặt quan tài dưới vòm mái đá hay trong
hang đá ở lưng chừng núi, có khi đặt nằm sâu trong hang động. Những hang động
thường nằm gần sông, có rào chắn cẩn thận, là hang thiên tạo hay do con người
đào khoét. Hang được ngăn ra nhiều phòng, tạo chỗ để nhiều quan tài.
– Dùng những đoạn gỗ to ghim vào vách núi
làm điểm tựa cho quan tài hoặc cắm một đầu quan tài vào những hốc đá trên lưng
chừng núi,.
– Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều di chỉ
về hình thức huyền táng này ở các dân tộc thiểu số miền núi và trung du như:
quan tài treo ở động Ma, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Hang đá với
nhiều mộ treo ở xã Tân Lập, huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La. Những rừng ma của các
dân tộc ở Tây Nguyên nổi tiếng các làng Biên Loong, Đak Xay, Dục Lang và Vai
Trang của dân tộc Giẻ-triêng ở xã Đak Long, huyện Đak Glei tỉnh Kon Tum … Hiện
nay, táng treo không còn nữa vì tục này gây ô nhiễm môi trường, bệnh dịch…
4/Thủy táng.
Là hình thức thả trực tiếp xác người chết
xuống sông, biển, hồ… hiện nay hình thức này không còn vì gây ô nhiềm môi trường.
Tuy nhiên trong những trường hợp bất đắc dĩ vẫn còn sử dụng. Nó liên quan nhiều
đến điều kiện và môi trường sống cũng như ý nghĩa tâm linh của những cư dân sử
dụng hình thức này. Thủy táng không chỉ có ở Việt Nam mà khá phổ biến ở những
cư dân ven biển, trên các đảo nhỏ ở vùng Đông Nam Á (cả những vùng thuộc văn
hóa Đông Nam Á cổ đại).
Hình thức này cũng xuất hiện trong tác phẩm
văn học “Mùa hoa cải bên sông” của nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã được đạo diễn
Khải Hưng chuyển thể thành phim “Lời nguyền của dòng sông” với hình ảnh thủy
táng người vợ của lão chài họ Phạm. Hay bộ phim “Mùa len trâu” do Nguyễn Võ
Nghiêm Minh làm đạo diễn với hình ảnh thủy táng người cha của Kìm giữa đồng nước
mênh mông, đồng thời bộ phim này có hình ảnh cả tục táng treo trên cây, khi nước
xuống mới đem chôn (mặc dù không đúng thật 100%). Điều này phần nào thể hiện
cách thưc mai táng chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên.
5/Thiền táng (tượng táng).
Thiền táng (táng trong tư thế ngồi thiền)
hay Tượng táng (làm thành tượng để táng), là một loại hình rất hiếm hiện nay chỉ
được tìm thấy ở Trung Quốc và Việt Nam. Đặc biệt chỉ thấy ở những nhà sư Phật
Giáo. Các tượng nhà sư vẫn còn nguyên vẹn xương cốt, nội tạng… được đặt trong
tư thế thiền định. Đây là một hình thức táng vẫn đang dược nghiên cứu vì sự đặc
biệt của nó.
Ở Việt Nam có hai trường hợp thiền tảng nổi
tiếng là của nhà sư Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, tức Thành Đạo Tự,
thuộc làng Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
“Theo truyền thuyết trong dân gian có nói
rằng là hai thiền sư vào nhập thất có dặn là ta vào nhập thất 100 ngày, có gõ
mõ niệm phật, hết 100 ngày thì toàn thân sẽ khô đi, thơm tho, nếu thực sự như
thế thì để nguyên còn nếu có mùi như mọi người thì đem chôn… Đến nay di hài của
hai nhà sư vẫn còn được lưu giữ theo thế ngồi thiền”.
Dienbatn xin viết chi tiết về hình thức Địa
táng thường thấy ở Việt nam.
Trong cùng một đất nước, nhưng ở 2 miền Bắc
và Nam Việt lại có hình thức Địa táng khác nhau.
Tại miền Nam, chủ yếu là chôn một lần và
không cải táng. Trước kia, khi trong nhà có người chết, gia đình thường “ đào
sâu, chôn chặt” phía trước nhà. Người ta thường sử dụng các loại gỗ chịu nước
như cây Sao, cây Sến, lấy nguyên thân cây lớn, xẻ một tấm nắp và tấm còn lại đục
rỗng để làm quan tài. Gỗ Sao, Sến chịu nước rất tốt nên thường được làm tàu ,
thuyền. Những cỗ quan tài làm bằng Gỗ Sao, Sến thường tồn tại dưới đất đến vài
trăm năm. Đặc biệt tấm nắp quan tài rất dày nên hầu như không bị trường hợp bị
mục sụp xuống mà người ta gọi là “ sụp ván Thiên “. Người miền Nam đa phần khi
chôn cất không nhờ Thày Phân Kim – Điểm Hướng, mà chỉ đặt ang áng theo địa
hình. Ngày nay , tại miền Nam vì các loại Gỗ Sao, Sến hiếm dần nên hình thước Hỏa
táng được sử dụng rộng rãi.
Tại miền Bắc Việt nam, trước giờ vẫn chủ yếu
là chôn xong một thời gian đủ cho xương cốt sạch sẽ thì tiến hành Cải táng, cho
xương cốt vào tiểu, quách rồi đem chôn tại khu đất mới. Khu đất chôn đầu tiên
thường gọi là khu Hung táng.
Những gia đình giầu có và có địa vị cao
trong xã hội còn có tục Địa táng gần giống với miền Nam nhưng làm quy củ hơn. Đó
chính là tục tẩm , ướp xác và chôn luôn một lần. Đây là một quy trình cực kỳ phức
tạp và đòi hỏi chi phí rất lớn, cần có Thày Địa lý và Thày Pháp giỏi kết hợp.
Quan tài để dùng trong trường hợp này đa
phần làm bằng gỗ Vàng tâm rất dày, nhiều trường hợp sử dụng nguyên một khúc gốc
cây Vàng tâm cổ thụ.
Gỗ vàng tâm là một trong số những loại gỗ
vô cùng quý, nó được sử dụng chủ yếu cho những vật dụng mang tính tâm linh như:
quan tài, đồ thờ,… ỗ vàng tâm là một loại sản phẩm từ cây Vàng tâm hay
còn được gọi là Cây mỡ (theo dân gian) và nó là một loại thực vật nằm trong họ
Mộc Lan.
Gỗ vàng tâm là một loại gỗ tốt với những đặc
điểm như: khó biến dạng, nứt nẻ khi gặp thời tiết hanh khô, hạn chế được mối mọt,
độ bền của nó vô cùng cao với tuổi thọ lên tới tận hàng nghìn năm.
Ngoài ra, gỗ vàng tâm có đặc tính khá nhẹ,
thơm, có độ bền cao trong môi trường nước, rất thích hợp để làm các đồ thờ
cúng, tiểu, quan tài, quách,…
Gỗ vàng tâm được lấy từ một loại cây cũng
có tên là Cây Vàng tâm, đây là một loại cây thân gỗ với kích thước lớn từ 25 đến
35 m và đường kính rộng từ 74 đến 85cm. Tốc độ tăng trưởng của cây Vàng tâm ở mức
trung bình và nó chỉ được tái sinh bằng hạt. Thời điểm ra hoa của loại cây này
rơi vào khoảng tháng 3 tháng 4.
Những vùng có Vàng tâm tại Việt Nam đó là:
Nghệ An (Quỳ Châu), Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang Quảng Bình (Ba Rền).
Với những đặc điểm và tính chất như: mùi
thơm đặc biệt, độ bền đến hàng nghìn năm, chịu được nơi ẩm ướt lẫn thời tiết
khô,… nên rất thích hợp để làm quan tài.
So với những loại gỗ khác, nó có nhiều đặc
tính và giá trị về mặt công dụng hơn. Những loại gỗ khác thường sẽ dễ bị mối mọt
đào khoét hay dễ bị ảnh hưởng với những tác động của môi trường xung quanh.
Để tránh nhầm lẫn gỗ Ngọc Am, gỗ lát, gỗ dổi
thì gỗ vàng tâm có đặc tính xốp hơn. Khi đem gỗ vàng tâm đi đốt, ta sẽ ngửi thấy
mùi thơm đặc biệt của gỗ. Đồng thời, sẽ có tiếng lép bép khi đốt thi thoảng xì
ra như một chiếc que diêm cháy. Có thể nói đây là đặc điểm quan trọng nhất giúp
chúng ta phân biệt được tính thật giả của Gỗ vàng tâm.
Ngoài ra, sau khi làm quan , quách bằng gỗ
vàng tâm, thường có độ dày từ 10 – 20 cm , tùy điều kiện của gia đình mà người
ta thường ghép vào mặt bên trong một lớp gỗ Ngọc Am.
Gỗ Ngọc Am của dienbatn.
(Phần
này dienbatn có sử dụng tài liệu và ảnh của PGS.TS NGUYỄN LÂN CƯỜNG.)
Gỗ Ngọc Am dùng làm quan tài, hoặc
nếu sử dụng tinh dầu Ngọc Am bôi lên xác thịt người đã chết thì đến cả trăm năm
xác thịt vẫn tươi nguyên… quần áo niệm vẫn còn nguyên không hề rách nát. Khi
khai quật mộ lên có khi cách xa hàng trăm mét vẫn ngửi thấy mùi thơm thoang
thoảng, tuyệt nhiên không có mùi gây gây của xương thịt người. Người được chôn
cất được tẩm liệm theo phương pháp này được coi là chôn vĩnh viễn, không cần
cải táng.
Trên thị
trường hiện nay có rất nhiều loại tinh dầu với thành phần chiết xuất đa dạng,
mang đến những tác dụng tích cực cho sức khỏe và làm đẹp. Trong đó tinh dầu Ngọc
Am là một trong những sản phẩm cực kỳ tốt nhưng có giá khá đắt nên vẫn chưa được
dùng phổ biến.
Ngọc Am là một cây gỗ quý với rất nhiều công dụng khác nhau, cây này chỉ
có ở vùng núi cao tại một số tỉnh Tây Bắc nước ta. Hiện nay gỗ Ngọc Am ngày
càng trở nên khan hiếm nên giá trị kinh tế cũng rất cao.
Người ta đã nghiên cứu và chiết xuất ra loại tinh dầu gỗ Ngọc Am với rất
nhiều công dụng tốt cho sức khỏe, hỗ trợ làm đẹp.
Gỗ Ngọc Am rất quý, quý từ trong cái tên (am là nằm sâu trong lòng đất,
ngọc am là ngọc trong đất) đến công dụng của nó. Chính vì vậy mà trong quá
trình chế tác ra tượng, đồ thờ, đồ trang trí đắt tiền, người ta sẽ giữ lại gỗ vụn
và mùn cưa của Ngọc Am để chưng cất ra Tinh dầu Ngọc Am. Thành phần chính của
Tinh Dầu Ngọc Am là: α-cedrene (16.9%), cedrol (7.6%), and β-cedrene (5.7%). Gỗ Ngọc Am từ lâu đã nổi tiếng bởi công dụng của tinh dầu có thể ướp xác
hàng nghìn năm không bị mối mọt. Không biết đó là câu chuyện có thật hay chỉ là
những lời đồn thổi của giới buôn gỗ chuyên nghiệp vùng Hoàng Su Phì. Nhưng sự
thật đang diễn ra là người Trung Quốc vẫn trả giá cao khi ai đó có Ngọc Am để
bán. Các nhà khoa học của Nhật Bản sau khi nghiên cứu tinh dầu Ngọc Am đã kết
luận tinh dầu Ngọc Am có độc tính với tế bào, gây đông vón protein tế bào ở người
và động thực vật nên gỗ và dầu Ngọc Am chỉ thích hợp cho việc bảo tồn tế bào, bảo
tồn xác ướp theo kinh nghiệm của người xưa. Đó cũng là lý do vì sao trước đây người ta
không làm các đồ vật bằng loại gỗ này bởi độc tính quá cao. Nhưng dầu ngọc am không được nhiều nên người ta nghĩ cách làm giả, dùng
tinh dầu thông và pơ mu trộn với một lượng nhỏ ngọc am rồi đem bán.
Tinh dầu Ngọc
Am của dienbatn,
Một vấn đề quan trọng nữa khi ướp xác là việc bó xác. Người ta thường bó xác rất cẩn thận và rất nhiều lớp bằng một loại vải trắng thường sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc từ những loại cây thiên nhiên như cây gai, cây bông và cây lanh. Vải thổ cẩm được dệt hoàn toàn thủ công. Loại vải này thường phải mua từ bên Lào hay của người dân tộc. Sau khi bó xác cẩn thận hàng trăm lớp vải, người ta dùng mật ong rừng tẩm lên các lớp vải cho kín , không để khí lọt vào. Sau khi mật ong khôn, người ta mới cho xác ướp vào quan tài Vàng tâm có lót Ngọc am. Dưới quan tài thường có một tấm ván bằng vàng tâm có khoan chùm sao Thất tinh ( Chòm sao Đại Hùng ) . Lớp gạo nếp rang phủ bên dưới tấm ván khoan chùm Thất tinh .
" Cho đến nay ở Việt Nam đã phát hiện được
khoảng 52 mộ hợp chất , nhưng phần lớn tập trung ở miền Bắc . Có những mộ đã
được khai quật, có mộ bị kẻ gian phá trộm để tìm kiếm hiện vật hoặc một số khác
chỉ mới phát hiện ( xem phần phụ lục ) . " Mộ hợp chất " còn gọi là
" Mộ trong quan ngoài quách " , " Mộ ướp xác ", " Mộ
quách tam hợp ", " Mộ bao kín " , " Mộ có xác " , hay "
Mộ cổ " ...Theo chúng tôi , mộ hợp chất là cách gọi tương
đối hợp lý và dễ hiểu hơn cả . Nếu mộ hợp chất có tường bao quanh 3 mặt , bên
trong là mộ đôi thì chúng tôi gọi là " Mộ hợp chất song táng " . Loại
mộ này chưa phát hiện ở miền bắc , chỉ có ở phía Nam của nước ta . Mộ hợp chất
có một đặc điểm chung nhất là có quách hợp chất bao ở bên ngoài . Quách hợp
chất mà người ta gọi là " Tam hợp " thông thường gồm 3 chất : vôi ,
cát , mật . Ngoài ra người ta còn trộn thêm vỏ nhuyễn thể đã bị hun, đốt nghiền
nhỏhay giấy bản hoặc nước cháo loãng ...Người ta còn dùng nước cây Niệt Dó trộn
lẫn có tác dũng như chất hồ làm liên kết các hợp chất với nhau , khiến cho nước
bên ngoài không thấm vào được . Chính vì vậy người ta gọi là mộ hợp chất .
Một số mộ lại có quách gỗ bao kínầi mặt của quan tài . Xác được giữ lại chính
nhờ các loại dầu ướp xác và quan , quách kìn , tạo môi trường yếm khí .
TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH.
BÀI 2.
II. NGUYÊN LÝ TRẤN TRẠCH VÀ
THU KHÍ VỀ ÂM DƯƠNG TRẠCH.
1.ỨNG DỤNG BÁT QUÁI TRẬN
ĐỒ TRONG VIỆC ĐẶT MỘ PHẦN.
PHẦN 1 : SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ LÝ THUYẾT TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .
Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa
thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm
Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống
động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu
an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn
vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới
minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là
cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế
,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới
Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng
Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh
),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà
Lạc.
NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ.
Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết
nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần
1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên
ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là
phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm
hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy
",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất
và nhân thể.
Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương
trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư
phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn
tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận
chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp
và đa dạng.
Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng
mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:
-Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước.
-Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia.
-Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị.
-Hóa giải theo ý muốn.
Biết được Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ.
-Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu...
-Trị liệu bằng Trường Sinh học.
Ngày xưa ở Trung quốc,Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây dựng,kiến
trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.
1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nước,con
người..
2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm
ba nguyên tắc :
a/Trời chưởng quản Địa,Nhân.
b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con người,nên phải biết vận dụng
ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống.
c/Vận mạng ,hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết,tức
là Âm trạch.Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết
thì xem cái mồ ".
3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào).
4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng
có ảnh hưởng tốt đến mạch khí.
Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu
tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của
Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hưởng đến hoạt động
của Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu
cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng tử
thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt,sức khỏe dồi
dào,kinh tế phát triển lên mãi.
Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm
-Dương-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải
nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ
vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định.
PHONG THỦY.
Phong : Là Gió.
Thủy :Là nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có
sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi
thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng
với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta
thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói
:Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là
Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là
Tịnh Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết
:"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long
môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch
sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ
Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các
núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất
hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Nghiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn
phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn
chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt
tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết
thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng
:"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý
châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua
cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành
Linh bảo địa".
Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha
truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô
hộ Bắc thuộc.
TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống
vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách
THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá
trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người
làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khí của chính mình.Các Phong Thủy Sư không
hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh
nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo
(Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục
ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn
lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn
bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà
tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương
thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan
tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con
cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái
ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế
thì ắt họ phải giành những huyệt Đế vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu
họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ
sứ đô hộ nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người
đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ
Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi
yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người
muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ
thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa
đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc.
HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn
bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là
hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì
:"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa
hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung
cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến
".
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an
táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu
lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả
trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu
lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một
cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ
của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời
Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu
tập được Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt
mới được.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng
:"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái
tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con
người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như
Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương
cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội
còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG
" của người xưa dạy quả không sai.
Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn,xem tinh
tú trên trời.Sao Tử vi ở phương Bắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở
phương Nam;Sao Thái vi ở phương Tây,nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám
phương.Lấy tứ chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long,và bốn cung Chấn -Tốn
-Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ).Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi
làng nào đó,thấy cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa
,dị thảo thì phải biết đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ
vệ sơn chạy đến đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này,xem cục thế
lớn,nhỏ,tốt xấu.Sau cùng quan sát xem tính tình,ăn ở của dân địa phương nơi đây
thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long.
Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương
hỗ với nhau,Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ
thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta
".Tóm lại thuật Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán,nhìn thấy những điểm
then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ.
Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy
Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự
thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân
ly,hội hợp của tụ và tán.
Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa
mạch hoạt bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.Ðịa mạch
xuất hiện ở giữa,xung quanh có Sa trướng trùng trùng.Sa trướng của nó có gần có
xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ
Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế
cử đỉnh,có chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn,khi
Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc ,thì Ðịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền
song song mà ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tương ứng với
Tinh thần,tựa hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp
đẽ,muôn hình vạn trạng.Minh đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn
lượn xung quanh,bốn phương tám hướng không có nơi nào bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ
lạc kết Huyệt ở nơi này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp,lồi
lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp
lại,Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy
ngoài đều ôm ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội.Nơi được như
vậy được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy."
Như vậy chúng ta thấy rằng , việc đầu tiên của một nhà Địa lý - Phong Thủy
là phải " cân " được Phúc đức của Gia chủ mà hãy chọn Địa Huyệt cho
tương xứng . Nói nôm na là nếu Phúc đức của dòng họ người ta mới như nguồn điện
110 v thì phải đặt vào Địa Huyệt có tầm cỡ 110v , nếu Thày tham hoặc thân chủ
tham , chọn Địa Huyệt có năng lượng 220 v , thì lợi thành gia hại , có khi là
tuyệt diệt cả dòng họ người ta . Thày thuốc lỡ tay khi mổ bất quá chỉ thiệt hại
một mạng người . Thày Địa Lý vì chủ quan hay sơ xuất , thậm chí làm hại cả họ
nhà người ta . Do vậy , cả Thày và Gia chủ phải hết sức cẩn thận từng ly từng
lý , phải soi cho rõ ngọn nguồn hãy bắt tay vàp Phân Kim , Cắm Huyệt .
VỀ TRẬN ĐỒ
BÁT QUÁI :
Đã có nhiều lần người viết đề cập đến Trận đồ Bát quái này. Tên đầy đủ là BÁT
QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN. Tục truyền rằng trận đồ này do hậu duệ của Khổng Minh Gia
Cát Lượng lưu truyền lại từ xưa qua bao thăng trầm của dòng họ. Trận pháp này
chỉ truyền lại cho đời sau, mỗi đời một người nắm giữ. Sau này vì một lý do nào
đó lọt ra đến ngoài, nhưng số người nắm giữ được bí mật này cũng rất ít. Sư phụ
của người viết là một trong số những người được truyền lại và tiếp tục truyền
lại cho người viết trận đồ Bát quái này. Vì không được phép phổ biến nên người
viết chỉ có thể nói sơ qua một chút để các bạn hình dung. Đây là một trận pháp
áp dụng theo Bát môn có các cửa : Hưu - Sinh - Thương - Đỗ - Cảnh - Tử - Kinh -
Khai. Trận đồ này áp dụng theo thuật số của Hà đồ - Lạc thư với hai vòng quay
thuận - nghịch theo Thời gian. Trận đồ này bao gồm tổng hợp những thủ thuật
dùng trong Phong thủy, Dịch lý, Thái ất.... với rất nhiều loại Linh phù, Chú
của Tiên gia...Thường khi thực hiện, Pháp sư dùng 9 hũ bằng gốm, đặt theo 9
phương vị của Trời đất. Trong 9 hũ đó chứa đựng 5 thứ kim loại : Vàng - Bạc -
Đồng - Chì - Sắt và rất nhiều loại Linh phù Trấn trạch ( Âm hoặc Dương trạch ).
Trận đồ này chỉ được phép thực hiện trong một số ngày nhất định mà thôi. Người
ta có thể dùng đèn cầy , nhang , đá hay bản thân người để thực hiện Trận đồ này
tùy theo mục đích công việc. Công dụng của Trận đồ này qua hàng ngàn năm đã
chứng tỏ uy lực mạnh mẽ của nó : Dùng trấn Âm , Dương trạch ( kể cả Chùa chiền,
nhà cửa, Kinh thành, hoá giải được những Trấn yểm...). Người viết chưa đủ Năng
lượng để thực hiện những Trận đồ với quy mô lớn, nhưng có dùng để Trấn trạch và
hoá giải những cuộc đất xấu, những ngôi mộ bị Trùng tang liên táng hoặc phát
sinh những việc xấu sau khi tang... đều thấy hiệu quả rõ rệt. Đã từng có hai
lần, trong hai căn nhà có thực hiện Trận đồ Trấn trạch, khi bị kẻ trộm viếng
thăm, do tác dụng của Trận đồ xoay chuyển , kẻ trộm vào được trong nhà, nhưng
như bị u mê, không biết được đường ra, mặc dù một nhà thì chìa khóa cửa còn cắm
ở trong ổ, một nhà thì để cửa trống. Hai tên trộm, một tên bị hàng rào đè giữ
lại và bị bắt ( Tại Nghệ an ), một tên khi sực tỉnh phải nhẩy từ tầng hai xuống
bị què chân (Tại Hà Nội ). Đây là hai chuyện có thật 100 %, nếu bạn nào quan
tâm , người viết sẽ cung cấp địa chỉ để tìm hiểu. Trận đồ Bát môn này quay đủ
360 độ theo thời gian theo hai vòng thuận nghịch nên có thể hóa giải được Cửu
tinh của Huyền không . Lý thuyết về Trận đồ rất phức tạp , người viết không nêu
ra ở đây.
Có lần người viết kết hợp với Thiên sứ đi làm mộ cho một
Gia đình hậu duệ 9 đời của Mạc Thiên Tích. Ngôi mộ này, không hiểu lý do gì, cứ
mỗi lần đắp lên , xây xi măng cẩn thận , nhưng chỉ ít ngày sau lại bị sụp và
chỉ sụp ở một góc đầu mộ. Sự sụp mộ này kéo theo tình trạng thê thảm của người
con trai lớn trong gia đình. Người viết cùng Thiên sứ khảo sát thấy rằng ngôi
mộ nằm bên cạnh một dòng nước chẩy ngầm phía dưới và chính hiện tượng này gây
sụp phần mộ. Hai anh em không biết tính làm sao để có thể ngăn cản dòng nước
ngầm đi ngang qua đầu mộ. Bàn đi , tính lại mãi , cuối cùng người viết quyết
định dùng BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN để hóa giải. Lúc này , người viết mới được Ân
Sư truyền dạy môn này , thật tình cũng không được tin tưởng cho lắm. Nhưng vì
không thể có cách nào khả dĩ hơn nên hai anh em quyết định thực hiện BÁT QUAI
THIÊN ĐỒ TRẬN này để cứu nguy cho thân chủ của mình. Sau khi chọn được ngày
tháng kỹ lưỡng , hai anh em cùng Gia đình họ Mạc bắt tay trấn yểm ngôi mộ.
Thiên sứ có bấm một quẻ : Nếu Trận đồ thành công thì sau khi Trận đồ Trấn yểm
được thực hiện , khoảng 30 phút sau , tại địa điểm bố trí Trận đồ sẽ có mưa to.
Tất cả mọi người đều không tin vì lúc đó đang mùa khô thì làm sao mà có mưa cho
được???
Sau khi bố trí xong mọi việc , người viết bắt đầu thực hiện việc trấn yểm theo
đúng bài bản mà Ân Sư đã truyền dạy. Công việc được tiến hành tốt đẹp trong
khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Sau đó về một quán bia gần bên cạnh đợi Trời mưa.
Sau 25 phút Trời vẫn cứ nắng chang chang , người viết và Thiên sứ tưởng chừng
không phải uống bia Heineken nữa mà là đang uống những viên Kí ninh. 26, 27 ,
28 phút trôi qua trong lo âu , hồi hộp. Tới phút thứ 29 , bỗng trên đầu bắt đầu
vần vũ một đám mây đen và sang phút thứ 30 , Trời đổ mưa ầm ầm. Điều kỳ lạ là
đám mưa chỉ xẩy ra trong vòng bán kính 500 m , xung quanh Trận đồ Trấn yểm. Có
lẽ trong cuộc đời của người viết và của cả Thiên sứ , chưa bao giờ có được một
trận mưa đáng ghi nhớ như thế. Trời đã không phụ lòng người , lời cầu xin đã
thấu tới tai Ngọc Hoàng Thượng Đế. Rồi từ đó về sau này , ngôi mộ của dòng họ
Mạc không còn bị sụp nữa , con cháu bắt đầu làm ăn khá dần. Đây cũng là một kỷ
niệm đẹp của người viết về một Trận đồ Trấn yểm.
TỔNG KẾT VỀ VIỆC THU KHÍ – TRẤN ÂM DƯƠNG TRẠCH.
BÀI 1.
MỞ ĐẦU .
Trong thực tế ngày nay , với xu hướng Đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ, việc
các Phong thủy sư đi tìm kiếm Long mạch hay Huyệt trường là một điều vô vọng.
Mặt khác tại một số nơi còn hoang sơ , dù theo đúng các phương pháp Long –
Huyệt – Sa - Thủy thì vẫn còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến Trường khí của Âm –
Dương trạch. Tạm thời có thể nêu ra một số việc cần lưu ý, đó là :
* Cuộc đất mà từ trước đã có các thày Phong thủy, do chưa tụ đủ Phúc hoặc
chưa tìm được người đủ phúc mà trao tặng nên dùng thuật Xích Long thu giữ để
không ai có thể đặt mộ vào khu vực đó được.
* Cuộc đất bị người Tàu trấn yểm tàn phá Long mạch
*Cuộc đất từ ngày xưa đã có mộ người Tàu đặt ngầm ở dưới hoặc là khu vực
chôn dấu của có Thần giữ của coi giữ.
* Cuộc đất nằm trên những phay đất di chuyển hoặc có những dòng sông nước
ngầm chảy ở bên dưới. Có nhiều khu đất rất đẹp về hình thế, nhưng do ở sâu phía
dưới ( thường từ 50-90 m ) có những dòng sông ngầm ( nóng hay lạnh ) chảy bên
dưới rất xiết và tạo ra một vùng trường Khí đầy ác xạ cũng rất khó hóa giải.
Thông thường những Phong thủy sư khi đi tầm Long cắm Huyệt chỉ để ý đến những
dòng nước ở phía trên mặt đất, hầu như từ xưa đến nay chưa có một tài liệu nào
nói đến những dòng nước ngầm, những hang động ngầm dưới đất. Trong quá trình
điền dã, tìm hiểu, dienbatn thấy những vấn đề đó hết sức quan trọng và thực tế
phải dựa vào những số liệu, những mũi khoan thăm dò Địa chất Thủy văn mới có
thể nhìn nhận được thấu đáo cuộc đất mình đang xem xét.
Để có thể hóa giải những vấn đề trên, các Phong thủy sư phải am hiểu thật
nhiều môn học như : Kinh dịch, Thái Ất dương minh , Độn giáp , Địa lý
về Âm trạch, Bát diệu thủy pháp và tam hợp ngũ hành, Tý Ngọ lưu trú và Linh quy
bát pháp, Cảm xạ địa khí, phải nghiên cứu và thực hành thuần thục các loại bùa
chú của Tiên gia, của Mật tông.....
Đó là một kiến thức thật sự đồ sộ đòi hỏi nhiều thời gian, sự đam mê giành
cả cuộc đời.dienbatn và một vài đạo hữu cùng khóa đã bỏ ra gần 40 năm nghiên
cứu những điều đó, nay đã bước vào tuổi về chiều, tóc bạc, chân chồn mà nhiều
khi vẫn phải tự thú nhận rằng : Hầu như chưa biết gì. Những gì đã làm chỉ là
gắng gượng để đền đáp sự yêu quý của thân chủ, Phúc chủ - May thày, chỉ cầu mong sao cho
gia chủ đủ phúc để mình được hưởng chữ may là mãn nguyện lắm rồi.
Sau khi đã tìm cách hóa giải được những trở ngại trên khu ÂM – DƯƠNG
trạch , việc cần làm ngay là phải tạo được một hàng rào tâm linh
trên khu huyệt mộ để các tương tác xấu khác không xâm phạm vào được. Việc này
giống như chúng ta đã giải tỏa được mặt bằng, ngay lập tức chúng ta phải xây
dựng hàng rào để tránh bị tái chiếm hoặc để ngăn chặn xì ke, ma túy, dân vô gia
cư xông vào lấn chiếm.
Từ xưa, kinh nghiệm về trấn trạch cả âm phần và dương phần, các Pháp sư,
Phong thủy sư có rất nhiều kinh nghiệm và có rất nhiều sách cổ nói về vấn đề
này.
Các Phong thủy sư sau khi đã thực hiện đầy đủ những bước ở trên thường có
một động tác là thu khí của cả khu vực về khu vực ÂM – DƯƠNG trạch mình đang
làm. Hầu như không có sách nào nói về vấn đề này, dienbatn trong quá trình đi
ta bà điền dã được một Ân Sư chỉ dạy, không dám dấu làm của riêng, xin chép ra
để giữ gìn cho đời sau.
Để làm được điều này, Phong thủy sư phải nhận biết được ngũ hành, sắc thái
và đường đi của dòng Sinh khí trong khu vực đặt Huyệt mộ.
Sau khi rung động thư giãn, chúng ta đã loại bỏ được tất cả các tạp niệm ,
chúng ta tiếp tục đến việc nâng Khí, gọi màu. Khi chúng ta rung động đến khu
vực đỉnh đầu là Luân xa 7 và xuất hiện màu chàm là chúng ta đã hòa đồng được
cùng với Vũ trụ. Khi đó con mắt thứ 3 của chúng ta được mở ra và con người thực
sự bước vào chiều không gian thứ 4, thấy được những điều thiêng liêng . Con mắt
thứ 3 sẽ cho thấy được ngũ hành, sắc thái và đường đi của dòng Sinh khí trong
khu vực đặt ÂM – DƯƠNG trạch.
Khi đã biết được ngũ hành, sắc thái và đường đi của dòng Sinh khí trong khu
vực đặt ÂM – DƯƠNG trạch, chúng ta có thể bắt đầu việc thu khí.
Ngoài ra khi cần chỉnh hướng dòng Khí, ta cần dùng các thuật toán trong
Loan đầu như xác định phân kim tốt nhất cho hướng của ÂM – DƯƠNG trạch. Các
phương pháp đó bao gồm : LẬP HƯỚNG THEO THỦY. (Theo Địa lý chính tông và Ngũ
quyết ), LẬP HƯỚNG THEO LONG NHẬP THỦ , LẬP HƯỚNG THEO HƯỚNG HƯỚNG PHÁT
VI, LẬP HƯỚNG THEO PHÂN CHÂM, LẬP HƯỚNG THEO 24 SƠN – HƯỚNG. PHÂN KIM –
KHAI MÔN – PHÓNG THỦY – TẠO TÁNG. ( Theo Địa lý Đại toàn ). LẬP HƯỚNG THEO
72 LONG HƯỚNG CÁT HUNG ( Từ sách THẬP NHỊ TRƯỢNG – Dương Quân Tùng).
Từ những tính toán trên ta xác định chính xác phân kim mà ta cần thu Khí về Âm hay Dương trạch.
MỤC LỤC BÀI VIẾT.
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TÌM HIỂU VÀ
GIẢI QUYẾT.
I.VÀI NÉT VỀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .
II. NGUYÊN LÝ TRẤN TRẠCH VÀ
THU KHÍ VỀ ÂM DƯƠNG TRẠCH.
III.NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI
THỰC HIỆN VIỆC TRẤN TRẠCH VÀ THU KHÍ VỀ ÂM DƯƠNG TRẠCH.
IV.THỜI GIAN ỨNG NGHIỆM VÀ KẾT
QUẢ CỤ THỂ CÓ THỂ THẤY ĐƯỢC SAU KHI TRẤN TRẠCH VÀ THU KHÍ VỀ ÂM DƯƠNG TRẠCH.
PHẦN I. VÀI
NÉT VỀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .
Trong các cuộc chiến tranh ngày xưa , người ta rất chú trọng đến việc lập
trận . Kể từ những cuộc chiến của thời Tam quốc với những cách Trận đồ Bát quái
của Khổng minh Gia cát lượng đến những trận đồ của phương Tây như trong trận
OATECLO của NAPOLEON . Như vậy , việc thực hiện Trận pháp là hoàn toàn có thật
và đã đạt được những hiệu quả rất cao . Trận pháp là một môn nghiên cứu đỉnh
cao của nghệ thuật quân sự hàng ngàn năm nay . Tại Việt nam chúng ta cũng có
cuốn sách : Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo về nghệ thuật quân
sự, có lẽ chủ yếu là bày binh bố trận, nhưng đến nay đã bị thất lạc. Ông sưu
tập binh pháp các nhà, làm thành Bát quái Cửu cung đồ, và đặt tên tác phẩm như
vậy. Người ta chỉ còn biết được một ít nội dung tác phẩm này, qua lời đề tựa
của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư vẫn còn lưu giữ được.
Trong lời tựa của Trần Khánh Dư : " Người giỏi cầm quân thì không cần bày
trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không
thua, người khéo thua thì không chết.
Ngày xưa, Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành
Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà
Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải
bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ
nước Ngô đem người đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh,
phía bắc uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày
trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập (Sách Tấn thư chép là Mã Long) nước
Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu
phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy.
Cho nên trận nghĩa là "trần", là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng
Đế lập phép tỉnh điền để đặt binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ
Công sửa lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế
trận hay, trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương
thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến
đổi. Như Lý Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình (sách Thái bạch âm kinh
nói về binh pháp), những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa. Cho nên Quốc
công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy
ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm
lược lấy chất thực.
Sách gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần
hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao
lành, hung thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung, đều rất rõ ràng, ngang với Tam
Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô
(ám chỉ nhà Nguyên), phía nam uy hiếp Lâm Ấp (Chiêm Thành). "
Trích từ Đại Việt sử ký toàn thư:
" Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật này phải sáng
suốt mà thi hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời.
Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ
thiên cơ đó. "
Trong cổ thi của Trung quốc có bài BÁT TRẬN ĐỒ của ĐỖ PHỦ ca ngợi Khổng minh
như sau :
Bát trận đồ
Công cái tam phân quốc
Danh thành Bát trận đồ
Giang lưu thạch bất chuyển
Di hận thất thôn Ngô
Dịch Nghĩa:
Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba
Nổi danh trận đồ Bát quái
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển
Để lại hận đă thất kế thôn tính Ngô
Dịch Thơ:
Bát Trận Đồ
Vơ công trùm lợp thời Tam Quốc
Danh tiếng làm nên Bát trận đồ
Đá vẫn nằm trơ dòng nước chảy
Hận còn để măi lỡ thôn Ngô
Bản dịch của Trần Trọng San
Tam phân quốc công cao tột bực
Bát trận đồ danh nức muôn đời
Nước trôi đá vẫn không dời
Ngậm ngùi nỗi chẳng nghe lời đánh Ngô
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Chú thích:
-Bát trận đồ: do Khổng Minh thời Tam quốc dựng thành, ở huyện Phụng Tiết, tỉnh
Tứ Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn bị quân Thục vây hăm tại đây, nhưng nhờ được
nhạc phụ của Khổng Minh là Hoàng Thừa Nghiện chỉ đường nên ra thoát được
-Tam phân quốc: Khổng Minh chưa ra khỏi nhà đă biết thiên hạ thế chia làm ba,
Thục Ngô Ngụy
-Thôn Ngô: Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vân Trường, bị thua to về
tay Lục Tốn.
Các sách cổ của Trung quốc cũng có rất nhiều tác phẩm viết về cách lập trận như
các cuốn : DƯƠNG ĐẨU NGU CƠ , THỦY KINH CHÚ , VŨ LƯỢC CHÍ , QUA KÍP ĐÀN BINH
...
Trong các loại hình thế trận , người ta nghiên cứu phát minh ra nhiều loại trận
đồ với nhiều mục đích khác nhau : BÁT QUÁI TRẬN ĐỒ , VIÊN TRẬN ĐỒ , PHƯƠNG TRẬN
ĐỒ , TRỰC TRẬN ĐỒ , KHÚC TRẬN ĐỒ , NHUỆ TRẬN ĐỒ TRƯỜNG XÀ TRẬN ĐỒ .....
SỬ DỤNG TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI VÀO
TRẤN YỂM VÀ ĐẶT MỘ PHẦN .
Người ta có thể dùng TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vào việc TRẤN YỂM một khu đất hay địa
huyệt nào đó với hai mục đích ngược nhau : Làm cho khu vực đó tốt lên hay là
triệt phá Long mạch của vùng đất hay Địa Huyệt đó . Đó là hai chiều tương sinh
và tương khắc của Ngũ hành - Âm , Dương .
Việc xây dựng một TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI vì mục đích gì đi chăng nữa , người Chủ trận
phải hiểu tường tận cách bố trí Trận pháp . Ngoài việc xác định rõ vị trí của
Huyệt kết ở đâu , hướng của Long Nhập thủ như thế nào trong 72 Long Thấu Địa ,
Thiên Môn - Địa hộ ở đâu , Tính chất Âm - Dương ,Ngũ hành của Khí Huyệt như thế
nào , người bố trí Trận đồ phải rất giỏi về Ngũ Tử Khí Long ( Phận biệt các
loại Khí Hỏa Khanh , Không hư , Bảo Châu ) , phải thành thạo các thuật Toán an Ngũ
Thân , Lộc , Mã , Quý , Tứ cát , Tam Kỳ , Bát Môn , an các Thiên Can , Địa Chi
lên Bát Quái Đồ Hỗn Thiên . Những thuật này liên quan mật thiết đến Thuật tính
Thái Ất , Độn Giáp .