CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 19.
NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. Loạt bài này đã đăng trên báo giấy : Tuổi trẻ và Đời sống .
Tiện thể đang nói về nàng Thăm , tại miền Bắc Việt Nam , dienbatn đã phát hiện ra loại Nàng Thăm hoa vàng.
Ngải Nàng Thăm hoa vàng được tìm thấy ở phía bắc trên núi Ba Vì thuộc TP Hà Nội . Cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng là cây sống ở vùng núi ẩm thấp và chịu được khí hậu lạnh giá của mùa đông ( vì cây không ngủ đông ). Cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng có thân bò trên mặt đất , không hình thành rõ thân hay củ của cây .
Lá của cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng có hình thúc giống hệt lá của cây ngải Nàng Thăm nhưng nhỏ hơn một chút , lá bầu nhọn 2 đầu cuống lá dài 5cm – 7cm , có sống lá ở giữa , mặt trên lá có mầu xanh biếc và bóng , mặt dưới lá có mầu xanh nhạt và có một lớp lông tơ mịn nhỏ li ti . Các ngọn non đều có mầu đỏ tía .
Hoa của cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng có hình thúc giống hệt hoa của cây nàng Thăm , hoa gồm 3 cách to và 2 cánh nhỏ hơn . So sánh thì bông hoa Ngải Nàng Thăm hoa vàng to hơn bông hoa ngải nàng Thăm , toàn bộ bông hoa Ngải Nàng Thăm hoa vàng đều có một mầu vàng tươi rực rỡ .
Hoa cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng ra từ nách lá phía gần ngọn . Khác với đài hoa nàng Thăm , Ngải Nàng Thăm hoa vàng có một đài hoa ngắn có chừng 5 bông hoa nhìn như một bàn tay có 5 ngón nhô lên . Nếu một chậu ngải Ngải Nàng Thăm hoa vàng tốt , có nhiều ngọn thì sẽ cho rất nhiều hoa . Hoa Ngải Nàng Thăm hoa vàng nở bắt từ giữa mùa xuân , tức là khoảng đầu tháng 3 sang tháng 4 . Hoa Ngải Nàng Thăm hoa vàng tồn tại không bền chỉ được khoảng 2 đến 3 ngày thì tàn . Dù chỉ tươi 2 đến 3 ngày nhưng nhìn chậu Ngải Nàng Thăm hoa vàng khi nở hoa thì thật là tuyệt đẹp .
Dù sinh trưởng ở phía Bắc , cũng như những cây ngải ở phía nam thì cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng cũng có nhưng công năng về huyền thuật mà công năng lại rất mạnh , có lẽ do có sắc hoa mầu vàng . Những bông hoa được thu lượm buổi sáng sớm sẽ được các thầy cho vào chai dầu thơm hay nước hoa ngâm rồi đem luyện , nếu được kết cùng với ngải Mẹ bồng con và nàng Thăm lại để luyện dùng trong lĩnh vực tình cảm thì tác dụng sẽ cực mạnh . Ngoài ra cây Ngải Nàng Thăm hoa vàng cũng có thể kết hợp với cây ngải Cau và cây ngải Mọi hoa vàng dùng để luyện Ngải mách rất tốt . Một điều là cây ngải mai thuộc loại cây cũng khó tìm kiếm đối với các thầy ở trong vùng thất Sơn , vì loại ngải này chỉ có mọc ở phía Bắc thôi .
Ngải Nàng Thăm tím có ruột đen , thường người ta gọi là Ngải Đen và tương truyền có nhiều truyền thuyết , giai thoại về nó .
“ Còn nói về chuyện thư trù bằng ngải đen, là truyền thuyết của các thầy khác nữa. Như muốn trả thù phải nuốt 1 củ ngải đen (không được nhai ),kế đó hàng ngày đúng giờ ngọ phải ra miếu hoang hay nghĩa địa ngồi xổm ,phất 2 tay áo phần phật trong gió cho mạnh ,miệng kêu tên người có thù mà rủa bằng các lời cay nghiệt nhứt.Thỉnh thoảng lại phải vuốt tóc mình ,vuốt lông mày mình ,lại phất tay áo ,cứ vậy hàng ngày .Khi nào đi cầu(đi tiêu) mà củ ngải đen lọt ra ngoài ,thì lấy củ ngải đó liệng vô nhà kẻ thù ,sau đó 3 ngày ,kẻ thù nhứt định qua đời vì đủ mọi lí do !
Ngải đen còn có thể thư trù ( Thmup) có cách nuôi ngải đen bằng huyết của chính vị thầy chủ nhân ,khi lấy củ ngải thì phải đốt bằng móng và da con trâu cổ thật già ( trâu đực ) để hơ củ ngải cho thật ráo.Khi thầy muốn thư trù ai ,hay ai mướn thầy làm ( thường thì phải nêu rõ lí do trả thù và thề là nói đúng sự thật ,nếu nói dối ,người bị trù sau khi chết rồi thì kẻ mướn trù sẻ bị mù và điên ,con cái trong nhà sẽ chết yểu đến mấy đời).Khi đêm đến ,vị thầy sẽ lấy tên tuổi nạn nhân và người mướn trù ra cúng thần ngải và tác bạch việc mình muốn làm ,sau đó ông thầy lấy vật tuỳ thân của nạn nhân như tóc ,khăn tay..vv..để vô 1 cái chén sành thật cũ úp lên ( chén nhặt tại các gốc cây ,khi xưa chén bát ,bình vôi cũ thường được dân làng đem vứt bõ tại các gốc cây to trong làng )rồi lấy cái áo của kẻ mướn trù ra , đặt 1 cái lưỡi câu cắm cá lóc (đã từng lấy trong miệng cá ra ) đặt lên đít chén ,phủ cái áo lên chén ….sau đó nhai củ ngải đen và niệm thần chú gọi tổ ngải … phun thật mạnh ngải lên cái áo. Sau đó giở cái áo lên xem lưỡi câu còn không?Nếu lưỡi câu còn thì ông lại để áo lên phủ lại nhai ngải phun lần nữa 2 hay 3 lần mà thôi. Nếu lưỡi câu vẫn còn thì số người bị trù sẽ không chết ,nhưng sẽ bịnh nặng và làm ăn bại xụi 1 năm.Nhưng nếu cái lưởi câu kia biến mất thì người ấy sẽ chết sau 100 ngày !...ban đầu là đau đầu ,biếng ăn … ngủ hay mớ ….về sau ăn nhiều mà ốm dần …bụng chướng lên ,mặt vàng đi ,2 ống chân phù ra …đường chỉ trong 2 bàn tay và chân mờ nhạt dần ……đến 60 ngày thì bụng chướng lớn lại hay có cục gù như nắm tay nổi lên di chuyển như 1 sinh vật ,lúc chạy vòng vo ,khi lại trồi lên hụp xuống ở vùng bụng.Đây là thời điểm thuỷ triều hay lên hoặc xuống ….Người bịnh tối khi mơ ,khóc lóc ,hay tự vạch trần, hài tội chính bản thân mình hay người liên kết tội lỗi với mình !Từ khoảng 90 ngày đến hơn 100 ngày là lúc tử vong .
Đã ếm thư với ngải đen thì không có việc làm vào ,mở ra !Nếu như bùa chú có cột có mở ,thì việc nầy không thể với ngải đen.Vì nó phải trả giá bằng chính sinh mạng của thầy thư ngải hay của con trai ruột của thầy (hoặc con gái )
Theo tương truyền ,thầy nào thư ngải đen hại người ,nếu lấy 3 mạng ,thầy sẽ mù 1 con mắt ,nếu lấy 7 mạng ,thầy sẽ đui trọn 2 con và tuyệt tự ,tức con cháu trong nhà tự nhiên mắc bịnh hoạn,tai ương lần lượt từ trần !
Các thứ thuật thư chài bằng cá rô hay con rắn nhỏ vào bụng ,thư da trâu ,thư miễng sành chén cũ ...chỉ có thể thực hiện với sự hổ trợ của ngải đen mà thôi !Vì vậy nên các thầy ngải xem ngải đen là ngải vương vô địch !
Còn việc khác nữa từ ngải đen, như lấy mồ hôi người ta ( vắt từ cái áo ướt khi mới đi đồng về ) cho ngải đen vào ,sau đó đánh bẩy chim (bẩy sập ) nếu được 2-4-6 con thì không ,nếu được 3-5-7 con thì nhỏ mồ hôi vô miệng chim thả bay đi ,người kia sẽ bỏ đi biệt xứ không về nơi sinh quán ,thoảng hoặc có về thì lại đau bịnh ,bức bối tinh thần ,lại mau chóng rời đi !” ( Phayan ).
Để Thư người khác bằng hình nhân và Ngải đen , nghe đâu các Thày ngải làm như sau :
LỄ VẬT KHI CÚNG: 01 đèn cày trắng lớn+ 01 con gà trống làm rồi ( lóc bỏ thịt còn bộ xương, rửa xương cho sạch, lau khô )+10 con ruồi+ thịt gà xay nhuyễn trộn bột mỳ+ chỉ ngũ sắc thắt thành hình đuôi sam.
Dùng rơm nếp tết thành một hình nhân cao 20 cm để dựng đứng lên. Lấy ảnh người cần thư dán úp mặt vào hình nhân. Lấy 7 kim gút găm vào ảnh , 4 cái 4 góc ảnh, 2 vào mắt, 1 vào đỉnh đầu.
Thịt gà, trộn bột mỳ, chỉ ngũ sắc và 10 con ruồi đem quết lên cây đèn cày trắng dựng đứng.
Bàn lễ : có 01 đĩa muối gạo, 19 lá trầu, 7 trái cau, 01 đĩa huyết heo sống, 5 cây nhang, đĩa trái cây , lọ bông, 07 cái lưỡi lam cắt ¼, 07 kim băng bẻ chữ tử, giấy tiền vàng bạc cúng binh.
Làm lúc 12g đêm , kê bàn lễ ngoài sân. Làm liền trong 7 đêm.
Trong thời gian luyện , giữ hình nhân trong nhà. Các đồ cúng thì hàng ngày đem đốt đi. Số lưỡi lam và kim băng gói vào tờ giấy đem chỗ mồ mả hay trong chậu ngải đen chôn và thắp hương lên trên đến khi luyện xong, rải muối gạo lên trên. Đèn cày trắng và thịt gà đem thả trôi sông, trước khi thả , cắt đôi hay 3 cây đèn cầy.
Sau 7 ngày đem hình nhân ra đốt là lấy tro rải vào nhà người cần thư.
Viết vậy để có thể hình dung ra công việc của Thày Ngải khi làm , còn các câu chú thì dienbatn không thể tiết lộ ở đây.
Ngải đen còn có tác dụng đòi nợ rất hữu hiệu. Ai có người nợ lâu , có tiền mà không chịu trả , tìm đến các Ngải sư . Sau khi tra hỏi thật kỹ và bắt người thỉnh phải thề thốt trước Thày Tổ . Lúc đó Thày Ngải mới chịu lập Đàn đòi nợ.
Dùng 49 ngọn đèn cầy xếp thành hình ngôi sao, người luyện ngồi vào giữa, vào 12h trưa và 12h đêm , liên tục trong 7 ngày ( không bỏ cữ nào , nếu bỏ là vô tác dụng ) , người luyện tuyệt đối kiêng rau diếp cá, thịt chó, ớt và tỏi ( kiêng tuyệt đối ).
Đồ cúng : 3 con gà con đã làm lông, 9 thứ bông, 9 loại trái cây , 49 ngọn đèn cầy, một mâm cúng cho binh gia một cữ trưa, một cữ tối ( gạo, muối, cháo, 12 chén cơm nhỏ ).
Để chậu Ngải trên bàn cúng và đọc câu chú sên vào dầu thơm , mỗi lần đọc 108 biến . Tập trung khi đọc chú , khi luyện có kết quả sẽ thấy dầu thơm trong chai sôi lên là có thể bắt đầu sử dụng. Bó 49 cây nến thành hình ông sao. Nếu nến đỏ thì buộc chỉ trắng ( dùng trong đòi nợ thường ) , nếu dùng nến trắng thì buộc chỉ đỏ ( dùng khi thư hay đòi gắt gao ).
Lấy củ Ngải đen , phun rượu có ngâm trà 3 ngày liền để cho sạch. Khi cần đòi nợ , cắt một lát mỏng , đọc 2 bài chú trên và xếp vào miếng vải đỏ hay vàng gói lại, không được đút túi quần. Kiêng ăn thịt chó , trâu , rắn , cá có vẩy, khế - Đọc tên chủ đòi nợ và sai nàng Ngải đen đi làm. Làm như vậy thì đố ai có thể trốn nợ được.
“ Muốn thỉnh cây ngãi từ rừng về :
1.Trước hết cần bầy lễ vái xin vị chủ thổ và chúa ngải rừng xanh ,12 cửa rừng ,36 vạt núi ,72 sơn động,sau đó lấy ngải bọc vào vuông vải đỏ cho kín , để hồn ngải không thể quay về rừng,niệm thần chú kêu hồn ngải về với thầy , điều cần thiết phải có là chôn lại món vật tuỳ thân nào đó của thầy ngay tại chổ lấy ngãi …ví dụ cây bút ..mắt kiếng râm ..vv
2.Khi lấy ngải không nên lấy trọn cây ,chỉ nên lấy phần củ mà thôi ,và không nên lấy củ còn non …nếu là ngải tình thì sau khi gói cũ vào vuông vải đỏ,nên cột ngay vào bắp vế phải của mình ,bên trong quần .
3.Lể vật cúng ngải đều là chay như nổ rang , đậu phọng nguyên vỏ ,xôi đậu ,nước từ cây chuối ,ba nắm cơm trắng ,hoa đỏ có hương thơm ,không cần thiết phải thắp hương.
4.Chỉ cúng huyêt cho 1số ít ngải dạng công phạt mạnh như Ma lai ngãi ,Chúa đinh ngải ,Chúa sát ngải ,Chúa chàng dâu ngãi , ô mách rạch ngải ……lúc ấy người ta dùng huyết con gà có mầu lông trắng ,còn gọi là gà gi,chỉ lấy huyết mồng gà nhỏ lên lá chuối tuơi bầy cúng ,còn lại phải thả con gà ấy vào rừng ,tuyệt đối không được giử lại (không dùng được huyết của bất kỳ động vật nào khác ).
5.Thầy ngải Xiêm còn có cách đem theo 1 pho tượng có hình dáng Phật hay người ngồi xếp bằng , đáy tượng rỗng ,họ phãi nhét sao cho đầy củ ngải tại chổ vào pho tượng , đó là các loại ngải mách ,ngải sai ,ngải phụ trị tà .
Nếu là ngải tình thì họ dùng pho tượng có hình thù ngồi chồm hổm ,hay ngồi dang rộng 2 chân ,bày sinh thực khí ra ….sau khi nhét ngải vào tượng ,họ liền dùng chỉ đỏ to sợi quấn nhiều lần quanh tượng ,với những bài chú buộc hồn ngải phải xác nhập vào tượng mãi mãi.
Các pho tượng nầy bình thường không thể ngồi ,nhưng khi thầy ngải niệm đến đủ số lượng biến chú cần thiết ,pho tượng sẽ tự bật ngồi dậy …do đó ,họ gọi là cặp lật …cặp là 1 đôi đủ cả 2 hình nhân nam và nữ ……tương truyền ,nếu tách 1 trong hình nhân nầy ra đem nhúng nước ,rồi bỏ vào thúng úp lại , đi đâu chừng 1 giờ sau ,về mở thúng ra xem ,sẻ thấy đủ cả đôi trong thúng .
Đấy là đến mức suốt đời vị thầy không thể rời xa ngải nghệ ông đã khổ luyện , ông phải truyền đôi hình nhân nầy cho ai đó ,rồi mới xuông xẻ nhắm mắt mà lìa trần ,nếu chưa tìm ra người kế vị , ông sẻ khôg thể đi xuôi ! đôi lúc là người mà ngải chọn ,có thể chưa hề biết học thuật về ngải ,thậm chí còn không biết đọc biết viết !”
LUYỆN NGẢI CHẬU – NGẢI KHÔ VÀ DẦU THƠM .
Ngải Chậu là cây ngải tươi được bứng từ rừng về hoặc được gây giống ra mà trồng ở trong chậu để luyện. Ngải khô là củ ngải đã đào từ bụi ngải trong rừng đem phơi sương nắng cho thọ khí âm dương 3 ngày đêm thì đem vô nhà cúng và luyện.
1/Luyện ngải chậu.
Luyện ngải chậu cách hay nhất là kiếm 7 cái đầu ông táo (miếng trên có nhiểu lổ của cái lò đất) bỏ hoang nơi chùa, miểu, đình thần... Đem về đập nhuyễn trộn với đất thiên nhiên, tuyệt đối không dùng phân (bất cứ phân gì). Sau đó lấy một miếng chì khắc tên hay viết chữ bùa Tom (cột) để dưới đáy chậu. Dùng vỏ sò Lông cho 3 đồng xu cổ vào, lấy đất bùn trét lại và đặt ngửa dưới đáy chậu.Lấy một trứng gà sống dùng mực đỏ vẽ thêm chủ dụng mà pháp sư muốn luyện cho chậu ngải đó. Ví dụ như Ngải Yêu, Ngải Ăn Nói Ngoại Giao, Ngải Cầu Tài, Ngải Quan Tự Tất Thắng (Ra tòa thưa kiện đều thắng kiện)...
Bùa cho vào đáy chậu có hình như sau :
Có thể thực hiện những bước như sau. Gỡ hết đất trong gốc ngải ra, kiếm tra xem còn sót củ ngải nào không, nếu còn thì gỡ hết củ ra, tỉa lá ngải cho gọn lại, cho bùa vào chậu sành, trồng ngải vào chậu và tụng kinh cho ngải, sau khi tụng kinh thì có thể đặt tên cho nó. Từ nay không được gọi là Ngải mà phải gọi theo tên mình đã đặt. Tuyệt kỵ, khi chưa được 49 ngày thì không được bắt ngải thực hiện bất cứ việc gì, hãy chăm sóc bình thường bằng cáh cho nước và thắp nhang đều đặn. Thứ 3, khi trồng ngải thì ngải sẽ theo tính nết của ngừoi trồng nó, nghĩa là nếu gặp chủ độc ác thì cây này sẽ cực kỳ độc ác, nó có thể thanh toán cả chủ nó, gặp chủ ngải có lòng nhân từ và thiện ý thì nó sẽ là 1 cây ngải quý, giúp ích cho đời rất nhiều. lưu ý; Ngải vốn có tính linh, không được thóa mạ chửi bới ngải, nếu có hiện tượng đó thì chủ nhà sẽ gặp những chuyện xui xẻo, thậm chí là mất mạng.
“Lễ vật để cúng khởi đầu cuộc luyện rất đơn giản chỉ gồm: 3 trứng gà sống, một dĩa gạo và muối, 1 ly nước lạnh, 3 chung rượu trắng, 1 dĩa nổ (nếp rang hay bắp rang bong vỏ). Đốt hai cây đèn cầy bên cạnh. Đốt 3 cây nhang cắm vô chậu ngải. Khởi sự luyện ngải phải là vào lúc chạng vạng (lối giờ Dậu). Đầu tiên pháp sư niệm Chú (thần chú) hội ngải (3 lần), Chú thỉnh 36 mẹ tổ ngải (3 lần) sau đó Chú nguyện, van vái tên họ tuổi của mình (người luyện), ngày, giờ, năm, tháng... Tôi muốn luyện chậu ngải gì... thì nói ra (có thể luyện hai hay ba thứ ngải cùng một lúc). Sau khi tác bạch xong thì định thần, bắt ấn, niệm chú và sên (thổi) vô chậu ngải. Luyện như vậy chừng 15 phút là được. Khi cây ngải cao lối 2 tấc thì luyện chừng 21 ngày liên tục thì ngải đã biết chào thầy. Chào là khi thầy niệm một câu Chú hỏi thăm, lá ngải sẽ đong đưa qua lại về hướng thầy, mặc dù lúc ấy trời không có gió... Và cứ tiếp tục luyện cho đến khi thấy như có bóng trắng thoáng ẩn hiện là ngải đã có thần. Trong thời gian luyện ngải, ông thầy tuyệt đối không được ăn tỏi sống vì tỏi nặng về trược, được nhà Phật liệt vào ngũ vị tân (tỏi, hành, hẹ, nén, kiệu) mà các vị xuất gia đều phải kiêng cữ... Và cứ tiếp tục luyện như vậy, càng lâu ngải càng mạnh. Mỗi tháng cúng ngải 2 lần vào ngày mùng 2 và ngày 16 âm lịch như bên Bùa cúng binh, tướng vậy.
Đến một thời gian nào đó đã đủ thì pháp sư chọn ngày thâu ngải, cũng nhang, đèn, trứng, nổ... Khấn vái đợi khi tàn nhang thì đào gốc lấy củ đem vô nhà, việc đầu tiên sau khi rửa sạch là pháp sư phải cắn một củ nhai liền, có như vậy thì ngải mới mến và phục tùng thầy lâu dài...! Sau khi để lên dĩa đặt ngay bàn thờ binh, tướng đối diện bàn tổ (Bàn binh thấp, bàn tổ phải cao hơn). Pháp sư bắt đầu đọc chú kêu ngải ở với mình. Các loài ngải rất linh, tính ý ngải như các cô gái e dè, dịu dàng nhưng dấu kín những phong ba. Khi luyện các thầy phải vuốt ve, thủ thỉ, nói chuyện với ngải như nói với các cô tình nhân. Thế cho nên từ trước tới nay, các ngải sư cao tay, vang tiếng đều cô độc không vợ, không con vì nếu các nàng ngải biết thầy lấy vợ là hè nhau vật hoặc phá vợ thầy đau rề rề không hết, khó làm ăn lắm.
Các loại ngải ở Việt Nam, Miên, Thái, Lào hay dùng đều cùng loại nhưng khác thổ âm địa phương đôi chút mà thôi. Người Việt hay gọi các loại ngải: Nàng Thâm, Nàng Mun, Nàng Xoài, Nàng Gù, Nàng Trăng, Nàng Hồng, v.v... Đều là tiêu biểu cho phái đẹp. Nói về pháp lực thì ngải rất mạnh và nhạy, chắc ít nhiều trong chúng ta nghe qua trong dân gian này trước hay nói đại khái như: Cô nọ xách giõ đi chợ tự nhiên có một bà xa lạ đến nói vài câu, cô nầy bỗng đờ đẫn, tháo dây chuyền, bông tai, chiếc lắc đưa cho bà xa lạ đó, chừng 10 hay 15 phút sau mới hoàn hồn thì bà xa lạ kia đã đi mất rồi! Đó chính là công năng của ngải. Bùa không thể làm con người mất cả hồn vía như vậy. Về mặt lý tính thì nuôi ngải cũng đơn giản như ta nuôi con chó con mèo vậy thôi. Cho nó ăn đều, vỗ về vài câu mỗi ngày là sai nó làm gì, nó làm cái đó không hề phân biệt thiện ác trước khi làm. Do đó những phù thủy có tà tâm bất chánh thường luyện ngải để trục lợi.” ( Sương Mãn Thiên ).
Xin xem tiếp bài 20. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét