CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 9
Lên tới lưng chừng núi theo con đường độc đạo vòng vèo qua những bãi đá mồ côi khổng lồ. Có hai con đường lên đỉnh núi: Một đường mòn nằm sau lưng chùa Bà, đường xấu này, khó đi. Một đường mòn khác bắt đầu từ đài Liệt sĩ đi men theo các trụ điện lên thẳng đỉnh núi. Ngày xưa chưa có con đường qua đài Liệt sĩ này. Hang gió hay giếng Tiên là tên gọi của một cái hang sâu thẳm thẳm sau lưng chùa Hang. Ngày xưa, miệng hang còn để toang hắc, phủ đầy dây leo, nước ướt đẫm. Sau này để tránh nguy hiểm, người ta mới dùng xi măng xây thu miệng hang lại. Hai ông Thầy tiến tới miệng hang nhìn xuống, một hố đen thăm thẳm ở trước mặt hai người. Không gian thinh lặng, chỉ thỉnh thoảng có vài tiếng nho nhỏ của bọn hái hoa lan núi. Ngẩng nhìn lên bầu trời trong xanh vời với, một cánh chim nhỏ đang bấp bênh trong gió ngàn. Buộc chặt hai đầu hai cuộn dây dù to tướng vào một gốc cây ở cửa hang, hai ông Thầy mỉm môi tụt theo cuộn dây lần từ từ xuống miệng hang. Vừa qua khỏi miệng hang độ vài thước, một làn gió lạnh buốt từ bên dưới thổi lên khiển cả hai ông Thầy phải rung mình. Đó đây, trong màn đen bao phủ, tiếng nước nhỏ tí tách hòa chung với tiếng gió nghe như một bản hợp ca buồn bã. Hai Thày vội vàng đề Khí , đưa dòng Khí từ Đan điền theo dòng Đại Châu Thiên bao phủ, hộ vệ khắp người. Đến bây giờ họ mới hiểu được tại sao bao nhiêu trai tráng trong vùng rắp ranh chinh phục hang này đều một đi không trở lại. Cái sơn lam, chướng của Khí hang Gió này thật là độc. Mặc dù được chân Khí của vòng Đại Châu Thiên che chắn, song hai ông Thầy vẫn thấy cái lạnh từ từ xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng. Một tay bám sợi dây, một tay soi ngọn đèn pin cực sáng, chiếu xuống, ông Thầy Chàm tụt lần lần xuống trước, kế bên ông Thầy Bảy cũng xuống theo ánh sáng của ngọn đèn. Bên ngoài, ngọn đèn 3 pin sáng là thế mà vào trong hang, ánh sáng như bị ép nhỏ lại, chỉ soi mờ mờ vài mét trước mặt. Xuống được chừng 30 m, bắt đầu nghe rõ tiếng thở dốc của từng người.
Kia rồi, Thầy Chàm chợt kêu lên, dưới chân hai người, cách khoảng 15 m, có một cửa hang nằm ngang với đường ăn thông từ trên xuống. Mừng rỡ, hai Thay tut vội vàng xuống nhanh . Bỗng nghe một tiếng soạt thật lớn , trong ánh đèn mờ mờ, hai ông Thầy chợt thấy một con Dơi cực lớn lao vào và tiếp sau đó là một loạt tiếng vang, như nghe tiếng sôi cơm. Một đàn Dơi khổng lồ, có sải cánh tới hàng mét, loáng loáng lao tới. Phập, Phập ... những cái mỏ nhọn hoạt của chúng cắm vào da thịt hai ông Thầy, như những con dao găm đâm vào. Rụng rời chân tay, hai ông Thày chỉ la Trời lên được một tiếng và phải buông tay, rơi tự do trong màn đêm thăm thẳm của Âm Ty - địa ngục.
Trong màn đêm đen hun hút, trong cái thăm thẳm đến buồn nôn của trạng thái rơi tự do, mất trọng lượng, hai ông Thầy đã không thể làm gì hơn là nhảm trong đầu cầu khẩn QUÁN THẾ ÂM Bộ tát: "NAM MÔ CỨU NAN CỨU KHỔ QUÁN THẾ ÂM Bồ tát ". Thời gian tưởng chừng như ngưng đọng, cô đặc đặt lại . Thần Chết như đang cầm lưỡi hái bổ xuống. Bỗng nhiên, như từ cõi hư vô, một Tràng hạt bằng đá cực lớn , quận xoay tròn dưới chân hai người. Chuỗi đá xoay tit, xoay tit, luồng khí chuỗi đá gây ra như nhẹ nhàng quấn lấy hai ông Thày ví như một vòi rồng từ từ cuốn hai ông Thầy lên cao. Một giọng hát sáng đầy oai hùng bỗng cất lên:
"THẬP BÁT BỒ ĐỀ LIÊN CHỦNG CHỦNG,
LIÊN HOA KHAI THỦ DIỆU TRUNG TRÙNG.
CHUYỂN CHUYỂN, LUẬN LUẬN LA HÁN TƯỚNG,
THIÊN LONG BÁT BỘ HỘ VÔ CÙNG "HA HA!! HA! HA!
Đinh Thần lại, hai Thầy thấy dưới chân mình là một chuỗi hạt bằng đá màu xanh lá mạ như có chất lân tinh lập lòe. Đó là một chuỗi hạt có 18 viên đá to bằng quả cam đang xoay tit, tạo ra một sức phản lực từ từ đưa hai Thày bay là là vào một cái hang nằm ngang. Tit mãi ở trên cao, bầu Trời bằng một cái đĩa thấp thoáng dọi ánh sáng mờ mờ vào hang. Khi vừa đặt chân lại trên nền hang, vừa trụ tấn, hai Thầy đã thấy trước mặt mình một quái nhân đang cười sang sảng và cười như chưa bao giờ được cười: HA HA HA HA HA ......
MỘT SỐ BẢN VIẾT CHỮ THIÊN PHẢI VÔ VI.
Sau khi được phép, hai Thày mới ngồi xuống một tảng đá vuông xanh như cái bàn cạnh chỗ Quái nhân ngồi. Vừa ngồi xuống, hai ông Thầy vội bật dậy như chạm phải gai. Thì ra, tấm đá lạnh buốt như băng giá. Thấy vậy, Quái nhân lại bật lên một Tràng cười đầy sáng khoái: HA HA HA HA ... Lạ một cái là ông ta cứ cười như thể chưa bao giờ được cười vậy. Hai ông Thầy thấy thế cũng bật cười làm cho cái hang rung động bởi những trận cười như bắn súng: HA HA HA HA HA ...
Cười mãi đến sặc xụa, cả 3 người mới chịu thôi. Lúc này hai ông thầy mới để ý đến cái hang động mà mình đang đứng. Đây là một cái hang được hình thành do dòng chảy mạnh mẽ của dòng sông ngầm trong lòng núi. Trần hang rất cao, có lẽ đến 6-7 mét, hai bên thành hang khá rộng đầy những nhũ đá tua tua và có ánh sáng xanh như lân tinh . Có lẽ chuỗi hạt nhân của Quái cũng làm bằng loại đá như thế này đây. Quái nhân ngồi trên một phiến đá vuông vắn có màu xanh đen. Có lẽ phiến đá đó cũng lạnh buốt như phiến đá mà hai ông vừa ngồi ban nãy. Vách đá đằng sau Quái nhân là một bức tường thẳng tắp mà trên đó khắc chi chít những dòng chữ lạ lùng mà hai ông chưa bao giờ nhìn thấy. Đó không phải chữ Hán, cũng không phải chữ Quốc ngữ đang dùng. Nó hao hao giống như những loại chữ Phù của Pali, nhưng cũng không phải loại chữ đó. Hai người chỉ biết được có chữ Vạn ở đầu mỗi trang viết. Thấy hai người mải mê nhìn, Quái nhân buột miệng nói: Chữ Thiên đó, hai nhà người có biết không? Hai ông Thày đều nói không và lần này một chuỗi cười sảng khoái lại vang vọng không gian.
Thấy hai ông Thày đang lo vì thế Quái nhân liền nói: "Ta đã cứu hai cái mạng chúng bay, lẽ ra giờ này chúng bay đã là hai đám bột nhào dưới tận cùng đáy hang kia rồi. Hôm nay ta vô cùng sáng khoái , đã lâu lắm rồi ta mới được trận cười thỏa chí đến như vậy Có lẽ đã 30 năm có lẻ, ta mới thấy lại cái giống người, được nói tiếng loài người . Ta khai cho hai nhà ngươi một đặc ân - Không mau mà bái kiến Sư phụ đi. "
Hai ông Thầy nhìn nhau và đồng loạt xuống quỳ khấu đầu làm lễ: Chúng con xin bái Sư phụ. Vẻ hài lòng hiện rõ trong con mắt sáng quắc của Quái nhân.
Tới trước vách đá, ông ta đột nhiên thốt lên một loạt những tiếng lạ tai mà hai ông Thầy cũng chưa bao giờ được nghe. Khoảng 30 phút sau, ông ta mới quay lại và nói: Hai chúng bay ra bái Tổ - Thầy đi. Hai ông Thầy liền ra đứng trước vách đá chắp tay lại. Lạ thay, một luồng chân khí từ dưới đất bốc lên, thấm vào khắp lục phủ - ngũ tạng của hai người. Chất Khí đó làm cho hai người nóng bừng bừng, mồ hôi đổ ra như tắm. Chưa bao giờ hai ông Thầy lại thấy sảng khoái và mạnh mẽ như lúc này. Khí chất đó thấm sâu dần và dần dần tràn ngập một niềm vui khó tả trong tim, óc hai người. Ngoài kia, chắc mặt trời đã lặn, chỉ có các vách đá xanh sáng lên như những sắc cầu vồng.
Buổi tối hôm đó, Quái nhân đãi hai ông Thày một bữa cơm kỳ lạ. Bữa cơm chỉ có mấy cành lá mọc trong lòng hang, mấy hòn đất trăng trắng mà Quái nhân vừa bới trong một đống đất ở góc hang và một vò nước. Lần đầu tiên phải ăn thứ đất đó, hai ông thầy cảm thấy quái lạ. Song khi nhìn Quái nhân nhai đất ngon lành, hai ông Thầy cũng thử ăn theo. Lạ thay, miếng đất đó đưa vào miệng có mùi thơm nhè nhẹ và có vị như ta đang ăn một miếng bánh khảo. Loại lá cây mà Quái chiêu đãi nhân giống như một loại Dương xỉ, nhưng khi nhai, một vị thơm ngát, bùi, béo tràn đầy khoang miệng.
Sau bữa cơm, Quái nhân và hai ông thầy ngồi trò chuyện trong ánh sáng của vách đá xanh. Cuộc đời của Quái nhân quả thực là một pho tiểu thuyết thật ly kỳ. Ngày xưa, ông là một nông dân nghèo tại vùng Đồng Tháp Mười .Vùng Đồng Tháp Mười nơi ông sinh sống ở phía Bắc sông Tiền. Đến khu vực Đồng Tháp Mười, người ta sẽ bắt gặp những cánh rừng bạt ngàn Trâm, những hồ sen, đầm súng, những vườn cò, sân chim mênh mông và hoang sơ không phải nơi nào cũng có. Nhà ông ở ngay tại Tràm Chim, là khu rừng Tràm có vô vàn loài chim đến cư ngụ. Đây là một khu vực thuộc Huyện Tam Nông - Tỉnh Đồng Tháp Tràm Chim. Chịu ảnh hưởng của thủy văn vùng châu thổ sông Mê Kông, nhận nguồn nước trực tiếp từ sông Mê Kông thông qua hệ thống kinh thủy lợi (kênh Hồng Ngự-Long An , Đồng Tiến, An Hòa và Phú Hiệp) tràn vào nội đồng và bị ngập lũ hàng năm từ tháng 8 đến tháng 12. Ngày xưa, gia đình ông có một sân chim nhỏ khoảng hơn một mẫu. Cả gia đình cũng tạm đủ ăn nhờ những thực lợi từ sân chim. Sự việc đau thương xảy ra cũng bắt nguồn từ sân chim đó. Một tên Hương quản, nhờ có thế lực của Pháp, đã cố tình chiếm đoạt sân chim của gia đình ông. Mặc cho những lời dọa nạt, mua chuộc của tên Hương quản, gia đình ông vẫn cương quyết không dời bỏ sân chim. Một bữa, tên Hương quản đưa một toán lính Pháp tới sân chim của ông. Chúng đưa ra một tấm giấy viết chữ Pháp lằng ngoằng và có con mộc đỏ chót, nói rằng, vùng đất sân chim đã là của Hương quản, gia đình ông ở đây là bất hợp pháp. Tên hương quản tự tay bật lửa thiêu đốt căn nhà mà gia đình ông đang ở. Chịu không nổi, ông và cậu con trai cầm Mác xông vào chém chúng. Chỉ ngay nhát Mác đầu tiên, đầu tên Hương quản đã lia khỏi thân. Cậu con trai của ông lao vào chém gãy tay một tên lính Pháp, , ngay lập tức bị một phát súng Mút cơ tông của mấy tên còn lại bắn chết. Chúng trói thúc khửu tay ông lại và chuyển lên Sài Gòn, nhốt vào Khám Chí Hòa. Trong phiên tòa Đại hình tại chợ Lớn, nhà cầm quyền Pháp tuyên bố tử hình ông vì tội cố sát người Pháp. Chúng đem ông vào nhốt tại Xà lim tử tù tại Khám Chí Hòa. Thời gian chờ lên máy chém, thật là khủng khiếp đối với những người như ông. Mỗi khi nghe tiếng loảng xoảng mở khóa cửa, là ông lại chuẩn bị cho việc lên máy chém. Thường những cuộc xử án tử hình vào khoảng tang tảng sáng. Chính vì thế, những tử tù như ông thường phải lấy đêm làm ngày, còn ban đêm thường thức trắng, phập phồng chờ giây phút bọn lính đến lôi đi. Thời gian chờ đợi lên máy chém còn đáng sợ hơn cả cái chết, nó làm cho con người ta mềm nhũn tinh thần cả, lo âu, thấp thỏm, ăn không ngon, ngủ không yên.
Mãi đến gần sáu tháng sau ngày tòa tuyên án tử hình, một buổi sáng nghe tiếng loãng xoảng lạnh người của cánh cửa sắt mở ra, ông bị hai tên Mã Tà còng tay lôi ra khỏi Đề Lao. Lên tới một căn phòng rộng, đã thấy bốn người bạn tử tù như ông đang ngồi dưới đất. Cạnh một cái bàn có một người Việt nhỏ bé và một ông Tây mũi lõ, tóc xoăn đang chăm chăm nhìn họ. Họ xi lô, xi la cái gì đó mà ông không hiểu, cuối cùng người Việt tay kia bắt ông Tây và ra lệnh từng người tù điểm chỉ vào một tờ giấy có đóng mộc đỏ. Chúng dồn mọi người ra một cái xe bịt bùng và nổ máy phóng đi. Qua một lỗ ở vách thùng xe, ông và những người tử tù thấy chiếc xe đang lao nhanh về hướng Tây Ninh. Hóc Môn, Củ Chi, Trảng Bàng, Gò Dầu ... lần lượt hiện ra qua lỗ nhỏ ở vách xe. Mọi người vô cùng thắc mắc về chuyến đi này. Thông thường, nếu bị xử chém, chúng đâu cần đưa đi đâu xa. Từ Khám Chí Hòa lên tới Bình Hưng Hòa chỉ có vài Km đường. Không hiểu chúng có âm mưu gì mà lại đưa họ lên tận Tây Ninh. Cuối cùng, chuyến xe cũng dừng lại và họ bị xô xuống xe . Ngẩng đầu nhìn lên, ngọn núi Bà Đen cao thăm thẳm lừng lững ngay trước mặt.
Đến lúc này, người Việt nhỏ bé kia mới quay ra nói với năm người tử tù. Tôi là một nhà Địa chất chuyên thám hiểm các hang động ở khắp đất Đông Dương này. Bữa nay tôi xin được với Chính phủ Pháp một đặc ân cho các ông. Tôi cần các ông cùng tôi xuống thám hiểm của Hang Gió núi Bà Đen này. Công việc rất khó khăn và nguy hiểm. Nếu thành công, các ông được hoàn toàn tự do và được xóa bỏ án tử hình. Còn nếu thất bại .... .... thì âu cũng là tại số phận của các ông. Thôi thì đằng nào cũng chết cả, nhưng làm cho tôi, nếu phải chết thì cái chết của các ông sẽ là có ích cho dân tộc Việt Nam.
Ngay lập tức, những cái gông gỗ nặng trịch được cởi bỏ. Năm người tử tù vươn vai hít thở không khí tự do tưởng đã vĩnh viễn mất đi.
Tiếp theo những ngày sau đó, họ tập trung hết lực để tiến hành thám hiểm cái hang không đáy này. Một cái ròng rọc bằng gỗ có một sợi dây dù rất to, nối liền với một cái giỏ mây ,có gắn đèn pha sử dụng ác quy được đặt trên miệng hang. Người ta trang bị cả dao găm, súng Mút Cơ Tông với đầy đủ đạn dược cho những người thám hiểm. Ngày cuối cùng, sau khi mọi việc chuẩn bị đã hoàn tất, viên Kỹ sư Địa chất tổ chức khao quân ngay tại miệng hang. Một bữa tiệc lớn được tổ chức có đủ rượu NAPOLEON, thịt thú rừng và cả những món hải sản nữa. Đã từ lâu những người tử tù mới được một bữa no đến như vậy. Vì vậy, so với những bữa tiệc cuối cùng trong cuộc đời tử tù thì đây quả là một Thiên Đàng. Ít nhiều, họ vẫn còn có thể được sống và trở về với gia đình, dù có thể đó vô cùng nhỏ nhoi.
Ngày hôm sau, từ sáng sớm, viên Kỹ sư Địa chất đã kêu mọi người ăn no, nai nịt gọn gàng xuống để trèo. Mọi phương án bất trắc đã được tính toán kỹ từ hôm qua, bây giờ chỉ còn phụ thuộc vào mỗi ... ý Trời. Năm người tử tù được phân ra làm ba hàng . Hai người xuống trước, hai người ở miệng hang để quay ròng rọc, một người nữa và viên Kỹ sư sẽ xuống sau. Quái nhân lần này may mắn là được tháp tùng viên Kỹ sư xuống hang lần thứ hai. Sau khi viên Kỹ sư chúc phúc cho hai người tử tù đầu tiên xuống hang, họ ngồi vào trong cái giỏ mây và ròng rọc được thả xuống. Một không khí im lặng bao chùm không gian, tiếng hơi thở gấp gáp của hai người điều khiển rộng roc nghe rõ mồn một . Ánh sáng của ngọn đèn ắc quy cứ mờ dần, mờ dần theo từng mét dây được thả xuống. 10 mét, 20 mét, 30 mét, cái trục tới cứ từ từ nhả ra từng mét dây trong im lặng đến rộn người. 40 mét rồi 50 mét. Bỗng nhiên từ dưới hang vọng lên một tiếng thét rợn cả tóc gáy, rồi tất cả im bặt lại. Dây tới tự nhiên nhẹ bỗng. Kỹ sư viên vội thúc hai người phụ trách tời quay kéo giỏ lên cho nhanh. Khi giỏ mây kéo lên đến nơi, người ta thấy một đám máu loang lổ khắp cả thành giỏ - Hai người tử tù đã biến mất tăm ...
Nét thất thần hiện rõ trên gương mặt viên Kỹ sư và những người tử tù còn lại.
Là một con người sắt đá, viên Kỹ sư quyết không bỏ cuộc giữa chừng . Uy tín và danh dự của một nhà chuyên về Địa chất hang động không cho phép ông được bỏ cuộc. Sau khi nạp đạn và lên cò sẵn hai khẩu Mút Cơ Tông, viên Kỹ sư cùng Quái nhân lại bước vào giỏ mây và hành trình đến với Thần Chết lại được bắt đầu.
Từng mét dây trục tời lại được thả ra, cái giỏ lại từ từ chìm vào màn đen của hang động. 40 mét, 50 mét. Kỹ sư viên giật dây ra hiệu cho bên trên dừng lại. Ánh đèn ắc quy mờ mờ, ảo ảo soi vào thành hang ẩm ướt. Tay lăm lăm khẩu súng đạn đã lên nòng, hai người cố căng mắt nhìn vào bóng tối mờ ảo. Một sự im lặng đến rợn người trùm kín hai người. Ra hiệu cho bên trên thả tiếp. Cái giỏ mây lại từ từ trôi xuống trong cái lạnh giá và tối tăm của Âm Ty - Địa ngục.
Bỗng nhiên từ hai phía thành hang, có tiếng hực lên và một cơn cuồng phong ào lúc thổi tới. Trong ánh đèn mờ mờ, hai người thấy một cặp mãng xà cực lớn đang trườn tới. Đuôi của chúng cuốn chặt vào một doi đá nhô ra, hai cái đầu to tướng há ngoác phun nọc phì phì. Điều lạ là trên đầu chúng có cặp mào đỏ như gà trống. Máu trong huyết quản hai người như đông cứng lại cả, chân tay như bị tê liệt. Khẩu súng trong tay viên Kỹ sư bất thần nhả đạn. Viên đạn bay vào vách đá văng lại trúng vào một con thân mãng xà. Nổi điên, con mãng xà văng người cuốn tròn lấy cái giỏ mây có hai người ở trong xiết chặt. Tiếng súng như làm cho Quái nhân chợt bừng tỉnh. Ông ta cầm chắc khẩu súng nhằm thẳng vào cái miệng đang há ra đớp viên Kỹ sư và nổ súng. Một tiếng súng chát chúa vang lên, cái đầu con mãng xà lặc lìa, nhưng trong cơn dãy chết , nó cuốn mình xiết chặt cái giỏ và bất thần cái đuôi của nó như một cơn lốc đập vào cái giỏ mây một phát trời giáng. Cái giỏ mây lộn tùng phèo trên không trung, tất cả hắt văng xuống phía dưới. Kỹ sư viên cắm đầu, rơi tự do vào khoảng không tối đen mù mit cùng với xác con rắn. Quái nhân cũng bị hất tung lên cực mạnh bắn về một bên thành hang, nơi đây có một nhánh nằm ngang ăn thông với lòng hang. Cú rơi cực mạnh làm Quái nhân đập đầu vào đá bất tỉnh. Ở trên kia, nghe tiếng súng và thấy cái giỏ mây nhẹ bỗng, hai tử tù còn lại vội vàng cắm đầu chạy xuống núi. Không gian yên tĩnh trở lại như núi Bà Đen luôn trầm mặc trước mọi thăng trầm của con người.
Xin theo dõi tiếp bài 10 - dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét