HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LÁ BÙA THÁI LAN.

11/03/2023 |

 HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LÁ BÙA THÁI LAN.

Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

TẶNG VẬT CỦA THẦN GIỮ CỦA - PHẦN 5.

11/03/2023 |

 TẶNG VẬT CỦA THẦN GIỮ CỦA - PHẦN 5.

Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

CHUYỆN BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG - CHUYẾN KHẢO SÁT TẠI NHÀ THÀY MO HOÀNG VĂN NHẺO. 2009

11/03/2023 |

 CHUYỆN BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG - CHUYẾN KHẢO SÁT TẠI NHÀ THÀY MO HOÀNG VĂN NHẺO. 2009

Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

THÀY MO Ở NOONG LAY - 2019.

10/25/2023 |

 THÀY MO Ở NOONG LAY - 2019.

Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

CHUYỆN BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG - CHUYẾN KHẢO SÁT TẠI NHÀ THÀY MO HOÀNG VĂN NHẺO. 2009.

10/22/2023 |

 CHUYỆN BÙA NGẢI XỨ MƯỜNG - CHUYẾN KHẢO SÁT TẠI NHÀ THÀY MO HOÀNG VĂN NHẺO. 2009.

Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

TẶNG VẬT CỦA THẦN GIỮ CỦA - PHẦN 4.

10/17/2023 |

 TẶNG VẬT CỦA THẦN GIỮ CỦA - PHẦN 4.

Xin theo dõi tiếp bài 5.Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

TRÒ CHUYỆN VỚI TÁM CÔ HUYỆN CỜ ĐỎ - CẦN THƠ.

10/12/2023 |

 TRÒ CHUYỆN VỚI TÁM CÔ HUYỆN CỜ ĐỎ - CẦN THƠ.

Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

TẶNG VẬT CỦA THẦN GIỮ CỦA - PHẦN 2.

10/12/2023 |

 TẶNG VẬT CỦA THẦN GIỮ CỦA - PHẦN 2.

Xin theo dõi tiếp bài 3. Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

TẶNG VẬT CỦA THẦN GIỮ CỦA . PHIM 1. DIENBATN.

10/10/2023 |

 TẶNG VẬT CỦA THẦN GIỮ CỦA . PHIM 1. DIENBATN.

Xin theo dõi tiếp bài 2. Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

BÍ MẬT NGẢI NGHỆ - DIENBATN.BÀI 38 NGẢI ĐẠI GIA TÀI VÀ NGẢI CAU .

10/04/2023 |

 BÍ MẬT NGẢI NGHỆ - DIENBATN.BÀI 38  NGẢI ĐẠI GIA TÀI VÀ NGẢI CAU .

Xin theo dõi tiếp bài 39. Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

BÍ MẬT NGẢI NGHỆ - DIENBATN. BÀI 19 HẮC BẠCH NGẢI HỔ.

9/15/2023 |

 BÍ MẬT NGẢI NGHỆ - DIENBATN. BÀI 19 HẮC BẠCH NGẢI HỔ.

Xin theo dõi tiếp bài 20. Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

THÔNG BÁO VỀ MỘT CUỐN SÁCH CÓ NGUỒN GỐC LẤY CẮP TỪ BLOG CỦA DIENBATN.

12/29/2019 |
THÔNG BÁO VỀ MỘT CUỐN SÁCH CÓ NGUỒN GỐC LẤY CẮP TỪ BLOG CỦA DIENBATN.
VÀI LỜI MỞ ĐẦU:

Ngày hôm trước , Thành Vuông có gọi cho dienbatn hỏi có phải xuất bản cuốn THẤT SƠN THẦN QUYỀN hay không ? Sao trong sách đăng toàn hình ảnh của anh vậy ? dienbatn ngớ người ra và nói Thành Vuông cho mượn cuốn sách đó. Theo Thành Vuông , cuốn sách này mua từ số 1 Đông Tác là Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Chưa rõ thực hư ai ở Đông tác đã xuất bản cuốn sách , nhưng trong cuốn này có đề tên 2 người : KS. TRẦN KỲ NGHĨA ở Đại học quân sự Hà Nội , nhà ở TP.HỒ CHÍ MINH và Liên Nhã TRẦN KIM CANG ( Nay đã mất ). Cuốn này xuất bản không phải như đã đề là năm 2008.


Qua một người em, dienbatn được biết Thày  Liên Nhã TRẦN KIM CANG  đã mất cách đây không lâu . Liên Nhã TRẦN KIM CANG  có 3 cuốn sách : " BÍ TẮC KIM CANG CÔNG PHU - KIM CANG DỊCH QUÁI LINH PHÙ - THẦN QUYỀN LỤC PHÁP ". Thày Liên Nhã TRẦN KIM CANG không hề có cuốn nào viết về THẤT SƠN THẦN QUYỀN cả. dienbatn có trích đăng và giới thiệu 3 cuốn này của Thày Liên Nhã TRẦN KIM CANG trong loạt bài : LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG.




dienbatn cũng liên hệ với  KS. TRẦN KỲ NGHĨA ở Đại học quân sự Hà Nội , nhà ở TP.HỒ CHÍ MINH  qua số điện thoại : 0903979697 và được biết anh cũng không hề biết đến việc xuất bản cuốn THẤT SƠN THẦN QUYỀN đã nêu ở trên. Phần giới thiệu trong cuốn THẤT SƠN THẦN QUYỀN ở trên là bài viết giới thiệu cuốn THẦN QUYỀN LỤC PHÁP của Thày  Liên Nhã TRẦN KIM CANG năm 2008 và đã bị copy và past sang cuốn này nhằm mục đích đánh lận con đen. Nếu không thân trọng , chút xíu nữa là dienbatn trách oan anh TRẦN KỲ NGHĨA.
Trong loạt bài LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG , dienbatn có tổng hợp nhiều nguồn tư liệu , phần là những gì tu tập được qua các cao nhân , phần là những tài liệu trên các trang mạng. Những câu chú, những lá bùa đã đăng trên Blog DIENBATN đã được cắt bớt, được chỉnh sửa lại để không tiết lộ những gì các Thày đã cấm không cho lưu truyền. Dưới tiêu đề mỗi bài viết , dienbatn đều có cảnh báo : " CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.". Những bài viết trong Blog của dienbatn chỉ là những bài nghiên cứu riêng khá công phu , nhằm giới thiệu cho mọi người biết về những trang sử hào hùng của môn phái THẤT SƠN THẦN QUYỀN. Đây là tài liệu nghiên cứu và đã có chỉnh sửa, bạn nào tập theo sẽ không có tác dụng , thậm chí còn có thể dẫn đến hậu quả bị tẩu hỏa nhập ma. Nếu các bạn có yêu thích và muốn học thì cứ đi tìm Thày , có duyên sẽ gặp. Một cao thủ THẤT SƠN THẦN QUYỀN là Thành Vuông , nay đang sống ở Hà Hội . Hiện nay phái THẤT SƠN THẦN QUYỀN tại Hà nội và các tỉnh phía Bắc vẫn hàng năm tề tựu đông đảo trong ngày giỗ Tổ 15 tháng Chạp âm lịch. 
Bạn nào có duyên sẽ gặp, dienbatn xin bật mí điều đó.




dienbatn , Thành Vuông , một số anh trong phái THẤT SƠN THẦN QUYỀN và trong Đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa Vô Vi.




Giỗ Tổ THẤT SƠN THẦN QUYỀN 15 tháng Chạp Ất Mùi.
dienbatn xin thông báo với tất cả mọi người : " dienbatn không hề xuất bản bất cứ một cuốn sách nào và phản đối những ai tự ý đem những bài viết , những bức ảnh của dienbatn ra kinh doanh bất hợp pháp.Những bài viết trong Blog của dienbatn chỉ là những bài nghiên cứu riêng khá công phu , nhằm giới thiệu cho mọi người biết về những trang sử hào hùng của môn phái THẤT SƠN THẦN QUYỀN. Đây là tài liệu nghiên cứu và đã có chỉnh sửa, bạn nào tập theo sẽ không có tác dụng , thậm chí còn có thể dẫn đến hậu quả bị tẩu hỏa nhập ma. Nếu các bạn có yêu thích và muốn học thì cứ đi tìm Thày , có duyên sẽ gặp. và dienbatn xin CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn."
Chính vì vậy ngày xưa Thầy Tổ có truyền lại :
" Một đêm nọ Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư , Pháp sư con nghe ta dạy,
Ấn tướng và Pháp chú - Là bí mật hiển vi.
Của Phật , Hiền, Thánh chúng.
Có cảm thì có ứng,
Và không thể giải thông.
Cũng không thể tạo khuôn,
Đệ tử muốn gia trì,
Hoặc truyền Đạo đại chúng.
Nên nhớ là lúc tập và lúc niệm,
Năng tinh tấn chuyên cần.
Và hành nơi vắng lặng.
Không cho ngoại Đạo niệm.
Bởi ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc khích nhiễu.
Đây là một nghiêm luật.
Đệ tử chiếu phụng hành . " 
Xin trân trọng cảm ơn. Thân ái. dienbatn.
Xem chi tiết…

NGHE LẠI CHUYỆN NGÀY XƯA VIẾT. CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ 2 CÕI ÂM DƯƠNG. dienbatn.

10/31/2019 |
NGHE LẠI CHUYỆN NGÀY XƯA VIẾT.
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ 2 CÕI ÂM DƯƠNG. dienbatn.
(Cảm ơn Diễn đọc: A. T )









Thân ái - dienbatn.
Xem chi tiết…

BÙA NGẢI - LÊ HƯƠNG. KỲ II.

12/31/2017 |
BÙA NGẢI - LÊ HƯƠNG.
( Tác phẩm in trong Tạp chí bách Khoa ngày 15/8/1969 ).


BÙA NGẢI.( Tiếp theo )
Bùa khắc trên chì (KÀTHA).


Một lối giữ bùa thông dụng trong giới người Việt gốc Miên là Sư khắc bùa trên miếng chì, quấn lại cột vào sợi giây xe bằng chỉ ngũ sắc gọi là KÀTHA, ta gọi là dây niệt. Chính người xin bùa đem một cục chì đến nhờ Sư định ngày làm lễ gọi là bonn prasethi Kàtha và sửa soạn trước. Sư hơ chì trên lửa cho mềm, dùng búa đập dẹp và cắt từng miếng dài năm phân, ngang ba phân. Sư dùng một cây viết đầu bằng sắt nhọn gọi là dek chak  vẽ bùa trên một mặt, đoạn cuốn  tròn quanh một sợi giây xe bằng chỉ ngũ sắc mới gọi là Kse Kàtha. Số chì nhiều ít tùy theo loại dây Kàtha và tùy người xin.
Loại ba miếng đeo trên cổ hay cánh tay rất thông dụng có mãnh lực che chở người đeo tránh  khỏi tai nạn khi đi đường và những chuyến bất trắc trên đời.
Loại năm miếng, bảy miếng hay mười hai miếng đeo ngang hông là bùa giữ mình của binh-sĩ, cảnh-sát-viên và các tay buôn lậu, trộm cướp.
Loại hai mốt miếng gồm II miếng dẹp và vo viên tròn công dụng như trên lại có thêm phép tránh được súng đạn.
Đến ngày lễ, người xin bùa mang lễ vật gồm có 5 xấp vải trắng, một số tiền theo sự thỏa thuận trước với sư, một cái nồi đất mới, một bao đèn cầy và một bao nhang. Sư đề trên cái khánh thờ đóng vào vách cùng với hai đoạn thân cây chuối có cắm nhang và hai ly nước có mùi thơm. Sư đốt đèn, nhang nhiều vài giọt dầu thơm vào một cái ô bằng đồng đựng phân nửa ô nước lạnh rồi để lên khánh thờ. Cuộc lễ bắt đầu. Sư ngồi xếp chân trước khánh, người xin bùa ngồi phía sau bên phải. Sư đọc kinh, tay trái cầm giây Kàtha, tay mặt xoa qua, xoa lại, thỉnh thoảng ngồi vào một lần. Lát sau, Sư xoay lại đeo giây vào cổ người xin, cầm miếng lá chuối cuốn tròn chấm vào ô nước rẩy trên đầu, trên vai kẻ đeo bùa. Người này kính cẩn chấp tay vái khánh thờ và vái Sư vừa lầm thầm khấn nguyện. Lễ xong, giây Kàtha có đủ hiệu lực che chở người đeo nó. Người ta đeo Kàtha lúc đi đường, lúc đi làm ăn mà có phần nguy hiểm. Khi ở nhà, lúc đi tắm, đi cầu phải cởi ra để trên bàn thờ không được bỏ bậy bạ. Một tháng, ba tháng hay sáu tháng phải đem Kàtha đến Sư “tom’’ bùa thêm để giữ đủ quyền lực. Thời hạn này tùy Sư ấn định.
Bùa vẽ trên khăn, trên vải .


Vị Sư cho bùa trên khăn, trên vải gọi là KROU YON tài lực cao hơn Sư cho dây Kàtha. Sư vẽ bùa trên khăn tay để bỏ túi, trên mảnh vải to bằng cái khăn quấn cổ gọi là Kanseng dek chát, và trên cái áo gọi là ao yon. Vải may khăn và áo là vải trắng thường nhuộm màu xanh lá cây. Đối với người Việt gốc Miên màu xanh lá cây là màu để dành riêng cho những nhân vật quan trọng, cho cấp chỉ huy. Theo thần thoại Bà-la-môn thân thể các vị thần đều có màu xanh lá cây đậm. Mỗi khi cho khăn hay áo bùa, pháp-sư hỏi kĩ tên tuổi của ông bà, cha mẹ người xin tính toán cẩn thận tùy theo số mạng của từng người mà vẽ bùa trên vải. Khi nhận khăn, áo, người xin cũng đem lễ vật đến nhà Sư làm lễ giống như lễ xin giây Kàtha.
Uy lực của khăn áo bùa cũng giống như dây Kàtha. Riêng về ao yon thì “hùng mạnh” hơn: người mặc áo bị đánh không đau, chém không đứt, súng bắn không trúng. Số tiền thỉnh cái áo rất cao vì ít có vị pháp-sư nào có đủ tài ban cho. Người ta mặc áo bùa mình khi đi ra ngoài, khi làm hay giữ khăn bùa trong ăn bằng nghề nguy hiểm; lúc ở nhà thì để trên bàn thờ. Hàng tháng phải cúng lạy vào ngày mồng 8, ngày 15 và khi hết thời hạn do Sư ấn định, phải đến nhà Sư “tom” bùa lại.
Bùa xâm trên thân thể .


Muốn xin xâm bùa trên thân thể, người con trai phải đủ tuổi vị thành niên thường là 17 tuổi mới được Sư nhận. Vị Sư xâm bùa gọi là Krou Sắc. Sư dùng một mũi kim cắm trong cái cán gỗ gọi là dek chak xâm chữ Phạn và hình Thần Bà-la-môn ở cùi trỏ, đầu gối, cổ tay, bả vai để giữ đương sự khỏi bị chặt, gãy xương và khi bị đánh đỡ đau. Mỗi lần xâm như thế. Sư không tổ chức lễ bái gì cả, việc này xem như một việc làm hàng ngày trong giới người Việt gốc Miên.
Lớn lên, nếu cậu con trai thích học võ thì xin thọ giáo với ông thầy gọi là Krou Kuôn. Vị võ sư nào cũng biết xâ bùa và tự xâm cho học trò trên bắp thịt, khắp thân thể. Uy lực của bùa che chở cho kẻ bị đánh không đau và thân thể tăng thêm phần lanh lẹ. Bùa xâm nhiều như thế có hiệu nghiệm nhiều hơn cách xâm ở trên và có thể đỡ được các lối đánh bằng tay, chân và gậy gộc, nhưng không thể tránh súng đạn.
Vô hột xoàn vô kim trong mình .


Người có nhiều tiền có thể xin Sư “Vô” hột xoàn, hay kim vàng, kim bạc trong mình để khỏi bị chém, bị đánh chỗ nào thì hột xoàn hay kim “chạy” đến đó đỡ đòn và khi sắp có tai nạn, kim hay hột xoàn sẽ chích nhẹ trong mình cho biết để tránh. Tùy theo ý người xin muốn vô thứ nào và số lượng nhiều ít thì đem đến Sư làm lễ cúng bái đàng hoàng. Sau khi đọc xong thời kinh, Sư cầm hột xoàn hay kim để trên cánh tay đương sự, đọc thần chú một hồi, khi Sư dở tay lên thì xoàn hay kim “lặn” mất vào trong mình mà không có dấu vết trầy, sứt gì cả. Sư dạy người vô kim một câu thần chú “gọi” các món ấy nổi lên da cho rờ xem làm chắc, và muốn cho nổi lên chỗ nào cũng được. Bình thường thì xoàn hay kim chìm vào trong, khi nào có tai nạn sẽ nổi lên chống đỡ. Khi đương sự không muốn giữ trong mình nữa thì nhờ Sư “lấy” ra. Sư làm lễ, đọc kinh rồi để bàn tay trên cánh tay người ấy, đọc thần chú một hồi, xoàn và kim sẽ theo tay Sư ra ngoài không thiếu chút nào.
Người dùng bùa theo lối này là dân sang, có tiền dư không muốn giữ khăn, sáp hay dây Kàtha trong mình, nhất là không muốn cho người khác biết mình có bùa. Lẽ cố nhiên mỗi lần vô bùa rất tốn kém và tiền công của Sư vì không phải Sư nào cũng có tài dám đảm nhận việc này.
Nước thuốc luyện gồng .


Có vị pháp-sư biết chế thứ nước thuốc cho người uống gọi là TUK THNAM KONG  để da thịt cứng rắn, dao búa chém không đứt, ta gọi là GỒNG. Người nào đã dùng thuốc rồi thì không còn sợ ai chém nữa, dù là chém lén. Lưỡi dao đụng đến thân thể kẻ ấy cũng như gặp cao-su. Phương pháp chế thuốc được giấu kín, nhưng có người cho biết một vài món cho Sư tìm như sau: Sư bỏ trong một cái hũ nước lạnh:
- Loại dây leo mọc từ trên nhánh cây da thòng xuống như cái thăng gọi là CHANDO SƠHOA.
- Loại cây nhỏ có dầu gọi là DIA PRENG.
- Loại cây chùm gởi mọc trên các gốc cổ thụ gọi là BA NHƠ KA ÉT.
- Thịt con trăn gọi là PỘT THLANN.
- Thịt con bìm bịp gọi là A ỐT SBÂU.
- Thịt con cù-lần gọi là LÔ NHI.
- Phần của con kên kên lông đỏ lấy tại ổ gọi là SÂMBÓC THMÁT PHLƠN.
Ngoài ra không ai được biết Sư làm gì và bỏ gì thêm trong hũ. Sư bịt miệng hũ bằng lá chuối cột giây, trên cắm ba cây nhang, đoạn để hũ trên lò lửa. Sư vạch một ô vuông xung quanh lò, mỗi góc cắm một cái nọc gỗ trên bề mặt đoạn thân cây chuối gọi là Salatho có cắm cây đèn cầy. Từ nọc gỗ này đến nọc kia, Sư cột sợi chỉ trắng để đóng khung cái lò. Vừa làm Sư vừa đọc thần chú lẩm bẩm trong mồm. Sư đốt lò và đốt bốn cây đèn cầy ở bốn góc, ngồi canh lửa cho đến khi Sư nhận thấy thuốc đã tới. Sư tắt lửa và để nguyên hũ trên lò cho đến khi thuốc nguội mới cho người xin dùng.
Mỗi lần luyện gồng phải mất bảy ngày gọi là TRANAM. Suốt khoảng thời gian ấy, đương sự chỉ uống toàn nước thuốc, không được dùng chất gì khác. Khi hũ thuốc cạn, Sư đổ thêm nước, nấu lại, bao nhiêu lần cũng được. Đến ngày thứ bảy, Sư cầm cái dao bén chém lên lưng người luyện gồng nhiều lần thật mạnh, nếu lưng không bị đứt là thuốc có công hiệu ngay một lần dùng thuốc. Có khi người luyện phải uống liên tiếp hai hay ba lần thuốc mới có kết quả. Mỗi lần Sư phải chế hũ thuốc mới. 
Giữ bùa phải thế nào?
Người xin bùa của một vị Sư Sãi hay một vị pháp-sư được nhận làm đệ tử của Sư, phải nghe lời Sư dặn trong lúc giữ bùa. Nếu coi thường, cẩu thả hay trái lệnh thì gặp sự phản ứng tức thì.Tùy theo lỗi nặng nhẹ mà gánh chịu hình phạt. Có người phải bỏ mạng vì phạm lỗi nặng. Những điều cấm kỵ gồm có ba mục tiêu: tinh thần, sự tôn kính và các thức ăn.
Về tinh thần, Sư dặn 5 điều: Không giết người, không trộm cắp, không nói láo, không gian dâm, không dùng những món vật làm thỏa mãn thú tánh. Kẻ trộm dùng bùa làm quấy lại tin rằng chúng sẽ cúng chùa làm phước sẽ hết tội và bùa không mất sự linh ứng!
Về sự tôn kính, người giữ bùa phải lập một cái khánh thờ riêng để ngang đèn thường trực và để giây Kàtha. Tượng Phật, hộp sáp, khăn bùa vân vân… khi ở nhà. Lúc muốn đeo bùa, phải thắp nhanh vái lạy rồi mới lấy. Nếu đệ tử dọn nhà đi ở nơi khác, phải để bùa trong rương và phải để ở trên quần áo. Bùa phải để trong hộp hay gói kĩ lưỡng, không được để gần vật gì ướt hay dơ ráy. Bùa để trong rương rồi không được ngồi trên đó. Tất cả các loại bùa không bao giờ được dùng hay đeo phía dưới lưng quần. Hộp sáp để trong cái khăn mới, cột trên cổ hay để trong nón. Khi cần đến lúc đánh nhau hay binh sĩ ra trận thì ngậm và mồm. Giây Kàtha thì đeo trên cổ, trên cánh thay hay ngang hông. Ao yon mặc trong mình như áo lót. Khăn bùa cột trên cổ. Khi đeo bùa trong mình, người ta không được đi dưới sàn nhà, chui ngang xà phơi quần áo, giàn trò cất nhà, giàn bầu, giàn mướp, không được đi gần chỗ dơ ráy. Lỡ phải đi tiểu phải đứng không được ngồi. Đi tiểu thì để bùa ở ngoài cầu. Người giữ bùa phải cẩn thận, đừng để kẻ khác ăn cắp, mặc rầu kẻ nào dùng bùa lạ với mình sẽ bị nhiều tai hại khó lường được. 
Về thức ăn, tùy theo loại bùa, Sư dặn đệ tử tránh các thứ trái cây và rau như: Dưa leo, tỏi, rau mò om, giềng, khoai môn, đu đủ, bí, khế. Khi ăn cơm với thịt bò, thịt heo phải cởi bùa ra.
Người cầm bùa phải giữ lời hứa với Sư, lời thề với Tổ. Phản Tổ quốc, phản bạn sẽ bị chết vì súng đạn, bất đắc kì tử. Chưởi thề, mắng nhiếc người khác sẽ bị tai nạn xe cộ hoặc bị đạn mà không chết. Lấy vợ người, hiếp con gái sẽ bị thương ở bộ sinh dục. Phạm lỗi nhẹ bùa sẽ hành nhức đầu, chóng mặt, có khi nằm chiêm bao thấy vị Tổ quở trách. Đương sự phải thắp nhanh tạ lỗi, đọc câu thần chú do Sư truyền khi trao bùa, rồi bỏ giây niệt ( Kàtha) trong một ly nước lạnh, uống ba hớp, rửa mặt, rửa đầu bằng nước ấy. Xong, phải để mặt cho khô, không được lau bằng khăn. Làm như thế, bịnh sẽ hết ngay tức thì, đó là Tổ Sư bằng lòng tha lỗi. Phạm lỗi nặng, Thần linh sẽ không theo nữa, người cầm bùa không còn thấy sự linh ứng gì hết, ví dụ: có bùa gồng chém không đứt lúc phạm lỗi sẽ bị chém đứt như người bình thường. Tiếng trong giới là KHỐT KROU nghĩa là hư bùa.
Kẻ nào dùng bùa làm quấy như gạt đàn bà góa đoạt của, lừa người lấy tiền, vay tiền rồi quịt tuy có hưởng lợi một ít lâu nhưng sau đó sẽ bị tai nạn hao tốn xấp ba xấp bốn lần và khổ nhục ê-chề, đau đớn gấp trăm lần đã hưởng được sự sung sướng một cách bất lương. Ngay cả khi vị pháp-sư ỉ có thần lực hại người ăn tiền hay để hưởng lợi cũng bị Trời phạt cho thân tàn ma dại, con cháu nghèo khổ, tàn tật suốt đời, làm trò cười cho thiên hạ.
Bùa trong thời  khói lửa.


Trong thời khói lửa, người Việt gốc Miên nhờ quý Sư Sãi cho bùa để tránh súng đạn. Vị Sư thường biểu diễn cho người ta xem tài mình như cầm trái lựu đạn cho nổ trên tay mà không bị thương, hoặc đưa ngực cho người bắn mà không trúng. Người đeo bùa loại này vào thì không sợ súng đạn, dù cho bị bắn cũng rách quần áo mà  thôi. Gặp trường hợp địch bao vây hoặc rượt gần kề, người có bùa đọc câu thần chú rồi thì, hoặc:
- Nín hơi chạy một mạch,,
- Ngồi vịn cái ghế,
- Ngồi nắm một bụi cỏ,
- Đứng vịn một thân cây thì đối phương sẽ không thấy mình. Một số quân nhân Việt cũng nhờ quý vị Sư Việt gốc Miên cho bùa để giữ mình vì thấy sự linh ứng trước mắt của anh em binh sĩ Việt gốc Miên hàng  ngũ. Có người lại nhờ bùa ngải để làm… chánh trị nữa. Đó là người tổ chức Đảng Khăn Trắng dùng miếng mồi này để nhử một số thanh niên hiếu kỳ, thích phiêu lưu. Ông ta tuyên truyền rằng các đệ tử đi theo ông được cấp mỗi người một cái khăn trắng đeo trên cổ. Khăn này là khăn bùa có uy lực cản súng đạn không thể chạm vào mình nghĩa là người có khăn sẽ trường sinh bất tử. Bề dài và bề rộng của khăn tùy theo số mạng tuổi tác của người được cấp từ hai thước đến hai thước rưỡi bề dài và rộng nguyên khổ vải. Ngoài cái khăn, các Đảng-viên được học thêm bùa tàng hình, có thể đi trước mặt kẻ khác mà kẻ ấy không thấy mình! Nhưng khi ra trận rủi có ai bị bắn chết thì  vị chỉ huy cho là kẻ ấy tới số, không thoát khỏi số trời đã định. Câu chuyện trên đây đi vào lịch sử từ năm 1960 đến ngày I-II-1963 thì cáo chung, ông cầm đầu dắt cả Đảng ra đầu thú với Chánh-phủ sau  mấy năm gây rối ở vùng biên giới Châu-Đốc, Hà-Tiên.
dienbatn giới thiệu và minh họa.

Xem chi tiết…

BÙA NGẢI - LÊ HƯƠNG. KỲ I.

12/30/2017 |
BÙA NGẢI - LÊ HƯƠNG.
( Tác phẩm in trong Tạp chí bách Khoa ngày 1/8/1969 ).


BÙA NGẢI
Người Việt gốc Miên rất tin tưởng Bùa, Ngải. Họ cho rằng Bùa, Ngải trị được sự phá rối của Tà Thần Ác Thần, của Ma , quỷ và những vị Pháp sư có ác tâm hại người bằng số tiền thuê, sự dối trá của Ma lai, loại người Thm-up chuyên trù, ếm, thư đồ vật vào bụng. Càng tin ở Thần linh họ càng tin uy lực của Bùa Ngải mà ngay từ thuở bé, họ đã nghĩ đến những vấn đề dùng Bùa, Ngải trong đời sống của mình.
Ngoài sự tự vệ, tránh đỡ kẻ vô hình hoặc người xấu bụng hại mình, người ta còn nhờ Bùa Ngải giúp cho nhiều việc mà sức người không làm được. 
Người làm ăn thua lỗ, thất vọng, muốn vay tiền làm vốn, học sinh hạn đội sổ đi thi vấn đáp, đều nhờ Bùa, Ngải để đạt nguyện vọng. Đi làm ăn xa hay định khuyếch trương một công nghiệp gì, người ta nhờ Bùa đeo trong mình để thâu được nhiều lợi. Gia đạo không yên, sinh hoạt bẩn chật, người ta cho rằng ma, quỷ ẩn trong nhà hoặc oan hồn yểu tử theo khuấy rối, phải nhờ bùa trấn áp. Người không toại chí trên đường tình ái, bị ý trung nhân phụ rẫy thì nhờ Bùa Ngải làm cho họ thương. Có người dùng bùa để cứu người bị nạn, ví dụ: Con gái bị bỏ bùa theo trai, đàn bà bị bùa bỏ chồng, đàn ông bị bùa mê vợ bé. Có người dùng bùa để trục thân nhân đi xa lâu về, hay không biết tin tức. Có người dùng bùa để ếm đối trong nhà trừ tà ma, rước hạnh phúc. Có người dùng bùa để vô Tổ trong mình khi bị đánh không biết đau, chém không đứt, ta thường gọi là gồng. Trong thời chiến tranh đại đa số binh sĩ Việt gốc Miên nhờ bùa tránh súng đạn.
Kẻ có tà tâm dùng bùa đoạt vợ người, dụ dỗ gái tơ, gái góa, dành tình nhân kẻ khác. Có người dùng bùa hại người đau ốm, điên cuồng hay bọ mạng âm thầm mà pháp luật không biết đến như lối " thư  " đồ vật vào bụng. Có người dùng bùa hại người không ở trong nhà được, suốt ngày bứt rứt bực bội, rầy la quát mắng thân nhơn, coi gia đình như địa ngục, luôn luôn muốn đi ra khỏi nhà tuy không biết đi đâu và làm gì? Có người dùng bùa để luyện thai nhi đẻ non hoặc chết trong bụng mẹ, gọi là Thiên-linh-cái đề cờ bạc gian lận hoặc trộm cướp.
Người ta dùng bùa để trị kẻ dùng bùa hại mình y như lối so tài bằng phép tiên, hai địch thủ hai vị pháp-sư giúp mình đạt mục-đích. Nhưng sự thành bại do tài của pháp-sư bên này hoặc bên kia và nhất là ở việc làm có hợp với lẽ Trời hay không?
Những vị Pháp-sư .


Người có thần lực huyền bí để cho bùa là những vị pháp-sư dày công tu luyện, người Việt gốc Miên gọi là KROU. Những vị này sống lẫn lộn với đồng bào, hoặc lấy nghề cho bùa, gỡ bùa, bỏ bùa làm kế sanh nhai hoặc dùng làm nghề phụ. Có vị ở trên núi sống theo hàng đạo sĩ , ít khi tiếp xúc với người đời, chỉ thỉnh thoảng giúp một vài người gọi là có duyên với nhau. Có vị lợi dụng địa thế hiểm trở thu nhận một số đệ-tử truyền nghề. Xưa kia, trong giới người Việt gốc Miên có rất nhiều KROU chuyên môn hành nghề ăn tiền công. Người nào muốn hại ai có thể thuê pháp-sư cho bùa để bỏ. Kết quả thường khi được như ý muốn nên các ông sống rất dễ dàng, có vị làm giàu lớn tậu ruộng, cất nhà như bậc phú gia. Nhưng vì cậy tài làm bậy cho mình hưởng lợi, hoặc ăn tiền công giúp kẻ khác hại người nên các ông bị quả báo phải đau ốm nhiều năm, bị bùa hành điên cuồng, bị tàng tật suốt đời nên con cháu không dám nối chí ông cha tiếp tục nghiệp nhà nữa. Hiện thời (1968) dòng dõi các Pháp-sư dưới thời Pháp thuộc có người giải nghệ, có người làm nghề khác mà còn giữ nghề của cha để giúp đời chứ không dám tác oai tác phúc nữa. Ngay các bậc đạo sĩ ở núi cũng ít khi nghĩ đến việc hại người dù có ai chịu một số tiền lớn. Ngoài ra còn một hạng pháp-sư đặc biệt nữa là quý vị sư sãi ở chùa. Hễ nói đến Bùa, Ngải thì người Việt gốc Miên nghĩ ngay đến ông Sãi Cả chùa A, ông sư chùa B nổi tiếng thế nào. Thì giờ  rảnh dỗi ở cửa Thiền giúp quý vị học và luyện bùa có kết quả rất tốt.
Người Việt học bùa của người Tàu do ông Lỗ-Ban đặt ra tên gọi là Bùa Lỗ Ban. Người Việt gốc Miên, cao Miên, Thái, Miên, Nam-Dương, Mã-Lai học bùa của đạo Bà-la-môn. Đó là điều oái oăm nhất của quý vị Sư Sãi tu theo Phật mà lại thích luyện bùa của Bà-la-môn giáo. Nhiều vị đạo đức cao thâm, chịu khổ cực năm này qua năm khác để học thành tài hầu giúp đỡ đồng bào. Nhờ quý vị là người xuất gia, không màng danh lợi, nên quý vị toàn cho những loài bùa cứu người, giúp người qua cơn khốn khổ, giữ gìn tánh mạng, trừ tà, ếm quỷ, tuyệt nhiên trong giới người Việt gốc Miên không có vị Sãi nào ăn tiền mướn dùng bùa hại người. Ở Cao-Miên trong giới bùa ngải có nhiều vị pháp-sư là người ngoài đời, trong giới Việt-kiều, và ngay ở Việt-Nam cũng có nhiều thầy bùa làm bậy, hoặc để hưởng lợi, hoặc vì một số tiền. Khi có người bị bỏ bùa, nạn nhơn thường tìm nhờ quý vị Sư Sãi cứu giúp. Nhờ uy lực của quý-vị, nhất là nhờ tấm lòng trong sạch, ngay thẳng mà kẻ tà  mị không thể hại người dễ dàng.
Tuy nhiên, thỉnh thoảng có người giữ bùa của các vị Sư Sãi và nhân đó, cậy thế làm càn. Những người làm như thế là phạm vào lời cấm kỵ của Sư, tức khắc gặp phản-ứng và Sư biết ngay, thân hành đến thu bùa lại. Sự kiện này là một luật lệ nghiêm khắc trong giới bùa ngải mà không ai dám ngoan cố không tuân theo.
Các loại bùa .


Áp dụng theo nguồn gốc Bà-la-môn các vị sư sãi và pháp-sư Việt gốc Miên cho bùa với nhiều hình thức khác nhau và khác hẳn người Việt theo nguồn gốc Trung-Hoa như: sáp, tượng Phật, tóc đanh, bùa khắc trên miếng chì cột vào dây Katha, bùa vẽ trên khăn tay, vẽ trên vải, xâm trên thân thể, vô hột xoàn, vô kim trong mình, nước thuốc để uống gọi là luyện rồng.
Sáp bùa .

Sáp bùa làm bằng sáp ong có để mùi thơm đựng trong hộp gỗ tròn như trái quýt hai đầu hơi bẹo xuống chia làm hai phần bằng nhau, phía dưới đựng sáp, phía trên làm nắp đậy xoay theo trôn ổ. Hộp sáp gọi là ĐÂNG LẠP. Sáp bùa có bốn thứ dùng trong 4 trường hợp :
- Sáp rô-biên: để trị bệnh thông thường như nhức đầu, mỏi tay chân, trật gân, sưng mình mẩy, tức ngực, đau lưng.
- Sáp rup mê mốt : để trị các chứng bệnh do tà ma, quỷ quái gây nên.
- Sáp sơ ne là bùa yêu của phụ nữ, giữ tình thương của chồng, khiến cho chồng yêu mến mình hơn.
- Sáp mon akum thoa vào thì bị đánh không đau, súng bắn không trúng.
Hộp đựng sáp có nhiều cỡ, lớn nhất là đường kính sáu phân, thường thường người ta dùng cỡ đường kính ba phân. Hộp làm bằng loại cây Nhào gọi là NHO rất dễ tiện và không có mùi hôi, sáp đựng vào như đựng trong hũ bằng thủy tinh.
Khi muốn xin sáp bùa, người ta phải mua hộp gỗ này đem đến vị Sư, hoặc ông pháp-sư trình bày ý muốn. Sư hỏi tuổi đương sự, lật sách xem ngày tốt để làm lễ “ tom” bùa và sáp gọi là bonn prasethi dâng lạp. Đúng ngày đã định, người xin bùa đem lễ vật vào chùa hoặc nhà pháp-sư gồm có 5 xấp vải trắng, một số tiền tùy theo thỏa  thuận trước với Sư, một cái nồi đất mới, một bao đèn cầy và một bao nhang. Trong góc phòng, Sư đã dọn một cái bàn thờ gọi là tóc bây sây. Trên một cái bàn bên cạnh, Sư để trái dừa có cắm nhang, hai đoạn thân cây chuối non gọi là Salatho và một lư hương . Lễ vật để trên bàn thờ. Sư bắt đầu lấy sáp ong có mùi thơm gọi là Kramoun Koốp cho vào đầy hộp gỗ, đoạn để ngửa trên cái đĩa lớn có thân gỗ hay bằng bạc gọi là chong srop hay là chong piên, đem lên bàn thờ. Sư ngồi xếp bằng trước bàn thờ bảo người xin bùa đứng sau lưng, rồi đọc kinh. Thỉnh thoảng sư cầm hộp sáp thổi vào. Sau ba lần thổi như thế, Sư lấy nắp hộp đậy lại để trên mâm, tiếp tục đọc kinh, rồi cầm hộp bằng tay trái, tay mặt xoa qua, xoa lại vừa đọc không ngừng miệng, chốc chốc lại xoay ra sau thổi vào đầu người xin nhiều lần. Mỗi lần Sư thổi người ấy chắp hai tay xá Sư một cách kính cẩn. Sư dở nắp hộp dùng hai ngón tay cái và tay trỏ lấy một ít sáp, vừa đọc kinh vừa thổi vào và thoa lên chân mày người xin. Bấy giờ sáp bùa đã linh thiêng. Cuộc lễ chấm dứt. Người xin nhận hộp gỗ để vào túi trên từ giã Sư. Về nhà, y phải để hộp sáp trên bàn thờ, thắp nhang khấn vái mỗi ngày. Công dụng của Sáp: Loại trị bệnh, đau đâu thoa đó, có người lấy cây tăm vít một tí uống “cho mau hết” nữa, loại trị bệnh tà cũng dùng như trên, loại sáp có bùa yêu thì thoa vào môi khi nói chuyện, thoa trên chân mày, hai bàn tay để xoa vuốt, loại đỡ đòn, đỡ đạn thì thoa khắp mình nhất là trên đầu, trước ngực, sau lưng. Người ta thích dùng nhất là loại sáp có bùa làm cho người khác có cảm tình với mình như khi vay tiền, xin việc làm, học sinh thi vấn đáp!
Hình tượng .


Thứ đến là tượng Phật nhỏ để trong hộp gỗ đựng sáp hoặc treo trên cổ gọi là Prẹt. Tượng làm bằng ngà voi, nha voi, ngà voi cụt, răng voi, nanh heo rừng  độc chiếc, răng của vị Sãi Cả trong chùa còn sống hoặc viên tịch, răng của ông bà, cha mẹ. Làm tượng bằng ngà voi là những miếng ngà làm đồ vật lớn còn dư không có gì đặc sắc, răng voi cũng vậy, nhưng hơi đắt tiền vì cứng chắc khó tiện hơn.
Nha voi là ngà voi mới mọc lần đầu thường làm voi ngứa ngáy khó chịu, voi phải thọc vào thân cây cho đỡ. Đôi khi voi thọc quá mạnh, nha bị gãy dính vào thân cây. Người ta bắt gặp đem về trẻ ra từng miếng nhỏ. Nha voi khác ngà voi vì dày đặc không phải bộng và có tính chất kỵ lửa. Vật gì để gần nha voi thì lửa không xâm phạm đến.
Ngà voi cụ là ngà voi chỉ mọc có hơn hai tấc mà thôi. Giống voi này rất hiếm có. Ngà mọc một thời gian thì voi bị ngứa ngáy khó chịu, phải bẻ gãy để ngà khác mọc ra. Voi hay thọc ngà vào những thân cây to cạnh đầm nước sau khi đã giải khát và tắm rửa. Tượng Phật bằng ngà voi là PRẸT PHLUK.
Nanh heo rừng độc chiếc là nanh của loại heo sống một mình gọi là heo lăn chai, lớn gần bằng con bò, da dầy vô cùng rất hung dữ, cọp phải sợ. Nanh heo này tròn và đặc khác hẳn nanh loại heo rừng thường có ba góc và bộng. Nanh có tính kị hỏa như nha voi. Heo  có nanh đặc ít khi bị người sát hại, chỉ chết già gọi là “rủ”. Vùng nào có heo độc chiếc “rủ” sẽ có cỏ mọc cao và vây kín xác heo. Rủi ro có cháy rừng, cả vùng cỏ ấy không bao giờ bị xém. Nhờ đó người ta mới tìm gặp nanh heo. Tương làm bằng nah heo gọi là PRẸT KHNAY TAN.
Người Việt gốc Miên rất quý trọng răng của vị Sãi Cả trong chùa và răng của ông bà, cha mẹ mình. Người ra thường xin răng rụng tiện thành tượng Phật, hoặc lúc thiêu xác mà răng không cháy hết. Nếu tiện thành tượng Phật gọi là PRẸT THMINH, thì nhờ  Sư “tom” bùa vào sẽ linh thiêng, hoặc chỉ để vào trong hộp sáp bùa cũng có linh ứng như chính vị Sãi Cả hay ông bà mình theo phò hộ mình.
Người nào không đủ tiền thỉnh tượng Phật bằng ngà, bằng nanh heo hoặc nhờ thợ tiện cái răng thì vẫn có thể dùng một miếng ngà, một cái nanh, một cái răng nhờ Sư  “tom” bùa, sự linh nghiệm cũng như “tom” vào tượng Phật. Quý vị Sư cho rằng uy lực của bùa không tùy nơi hình tượng mà ở tài sức của người cho.
Người nào có nhiều tiền có thể thỉnh tượng Phật bằng bạc, bằng vàng, bằng kim cương .

Tóc đanh .
Tóc đanh là tóc tự nhiên quắn lại dính liền với nhau thành một miếng dầy, cứng không thể trải gỡ được. Người có tóc đanh phải mang lấy không thể cắt bỏ vì dùng dao cạo hay kéo mà cắt thì bị đau như cắt vào da thịt mình. Đối với người Việt, người có tóc đanh thường cho là căn tu nên vào ở chùa hoặc sống một cư-sĩ, còn người Việt gốc Miên thì dùng miếng tóc ấy luyện bùa gọi là SOK ĐANH. Họ cho rằng rất ít người có tóc đanh, trong vài chục ngàn người chưa chắc có một, nên họ rất quý. Có người có một miếng, hoặc hai, hoặc ba, một miếng gọi là tônn, hai miếng thì coi như vợ chồng, miếng lớn là chồng gọi nhi, miếng nhỏ là vợ gọi sơ mônn, nếu có miếng thứ ba nhỏ hơn là đứa con gọi kônn. Khi người vợ có tóc đanh muốn cho chồng mình làm bùa phép thì phải nhờ một vị pháp-sư (KROU) cao tay ẩn đọc thần chú cầu xin Thần linh rồi mới cắt được. Không bao giờ người ta cắt tóc đanh của người chết làm của riêng mình.
Khi người nào tự nhiên có tóc đanh phải đến bảy ngôi chùa khác nhau trong ngày lễ Phật, đem nhang đèn cầy đốt trước Phật đài cầu xin tóc mình có uy lực tuyệt đối. Người Việt gốc Miên tin rằng người có tóc đanh không bao giờ bị kẻ nào đánh đập hoặc bắt giết được. Dù có chĩa súng vào người đi nữa, cò bóp cũng không nổ. Mỗi  tháng hai lần nhằm ngày mồng 8 và 15, người có tóc đanh, làm lễ Phật tại chùa hay tại nhà, dâng lễ cúng là bắp rang nổ và thoa dầu dừa nên mái tóc. Người nào có miếng tóc đanh ở ngoài như của vợ cắt cho hoặc đầu tóc mượn của mình bị đanh thì để mớ tóc ấy trên bàn thờ. Người nào cũng thuộc bài kinh để đọc trong lúc làm lễ để giữ sự linh ứng luôn  luôn.



Xin theo dõi tiếp kỳ II. dienbatn giới thiệu và minh họa.
Xem chi tiết…

LÊN XÁC Ở TÂN CHÂU - AN GIANG - QUAN ĐẾ MIẾU CHÙA ÔNG. Xuân Ất Mùi.

3/09/2015 |
LÊN XÁC Ở TÂN CHÂU - AN GIANG - QUAN ĐẾ MIẾU CHÙA ÔNG.
 Xuân Ất Mùi.

Xem thêm :
http://dienbatnblog.blogspot.com/2013/03/bi-mat-ve-mot-le-hoi-hanh-xac.html
http://dienbatnblog.blogspot.com/2011/02/mua-xuan-ta-i-ta-ba-bai-2.html
dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 24.BÀI CUỐI.

7/18/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI CUỐI.
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
TRUY TÌM NGUỒN GỐC PHẬT QUYỀN.
( Tiếp theo )
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.



Theo chân những đoàn quân của các Chúa Nguyễn, những nhà truyền giáo, các Pháp sư, Phù thủy từ miền Bắc Việt Nam mang theo những bí thuật Huyền môn của mình kết hợp với Huyền môn bản địa mà tạo ra những trang sử huy hoàng của giới Huyền môn Việt Nam.

Như vậy ta thấy rằng , kể từ 1558, khi Chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu Nam tiến , Phật pháp và Huyền môn Việt Nam đã vận động được một vòng tròn hoàn chỉnh . 
Do tiếp nhận những kiến thức của rất nhiều vùng địa lý, của nhiều dân tộc mà Huyền môn có nhiều chi phái khác nhau , mang nhiều tên gọi khác nhau. Tuy nhiên ta có thể thấy về Phật quyền và Thất sơn thần quyền có nguồn gốc xuất xứ khác nhau nhưng có những điểm chung về nguyên tắc cơ bản như sau :
1/ Tuy là một môn võ có những đòn thế siêu đẳng, nhưng Phật quyền và Thất sơn thần quyền các môn phái này chủ yếu là để tự vệ ,không được đánh người ,không được ngạo mạn ỷ lại hiếp đáp người cô thế .Luật của các phái cũng hết sức nghiêm minh ,ai vào thọ giáo phải đứng trước tổ thầy đọc các lời thề về giử gìn đạo đức và tôn kính Trời Phật Thánh Thần , rất nguy hiểm khi có đệ tử nào vi phạm thì khó tránh khỏi kiếp nạn do chính mình chọn ra. Ngoài ra còn phải kiêng cử trong ăn uống tuỳ theo môn phái bùa có quy định, như : Chó ,Trâu ,Mèo là phải kỵ tuyệt đối , còn nhiều thứ khác phải kiêng kỵ tuỳ theo môn phái của mình.
2/ Trước khi tập thì môn sinh đều phải cầu Thầy Tổ về trợ giúp. các Thày Tổ ở đây với mỗi một môn sinh là khác nhau, không ai giống ai cả. Theo hiểu biết của dienbatn thì những Thày Tổ này là những vị Thày Tổ từ nhiều căn kiếp trước đã từng dạy cho người đó, nay cầu về, các ngài tiếp tục dạy hay trực tiếp phát công , phát ra những thế đánh của bản môn Thầy Tổ đó .
3/ Trong Phật quyền và Thất sơn thần quyền : Quan trọng nhất vẫn không phải học quyền mà là .... học Đạo . Trong việc học Đạo, ngoài các Giáo lý nhà Phật ra, môn sinh đều có những bài tập về đọc chú ,  luyện khí, luyện gồng, luyện một số công năng đặc di khác .
4/ Theo các vị sư phụ của dienbatn truyền lại, Phật quyền và Thất sơn thần quyền ngày xưa có tới 7 nhánh : Tuy cùng là thờ các vị chư Phật, chư Bồ tát nhưng 7 nhánh này chia ra luyện chuyên sâu theo từng vị Phật mà chi nhánh đó nhận làm Tổ . Các nhánh đó lần lượt nhận các chư Phật sau làm Thầy Tổ :
* Đức Di Lặc Phật Vương, 
* Đức Tây phương cực lạc A Di Đà Phật.
* Đức Phật Quán thế âm Bồ tát.
* Đức Đại Phổ hiền Bồ tát.
* Đức Đại Thế chí Bồ tát.
* Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát.
* Đức Bồ tát tôn giả Mục Kiền Liên.
Trải qua nhiều thăng trầm của thời gian, ngày nay ta chỉ còn thấy nhiều nhất là hai nhánh võ phái nhận Thày Tổ là : Đức Phật Quán thế âm Bồ tát  và Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát. Riêng phái nhận  Đức Đại Thế chí Bồ tát chỉ còn tại một vài nơi hẻo lánh và có môn quy rất nghiêm ngặt hầu như những người lạ khó xâm nhập vào được.
5/ Cũng theo những gì dienbatn được truyền lại : Khi điểm Đạo cho học trò Phật quyền và Thất sơn thần quyền , các vị chân sư phải truyền dẫn nội công , khai mở 7 luân xa  :
1. Luân xa thứ Nhất: Muladhara chakra (sanskrit). Vị trí nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục, tương đương với huyệt Hội Âm là hội hiệp các âm linh của châm cứu học. Nó được biểu hiện bằng một bông sen bốn cánh màu đỏ, chủng tự tiếng sanskrit của nó là LAM. Luồng hỏa hầu Kundalini nằm phục ở đây. khi thành tựu phép quán tưởng luân xa này, sẽ làm chủ được địa đại, tiêu trừ nghiệp quá khứ, biết được ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, thọ hưởng niềm hoan lạc tự nhiên.
Ở đây Ngài A Di Đà làm chưởng Quản tiếp dẫn những giác linh, chơn linh, hương linh, vong linh về cảnh giới của Ngài, ngài cho xuất gia.
2. Luân xa thứ Hai: Svadhisthana chakra. Vị trí nằm dưới rốn chừng bốn ngón tay, tương đương với huyệt Đan Điền , biểu hiện bằng bông sen sáu cánh màu cam, chủng tự là VAM. Thành tựu phép quán tưởng luân xa này sẽ làm chủ được thủy đại và các giác quan, biết được cảnh Trung giới (monde astral).
Chưởng quản ở đây là ngài Cam Lồ Vương Như Lai, khi chúng ta đến cảnh giới nầy thì chúng ta sẽ được học phép thắng tất cả: Tham ái, giận hờn, ngã mạn, ganh tỵ và các phiền não khác đều được tiêu trừ. Vượt thoát tử thầncủa các cõi. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng hai nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ ba.
3. Luân xa thứ Ba: Manipura chakra. Vị trí ở giữa rốn tương đương với huyệt Thần khuyết. Biểu hiện bằng bông sen mười cánh màu vàng, chủng tự là RAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Ly Bố Úy Như Lai, ở đây Chúng ta học phép thành tựu phép làm chủ hỏa đại, không còn sợ lửa thiêu đốt, hoàn toàn thoát khỏi ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng ba nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ tư.
4. Luân xa thứ Tư: Anahata chakra. Vị trí ở giữa ngực, tương đương với huyệt Ðản trung. Biểu hiện bằng bông sen mười hai cánh màu xanh lá cây, chủng tự là YAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Quảng Bác Thân Như Lai, ở đây ngài dạy chúng ta học phép Thành tựu làm chủ phong đại, tùy ý bay lượn trong không gian hoặc chui nhập vào thân người khác, đầy đủ đức tính của chư thiên và tình thương vũ trụ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bốn nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ năm
5. Luân xa thứ Năm: Visuddha chakra. Vị trí ở ngay dưới cổ, tương đương với huyệt Thiên đột. Biểu hiện bằng bông sen mười sáu cánh màu xanh da trời. Chủng tự là HAM. Chưởng quản ở đây là ngài Diệu Sắc Thân Như Lai, ở đây chúng ta được học phép Thành tựu làm chủ không đại, thân thể không bao giờ tàn hoại, ngay cả khi thế gian bị tiêu diệt, đạt được trí huệ thông suốt tất cả kinh điển vô tự và ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng năm nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ sáu
6. Luân xa thứ Sáu: Ajna chakra. Vị trí ở giữa hai chân mày nơi mà huyền môn thường gọi là con mắt thứ ba, tương đương với huyệt Ấn đường. Biểu hiện là bông sen hai cánh màu xanh nước biển, chủng tự là A. Chưởng quản ở đây là Ngài Bảo Thắng Như Lai ở đây chúng ta được học phép trở thành người hoàn toàn giải thoát liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng sáu nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ bảy
7. Luân xa thứ Bảy: Sahasrara chakra. Vị trí ngay trên đỉnh đầu, tương đương với huyệt Bách hội. Biểu hiện bằng bông sen ngàn cánh màu tím, trắng, vàng. Chủng tự là OM. Khi luồng hoả hầu Kundalini chạy lên tới đây, Chưởng quản ở đây là Ngài Đa Bảo Như Lai , ở đây chúng ta được học phép trở thành một bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Hòa đồng Vũ Trụ gọi là Đạo. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bảy nầy lảnh sắc lệnh ra ngoại Càn Khôn Vũ Trụ.
Có một cấp bậc điểm đạo tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới trình độ đó không chỉ được tạm thời giải thoát khỏi thể xác vật chất để chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mà còn được đưa lên những cảnh giới thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại thể của vũ trụ. Kinh nghiệm huyền diệu đó giúp phá vỡ sự cố chấp hữu hạn của con người và do đó mới có thể tiếp xúc với sự hiện hữu chân thật trường cửu của hết thảy mọi sinh thể. Trong một thời gian ngắn, người môn đồ được cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu với thực thể của muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi, nhưng giây phút cảm thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối với cuộc đời. Người môn đồ ấy đã chia sẻ một phần cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận được. Người ấy xem như đã khám phá được cái ánh sáng huyền diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của bản thể, mà so với nó thì thể xác vật chất này chỉ là giả tạm và vô nghĩa. Vì thế, người môn đồ sau khi được điểm đạo đã thật sự được hồi sinh trở lại, theo đúng ý nghĩa cao cả nhất của danh từ này. 
Như thế, cuộc điểm đạo là sự đạt tới một viễn cảnh mới của cuộc đời, cái viễn cảnh tâm linh mà nhân loại đã đánh mất trong thời dĩ vãng xa xăm, khi rơi từ “Thiên đàng” xuống cõi vật chất. Khoa huyền môn giúp ta thực hiện sự trở về nguồn cội ngay từ bên trong, và đưa ta đi tuần tự từ bước một đến sự giác ngộ hoàn toàn. Khoa huyền môn hé mở cho ta thấy trước hết là những cảnh giới tâm linh huyền bí vượt ngoài giới hạn nhận biết trong cõi vật chất của trần gian, và sau đó tiết lộ cho ta những điều huyền diệu rốt ráo và tính chất thiêng liêng của tâm thức con người. Khoa huyền môn giúp cho người môn đồ nhìn thấy được những cảnh giới dường như địa ngục âm ty để thử thách tâm trí và lòng kiên quyết, cũng như để người ấy được có dịp học hỏi và mở rộng tầm nhận thức. Kế đó, người môn đồ được nhìn thấy những cảnh giới Thiên đàng tốt đẹp để khuyến khích và ban ân huệ. Nếu khoa huyền môn vẫn phải dùng đến phương tiện đồng thiếp thì điều đó không có nghĩa là không còn phương pháp nào khác. Đó chỉ là một phương tiện được áp dụng, nhưng cảnh giới tâm linh có thể được đạt tới bằng nhiều phương cách khác nữa, và không cần phải áp dụng phương pháp xuất thần. 
Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại luôn luôn theo định luật chu kỳ, những gì đã từng xảy ra, sẽ tái diễn trở lại. Một lần nữa, con người đã trải qua một thời kỳ hỗn loạn và hắc ám, trong khi đó lại cảm thấy một sự băn khoăn bất mãn do nhu cầu tự nhiên của bản tính con người là muốn lặp lại sự giao tiếp với cảnh giới tâm linh huyền diệu huy hoàng. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng những điều kiện sẽ có thể được tạo nên, những hoàn cảnh thuận tiện sẽ đến và những nhân vật đủ thẩm quyền và khả năng sẽ xuất hiện, để nhờ đó mà một lần nữa trên địa cầu này sẽ được tái lập tổ chức huyền môn, dưới những hình thức hoàn toàn mới mẻ tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với thời đại tân tiến hoàn toàn khác hẳn với thời đại cổ xưa. "
6/ " Những vị đạo đồ trong khoa huyền môn thời cổ phải long trọng tuyên thệ là không bao giờ tiết lộ những gì xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng, dù sao thì lễ điểm đạo cũng chỉ được cử hành mỗi năm cho một số rất ít môn đồ. Sự hiểu biết giáo lý mật truyền không bao giờ được ban bố cho nhiều người cùng một lúc. Bởi lẽ đó mà không một nhà văn thời cổ nào đã đưa ra được một tường trình đầy đủ và mạch lạc về những gì được gọi là giáo lý huyền môn, vì các vị môn đồ luôn giữ đúng lời cam kết một cách chặt chẽ. 
Những chân lý được truyền dạy trong các đạo viện huyền môn là do sự tiết lộ mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ lúc phát sinh những nền văn minh cổ xưa nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được giữ gìn nguyên vẹn để duy trì sự tinh khiết của nó. Như thế, người ta hiểu tại sao khoa huyền môn được ẩn giấu cẩn mật và giữ gìn chặt chẽ ngoài tầm tay của kẻ thế nhân phàm tục. 
Tại sao những vị đạo trưởng lại có một sự dè dặt vô cùng chặt chẽ như thế? Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần phải loại những kẻ hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần bí dẫy đầy nguy hiểm cho tánh mạng của người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm thường. 
Ngoài ra, rất có thể là có nhiều người, vì không đủ sự chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế, sẽ trở nên điên cuồng hoặc thiệt mạng sau cuộc thử thách. Bởi đó, lễ điểm đạo luôn luôn chỉ là đặc ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người đã gõ cửa cầu xin điều đó ở các đền huyền môn nhưng vô ích. Những người khác, bị đặt dưới hàng loạt những cuộc thử thách sơ đẳng mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ sự gan góc cần thiết để tiến xa hơn nữa, hoặc cảm thấy lòng ước muốn điểm đạo nguội bớt dần. 
Về sau, sự sa đọa vật chất của con người đã làm cho các vị đạo trưởng chân chính của thời xưa dần dần biệt tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục, và thay chân các ngài là những kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ thấp khoa huyền môn cao cả. Những kẻ bất chính, có tham vọng đạt được những phép thần thông của bàng môn tả đạo, sau cùng đã chiếm ưu thế để giành quyền kiểm soát các đạo viện huyền môn ở Ai Cập và những nơi khác. 
Những gì từ lúc nguyên thủy vốn là thiêng liêng, chỉ dành cho những người chọn lọc nhằm mục đích duy trì ngọn lửa thiêng tinh khiết của sự sống tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ tà tâm, buôn thần bán thánh. Đó là những sự kiện lịch sử, làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của nhân loại thời cổ xưa đã trở nên suy tàn. " -( Theo Ai Cập huyền bí ).
Chính vì vậy ngày xưa Thầy Tổ có truyền lại :
" Một đêm nọ Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư , Pháp sư con nghe ta dạy,
Ấn tướng và Pháp chú - Là bí mật hiển vi.
Của Phật , Hiền, Thánh chúng.
Có cảm thì có ứng,
Và không thể giải thông.
Cũng không thể tạo khuôn,
Đệ tử muốn gia trì,
Hoặc truyền Đạo đại chúng.
Nên nhớ là lúc tập và lúc niệm,
Năng tinh tấn chuyên cần.
Và hành nơi vắng lặng.
Không cho ngoại Đạo niệm.
Bởi ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc khích nhiễu.
Đây là một nghiêm luật.
Đệ tử chiếu phụng hành . " 

KẾT THÚC BÀI.
Thân ái - dienbatn .
Xem chi tiết…

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 23.

7/01/2014 |
LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. BÀI 23.
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
TRUY TÌM NGUỒN GỐC PHẬT QUYỀN.
( Tiếp theo )
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.


Bồ đề Đạt ma 9 năm diện bích.
Bây giờ, để tìm lại những trang hào hùng của lịch sử võ học, đã bị bụi thời gian phủ lên dày đặc những huyền thoại, chúng ta trở về thời điểm năm 518 dương lịch . Vào thời điểm đó có một vị Phật tăng Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma (phiên âm tiếng Trung Quốc của tên Ấn Độ Puti Damo 菩 提 達 摩 , Bodhidharma) từ Ấn Độ (năm 518 Tây lịch) đến Trung Hoa truyền thụ giáo pháp Phật Giáo đồng thời sáng lập nên một giáo phái Phật giáo mới sau này phát triển khắp vùng Đông Nam Á, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản là giáo phái Thiền Tông Trung Hoa. Ở Nhật Bản, tinh thần của Thiền (Zen) đã thấm đẫm văn hóa truyền thống của người Nhật qua các nghi thức trà đạo và các môn võ sau này.Sau khi triều kiến Lương Vũ Đế (463-549) (cũng thuộc triều Bắc Ngụy) ở Kim Lăng (Trung Quốc) bất thành, Bồ Đề Đạt Ma đã đến chùa Thiếu Lâm (năm 527) để truyền bá Phật pháp cho người Trung Hoa. Do đó Bồ Đề Đạt Ma cũng được coi như là ông tổ của Phật Giáo Thiền Tông.
Bồ Đề Đạt Ma và chùa Thiếu Lâm, sau này lại trở nên nổi tiếng ở Trung Hoa và các quốc gia lân cận bị ảnh hưởng bởi nền văn minh và văn hóa Trung Hoa không phải ở lĩnh vực tôn giáo - như là Sư tổ của cái nôi xuất xứ (tổ đình) của giáo phái Phật Giáo Thiền Tông Trung Hoa, mà lại nổi tiếng là Ông tổ của võ thuật Trung Hoa .
Thực ra chùa Thiếu Lâm đã có từ trước đó . Chùa Thiếu Lâm, theo như trong các tài liệu khảo sát bằng văn bản của Dương Huyễn Chi, trong "Lạc Dương Già-lam kí" (洛陽伽藍記; 547), và Lý Hiền (李賢), trong "Minh nhất thống chí (明一統志; 1461), cũng công nhận vị trí và thời đại của ngôi chùa như Đạo Tuyên trong "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645). Quyển "Gia Khánh trùng tu nhất thống chí" (嘉慶重修一統志; 1843) viết rằng ngôi chùa ở tỉnh Hà Nam, được xây dựng vào năm Thái Hòa (太和) thứ 20 nhà Bắc Ngụy (tức năm 497), là ngôi chùa Thiếu Lâm ở huyện Đăng Phong (Dangfeng 登封), tỉnh Hà Nam (Henan 河南) (có sách viết là Hồ Nam là không đúng vì tỉnh Hồ Nam rất xa về phía Nam tỉnh Hà Nam), Trung Quốc, cách Bắc Kinh 600 km về phía Nam và cách Nam Kinh 600 km về phía Tây. Ngôi chùa bị hủy diệt và trùng tu vài lần, trở thành một trong những ngôi chùa xưa nhất của Trung Quốc. Trước khi Bồ Đề Đạt Ma tứ Ấn Độ đến thì chùa Thiếu Lâm cũng chỉ là một ngôi chùa nằm trong Ngũ hành sơn của Trung Quốc. Theo "Tục cao tăng truyện" (续高僧传, 645) của Đạo Tuyên ngôi chùa này ban đầu được Hiếu Văn Đế (孝文帝)(471-499) triều Bắc Ngụy (386-534) xây dựng vào năm 497 ở phía bắc ngọn núi Thiếu Thất (Shaoshi 少室山), trong dãy Tung Sơn (Songshan 嵩山), huyện Đăng Phong (Dengfeng 登封), thuộc tỉnh Hà Nam (Henan 河南) về hướng Tây Bắc gần thành phố Trịnh Châu (Giản thể: 郑州, Phồn thể: 鄭州; Bính âm: Zhèngzhōu) (là một trong năm ngọn núi danh thắng của Trung Quốc là Hoa sơn, Thái sơn, Hằng sơn, Hành sơn và Tung sơn) cho nhà sư Bạt Đà (Bá Tuó 跋陀), đến Trung Hoa vào năm 464, người đã thuyết giảng Bộ kinh Phật giáo ở Trung Quốc trong vòng ba thập kỷ.
Theo truyền thuyết của Phật Giáo Thiền Tông Trung Hoa, sau khi từ biệt Lương Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma đã vượt sông Trường Giang (Dương Tử Giang) trên một ngọn cỏ lau (cước đạp lô diệp quá giang) đi đến chùa Thiếu Lâm và trụ trì ở đó. Ngày nay ở Thiếu Lâm tự vẫn còn bức tượng "cước đạp lô diệp quá giang" miêu tả tích này. Tại ngôi chùa này, ông đã thực hành thiền định trong chín năm liền quay mặt vào vách núi (cửu niên diện bích).
Trong thời gian trụ trì và thuyết pháp, nhận thấy các tăng nhân trong chùa có thể lực rất yếu kém không thể chống chọi nổi với thời tiết và khí hậu khắc nghiệt của vùng núi rừng hiểm trở, ngài đã kết hợp các bài tập luyện thở Yoga và một số môn võ tay không của Ấn Độ gọi là Cửu Long sáng tạo nên một số bài tập để rèn luyện tăng cường sức khỏe phục vụ cho quá trình tu hành.
Các bài tập của Bồ Đề Đạt Ma cho đến hiện nay vẫn chưa thể xác định được.
Tuy nhiên có một điểm cần lưu ý là các bài tập của Bồ Đề Đạt Ma có kèm theo một số các thủ thuật xoa bóp và điểm huyệt gọi là Án Ma Pháp (Anma Faat 按摩法) giống như phương pháp châm cứu và bấm huyệt của Đông y học Trung Quốc và phương pháp massage của phương Tây ngày nay. Do vậy trong các bài quyền của hầu hết các hệ phái Thiếu Lâm sau này thường hay có những động tác vỗ chân vỗ tay nhằm kích hoạt (activate) lên các huyệt đạo để phát động nguồn Khí lực trong cơ thể đồng thời để tạo khí thế khi diễn tập với mục đích làm cường kiện thân thể.
Các bài tập thở và xoa bóp huyệt đạo để đả thông khí huyết trong hệ kinh mạch của võ Thiếu Lâm có liên hệ mật thiết sau này với các phương pháp của trường phái triết học Trung Hoa cổ đại là phái Đạo Gia với Phép đạo dẫn mà nó chính là phương pháp luyện tập hơi thở và truyền dẫn nguồn năng lượng nội sinh (Inner Power) trong cơ thể được gọi là khí (tiếng Trung Hoa phát âm là Qi, tiếng Nhật là Ki cũng gần như nhau). Đó chính là phương pháp Khí công chỉ chuyên luyện nội khí, vận khí (dẫn khí), dụng khí hóa kình trong quyền thuật và Điểm Huyệt của võ Thiếu Lâm. Hai môn này hiện nay đang được các trường Đại học của Trung Quốc và Đài Loan . ( Viết theo http://vi.wikipedia.org/).
Lịch sử của võ phái Thiếu Lâm rất lâu đời, các bạn có thể tìm trên google, dienbatn không nêu ra đây nữa, nhưng có một điều rất hiển nhiên của lịch sử là ngay cả một lịch sử võ thuật lâu dài của Thiếu Lâm Trung Quốc cũng là do khởi đầu từ một vị Phật tăng Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma . Bồ đề đạt ma được coi là tổ sư, người sáng lập phái võ Thiếu Lâm. Môn võ này có nguồn gốc từ môn võ thuật cổ truyền của Ấn Độ là võ Kalaripayat, mà Bồ-đề-đạt-ma là một võ sư của môn võ này.
Bây giờ, Võ học phát triển, Thiếu Lâm có mặt khắp nơi, không kể Đông Tây Nam Bắc và tùy theo phong thổ mỗi quốc gia mà có những nét đặc sắc riêng. Theo Lịch sử Võ Học Thế Giới chép rằng, các môn phái Nga My, Không Động, Võ Đang xuất phát từ Thiếu lâm tự; Karatedo, Taekwondo, Judo phát xuất từ cương quyền, nhu quyền, nhu thuật của Thiếu Lâm tự; Kiếm đạo của Nhật Bản, võ đạo trên thế giới đều tôn Ngài Bồ Đề Đạt Ma làm thủy tổ. Như vậy, chúng ta thấy, bao nhiêu hoa trái xum xuê vươn lên từ cây đại thọ thiền học hay võ học ở Trung Hoa và Việt Nam đều vươn lên từ Ngài Bồ Đề Đạt Ma, nên chúng ta có thể nói thiền và võ thuật cùng chung gốc và có mối quan hệ rất mật thiết.
Điều đó cũng có nghĩa là nguồn gốc của mọi nguồn gốc cũng đều từ PHẬT giáo của Ấn Độ.
Bây giờ ta lại khảo cứu đến Kalarippayattu – Môn võ cổ nhất thế giới.


Được xem là điệu múa đầy uy lực của nữ thần Shiva, Kalarippayattu là môn võ cổ xưa nhất của Ấn Độ, được lưu truyền đến ngày nay. Theo truyền thuyết, cách đây hàng ngàn năm trước Công nguyên, một vị hoàng tử Ấn Độ đã quan sát ghi nhận đòn thế giao tranh của các loài cầm thú rồi chế tác ra nhiều chiêu thức chiến đấu cho con người.
Kalarippayattu có thể coi là môn võ xưa nhất thế giới, có hệ thống bài bản, hành trình theo hướng từ Ấn Độ sang Trung Hoa, Nhật Bản rồi tỏa đi các nước khác.
Ngày nay, Kalarippayattu được truyền dạy như là một phương pháp tự vệ và thể dục rèn luyện thân thể hữu hiệu. Tại bang Karela, tổ đường của Kalarippayattu là một ngôi đền thờ nữ thần Siva và thần chiến tranh (Mahakali). Đền này cũng thờ tất cả các vị tổ sư nhiều đời của Kalari, là nơi để các môn đồ võ phái gặp gỡ cùng nhau tập luyện mỗi ngày. Nghi thức mở đầu buổi tập cùng các phương pháp kỹ thuật, đòn thế đã khiến các nhà võ học xác định vai trò ngọn nguồn của nó.


Đòn thế căn bản của Kalarippayattu gồm: Quyền, cước, cầm nã và điểm huyệt. Chiêu thức đòn thế có sự giống nhau với kỹ thuật của hầu hết các võ phái Nhật Bản, Trung Hoa. Kỹ thuật tấn công bằng đòn thế được gọi là dhanurveda, điểm huyệt được gọi là dim mak và chia ra làm 3 cấp độ: Dim chinh đánh lên dây thần kinh cảm giác gây kích ngất, bất tỉnh, dim Hsueh đánh lên gân máu, khớp xương gây tê dại, dim mak đánh lên tử huyết gây tử thương. Huyệt được gọi là marmas.
Võ phái Kalarippayattu cũng quan niệm có 108 huyệt trên thân thể con người như các võ phái Trung Hoa. Cách phân loại các huyệt cũng giống nhau: Huyệt đơn (eka Marmas), huyệt kép (dwanda Marmas), tử huyệt (padu marmas, gồm 12 huyệt), sinh huyệt (thodu marmas, gồm 96 huyệt).
Việc luyện nội công của Kalarippayattu thông qua môn Yoga (tiếng Phạn có nghĩa là sự liên kết tập trung khí lực). Có hai pháp môn Yoga chính là: Yoga tinh thần (Raja yoga) tương đương với tĩnh công, suy tưởng thiền định của các võ phái Nam Á; Yoga thể dục (Hatha yoga) tương đương động công, khí công.
Raja yoga nhằm đưa con người đến tình trạng Đại định và Thần lực bằng con đường tập trung cao độ tinh thần, cảm xúc, ý thức đến mức tự kiểm soát được toàn bộ con người.


Hatha yoga nhắm đến thể chất với mục tiêu tạo một sức khoẻ toàn diện bao gồm nhiều phép luyện thở có kết hợp với nhiều tư thế khác nhau của thân thể như tư thế cây chuối, cái cung, rắn hổ mang, cào cào…
Mỗi tư thế đều có tác dụng điều hòa và tăng cường sinh lực cho các cơ quan nội tạng. Theo nội dung triết lý chủ đạo của trường phái y thuật cổ Ayurveda thì lý trí có tác động mạnh mẽ nhất đối với sức khoẻ và thể xác của mỗi người. Đồng thời, sự giải thoát khỏi bệnh tật cũng lệ thuộc vào ý thức và sự cân bằng của lý trí. Khi lý trí đạt được sự cân bằng, nó sẽ chuyển giao sự cân bằng này cho cơ thể, giúp cơ thể chiến thắng bệnh tật.
Thành quả cuối cùng của 2 pháp môn này không hạn chế. Dù tập pháp môn nào người tập cũng sẽ đạt đến mục đích giống nhau: Đạt đến trạng thái hợp nhất về tinh thần, nội lực sung mãn, sức khoẻ dồi dào. Nhiều môn sinh Kalarippayattu đã biểu diễn những công phu đặc dị như đi như bay (Khinh công), đi trên nước (Thủy thượng phiêu), đi lên những bức tường thẳng đứng (Bích hổ du tường)…(Theo bee ).
Như các bạn đã biết, ngày xưa khi  Huyền Trang tên tục Trần Huy (Trần Vĩ hoặc Trần Y 陳褘) sinh năm 596,đời Tùy Văn Đế tới Ấn Độ để thỉnh kinh Phật, các tác phẩm kinh Phật ông mang về dịch tại Trung Quốc hầu như bằng chữ (zh. Phạm/Phạn ngữ 梵語; sa. saṃskṛtā vāk संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là saṃskṛtam संस्कृतम्) là một cổ ngữ của Ấn Độ còn gọi là bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là nam Phạn .
dienbatn đã tham khảo khá nhiều tài liệu viết về Phật quyền, Thần quyền, thì đa phần sử dụng các câu chú tiếng Pali ( Pāli (पाऴि) còn gọi là Nam Phạn, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Aryan Trung cổ hay prakrit. Nam Phạn là ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Nam Tông, dùng trong việc chép kinh cùng tụng niệm, trong đó có bộ Kinh Tam tạng (tên theo tiếng Nam Phạn là Tipitaka). Chữ Nam Phạn được đúc kết từ mấy nguồn hệ thống chữ viết khác nhau, từ chữ Brahmi, Devanāgarī và các chữ viết thuộc hệ Ấn-Aryan. ).
Chỉ có một số rất ít tài liệu viết về Phật quyền, Thần quyền sử dụng tiếng Phạn hay tiếng Trung Quốc. 
Tuy nhiên có một điều hết sức thú vị là khi sử dụng chú bằng tiếng Pali thì hầu hết tất cả những câu thỉnh Tổ của Phật quyền, Thần quyền lại dùng tiếng Trung Quốc ( Chuyển thừ Phạn tự sang tiếng TQ do Huyền Trang thực hiện ).
Lược lại quá trình lịch sử, dienbatn mạo muội lập một bản đồ phát triển của Phật giáo như sau :



Giai đoạn 1 : Sự xuất hiện của người Aryan tại Ấn Độ.
 "Có lẽ vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên những cư dân thuộc chủng tộc Aryan bắt đầu tràn vào Ấn Độ từ phía Bắc, xâm nhập không gian cư trú của người Dravidian . Người Aryan là những bộ lạc bán du mục, mặc dù có văn hoá kém hơn, nhưng có sức mạnh quân sự hơn hẳn người bản địa đã dần dần chiếm lĩnh được hết Ấn Độ bằng chiến tranh. Khi đã có địa bàn đứng chân chắc chắn họ tiếp tục tiến xuống miền Nam Ấn với những đợt di dân bằng sức mạnh tôn giáo cho đến khi làm chủ toàn bộ bán đảo. Cuộc di cư vĩ đại này đã tạo ra quá trình hoà trộn tổng hợp văn hoá giữa 2 dân tộc Dravidian và Aryan.Người Aryan đã "mượn chế độ cộng đồng làng xóm, chính sách điền địa thuế khoá", (Will Durant - Lịch sử văn minh Ấn Độ) của người Dravidian, tổ chức lại đất nước thành những tiểu quốc nhỏ theo chế độ phong kiến. Mặt khác họ đưa vào đất An một tôn giáo mới, tôn giáo này kết hợp với những tôn giáo sẵn có tại địa phương thành tín ngưỡng chung cho toàn Ấn Độ trong một giai đoạn dài cho đến 500 năm trước Công nguyên. Người ta gọi đó là kỷ nguyên Veda, theo tên những bộ kinh ra đời trong thòi gian này.
Các kinh Veda chứa đựng những yếu tố căn bản, đặt nền móng cho tư tưởng và văn hoá Hinđu giáo sau này.
Từ cuối kỷ nguyên Veda, Ấn Độ bắt đầu phải đương đầu với hai cuộc xâm lấn từ phía Tây Bắc của người Ba Tư vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên và của Hy Lạp vào thế kỷ thứ IV trước Công nguyên. Người Ấn sau đó giành lại được đất đai và lập nên triều đại Maurya thống nhất toàn bán đảo dưới một quốc gia tập quyền. Sau khi Ashoka, vị vua Maurya và là phật tử vĩ đại nhất qua đời, triều đại này tan rã một cách nhanh chóng, và đất nước bị chia rẽ dẫn đến hàng loạt cụộc xâm chiếm mới của người Bactria, người Shakas, người Kushan, mỗi tộc người lại lập ra một hoặc nhiều vương quốc ở phía Tây và Bắc Ấn Độ.
Giữa những xáo trộn ghê gớm đó, hàng loạt tôn giáo mới ra đời, phát triển, đóng góp vào kho tàng văn hóa và tư tưởng Ấn Độ những giá trị quý báu. Đáng chú ý nhất là sự huy hoàng của đạo Phật dưới triều Maurya và đạo Jain xuất hiện.
Đến thế kỷ thứ IV và V sau Công Nguyên, Ấn Độ bước vào một giai đoạn hoàng kim dưới triều đại Gupta. Trong thời kỳ này nền văn hóa Ấn Độ đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Các vua triều Gupta nâng đỡ các nhà khoa học, nghệ sĩ, phát triển các ngành văn hóa tôn giáo, khoa học và nghệ thuật. Đặc biệt, các tôn giáo đều có cơ hội phát triển khá tự do, bình đẳng, kéo theo những môn nghệ thuật liên quan. Phía Hinđu giáo, các học giả, tu sĩ phục hồi lại vãn học Hindun, "làm cho tiếng Sanskrit trở thành một thứ thế giới ngữ cho khắp các nhà trí thức Ấn Độ " (Will Durant - Lịch sử văn minh An Độ). Còn nghệ thuật Phật giáo cũng phát triển mạnh, sản sinh ra được những tác phẩm hàng đầu như hệ thống bích họa trong các chùa hang. Tuy nhiên thời kỳ rực rỡ đó bị chấm dứt bởi những cuộc xâm lăng của Hung Nô. Sang thế kỉ thứ VII, triều đại Harsha đẩy lui Hung Nô và phục hồi được phần nào nền hòa bình và không khí văn hóa thời Gupta. Vị vua lập quốc Harshavarhana, là một minh quân có tâm hồn và tài năng của nghệ sĩ, đồng thời lại có chính sách khoan dung với mọi tôn giáo. Chính vì vậy, văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là văn hóa Phật giáo lại thịnh đạt trong một thời gian dài.
( http://kientrucsaigon.net/).
Giai đoạn 2 : Sự truyền bá của đạo Phật từ Ấn độ tới Trung Quốc :
1/ Tì-ni-đa-lưu-chi (zh. 毘尼多流支, sa. vinītaruci), ?-594, cũng được gọi là Diệt Hỉ (滅喜), là Thiền sư Ấn Độ sang Trung Quốc tham học, môn đệ đắc pháp của Tam tổ Tăng Xán và là người khai sáng thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi tại Việt Nam.
Sư là người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), thuộc dòng dõi Bà-la-môn. Sư thuở nhỏ đã có ý chí khác thường, đi khắp mọi nơi cầu học Phật pháp. Năm 574, Sư sang Trung Quốc và nhân đây có cơ hội yết kiến Tam tổ Tăng Xán tại núi Tư Không. Thấy cử chỉ uy nghiêm của Tổ, Sư bỗng đem lòng kính mộ, đứng trước vòng tay cung kính. Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng im suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tự ngộ, liền quì xuống lạy ba lạy. Tổ thấy vậy cũng chỉ gật đầu ba lần. Sư muốn đi theo hầu Tổ nhưng Tổ lại khuyên đến phương Nam giáo hóa.( vi.wikipedia.org)
 2/ Đường Tam Tạng hay Đường Tăng, Huyền Trang (chữ Hán: 玄奘; bính âm: Xuán Zàng; khoảng 602–664) là một Cao tăng Trung Quốc, một trong bốn dịch giả lớn nhất, chuyên dịch kinh sách Phạn ngữ ra tiếng Hán. Nhà sư cũng là người sáng lập Pháp tướng tông (zh. fǎxiàngzōng 法相宗), một dạng của Duy thức tông (zh. 唯識宗, sa. yogācāra, vijñānavāda) tại Trung Quốc. Vì tinh thông Kinh điển Phật giáo nên nhà sư còn mang danh hiệu là Tam Tạng (pháp sư), là người tinh thông cả Tam tạng.
Huyền Trang tên tục Trần Huy (Trần Vĩ hoặc Trần Y 陳褘) sinh năm 596, năm thứ 16[cần dẫn nguồn] đời Tùy Văn Đế Dương Kiên tại Lạc Châu (洛州), huyện Câu Thị (緱氏縣), tỉnh Hà Nam, trong một gia đình có truyền thống quan lại. Đến cha của Huyền Trang là Trần Huệ thì dốc tâm vào Nho học, từ khước làm quan. Theo các truyện kí thì từ nhỏ Sư nổi danh thông minh đĩnh ngộ, sớm được thân phụ chỉ dạy những nghi thức Nho giáo.
Năm lên 13 tuổi Sư đã xuất gia và Thụ giới cụ túc năm 21 tuổi. Sư tu học kinh sách Đại thừa dưới nhiều giảng sư khác nhau và thấy có nhiều chỗ giảng giải mâu thuẫn. Đây là lí do chính thúc đẩy Sư lên đường đi Ấn Độ để tự mình tìm hiểu.
Mặc dù bị hoàng đế ra lệnh cấm đi du hành qua Ấn Độ, năm 629 Sư liều mình ra đi để hành hương chiêm bái quê hương Đức Phật, hi vọng sẽ tìm kiếm và nghiên cứu kinh điển mà hồi đó Trung Quốc chưa biết tới. Tập kí sự du hành của Sư (viết theo yêu cầu của nhà vua, người đã khâm phục và hỗ trợ Huyền Trang sau khi Sư vinh quang trở về năm 645), có tên là Đại đường tây vực kí, để lại cho hậu thế một nguồn tài liệu vô song về địa lí, xã hội và tập quán của miền Trung Á và Ấn Độ trong thế kỉ thứ bảy. Nhiều miêu tả của Sư về các vùng đất đó đã đạt tới độ chính xác mà trong thế kỉ 19, 20, nhiều nhà du khảo phương Tây như Ariel Stein đã tham khảo tập kí sự đó như một tập sách hướng dẫn nhằm tìm lại và xác định những vị trí đã được tìm ra và rồi bị lãng quên trong nhiều thế kỉ.
Sau khi trở về cố quốc, một phần nhờ trình độ uyên bác xuất chúng, một phần nhờ tiếng tăm vang dội mà Sư đã gặt hái được tại Ấn Độ và các nước Trung Á, một phần nhờ hoàng đế Trung Quốc đặc biệt hỗ trợ, như xây cất chùa chiền cho Sư trú ngụ cũng như thành lập một ban dịch thuật do chính nhà vua chọn lọc để giúp cho Sư hoàn thành công tác phiên dịch của hơn 600 kinh sách mang về Trung Quốc, Huyền Trang đã trở thành tu sĩ tiếng tăm nhất tại vùng Đông Á trong thế hệ đó. Học viên đến với Sư từ khắp Trung Quốc, kể cả từ Triều Tiên và Nhật Bản, song song có nhiều tăng sĩ từ Ấn Độ và các vương quốc Trung Á đến để bày tỏ lòng hâm mộ. Ngoài việc truyền bá kinh sách Phật giáo và tư tưởng Ấn Độ mới mẻ vào Trung Quốc, Sư cũng gây ảnh hưởng lên nền nghệ thuật và kiến trúc Trung Quốc bằng những vật dụng và thiết kế do Sư mang về. Có một ngôi chùa được xây theo thiết kế của Sư tại Trường An (ngày nay là Tây An) để chứa dựng kinh sách và các tác phẩm nghệ thuật của Sư mang về. Ngôi chùa đó ngày nay vẫn còn và là một dấu ấn quan trọng của đô thị này.
Sư là một trong những dịch giả người Hán dịch các văn bản của Phật Giáo Ấn Độ vĩ đại nhất và mang lại thành quả lớn lao nhất (và cũng chính xác nhất). Nhiều dịch phẩm của Sư, như Tâm kinh và Kim Cương kinh, ngày nay vẫn còn đóng một vai trò quan trọng trong việc hành lễ Phật giáo hàng ngày. Qui mô của các dịch phẩm của Sư là vô song, không chỉ những kinh sách của Duy thức tông mà Sư quy phục, mà còn bao gồm đầy đủ những kinh tạng đạo Phật, từ phép chỉ quán và đà-la-ni, đến phép quán tưởng, đến a-tì-đạt-ma cũng như toàn bộ kinh bát-nhã ba-la-mật (bộ kinh này chiếm ba bộ của Địa tạng Trung Quốc), kinh A-hàm, kinh Đại thừa, các chú giải về kinh và luận, Nhân minh học (Sư là người duy nhất dịch kinh luận Nhân minh ra chữ Hán) và kể cả một văn bản Thắng luận của Ấn Độ giáo.vi.wikipedia.org)
Giai đoạn 3 : Phật giáo vào Việt Nam :
1/ Tại miền Bắc Việt Nam : 
Đạo Phật truyền đến Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ Công Nguyên [năm 580]. Đến cuối thế kỷ thứ hai, Việt Nam đã thành lập được một trung tâm Phật Giáo quan trọng trong vùng, thường được gọi là trung tâm Phật Giáo Luy Lâu, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, phía bắc thành phố Hà Nội. Luy Lâu là thủ đô của xứ Giao Chỉ, tên cũ của Việt Nam, và là một trạm nghỉ chân quen thuộc của các nhà truyền giáo đạo Phật người Ấn Độ, trên hành trình sang Trung Hoa theo đường biển của các thương gia Ấn đi từ bán đảo Ấn Độ. Một số kinh điển Đại Thừa và A-hàm đã được dịch sang Hoa văn tại đó, chẳng hạn như kinh Tứ Thập Nhị Chương, An Ban Thủ Ý, Kinh Bổn Sanh, Kinh Mi-lan-đa Vấn Đạo, v.v.
Tỳ Ni Ða Lưu Chi - Sư sang Việt Nam khoảng cuối thế kỉ thứ 6 (~580), cư trú tại chùa Pháp Vân (chùa Dâu) tỉnh Hà Bắc. Nơi đây Sư dịch bộ kinh Đại thừa phương quảng tổng trì sau khi đã dịch xong bộ Tượng đầu tinh xá kinh tại Trung Quốc.
Theo Thuyền Uyển Tập Anh, Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã nghe lời tổ Tăng Xán xuống phương Nam hành đạo và do đó đã dịch các kinh Tượng Ðầu và Nghiệp Báo Sai Biệt tại chùa Chế Chi ở Quảng Châu và sau khi tới chùa Pháp Vân ở làng Cổ Châu, Long Biên, mới bắt đầu dịch kinh Tổng Trì. Thuyền Uyển Tập Anh nói rõ rằng ông đến chùa Pháp Vân vào tháng Ba năm Giáp dần (594) thì tịch. Thời gian ông lưu trú tại Việt Nam như vậy là 14 năm.
Khi ông qua tới chùa Pháp Vân thì ở đây đã có một vị thiền sư Việt Nam tên là Quán Duyên đang dạy thiền học cho đồ chúng. Ông ở lại đây và chọn thiền sư Pháp Hiền làm đệ tử. Pháp Hiền từ trước đã có học thiền học với Quán Duyên.
2/ Tại miền Nam Việt Nam :
*Therevada tại miền Nam Việt Nam.
" Phần đất phía nam của Việt Nam ngày nay đầu tiên có người Chàm và Cam Bốt (Khơ-me) trú ngụ, và họ theo cả hai truyền thống Đại Thừa Ấn Độ và Phật Giáo Nguyên Thủy, mặc dù có lẽ là người Chàm đã theo truyền thống Nguyên Thủy từ thế kỷ 3 CN và người Cam Bốt chỉ bắt đầu theo Nguyên Thủy vào thế kỷ 12 . Người Việt bắt đầu xâm chiếm và thu nhập phần đất nầy vào thế kỷ 15, và đến thế kỷ 18, hình dạng của quốc gia Việt Nam như hiện nay được hoàn tất. Từ đó, sắc tộc Việt theo Phật Giáo Đại Thừa, trong khi sắc tộc Khơ-me theo truyền thống Nguyên Thủy, cả hai truyền thống nầy cùng chung nhau hiện hữu an hòa.
Chữ Theravada được ghép từ hai chữ thera và vada. Trong tiếng Pa-li chữ thera có nghĩa là người xưa, người đi trước, người cao tuổi, người con cả (ancien, aîné / ancient, old, elder) hoặc một người mang phẩm trật cao (senior). Trong phạm vi của Phật Giáo Theravada chữ thera được dùng để gọi một người tỳ kheo đã được thụ phong hơn mười năm - nói theo cách của các nhánh gia đình Phật Giáo khác là người tỳ kheo ấy đã "thọ cụ túc giới" hơn 10 năm. Do đó kinh sách Hán ngữ đã dịch chữ thera là "Thượng Tọa" hay "Trưởng Lão" (chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong phần tìm hiểu nguồn gốc của Phật Giáo Theravada dưới đây). Chữ vada có nghĩa là quan điểm hay giáo lý (doctrine, theory), vậy nếu dịch chữ Theravada là "Giáo Lý của các vị Thượng Tọa" hay của các vị "Trưởng Lão" thì không có nghĩa gì cả, nói cách khác là tiền ngữ thera trong chữ Theravada không có nghĩa là Thượng Tọa hay Trưởng Lão mà chỉ có nghĩa là "người xưa". Tóm lại phải hiểu toàn bộ chữ Theravada là "Giáo lý của những người xưa"
Trên thực tế Theravada chỉ xuất phát từ một trong số 18 học phái xưa mà thôi. Học phái này được đưa vào Tích lan vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch, và sau đó cũng đã phát triển và biến dạng không ít trước khi được chính thức "khai sinh" với cái tên gọi là Theravada vào thế kỷ thứ VII như đã nói trên. Thế nhưng tại sao lại nên gọi gia đình Phật Giáo này là Theravada? Dù rằng chỉ đại diện cho một học phái xưa thế nhưng ít ra tên gọi Theravada cũng phản ảnh phần nào nguồn gốc xưa của Phật Giáo trước khi Đại Thừa Phật Giáo (Mahayana) được chính thức hình thành vào thế kỷ thứ I sau Tây Lịch.
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam thế kỷ đầu Tây lịch.Tại Việt Nam, ngoài Phật giáo Đại thừa, Phật Giáo Nam Tông có hai hệ phái chính: Phật Giáo Nam Tông Khmer và Phật Giáo Nam Tông người Kinh, cả hai chủ yếu được thịnh hành ở vùng Nam - Trung Bộ.
Chúng ta được biết:“Phật giáo Nam Tông được truyền vào Việt Nam theo con đường của các nhà truyền giáo từ Ấn Độ đi theo đường biển tới Tích Lan (Srilanca), Miến Điện (Myanma), Thái Lan tới vùng sông Mê Kông (Campuchia) và vào vùng các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (phía Nam) của Việt Nam, được đông đảo người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer đón nhận, trở thành tôn giáo của người Khmer, do đó gọi là Phật giáo Nam Tông Khmer”...
Phật giáo nguyên thuỷ- Nam tông (Theravada) có bề dày lịch sử rất lâu đời, sự truyền thừa được các sử gia thừa nhận là không bị gián đoạn. Điểm ưu việt của nó là truyền bá đến quốc gia nào vẫn giữ được nét văn hoá Phật giáo đặc thù, mà những truyền thống khác rất hiếm có. Phật giáo nguyên thuỷ hiện nay có mặt ở những quốc gia: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Anh, Mỹ, Ý, Úc, Mã Lai, Indonesia,Nepal, Ấn Độ v.v… Điểm đáng nói là tính thống nhất trong truyền thống Nguyên thuỷ, chư tăng tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng bản ngữ , tu hành y cứ theo thánh điển Pali, Tam y và bình bát là tài sản của bậc xuất gia, chỉ ăn ngày một buổi, không ăn phi thời. 
Miền Nam Việt Nam xưa kia là lãnh thổ của vương quốc  Phù Nam. Theo sử liệu của Trung Hoa vương quốc này thành lập khoảng thế kỹ 12 trước Công nguyên, nhưng theo những nhà khảo cổ Tây phương dựa vào bia ký khắc trên đá, vách thành đã được tìm thấy dưới lòng đất thì quốc gia này lập quốc thế kỷ thứ 1 sau công nguyên.  Nhưng vương quốc Phù Nam bị Chân Lạp xâm chiếm và tiêu diệt vào cuối thế kỷ thứ 6. Trên bản đồ,  Phù Nam không còn nữa. Trải qua năm tháng nhờ Việt Nam, triều Nguyễn, bảo hộ chống nội loạn và ngọai chiến nên vua Chân Lạp nhượng đất để đền ơn đáp nghĩa vào năm Đinh sửu (1759) .
Từ khi lập quốc đến thế kỷ thứ 6 sau Tây lịch do các vua chúa Phù Nam cai trị. Từ thế kỷ thứ 6 đến năm 1759 là các triều đại của vua chân lạp  . Năm Đinh Mão (1867) Pháp chiếm Miền Nam làm thuộc địa, để phân định hai quốc gia với lối cai trị khác nhau vị toàn quyền Pháp và quốc vương Campuchia ấn định lằn ranh giữa hai nước đồng ký vào bản nghị định ngày 9-7- 1870, do vậy Miền nam có mặt trên bản đồ thế giới dưới tên gọi do thực dân Pháp đặt ra Cochinchinne, gọi là Nam Kỳ . Năm 1945, chế độ thực Dân Pháp sụp đổ, Việt Nam Cộng Hòa ra đời danh từ Nam Kỳ đổi thành Miền Nam Việt Nam. Ngày 30-4-1975 chế độ Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, đất nước chúng ta thống nhất từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Người Việt gốc khơme sống trong lãnh thổ Việt Nam cũng  được hưởng quyền tự do bình đẳng như người Việt Nam.
Ngày nay, những nhà khảo cổ  đã phát hiện những cổ vật, tháp, tượng Phật, thần ở Long An, Kiên Giang, Đồng Tháp Mười v.v… có niên đại 530, 400, 300 năm trước công nguyên . Điều đó cho chúng ta thấy rằng những địa điểm trên đã có một nền văn hóa thật sự văn minh và phát triển tại đây.
Đồng thời trong Mahàvamsa, lịch sử truyền bá của Phật giáo thì có nhắc đến phái đoàn truyền giáo sang xứ Suvannabhùmi của vua ASOKA vào thế kỷ thứ III trước công nguyên do hai vị A La Hán Sona và Uttara lãnh đạo. Các nhà sử học thật  khó khăn để thẩm định  ranh giới của địa danh Suvannabhùmi này ở đâu? Nhưng đa số cho rằng cả vùng Đông Nam Á. Cụ thể hơn ông Aymonier cho rằng Phù Nam là  Miền Nam Việt Nam hiện nay. Theo ông Abel Résumat Phù Nam là Miền Bắc Việt Nam .  Chính vì thế những quốc gia như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Camphuchia và Việt Nam, lịch sử  Phật giáo những quốc gia này đều có ghi nhận là vào thế kỷ thứ III  truớc công nguyên phái đòan vua Asoka có truyền đạo đến đất nước của Mình. Từ đó chúng ta có thể đưa ra những kết quả niên đại Phật giáo du nhập vào Miền Nam Việt Nam." ( dienbatn tổng hợp các tư liệu )
* Các triều nhà Nguyễn ở miền Nam Việt Nam .
Chúa Nguyễn là cách gọi chung trong sử sách và dân gian về những nhà cai trị các vùng đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo Ngang hiện nay) vào miền nam của Việt Nam, bắt đầu từ đầu giai đoạn Lê Trung Hưng của nhà Hậu Lê, hay giữa thế kỷ 16, cho đến khi bị nhà Tây Sơn tiêu diệt năm 1777. Các chúa Nguyễn là tiền thân của nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê và lập ra nhà Mạc. Nguyễn Kim (1468-1545), vốn là một tướng giỏi của nhà Hậu Lê, nhờ có công giúp vua Lê chống lại nhà Mạc nên được phong chức Thái Sư Hưng Quốc Công, sau này khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước đã truy tôn ông là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế. Nguyễn Kim có ba người con. Con gái đầu tên Ngọc Bảo, lấy Trịnh Kiểm, người sau này trở thành vị chúa mở đầu cho sự nghiệp của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài; hai người con trai kế của Nguyễn Kim cũng là tướng giỏi và được phong chức Quận công. Sau khi người con trai lớn là Nguyễn Uông, bị anh rể là Trịnh Kiểm giết, người con trai còn lại là Nguyễn Hoàng đã xin vua Lê cho vào cai trị vùng đất Thuận Hóa để rời xa tầm ảnh hưởng của anh rể, nhằm mưu đồ tạo dựng cơ nghiệp riêng cho họ Nguyễn. Tổng cộng có chín chúa Nguyễn cai quản xứ Đàng Trong trong hơn 2 thế kỷ.
Nguyễn Hoàng (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) là người tiên phong trong việc mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía nam, mở đầu cho việc hùng cứ phương nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập vương triều nhà Nguyễn bao gồm 13 vua; nhưng cũng là người mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn sau này.
Để mở rộng bờ cõi, năm 1611 ông đã thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên sau khi trấn giữ Thuận Quảng. Tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của vương quốc Chăm Pa khi đó đã suy yếu rất nhiều, lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Văn Phong trấn giữ.
Cho tới khi ông mất, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam Phú Yên, giáp tỉnh Khánh Hòa.
Trong khoảng thời gian 200 năm kể từ 1558 khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng được vua Lê cử cai quản đất Thuận Hóa và sau đó là Quảng Nam. Với những công trình khẩn hoang của mình, chúa đã làm cho hai xứ Thuận Quảng từ một vùng đất hoang sơ lạc hậu, nhanh chóng trở thành một khu vực kinh tế phát triển.
Cho đến năm 1757, khi chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát tổ chức hành chánh hoàn tất vùng Nam bộ thì cương vực và lãnh thổ Việt Nam đã tăng gấp đôi.
Với sự mở đầu ra đi của chúa Nguyễn Hoàng, và kế tục là các đời chúa con cháu của ngài, đất nước đã tiếp thụ một nguồn của cải mới, đó là cả một vùng đất phía Nam giàu có, là các cuộc giao thương cường thịnh với các trung tâm thương mại mới: Hội An; Nông Nại Đại Phố, Gia Định, Bến Nghé, Hà Tiên... là các tri thức mới khi tiếp cận ở nhiều dân tộc phương Nam hay đến từ phương Nam. 
Theo chân những đoàn quân của các Chúa Nguyễn, những nhà truyền giáo, các Pháp sư, Phù thủy từ miền Bắc Việt Nam mang theo những bí thuật Huyền môn của mình kết hợp với Huyền môn bản địa mà tạo ra những trang sử huy hoàng của giới Huyền môn Việt Nam.
Xin coi tiếp bài 24 - dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *