TỔ SƠN CỦA ĐỒNG VIỆT.
Như đã trình bày tại bài 2 : " Khu vực này là đầu một con Long rất lớn, tuy nhiên con Long này không phải quê quán nó tại đây - Nó cũng là " Long ngụ cư ". Con Long này đặc biệt ở chỗ nó không xuất phát từ Long mạch của dãy Nham Biền. Sau khi khảo sát tất cả các khu vực xung quanh, dienbatn nhận thấy đó là một con Long xuất phát từ mạch Long của Côn Sơn - Kiếp Bạc bên kia sông Thương. Cụ thể là con Long này bắt nguồn từ phần cuối của dãy Nam Tào - Bắc Đẩu bên kia sông, sau đó nó chui qua sông Thương và nhô đầu lên khu vực nền Đình - Chùa Hành Quán cũ.Thế Long như vậy thật hiếm có vì nó như một bông sen mọc lên từ dưới đáy dòng sông Thương, chồi lên nên nó không bị ảnh hưởng vì các việc kiến tạo, san ủi của con người. Thế đất này cũng tương tự như thế đất " Mả táng treo " tại Nam Sách - Hải Dương là mộ của Vũ Hồn, Tổ của dòng họ Võ- Vũ Việt Nam."
Các sách xưa đã viết về Côn Sơn - Kiếp Bạc, Tổ sơn của Long mạch xóm Trung - Đồng Việt như sau : " Kiếp Bạc là một địa danh lừng lẫy bên Lục Đầu Giang, cách Côn Sơn chừng 5 cây số. Kiếp Bạc có thế "rồng vươn, hổ phục", có "tứ đức, tứ linh". Thế sông núi hiểm mà hài hoà, hùng vĩ khoáng đạt mà trang nhã. Tại đây, hội nước 4 dòng sông từ thượng nguồn dồn về, chảy vào sông Thái Bình và sông Kinh Thầy, mang phù sa màu mỡ tốt tươi về xuôi bồi đắp. Bốn dòng sông ấy, ngoài các tên quen thuộc, đều có thêm một tên Hán tự có chữ "đức" đứng sau: sông Đuống (Thiên Đức), sông Cầu tức sông Như Nguyệt (Nguyệt Đức), sông Thương (Minh Đức), Sông Lục Nam (Nhật Đức); dòng chính về xuôi thì có tên là sông Thái Bình. Vì người xưa coi Lục Đầu Giang là nơi hợp lưu của 4 dòng đức lớn trong vũ trụ mang thái bình tức là mang yên ổn thịnh vượng về cho trăm họ, muôn dân. Kiếp Bạc có đường thuỷ, đường bộ rất thuận tiện. Từ Kiếp Bạc có thể thuận tới Thăng Long, lên ngược, về xuôi, ra biển đều dễ dàng, nên đây là vị trí chiến lược, "quyết chiến điểm" mà cả quân dân Đại Việt cũng như quân xâm lược phương Bắc đều cần chiếm giữ trong các cuộc chiến tranh.
Sách Cao Biền di cảo và Chí Linh phong vật chí chép rằng: Côn Sơn, Kiếp Bạc mạch tự Huyền Đinh, thế ngăn Đông Bắc, bốn phương quy phục, núi sông kỳ hình, kỳ dạng, long bàn, hổ cứ, như muôn quân, nghìn tướng chầu về…ở đất này sẽ được hưởng phúc muôn đời…Khu di tích danh thắng Côn Sơn bao gồm cả núi Kỳ Lân và núi Ngũ Nhạc liền kề; Đền Kiếp Bạc tựa lưng vào núi Trán Rồng, trước mặt là sông Lục Đầu. Côn Sơn - Kiếp Bạc lại tiếp giáp với dãy núi Phượng Hoàng (địa phận 2 xã Cộng Hoà và Văn An) và núi Rùa (phía tây bắc), tạo thành một vùng đất quần tụ đủ tứ linh, ngũ nhạc, lục đầu giang . Đó là sự sắp đặt kỳ diệu của tạo hoá đối với khu vực di tích danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc - Phượng Hoàng với sông núi huyện Chí Linh".
THẦN TÍCH VÀ SẮC PHONG THẦN TẠI XÃ ĐỒNG VIỆT-HUYỆN YÊN DŨNG- TỈNH BẮC GIANG.
1/ Tóm lược thần tích : Thời Vua Lý Thánh Tông ( 1023-1072), huý Nhật Tôn, con trưởng của Thái Tông, thừa mệnh tiên tổ kế trị.Thời đó có ông họ Lý huý Triệu, người trang Tiêu Sơn, huyện Yên Phong( xưa gọi là An Phú ), phủ Tổng Sơn , đạo Kinh Bắc lấy vợ cùng làng là Phan Thị Hiểu.Hai vợ chồng ông sống rất chan hòa, luôn làm điều thiện, nhưng ông bà tuổi đã cao mà chưa có con trai nối dõi, nên ông bà hàng ngày làm lễ cầu nguyện ở chùa trong trang của mình, vì nghe nói rằng: Chùa Trường Kiều rất linh ứng, cầu gì tất được.Vì vậy ông bà thường thành tâm thỉnh các vị Long Thần giáng phúc. Đến ngày 10 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ, sinh hạ một người con trai, thiên tư tài giởi, khôi ngô tuấn tú. Vợ chồng ông vô cùng mừng rỡ, vỗ về nuôi dưỡng. Năm 3 tuổi được gọi là Chiêu, năm 7 tuổi đi học, năm 16 tuổi, bố mẹ đều không bệnh qua đời. Ông chọn nơi đất đẹp để làm lễ mai táng cho cha mẹ. Sau 3 năm , khi nghe tin có quân Tống hợp với chúa Chiêm Thành nổi loạn lớn và dẫn 10 vạn tinh binh đến xâm lược nước ta để tiếm quyền. Nhà Vua hạ chiếu xuống các Đạo , Châu, Huyện tuyển chọn những người hùng dũng lược, những người tài giỏi văn võ để phong quan tước và ông đã trúng tuyển. Ông được phong là Đô chỉ huy sứ tướng quân, dẫn binh đi dẹp giặc. Nhờ sự giúp đỡ của vị thần bản địa, ông cùng các tướng sĩ và nhân dân đánh bại quân Tống và quân Chiêm Thành, mang lãi nên thái bình cho đất nước.Sau đó ông quay về nhận chức ở phủ Lạng Giang - Đạo Kinh Bắc. Vào trung tuần tháng trọng thu, khi ông đang ngồi trong doanh, bỗng thấy trời đất nổi lên một đám mây mầu hồng bay xuống doanh, rồi thấy ông theo đám mây mà bay đi, đến khu Hành Quán thì không thấy đâu nữa ( Nhân dân gọi đó là ngày hóa- 15/8 ).Sau đó nhà Vua đã hạ chiếu sắc phong cho ông là con Thần, xây dựng đình miếu cho nhân dân các trang ấp đó thờ phụng, phong cho ông là Thần với mỹ tự kèm theo. Vua cũng sắc phong cho vị Thần bản địa đã giúp đỡ ông trước đó là :
- Đương cảnh Thành hoàng Chiêu kế hiển huy vân cảm đại vương. Tặng phong mỹ tự : Tế thế hộ Quốc phù vực an dân, hậu công đại đức, bảo cảnh vân thông đại vương Thượng đẳng Thần.
- Bản cảnh thành hoàng Đông hoa bảo hữu đại vương. Tặng mỹ tự : Thuần chinh chế thắng, an phụ hoằng ân đại vương, Thượng đẳng Thần.
Từ đó về sau đều vô cùng linh ứng, nên các đời Vua đều gia tặng mỹ tự và chuẩn cho địa phương thờ các Thần. Đến đời Trần Nhân Tông, khi quân giặc sang xâm lược Kinh thành, Trần Quang Khải cũng đến xin hai vị Thần giúp đỡ, hai vị đã hiển ứng giúp việc đánh bại quân giặc. Đến đời Trần Nhân Tông gia tặng thêm mỹ tự cho hai vị là :Vân ứng ngô triết, hiển hữu trợ thắng đại vương Thượng đẳng Thần. Chuẩn hứa cho địa phương thờ phụng hai vị. Thời lê Thái Tổ tiến hành khởi nghĩa đánh bại quân Liễu Thăng, đem lại thái bình cho thiên hạ, đồng thời gia tặng thêm mỹ tự cho hai vị là : Phổ tế cương kính, ngô linh hùng dực đại vương. Ban sắc chuẩn cho địa phương tu sửa miếu điện phụng thờ hai vị.Việc thờ phụng các tiết ngày sinh, ngày hóa và tên húy, tên tự theo lệ cũ phụng thờ.Ngày 10 tháng Giêng ( ngày sinh của Thần ) là ngày tiết chính lệ, lễ tế gồm lợn, xôi, hoa quả, và tổ chức ca hát trong 5 ngày. Ngày 15 tháng 8 ( ngày hóa của Thần ), lễ tế cũng tương tự.
Ngày tốt, tháng mạnh thu( tháng 7 ) năm Vĩnh Hựu thứ 6 ( 1740) ghi chép.
2/ Sắc Phong : Sắc phong cho thôn Trung - Hành Quán, Huyện Yên Dũng, Tỉnh Bắc Giang, theo lệ cũ phụng thờ : Đương cảnh Thành Hoàng Chiêu thảo hiển huy, linh cảm tế Thế hộ Quốc , hậu công đại đức linh phù: Bản Cảnh Thành Hoàng, Đông Hoa bảo hữu hoằng ân Đại Vương. (Các Thần) đều là những bậc chí trung đại nghĩa,rực rỡ sáng soi, vô cùng linh ứng. Các Thần đã nhiều lần được Vua ban cấp sắc phong chuẩn cho địa phương được thờ phụng theo lệ cũ. Nay nhân dịp nhà Vua tổ chức lễ mừng thọ 40 tuổi, đã ban bảo chiếu tỏ rõ ân lễ của nhà Vua, gia tặng thêm mỹ tự cho các Thần là : Dực bảo trung hưng, linh phù tôn Thần, và chuẩn cho địa phương theo lệ cũ thờ các Thần vào những ngày lễ lớn, những dịp mừng vui của Đất nước để làm rạng rỡ công trạng của các Thần. Các Thần hãy giúp đỡ, bảo vệ cho dân ta. Hãy tuân theo sắc này!
Ngày 13 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 ( 1924 ).
3/ Tên thỉnh Thành Hoàng :
* Vị Linh Thần : Đương cảnh Thành Hoàng chiếu kế hiển huy vân cảnh Đại Vương Lý Chiêu Công Công Thần. Mỹ tự : Tế thế hộ Quốc phù vực an dân, hậu công đại đức, bảo cảnh vân thông Đại Vương Thượng đẳng Thần.
* Vị Nhân Thần : Bản cảnh Thành Hoàng Đông hoa bảo hữu đại Vương. Mỹ tự : Thuần trinh chế thắng, an phụ hoằng ân Đại Vương. Mỹ tự : Thuần trinh chế thắng, an phụ hoằng ân Đại Vương Thượng đẳng Thần.
( Bản dịch của sở Văn hóa Bắc Giang ).
Một số tranh nên thờ tại đình làng.( dienbatn sưu tầm.
Đức Thánh Trần.
Đương Cảnh Thành Hoàng.
Tả môn Thần.
Hữu Môn Thần.
Ngũ Hổ.
Địa trạch.
Theo Cao Đài Từ Điển : "Thần hoàng bổn cảnh:
神隍本境 .
Thần hoàng bổn cảnh là vị Thần cai quản về phần thiêng liêng ngôi làng của mình đang ở. Thuở xưa, những vị quan có công lớn đối với nước hay đối với dân chúng ở một địa phương nào, khi chết được triều đình xem xét, ban sắc chỉ cho làm Thần hoàng bổn cảnh ở một làng trong địa phương đó, để phù hộ dân chúng trong làng ấy và hưởng được cúng tế của dân làng.Việc phong Thần nầy phù hợp lòng dân, vừa thúc đẩy nhân tài ra giúp nước, lập công với triều đình.Vua của một nước đứng vào hàng Thánh nên có quyền phong Thần cho các bề tôi có công lớn với dân với nước.
Ngoài ra, những vị Thần trấn nhậm ở các địa phương lớn, như một tỉnh chẳng hạn thì do Ngọc Hư Cung phong thưởng những người tu hành có công đức để hộ trì dân chúng trong địa phương ấy về mặt vô hình." Đây chính là những vị Nhân Thần.
Thành hoàng (城 隍) là danh từ chung để chỉ vị thần được thờ chính trong các ngôi đình, miếu của làng xã Việt Nam, vị thần này dù có hay không có họ tên, lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là: “hộ quốc tý dân” (護 國 庇 民 - giúp nước che dân) ở ngay địa phương đó. Trong tâm thức của người dân Việt Nam, Thành Hoàng là vị thần của cộng đồng dân cư. Ngài ngự trị tại đình, chứng kiến đời sống sinh hoạt của người dân địa phương, bảo vệ mọi người và ban phước cho mọi người dân trong làng xã....
Thành Hoàng của người Việt là một vị thần thường được dân làng tin thờ từ trước, sau đó mới được vua phong tước vị với chức danh là Thành Hoàng. Trong các triều đại phong kiến, vua thường yêu cầu các làng khai báo các vị thần họ thờ, sau đó vua xem xét và ban sắc thần. Sắc thần là giấy do vua ban cho một hay một cấp đơn vị hành chính để phong thưởng tước vị cho các vị thần. Sắc được viết trên một tờ gấy lụa dày màu vàng, khổ 0,5m x 1,1m hoặc 0,5m x 1,2m, có in hình rồng mây màu bạc, xung quanh đóng khung. Mục đích của triều đình phong kiến cấp sắc cho các địa phương là xác nhận quyền lực của các triều đình Trung ương đối với các địa phương theo nguyên lý vua là Thiên Tử (con trời) nên có quyền cấp sắc cho các thần và thần là người thừa mệnh thiên tử để bảo vệ dân đen ở làng.
Trong các văn bản do vua ban thì Thành Hoàng Làng được viết là Đương Cảnh Thành Hoàng (當 境 城 隍) hay Bổn Cảnh Thành Hoàng (本 境 城 隍), còn trong dân gian thường gọi Thành Hoàng Bổn Cảnh (城 隍本 境). Thành Hoàng được chia làm 2 loại: Đô Thành Hoàng dùng để chỉ các vị Thành Hoàng trấn giữ các thành trì ở cấp tỉnh, huyện, còn Thành Hoàng Làng là các vị thần được thờ ở cấp xóm ấp, xã không có thành trì.
Ngày xưa, hệ Thành Hoàng được vua sắc phong thành ba bậc: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, tuỳ theo sự tích và công trạng của các vị thần đối với nước với dân, với làng xã. Ngoài ba bậc thần trên, nhiều nơi còn thờ các vị thần như thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần chết vào giờ thiêng… các thần này được gọi là “yêu thần” hay “tà thần” có nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi có vẻ rất vô lý. Các vị thần này do dân làng tự lập thờ nhưng không được triều đình phong sắc làm thành hoàng."
Ghi chú : Theo dienbatn thì theo như Sắc Vua ban cho hai vị Thượng đẳng đại Thần tại Đình Hành Quán - Xóm Trung - Đồng Việt thì Đương Cảnh Thành Hoàng (當 境 城 隍) là Linh Thần, thần đất sẵn có ở địa phương, Thành Hoàng Bổn Cảnh (城 隍本 境), là Nhân Thần tên huý là Lý Chiêu, con của ông họ Lý huý Triệu, người trang Tiêu Sơn, huyện Yên Phong( xưa gọi là An Phú ), phủ Tổng Sơn , đạo Kinh Bắc lấy vợ cùng làng là Phan Thị Hiểu.
Như vậy khi khấn, ngoài khấn Tên thỉnh các Thành Hoàng như phần trên, nên khấn cả tên của cha mẹ Nhân Thần nữa.
Thân ái. dienbatn.
Xin xem tiếp bài 4 .
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét