PHONG THỦY LUẬN . BÀI 1.
A/ PHẦN MỞ ĐẦU ;
Thân gửi các bạn trên Diễn đàn Phong thủy.
Từ trước tới nay,phần lý thuyết Phong thủy được viết rất nhiều,hằng hà sa số cuốn sách đã được in hoặc lưu truyền trong dân gian.Tuy viết rất nhiều,nhưng vấn đề lý thuyết của bộ môn Phong thủy,vì không được dựa trên một căn bản Lý thuyết thống nhất và triệt để nên tùy theo điều kiện cụ thể mà phát triển ra rất nhiều Môn phái Phong thủy,có lý luận và cách thực hiện nhiều khi trái ngược lẫn nhau,khiến người đời sau không làm sao hiểu được và tính chất Thần bí cứ dần dần xen vào và từ đó Thuật Phong thủy trở nên một cái gì đó Huyền bí,khó hiểu và được coi là Mê tín dị đoan.
Việc tìm lại cội nguồn Lý thuyết của bộ môn Phong thủy nói riêng và Lý thuyết của Dịch lý Đông phương nói chung,là một vấn đề rất thiết yếu.Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian nghiên cứu,sưu tầm,nhận định ,tập hợp và sắp xếp lại.dienbatn không dám có tham vọng làm việc đó,chỉ xin làm viên đá nhỏ lót đường cho sự nghiên cứu của các bạn.Nếu thành công thì thành quả đó xin tặng lại các bạn ,hoặc nếu chẳng đi đến đâu cả thì âu cũng là số Trời,và những gì có được xin các bạn cứ dùng làm tư liệu để tiếp tục những bước sau này.Mọi việc đều phải có sự khởi đầu và như người xưa nói :"VẠN SỰ KHỞI ĐẦU NAN ".Trong bài viết này dienbatn xin được công bố,những bài viết,những ý tưởng của một số Cao nhân ẩn danh,không muốn xuất hiện. Đúng hay sai còn phụ thuộc nhiều yếu tố, song dienbatn xin kính cẩn cảm ơn các vị Tiền bối đã chỉ giáo. dienbatn chỉ là người trích dẫn,sắp xếp lại cho thứ tự và mạch lạc hơn,ngoài ra do sự kém cỏi thô lậu, không có ý tưởng gì hay nên xin các bạn cũng đừng chấp.Nào ,bây giờ chúng ta bắt đầu khởi hành.
1/LỜI NÓI ĐẦU :
Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc.
NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ.
Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.
Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng.
Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:
-Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước.
-Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia.
-Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị.
-Hóa giải theo ý muốn.
-Biết được Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ.
-Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu...
-Trị liệu bằng Trường Sinh học.
Ngày xưa ở Trung quốc,Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây dựng,kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.
1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nước,con người.
2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm ba nguyên tắc :
a/Trời chưởng quản Địa,Nhân.
b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con người,nên phải biết vận dụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống.
c/Vận mạng ,hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết,tức là Âm trạch.Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết thì xem cái mồ ".
3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào).
4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng tốt đến mạch khí.
Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hưởng đến hoạt động của Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng tử thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt,sức khỏe dồi dào,kinh tế phát triển lên mãi.
Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định.
PHONG THỦY.
Phong : Là Gió.
Thủy :Là nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa".
Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc.
TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc.
HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai.
2/ PHẦN TẦM LONG -CẮM HUYỆT :
Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn,xem tinh tú trên trời.Sao Tử vi ở phương Bắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở phương Nam;Sao Thái vi ở phương Tây,nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương.Lấy tứ chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long,và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ).Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó,thấy cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa ,dị thảo thì phải biết đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ vệ sơn chạy đến đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này,xem cục thế lớn,nhỏ,tốt xấu.Sau cùng quan sát xem tính tình,ăn ở của dân địa phương nơi đây thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long.
Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương hỗ với nhau,Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ".Tóm lại thuật Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán,nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ.
MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 loại :SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG,UỔNG LONG,SÁT LONG,QUỶ LONG,KIẾP LONG,DU LONG,BỆNH LONG,TUYỆT LONG,TỬ LONG.Các tên này nhằm chỉ vào sự tán tụ của chân Khí mà gọi.SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG là bốn loại Chân Khí hội tụ,còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình thể của Long ngắn,gấp khúc ít lần đi lên,xuống hoặc đi lên mà không đi xuống,xuống mà không lên,cho nên nó làm cho mạch Khí thế đi xuống.Còn tụ Chân Khí thì trải dài ,lên xuống theo hình thể nhiều lần.
Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch,theo đường hướng mà đi xuống,đoạn ẩn ,doạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó là SINH LONG.
Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi thì gọi là PHÚC LONG.
Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên,ôm vòng trở lại thì gọi là ỨNG LONG.
Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần,khí trùng điệp,hình dáng giao đầu lẫn nhau gọi là ẤP LONG.
Long mạch hình thế hiểm ác,gấp rút,trùng điệp,nhưng không đối xứng chỉnh tề gọi là UỔNG LONG.
Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG.
Loại phân chi,chia cắt mạch gọi là QUỶ LONG.
Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG.
Loại mà Khí lưu ly,tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG.
Mạch Khí không lên,xuống,không chuyển động gọi là BỆNH LONG.
Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG.
Mạch nằm riêng biệt không hộ,giáp,triền và không có Khí lực gọi là TUYỆT LONG.
Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì tác động cho những âm phần táng trong cuộc đất như :
SINH LONG thì con cháu ðược hưởng Phúc ,Thọ.PHÚC LONG thì con cháu Phú quý.ỨNG LONG thì con cháu giầu có,hiếu thuận.ẤP LONG thì con cháu Lễ ðộ ,nhường nhịn,thuận hòa.
SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai họa,chết chóc.QUỶ LONG và BỆNH LONG thì con cháu bị bệnh tật,không an cư,nghèo khổ.DU LONG thì con cháu hoang đàng,dâm loạn.TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử thương,tuyệt tự,không có người nối dõi Tông đường.
12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần,quan hệ đến người còn tại tiền,nên vì thế khi mai táng cho người chết,không thể không lựa chọn đất cắm Huyệt.
Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 thế núi căn cứ vào hình dáng,tư thế mà chia ra làm 9 RỒNG :
1/XUẤT DƯƠNG LONG.
2/SINH LONG.
3/GIÁNG LONG.
4/PHI LONG.
5/HỒI LONG.
6/NGỌA LONG.
7/ẨN LONG.
8/ÐẰNG LONG.
9/LĨNH QUẦN LONG.
Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly,hội hợp của tụ và tán.
Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa mạch hoạt bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.Ðịa mạch xuất hiện ở giữa,xung quanh có Sa trướng trùng trùng.Sa trướng của nó có gần có xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế cử đỉnh,có chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn,khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc ,thì Ðịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần,tựa hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ,muôn hình vạn trạng.Minh đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn lượn xung quanh,bốn phương tám hướng không có nơi nào bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội.Nơi được như vậy được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy."
Trong phần trên chúng ta đã phân tích mối quan hệ giữa tam tài THIÊN -ÐỊA -NHÂN ,mối quan hệ giữa Long mạch,Huyệt vị....vv.Từ ðây chúng ta lần lượt xem xét đến hai nhánh chính của Phong thủy là ÂM TRẠCH VÀ DƯƠNG TRẠCH.
Phần ÂM TRẠCH rất phức tạp và còn nhiều rối rắm,dienbatn sẽ viết ở phần sau.Bây giờ chúng ta đi vào địa hạt thứ nhất của Phong thủy là DƯƠNG TRẠCH -Tức là nơi sinh sống của người tại tiền.Theo định nghĩa : Dương trạch là nơi sinh sống của người tại tiền (đang sống ),nó không chỉ bao gồm nhà cửa,cơ sở làm ăn,buôn bán mà xét rộng ra nó còn bao gồm cả các Thành phố,Tỉnh lỵ....
Trong thuật Phong thủy hiện nay,có rất nhiều Trường phái,đang bàn cãi lung tung cả và ai cũng cho rằng Trường phái của mình là đúng nhất.Tạm thời người ta có thể chia ra các Trường phái chính như sau :
1/PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH -Hiện nay do Thái Kim Oanh đang chủ xướng.
2/PHÁI DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (Còn đi theo nó là Dương cơ chứng giải ) của Triệu Cửu Phong chủ xướng.
3/PHÁI HUYỀN KHÔNG HỌC .
4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY.
5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.
Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác ,nhưng dienbatn chỉ xét đến những Trường phái nổi bật nhất hiện nay.
Bây giờ người viết xin đi vào chi tiết cụ thể từng môn phái một.Tất nhiên chỉ có thể nêu những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất,sau cùng xin chia sẻ với các bạn một số kiến thức Phong thủy còn chưa được phổ biến rộng như PHONG THỦY LẠC VIỆT,CẢM XẠ PHONG THUỶ VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.
PHẦN 1 : NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN.
Trước hết chúng ta phải bắt đầu từ những khái niệm cho về sau khỏi cần phải tranh luận về vấn đề này.
1/TRẠCH :Là một cuộc đất,có ranh giới hoặc không ,được sử dụng vào công việc chôn cất, làm mồ mả,nhà mồ hay xây cất nhà cửa ,Làng mạc,Thành phố..Cũng có một số người coi Trạch là dải đất,giống như con lươn trên đê.Riêng người viết chỉ quan niệm đơn giản Trạch là một cuộc đất,vùng đất.Trong Trạch lại được chia ra làm Âm Trạch và Dương Trạch.
2/ÂM TRẠCH :Là cuộc đất dùng để chôn người chết , còn gọi là Mồ mả.Phong Thủy cho rằng,nếu người chết được chôn vào một cuộc đất tốt về Phong thủy thì sẽ truyền được Phúc ðức cho con cháu đời sau.
3/DƯƠNG TRẠCH :Là cuộc đất được dùng vào mục đích làm nhà cửa,Ðình ,Chùa,Miếu mạo,Thôn xóm,làng mạc,Thị trấn,Thành phố.Dương trạch phải hài hòa với Thiên nhiên,có môi trường tốt đẹp,làm cho con người thấy vui tươi ,mạnh khỏe,hạnh phúc.Dương trạch tốt tức là môi trường tốt.
4/LONG MẠCH :Mạch là nguồn gốc,là đường dẫn máu đi nuôi cơ thể người ta;Long là con Rồng. Nhưng trong Phong thủy,người ta gọi Long mạch là những dải Núi,dải đất, Dòng sông,dòng nước chảy,nhấp nhô,uốn khúc như Rồng,thoắt ẩn,thoắt hiện.Long mạch có thể chỉ vài chục cây số,nhưng cũng có thể là vài ngàn cây số.
Long mạch lại được chia ra SƠN MẠCH VÀ THỦY MẠCH.
SƠN MẠCH :Là những dải Núi,dải đất đi từ Tổ Sơn đến Huyệt.Tổ Sơn là Núi cao,nơi xuất phát Sơn mạch.Dải Núi đi ra khỏi Tổ Sơn gọi là Hành Long.Hành Long lại được chia ra làm CÁN LONG :Là dải Núi chínhđi ra từ Tổ Sơn và BÀNG LONG :Là chi nhánh đi ra từ Cán Long.Long mạch lúc nổi lên thành Núi,đồi ,gò ,đống,lúc lại chìm sâu vào lòng đất,có khi vượt qua cả những dòng sông.
THỦY LONG :Là các mạch nước dòng sông bắt nguồn từ các Tổ Sơn,chảy theo các Sơn Long.Thủy Long cũng có Cán Long và Chi Long,đổ vào Minh đường rồi thoát ra ở Thủy khẩu tiêu Thủy.
Sơn Long đi thuận theo chiều nước chẩy gọi là Thuận Long.Ði ngược chiều nước chẩy gọi là Hồi Long,đi ngang qua chiều nước chảy gọi là Hoành Long.
Theo cấu tạo Ðịa chất nước Việt nam ta,nói chung Núi sông chạy từ Tây Bắc xuống Ðông Nam (Trục CÀN -KHÔN ),do vậy Long mạch thường đi theo trục CÀN -KHÔN,hoặc CÀN -LY là chính.Long đi theo hướng này là thế chính có tính chất rất bền vững,dài lâu.Long thuận thì nước chầu xuống,Long ngược thì nước chầu lên.Thuận nước chầu lên là thế thuận,nước chầu xuống là thế nghịch.
6/THỦY KHẨU :Thủy khẩu là nơi mà nước chẩy vào Minh đường.Chẩy đến gọi là Thủy lai, chẩy đi gọi là Thủy khứ.Nơi nước chẩy vào gọi là Thiên môn,nơi nước chẩy ra gọi là Ðịa hộ.Dòng nước chẩy đến,chẩy đi tại vị trí Huyệt rất quan trọng,riêng về nó người ta có hẳn một mục là THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH,xét đến sự tốt xấu của hướng các dòng nước đối với Huyệt vị.
ÐIỂM HUYỆT :Sau khi đã tìm được địa thế hội đủ các tiêu chuẩn của Long mạch,Thủy khẩu,Minh đường, Long -Hổ,Sơn,Chu tước,Huyền vũ...,các phương vị sinh ,Vượng thì cần phải chọn nơi tụ khí để xác định chính xác vị trí Huyệt.Làm như vậy được gọi là Ðiểm Huyệt.
Ðiểm Huyệt là công việc vô cùng khó ,là việc phải tổng hợp tất cả các kiến thức về Ðịa lý Phong thủy,các Kinh nghiệm ,các pháp của Huyền thuật,cảm giác của Phong thủy sư,kết hợp với La kinh để chọn được vị trí cát lợi nhất cho việc xây cất nhà cửa hay táng Mộ. Cãn cứ vào địa hình,Ðịa thế có thể lấy đúng giữa Huyệt,lấy ở Huyệt nhánh hay bên cạnh Huyệt.
7/MINH ÐƯỜNG :Theo danh từ ,Minh đường là nơi ngày xưa Vua,Chúa tiếp các Bá Quan,Văn -Võ triều bái.Trong Phong thủy,Minh đường là vùng đất phía trước của Huyệt vị.Minh đường cũng được chia ra làm Nội Minh đường,Trung Minh đường và Ngoại minh đường,gọi chung là Tam đường.Minh đường ở trước Huyệt gọi là nội Minh đường. Minh đường được bao bọc bởi hai tay Long -Hổ gọi là Trung Minh đường.Minh đường ở ngoài Án Sơn gọi là ngoại Minh đường.
8/HUYỆT VỊ :Nghĩa gốc của từ Huyệt là hang ổ,sào Huyệt,là ngôi nhà bằng đất,là chỗ châm cứu trên cơ thể con người.Trong Phong thủy ,Huyệt là nơi tập trung Khí của Long mạch.
9/ÁN SƠN :Án có nghĩa là cái bàn làm việc của các cụ Ðồ Nho ngày xưa (Án Thư ).Án cũng co nghĩa là che chắn trước mặt.Án Sơn là núi nhỏ chắn trước Huyệt như cái bàn làm việc trước mặt người ngồi,Án Sơn không được quá cao.Huyệt có Án như Chủ có Khách,Vua có Tôi.
10/TRIỀU SƠN :Triều có nghĩa là đối diện như Chủ với Khách.Triều Sơn là núi to ở phía xa hơn Án Sơn.Triều Sơn mà hai bên có Thủy lưu kèm theo Triều vào Huyệt là Triều Sơn quý.Như vậy tính chất của Triều Sơn và Án Sơn tương tự như nhau ,nhưng khác nhau ở độ cao và tầm xa.
11/SA SƠN :Là Núi ở xung quanh Huyệt.Trong Ðịa lý chia ra các Sa (Sơn ) như sau :Án sơn,Triều sơn,Thanh long,Bạch hổ,Tả phù,Hữu bật,La thành viên cục,Lạc sơn,Hạ thủ sa,Thủy khẩu sa,Cản môn sơn,Hoa biểu sơn,Bắc Thần tinh,La tinh sơn,Quan tinh sơn,Quỷ tinh sơn,Diệu tinh sơn...
12/THANH LONG (TAY LONG ):Thanh long là Núi hay dải đất nằm bên TRÁI Huyệt.Có khi Sơn mạch chạy đến Huyệt rồi phân ra hai nhánh như hai cánh tay ôm lấy Huyệt tạo nên Thanh long,Bạch hổ.Thanh long chủ DƯƠNG,CON TRAI,KHÍ DƯƠNG.
13/BẠCH HỔ :Là Núi hay dải đất bên Phải Huyệt.Bạch hổ chủ Âm,Con Gái,Khí Âm.
Thanh long - Bạch hổ đối với Huyệt giống như chúng ta ngồi trên chiếc ghế có hai tay tựa vậy,hai tay này phải cân đối mới tốt.
14/TẢ PHÙ HỮU BẬT :Là hai trái núi nằm hai bên tả hữu của Huyệt vị.Tả phù hữu bât cần phải cân xứng về cả độ cao,xa gần,lớn nhỏ.Nếu không xứng lứa vừa đôi là Huyệt không quý.Người ta gọi tả phù - Hữu bật là Nhật Nguyệt giáp chiếu,hay Văn võ thị vệ.Tả phù hữu bật dịch về phía sau của Huyệt gọi là Thiên ất,Thái ất.Dịch về phía trước một chút gọi là Thiên hồ,Thiên giác.Nếu dịch về phía trước một chút nữa và chụm đầu vào nhau gọi là Kim ngô,Chấp pháp.Nếu nằm ở hai bên Minh đường Gọi là Thiên quan,Ðịa trực.Nếu nằm ở hai bên Thủy khẩu gọi là Hoa biểu,Cản môn.
15/LA THÀNH VIÊN CỤC :Là thế núi bao bọc xung quanh Huyệt vị như tường thành bao quanh trùng trùng điệp điệp,lên xuống nhấp nhô bảo hộ Huyệt vị,tựa như cánh sen ôm lấy nhị hoa.Nếu có điều đó là Huyệt quý.
16/HẠ THỦ SA :Còn gọi là hạ quan,Hạ tư.Núi nằm bên cạnh dòng nước chảy ra ở bất kỳ phương nào của Huyệt đều gọi là Hạ thủ sa.Hễ có Hạ thủ sa là có sự kết phát.Dòng chảy trước Huyệt rẽ về bên nào thì bên đó Hạ thủ.Hạ thủ sa cần trùng điệp,dày đặc,liên tiếp,không được mỏng,nhỏ.
17/BẮC THẦN SA :Là núi đá dựng đứng ở giữa Thủy khẩu mà có hình thù kỳ quái. Núi Bắc Thần sa rất quý hiếm,thường đi với Huyệt Công hầu ,Khanh tướng.Bắc Thần sa càng hùng vĩ càng cát lợi.
18/LA TINH :Là núi nhỏ hoặc gò nổi lên ở giữa Thủy khẩu giống như Bắc Thần sa.La tinh có thể là núi nhỏ,gò đá hoặc đất,nếu là đá thì tốt hơn là đất.La tinh tròn trặn hay nghiêng vát là tốt.La tinh có bốn bề la mặt nước là tốt.Ðịa thế Huyệt có La tinh là địa thế Huyệt quý.
18/QUAN TINH :Là núi nhỏ đằng trước Huyệt ở phía ngoài đối diện với Thanh long,Bạch hổ,kéo sơn mạch ra đằng trước.
20/DIỆU TINH :Là tảng đá lớn nhô lên ở hai bên tả hữu của Huyệt.Diệu tinh to lớn và đẹp thì sẽ tạo phú quí lâu dài.
21/QUỶ TINH :Là sơn mạch ở đằng sau Long Huyệt mọc ra hai cánh,để cho Huyệt trườn gối lên.Chỉ có Hoành long kết Huyệt mới có Quỷ tinh.Quỷ sơn không nên qua cao,lớn vì sẽ đoạt mất chân khí của Long Huyệt.Huyệt có Quỷ tinh đẹp là Huyệt quý.
22/CẦM TINH :Là sơn thạch (Núi đá ) ở giữa Thủy khẩu ,còn gọi là Hỏa tinh Hà Lạc.Hình dạng của Cầm tinh giống như cái bút lông,con cá đang bơi,hay Rùa,rắn,dài,nhọn,vuông tròn,cao thấp,tụ hay tán.Huyệt có Cầm tinh là Huyệt quý.
23/HUYỀN VŨ :Là sơn mạch đằng sau Huyệt.Huyền vũ là nơi mà từ đó Mạch chẩy vào Huyệt.Huyền vũ cao đầy thì có nhiều khí mạch dự trữ.Huyền vũ cúi đấu,bằng phẳng,vuông tròn là quí.Tôn nghiêm có bút nhọn,thanh tú thì quý.Thấp,mỏng bị gió thổi,thô bạo lấn át Huyệt là xấu.
24/CHU TƯỚC :Là các sa sơn ở trước Huyệt,là các gò đống ở trước Huyệt.Nó múa lượn,chầu đón Huyệt,tốt tươi,sáng sủa,vòng cung ôm lấy Huyệt là quý.Sơn chạy tán loạn,lởm chởm ,âm u là xấu.
Ghi chú :Những định nghĩa trên dienbatn viết theo KS.TRẦN VĂN TAM trong cuốn XÂY DỰNG NHÀ Ở THEO PHONG THỦY.
Trong phần này có một bài của Nguyên Vũ ( Văn Hóa Phương Đông ) , tóm lược rất nhiều sách về các khái niệm trong Phong Thủy . Người viết xin đưa vào để các bạn tham khảo - dienbatn .
Phong thủy: Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp. Sách Táng thư viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh viết : Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng". Do vậy mà có tên là Phong thủy.
Hai chữ Phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tường phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy.
Phong thuỷ thuật: Học thuyết cổ đại Trung Quốc hướng dẫn người ta lựa chọn nơi trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với một hệ thống lý luận và phương pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng môi trường tự nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con người có thể ảnh hưởng đến con cháu của người đã khuất hoặc đến vận mệnh của những người sinh sống tại đó. Thuật này đề xuất lý luận và phương pháp hướng dẫn người ta chọn cát tránh hung, cầu phúc tránh họa. Thuật Phong thủy có nguồn gốc xa xưa, thời thượng cổ con người đã chú ý đến ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi cư trú của loài người, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích. Khi loài người bắt đầu có hoạt động xây dựng một cách tự giác, việc tìm kiếm cho được nơi trú ngụ an toàn, thích hợp, tiện lợi đã trở thành một trong những nhu cầu cơ bản. Khi việc chôn cất người chết trở thành phương thức chủ yếu, do ảnh hưởng của quan niệm sùng bái linh hồn và tổ tiên, người ta cố tìm cách mai táng sao cho có thể giữ gìn lâu dài thi thể người chết. Thời kỳ Tiên Tần, do trình độ khoa học còn thấp, các hình thức bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong xã hội gắn liền với hoạt động xây dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến như Bốc trạch, Bốc cư, Bốc lạc phản ánh tình hình đương thời. Đồng thời các học thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái Chu Dịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc cư, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong thủy nhờ đó có được cơ sở tư tưởng triết học cần thiết. Thời Lưỡng Hán , đã xuất hiện các trước tác về Phong thủy như Cung trạch địa hình, Kham dư kim quí. Các học thuyết Hình pháp gia, Kham dư gia cũng mang nội dung Phong thủy. Mối quan hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung họa phúc của con người đã trở nên rất mật thiết, đồng thời xuất hiện những người chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu sấm) và hàng loạt điều cấm kỵ mang tính chất mê tín đang thịnh hành trong xã hội đương thời. Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, quan niệm nhà ở và mồ mả gắn với cát hung họa phúc của con người được tầng lớp sĩ đại phu tiếp nhận rộng rãi, thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật Phong thủy. Các sách Phong thủy xuất hiện nhiều chia ra 2 loại : Dương trạch và âm trạch. Thuyết "Tứ Linh" cũng bắt đầu hình thành. Các quan niệm âm dương ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà lạc, âm luật quý hậu được áp dụng vào thuật Phong thủy. Đến thời kỳ Tùy Dường, thuật Phong thủy về cơ bản đã hình thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời hàng loạt, trong đó Trạch Kinh có đến mấy chục loại, Táng thư có trên trăm loại. Sách Trạch kinh, Táng thư đời Đường là 2 trước tác chuyên về Phong thủy sớm nhất của Trung Quốc còn đến nay, những điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại thể đã hoàn bị, làm cơ sở lý luận cho 2 trường phái lớn là Lý pháp và Hình pháp trong học thuyết Phong thủy sau này. Nhất là Táng thư đề xuất "thuyết sinh khí" đã trở thành lý luận căn bản nhất của học thuyết Phong thủy. Sách này mượn tên Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác được tôn là người sáng lập học thuyết Phong thủy. Một nhân vật trọng yếu khác trong lịch sử thuật Phong thủy là Dương Quân Tùng cũng là người đời Đường, được tôn là tổ sư. Cuối đời Đường, xuất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong thủy sư. Thời kỳ Tống Nguyên Minh Thanh, thuật Phong thủy càng được hoàn thiện và phát triển về lý luận và phương pháp, đồng thời chia thành nhiều trường phái khác nhau. Phái Lý pháp đặc biệt thịnh hành, song chứa đựng quá nhiều điều huyền bí. Ảnh hưởng của thuyết Phong thủy trong xã hội cũng ngày một gia tăng, thâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội; đồng thời được Lý học đời Tống Minh và giai cấp thống trị phong kiến ra sức ủng hộ, có tác động vô cùng mạnh mẽ tới đời sống xã hội Trung Quốc cổ đại.
Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, Tụ khí, Đắc khí. Nội dung gồm 2 loại lớn là Phong thủy dương trạch và Phong thủy âm trạch, trong đó Phong thủy âm trạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng. Nội dung của Phong thủy âm trạch bao gồm : khảo sát hình dạng núi non sông nước trong một phạm vi khá rộng, xác định địa chất địa mạo, lựa chọn vị trí và phương hướng của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất thổ nhưỡng, thước tấc huyệt mộ, cây cỏ trên mặt đất, cách thức và thời gian mai táng, các vật kiến trúc phụ bên trên huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm nội dung dùng sức người cải tạo địa hình. Nội dung của Phong thủy dương trạch thì gồm có: chọn địa điểm nhà ở, thôn xóm, thành phố, khảo sát môi trường kiến trúc xung quanh chúng, địa thế cao thấp, hình dáng và bố cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày giờ khởi công và trình tự xây dựng, hướng mở cổng cửa, kích thước cổng cửa, các loại cây trồng và phương vị sở tại còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở tính thống nhất giữa nhà ở với các công trình xây dựng xung quanh. Bết kể dương trạch hay âm trạch cũng đều có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy hình thế sông núi làm chính; Lý pháp thì lấy nguyên lý suy diễn thuật số làm chính; hai "pháp" có chỗ mạnh chỗ yếu, nên về sau người ta theo xu thế kết hợp cả hai.
Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa cổ truyền Trung Quốc, hiển nhiên chứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần được gạn đục khơi trong. Đồng thời thuật Phong thủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con người tích lũy hàng ngàn năm trên cơ sở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới được phát hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất : thuật Phong thủy thực tế là lý luận qui hoạch thiết kế xây dựng cổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp các khoa địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, tâm lý học, là tinh hoa của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại, cùng với Doanh tạo học và Tạo viên học hợp thành 3 cột trụ của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại. Tuy thuật Phong thủy có giá trị không thể xem nhẹ, nhưng vì nó khoác bộ áo huyền bí và lối diễn đạt dung tục, nên khó hiểu và có khi bị chê cười; hơn nứa quan niệm cho rằng vị trí mai táng có thể quyết định cát hung họa phúc của con cháu chưa hề có tư liệu khoa học nào xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần dần bị thay thế (chẳng hạn bằng hỏa táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa.
Kham dư: Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán thư. Dương Hùng truyện viết: "Kham dư là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo đồ trạch thư". Văn tuyển. Cam tuyền phú viết : "Hoài Nam Tử nói Kham dư "hành hùng (đực) để biết thư (cái). Hứa Thận nói Kham là đạo trời, dư là đạo đất vậy". Hán thư. Nghệ văn chí chép 14 quyển "Kham dư kim quí". Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo chứng là "sách viết về phương vị Phong thủy". Sử ký. Nhật giả liệt truyện . "Thời Hiếu Võ đế, có triệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cưới vợ ? Các nhà ngũ hành đáp có thể; các nhà kham dư đáp không được". Tùy thư. Kinh tịch chí có chép "Kham dư lịch chú", "Địa tiết kham dư", bàn về cách chọn ngày giờ. Đủ biết kham dư thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong thủy. Theo khảo chứng của các học giả thời nay, kham dư thoạt tiên chỉ tên 12 vị thần. Các nhà kham dư căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách quan sát tượng trời để phán đoán cát hung dưới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán nói kham dư là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy. Từ thời Tùy Đường trở đi, người ta dần dần coi Tướng trạch và Tướng mộ là kham dư. Đời Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết : "Các nhà Kham dư thời cổ tức là các nhà "tướng trạch đồ mộ" thời cận đại, các nhà địa lý ngày nay"; chứng tỏ về sau người tá mới đưa nghĩa Phong thủy vào khái niệm Kham dư. Ngoài ra, các văn nhân sĩ đại phu quen dùng thuật ngữ Kham dư, còn dân gian thì gọi là Phong thủy.
Địa lí : Tức Phong thủy. Vương Tịch Chi đời Tống trong Mãnh thủy yên đàm lục viết : "Văên Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dương địa lý". Cố Viêm Võ đời Thanh trong Xương Bình sơn thủy ký, quyển thượng, viết " Hoàng hậu họ Từ qua đời, Lễ bộ thượng thư Triệu Hồng được lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân Khanh tới, chọn đất tốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xương Bình".
Địa lí học: Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hưng tạo ký của Lục Du đời Tống: "Kỷ Thực Trượng nhìn bốn phía hỏi, "Ai biết ngôi chùa kia là do trời đất tạo dựng nên.. Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới sai ta chọn địa dư này chăng?" Tức là khi hỏi ý kiến các nhà địa lí học, thì họ nói gần giống như Kỷ vậy".
Địa học: Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 viết : "Đời sau khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ sư".
Âm trạch : Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thượng viết: "Đại phu bói về nhà ở và ngày mai táng". Sớ : "Trạch, nghĩa là đất mồ mả". Đời sau người ta thêm nghĩa nhà ở, nơi trú ngụ vào chữ "trạch", nên gọi mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120 : "Nếu ta chết ở chốn này, thì đây là âm trạch". Còn bao hàm nội dung chọn đất mai táng, tức Phong thủy âm trạch.
Dương trạch: Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời cổ, chu "trạch" vừa có nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong thủy gọi mồ mả là âm trạch, còn nhà ở là dương trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh khuyết danh đời Đường : "Phàm dương trạch tức là có khí dương ôm âm, âm trạch tức là có khí âm ôm dương". Còn bao hàm nội dung chọn đất làm nhà, xây dựng nhà cửa, tức phong thủy dương trạch.
Âm dương trạch: Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong thủy âm trạch và Phong thủy dương trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức đại diện cho Phong thủy.
Thanh ô thuật: Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử soạn Táng kinh, nên các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy là thuật Thanh ô, người chuyên hoạt động Phong thủy là "Thanh Ô đồ" .
Thanh nang thuật: Tức thuật Phong thủy. Tấn thư. Quách Phác truyện : "Phác giỏi chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dương tài tình. Có ông thày họ Quách ẩn cư ở Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thày đem 9 quyển sách chứa đựng thuật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh nang (chiếc túi vải xanh) tặng Phác". Nhờ đó phác giỏi xem tướng đất. Đời sau lại có Thanh nang kinh, tức Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh chuyên nói về Phong thủy, mượn tên Quách Phác viết lời tựa. Dần dần thuật Phong thủy được gọi là thuật Thanh nang.
Trạch tướng: Tướng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ nhỏ , được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thư còn bé mà thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thư nói : Họ ngoại có được trạch tướng tốt vậy".
Về sau người ta dùng hai chu "ngoại sanh" (cháu ngoại) thay cho chu "trạch tướng". Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu Nguyên Nhất đời Đường viết : "Vương Mãng
làm Thị lang, chuyên về trạch tướng, chí khí hào hùng, rất giống người cậu của mình".
Gia tướng : Tức Phong thủy dương trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của gia đình, hình tướng của gia trạch, nên gọi là Gia tướng (tướng nhà).
Địa tướng: Tức Phong thủy âm trạch. Vì nó gắn liền với hình thế của sông núi, hình tướng của mồ mả, nên gọi là Địa tướng (tướng đất).
Bốc triệu: Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để mai táng. Quản thị địa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị : "Bốc triệu dinh thất gồm 2 việc; một là luận sơn (núi), hai là luận hướng, là điểm mấu chốt của nhà kham dư".
Bốc cát : Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy chủ hậu lục, quyển 1, của Vương Minh Thanh đời Tống, viết : "Vĩnh Xương Lăng bốc cát, lệnh cho Tư thiên giám Miêu Xương đi xem tướng đất ở Tây Lạc". Về sau "Bốc cát" được dùng để chỉ việc chọn đất mai táng.
Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch.
Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là tiến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Hoàng đế trạch kinh : "Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay dữ, địa điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự".
Tướng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát hung tọa hướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống sử.
nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển.
Tướng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc liên quan.
Tướng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 : "Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng của tướng trạch, tướng địa".
Tướng thổ: Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây
cỏ tốt tươi, "Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị".
Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như tro, quá khô cứng, hoặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tươi nhuận, cây
cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào bới, thấy chắc chắn dày dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là "Uất thảo", cũng là đất lành. Cho nên phàm đất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực.
Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ được xây dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc.
Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: "Bốc lạc dịch long thế, Hưng loạn võng bất vong" .
Bốc thục: Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi nướng, mai rùa có những đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau liền gọi việc chọn đất xây dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn : "Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập". Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị" .
Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Việt xuân thu. Câu Tiễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán : "Đường Ngu bốc địa, Hạ ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc". Cũng dùng đó để chỉ riêng việc lựa chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu thơ "Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ". Đời sau bèn dùng để thay cho hai chữ Phong thủy.
Bốc trạch: Chữ "trạch" có 3 nghĩa : l) Nơi trú ngụ 2) Phần mộ 3) Lựa chọn. Cho nên bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô. Thượng thư. Chiếu cáo: "Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh", ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cư trú. Bài thơ "Vi nông của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Bốc trạch tòng từ lão Vi nông khử quốc xa". Thơ Di cư Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu : "Đào Tiềm ái bốc trạch, Thẩm ước phú giao cư ". 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần mộ. Lễ ký. Tạp ký thượng: "Đại phu bốc trạch và ngày mai táng". Sớ của Khổng Dĩnh Đạt : "Trạch là đất mai táng". Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thượng của Cố Viêm Vũ đời Thanh : "Bốc trạch dĩ an vương khảo triệu, Huề xuất hoàn qui cố nhân trai". Đời sau bèn gọi Phong
thủy là Bốc trạch.
Bốc cư : Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần bản kỷ. "Đức công nguyên niên, bốc cư Ung". Sau chỉ việc chọn đất định cư. Nghệ văn loại tụ, quyển 64, dẫn bài thơ "Hành trạch" của Tiêu Tử Lương nước Tề thời Nam triều : "Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại". Bài thơ Ký đề giang ngoại thảo đường của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Thị tửu ái phong trúc, Bốc cư tất lâm tuyền".
Bốc thất : Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu : "Phiêu phiêu số niên như nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây". Minh sử. Trương Khả Đại truyện : "Khả Đại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử".
Bốc vũ : Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc giang công hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều : "ái nái bốc vũ Kim Lăng, doanh đới lâm hách" .
Bốc trúc : Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu Hứa truyện chép rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đền Tống Hy ở khe suối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện : "Bốc trúc dương tiễn sơn trung, độc thư thập niên dư"
Bốc lân : Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên : "Thả Ngạn nói : Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. 'Nhị, tam tử tiên bốc lân hề". Đỗ Dự chú giải: "Bói láng giềng tốt". Bài thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Nhất tạc bồi tích trượng, Bốc lân nam sơn u". Thực ra chỉ việc chọn đất cư trú, đồng thời biểu thị với người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ.
Bốc lão : Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cư. Tịnh danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc lão ở Đan Đồ".
Chiêm trạch : Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch tức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng đế trạch kinh : " Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà dự đoán tình hình họa phúc cát hung"
Tướng trạch : Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương vị tọa hướng cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển" . Tùy thư. Kinh tịch chí có chép " Tướng trạch đồ" 8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép " Tướng trạch đồ" 1 quyển.
1) Sinh khí : Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của toàn bộ hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm dương tràn ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mưa, còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên nói "Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy" (Táng kinh dực). Bởi thế tìm sinh khí trước tiên phải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành, gặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía. Cho nên điều quan trọng nhất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để sinh khí không bị gió thổi tứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà nuôi dưỡng vạn vật. Loài người được nó nuôi dưỡng thì cát, mất sự nuôi dưỡng của nó thì hung. Sự sống của loài người là kết quả hội tụ sinh khí , sinh khí ngưng kết thành cốt cách của con người. Người ta chết đi, máu thịt rứa nát, xương cốt vẫn còn; nếu đem thi thể của tổ tiên cha mẹ mai táng ở nơi sinh khí hội tụ, thì sinh khí sẽ nhập vào xương cốt mà trở thành nuôi dưỡng con cháu của họ, cho nên nói : "Mai táng phải thừa sinh khí vậy" (Táng thư). Đây là cơ sở lý luận của Phong thủy âm trạch. Còn về Phong thủy dương trạch mà nói , vì sinh mệnh của con người do sinh khí hội tụ tạo nên, bởi vậy cũng cần phải tìm được mảnh đất có sinh khí thịnh vượng mà xây dựng nhà ở, để chủ nhà được sinh khí nuôi dưỡng. Nhưng sinh khí dưới lòng đất nuôi dưỡng người từ bên dưới, lực lượng ở sâu mà công hiệu chậm, cho nên khác với âm trạch, dương trạch còn phải có được "thiên hạ" (khí trời). Khí trời trực tiếp sưởi ấm thân thể con người lực lượng ở bên trên mà công hiệu nhanh , cho nên "Dương trạch dưới thì tiếp nhận cát khí của đất, trên thì muốn có vượng khí của trời" (Tướng trạch kinh soạn . quyển 4), bởi vậy khi xây dựng nhà ở phải chú ý hướng mở cổng, cửa, hình dạng ngôi nhà, lựa chọn phương vị, để tiếp nhận vượng khí , loại trừ tà khí.
2) Phương vị. Chỉ khi xây dựng hoặc tu sửa nhà ở, một phương vị cố định nào đó đối lập với "tử khí". Nếu tiến hành xây dựng, tu sửa ở phương vị sinh khí này, ắt sẽ thu được hồng phúc lớn lao. Phương vị có sinh khí không giống nhau trong một năm: tháng giêng ở Tý, Quý (tức chính bắc và phương bắc dịch sang đông 15 độ, Xem mục nhị thập tứ sơn); tháng 2 ở Sửu, Cấn; tháng 3 ở Dần, tháng 4 ở Mão, ất; tháng 5 ở Thìn, Tốn; tháng 6 ở Tỵ, Bính; tháng 7 thân, Canh; tháng 8 Mùi, Khôn; tháng 9 ở Thân, Canh; tháng 10 ở Dậu, Tân; tháng 11 ở Tuất, Khôn; tháng 12 ở Hợi, Nhâm. Trong 1 năm, bắt đầu từ phương chính bắc, thuận theo chiều kim đồng hồ mà xoay 1 vòng.
3) Tức sao Sinh khí. Xem mục Sinh khí tinh.
4) Chữ "khí" ở đây theo quan niệm của cổ nhân khác với "không khí", nó là một chất đặc biệt trong vũ trụ hoặc trong cơ thể người.
Ngoại khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ dòng nước chảy trên mặt đất. Nước chảy trên mặt đất gọi là Ngoại khí. Thứ khí này mềm. Ngoại khí chuyển tải, chỉ nội khí mới có thể tụ lại, nên Long vận hành mà sinh khí tùy theo, thủy (nước ) ngăn lại mà nội khí tụ.
Nội khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí trong đất. Sinh khí vận hành trong lòng đất, nên gọi là nội khí. Thứ khí này cứng.
Long thần: Tức sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, biểu hiện là long mạch, thần diệu khó đoán, chủ mọi cát hung, nén dùng hai chữ "Long thần" để biểu thị sự kỳ diệu của nó.
Thiên khí:
1) Khái niệm Phong thủy. Hai khí âm dương tràn ngập trong trời đất; ẩn tàng mà vận hành dưới lòng đất thì gọi là "sinh khí", phát tán trôi nổi trong không trung thì gọi là "thiên khí". Hoặc nói là khí chia ra âm dương, khí dương gặp gió thì vận hành, sưởi ấm thân thể, người, tức khí trời, thực ra là sinh khí trong không trung. Phong thủy dương trạch coi việc tiếp nhận thiên khí là điều cốt yếu.
2) Phương vị. Trong 24 sơn, sinh khí ở phương vị 8 thiên can Giáp, Canh, Bính, Nhâm, ất, Tân, Đinh, Quý, là thiên khí.
Địa khí: Khái niệm Phong thủy. Sinh khí vận hành trong đất, phát ra mà sinh thành vạn vật, nên gọi là địa khí. Đối xứng với nó ắt là thiên khí. Xem mục Sinh khí, Thiên khí.
Cát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí thịnh vượng. Thuộc dương. Thi thể người chết sau khi mai táng nếu được cát khí nuôi dưỡng, thì vong hồn sẽ bay lên phù hộ cho con cháu hưởng phú quí. Sinh khí cũng được gọi là cát khí.
Sát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ gió độc thổi đến từ khe núi, hẻm núi hoặc chỗ lõm trong núi. Cổng nhà ở nếu bị sát khí thổi vào thì hung, cản thay đổi hướng cổng, cửa.
Thực khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi sơn (núi) là Thực khí, đất càng cao thì khí càng dày, đất càng thấp thì khí càng mỏng, cho nên núi càng phải lớn mới là cát. Nhưng Thực khí không thể tự nó khai phá, muốn làm cho Minh đường rộng rãi, thoáng khí, còn phải dựa vào tác dụng của thủy lưu. Xem mục Hư khí.
Hư khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi thủy (nước) là Hư khí. Nước càng sâu khí càng mạnh, nước càng nông khí càng yếu, cho nên nước phải sâu và chảy xa mới là cát. Nhưng Hư khí không thể tự nó trở thành nông sâu, núi cao thì nước mới cô thể dài xa, nên Hư khí còn cần phối hợp với Thực khí. Xem mục Thực khí.
Hung khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ thứ khí không tốt trong lòng đất. Thuộc âm. Nếu thi thể người chết sau khi mai táng bị hung khí tấn công, thì vong hồn sẽ bị hung khí dìm xuống, ảnh hưởng xấu đến con cháu, khiến con cháu trở nên nghèo hèn, hiếm muộn, tai họa.
Lậu khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí bị tiết thoát. Trong thuật Phong thủy, Long đến hình dừng, nhưng thủy lưu không ôm lấy, tạo thành chỗ khuyết, sinh khí từ chỗ khuyết ấy tiết thoát ra, gọi là Lậu khí. Không lành.
Phong thủy dương trạch cho rằng, nếu cửa sau đối diện với cửa trước, thì sinh khí vào nhà sẽ theo cửa sau mà tiết thoát đi, là Lậu khí. Nếu hai bên phòng ở không có hành lang mà thông thẳng ra ngõ hẻm, là nhà bị Lậu khí không lành.
Cốt trùng: Là loại sinh vật hư cấu (không có thật). Thuật phong thủy cho rằng loài người tiếp nhận sinh khí mà hình thành, sinh khí ngưng kết thành xương cốt. Người ta chết đi, máu thịt sẽ rữa nát, duy xương cốt vẫn còn. Sau khi mai táng, sinh khí thấm vào xương cốt, có ảnh hưởng tốt con cháu người đã khuất. Thời Trung Hoa Dân quốc, Viên Cao phát triển thuyết này, cho rằng xương cốt loài người giống như san hô, do các cốt trùng nhỏ xíu ngưng làm thành. Người ta chết đi, cốt trùng vẫn còn, cảm với sinh khí mà ảnh hưởng tới con cháu (xem Thuật bốc phệ tinh tướng học, quyển 3). Thực chất đây là dùng học cận đại phụ họa thuật Phong thủy, hoàn toàn vô căn cứ.
Địa lý ngũ quyết: Năm nội dung lớn, có tính chất khái quát lý luận Hình pháp trong thuật Phong thủy, là Long (tầm long), Huyệt (định huyệt), Sa (sát sa), Thủy (quan thủy), Hướng (lập hướng). Sự tổng kết khái quát 5 yếu tố lớn đó có ảnh hưởng khá mạnh tới lý luận Hình pháp.
Tam cương ngũ thường: Tổng kết lý luận mà thuật phong thủy đưa ra cho phù hợp với quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến. Tam cương là : " Một, Khí mạch, là cương phú bần tiện; hai, Minh đường, là cương sa, thủy đẹp xấu; ba, Thủy khẩu, là cương sinh vượng tử tuyệt" . Ngũ thường là : "Một, Long, long phải chân (thật); hai, Huyệt, huyệt phải đích (đúng); ba, Sa, sa phái tú (đẹp); bốn, Thủy, thủy phải bao (ôm); năm, Hướng, hướng phải cát (lành).
Ngũ tính : Đem họ (họ tên) của người phối với ngũ âm, ngũ hành, rồi căn cứ vào đó mà dự đoán cát hung của nhà ở, phần mộ. Thuyết này rất thịnh hành vào giữa thời Hán và Đường, mai một dần từ thời Tống, Nguyên. Cách thức cụ thể như sau : trước tiên, phối họ với ngũ âm. Ngũ âm gồm: cung, thương, giốc, chủy, vũ. Phát âm họ của một người , nếu âm ở trong cổ họng là cung, ở chân răng 1à thương, ở kẽ răng là giốc, ở lưỡi là chuỳ, ở môi là vũ. Ngũ hành gồm: thổ, kim, mộc, hỏa, thủy. Ví dụ các họ Trương, Vương, là thương; họ Vũ, Dữu là vũ; họ Liễu là cung; họ Triệu là giốc. Người không am hiểu âm vận, có thể tra cứu trước tác Phong thủy có liên quan để biết họ của mình thuộc âm nào. Định được ngũ âm rồi, thì biết được ngũ hành. Sau đó căn cứ nguyên lý ngũ hành sinh khắc mà xây nhà đặt cửa. Ví dụ, họ Trương là âm thương, thì cổng, cử chính không được đặt ở hướng nam, vì thương thuộc kim, mà phương nam là hỏa, hỏa khấc kim, không lành. Lại như họ Đồ là âm chủy, cổng nhà không được mở ra hướng bắc, vì chủy thuộc hỏa, mà phương bắc thuộc thủy, thủy khắc hỏa, không lành. Ngũ tính có quan hệ với tọa hướng của phần mộ, có ca quyết đơn giản như sau : "Thương, giốc nhị tính, bính nhâm ất tân; cung, vũ, chủy tam tính, giáp canh đinh quý, đắc địa đắc cung, thứ sử vương công; đắc địa đắc cung, hữu thủy vô chung; thất địa đắc cung, tử tôn bất cung, thất địa thất cung, tuyệt tự vô tông (Hoàng đế trạch kinh).
Ngũ phúc lục cực: Tình trạng cát hung. Ngũ phút gồm : thọ, phúc, khang ninh, hiếu đức, khảo chung mệnh; I ục cực gồm : yểu chiết (chết sớm), bệnh tật, lo buồn, nghèo khổ, độc ác, yếu ớt. Thuyết này gặp trong Thượng thư. Thuật Phong thủy cho rằng lục cực cứ bám riết, ngũ phúc chẳng tới là do ngũ hành mất cân bằng tạo nên. Cho nên chọn đất mai táng phải tìm nơi sinh khí thịnh vượng, thuận hợp ngũ hành, để trừ lục cực đón ngũ phúc.
Ngũ hung Tình trạng hung họa. Gồm bệnh tật thương tích, sinh ly tứ biệt, tai nạn hình phạt, yểu chiết cô đơn, ngang ngược điên cuồng. Học thuyết Lí pháp trong thuật Phong thủy cho rằng mai táng phải có được âm long, âm huyệt, âm ứng, hoặc dương sơn, dương thủy, dương huyệt, dương ứng, là khí thuần nhất, thì có thể tránh được Ngũ hung. âm dương ở đây chỉ thuộc tính âm dương của phương vị Xem mục Nhị thập tứ sơn.
Giang Tây phái : Trường phái Phong thủy. Thuật Phong thủy có hai trường phái lớn. Phái Giang Tây do Dương Quân Tùng đời Đường khởi xướng. Họ Dương về cuối đời sống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn là người Giang Tây, nên có tên như vậy Thuyết này lấy hình thế làm chính, tìm nơi khởi đầu và kết thúc của sơn mạch, thủy lưu; lặn lội phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hướng, chú trọng quan sát hình dạng sơn loan thủy đạo, nhấn mạnh sự phối hợp long, huyệt, sa, thủy. Còn gọi là phái Loan đầu. Thuyết này về sau hình thành nên lý luận Hình pháp. Phái Giang Tây với Dương Quân Tùng là tổ sư, lần lượt truyền cho Tăng Văn Sán, Lại Văn Tuấn, Ngô Cảnh Loan, Mục Vũ. Trước tác của phái này hiện còn rất nhiều, tiêu biểu là Hám long kinh, Nghi long kinh, Thập nhị trượng pháp của Dương Quân Tùng, Táng thư người đời Tống mượn danh Quách Phác, Thôi quan thiên của Lại Văn Tuấn. Lý luận của phái Giang Tây chú trọng quan sát giới tự nhiên, tiến hành tổng kết qui nạp rất nhiều hình thế sông núi, kết tinh nhiều kinh nghiệm hợp lý. Thuyết này lấy âm trạch làm chủ, dương trạch thường mượn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng của nhà ở và sự phối hợp về hình thức trong không gian. Phái Giang Tây từ đời Đường Tống trở đi, lưu truyền khá rộng, đời Mình, Thanh có sút giảm, nhưng vẫn được xã hội tiếp thu rộng rãi, có ảnh hưởng rất sâu rộng.
Hình pháp : 1) Học thuyết Phong thủy. Tức hệ thống lý luận Phong thủy do trường phái Giang Tây đưa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí vượng mà cát, ắt hình sẽ đẹp đẽ uyển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi vậy, có thể căn cứ vào hình mà biết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm ra đất tốt. Theo thuyết này, lý luận âm trạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long, định huyệt, sát sa, quan thủy, lập hướng, tết cả đều xuất phát từ hoàn cảnh địa hình tự nhiên mà xác định cát hung. Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều dạng địa hình tự nhiên, là kết tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Quốc cổ đại trong việc nhận thức quan sát thế giới tự nhiên. Lý luận dương trạch cũng chú trọng hình dáng và sự phối hợp hình thức của nhà ở, đưa ra rất nhiều hình vẽ và cách thức cố định. Phần lớn khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do trường phái tiên phong Giang Tây đề xuất và định nghĩa, mà được hậu thế nhất trí thừa nhận.
Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả giới tự nhiên chân thực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, lại tương đối dễ hiểu, nên được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Trước tác tiêu biểu của thuyết này là : Táng thư, Hám long kinh, Nghi long inh, Thập nhị trượng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh huyệt pháp , Ngọc xích kinh, Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dương trạch thập thư.
2) Một học thuyết về thuật số cổ đại. Nội dung bao gồm : xác định hình thế sông núi, để xây dựng thành quách, nhà cửa, tức tướng địa, tướng trạch, tướng người, tướng lục súc tướng vật thể mà định cát hung. Đời sau bèn dùng hai chữ Hình pháp như chữ Phong thủy.
Loan đầu phái : Tức phái Giang Tây. Vì học thuyết này chú trọng hình dạng của núi sông, nên có tên như vậy.
Phúc hiến phái : Trường phái Phong thủy. Một trong 2 trường phái lớn của thuật Phong thủy. Thuyết này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Kiến), nên có tên gọi như vậy. Đến Vương Cấp thời Nam Tống thì rất thịnh hành. Trường phái này chủ yếu căn cứ vào cái lý của âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh, Hà Lạc mà tính toán. Nhấn mạnh âm sơn âm hướng, dương sơn dương hướng, để xác định quan hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Do phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý trạch pháp, dương trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dương, xác định hưu cữu (cát hung) âm trạch cũng thường luận về cát hung của tọa hướng, chủ yếu sử dụng cách phán đoán trừu tượng là chính, chứ không quan tâm nhiều đến hình dáng cụ thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là ốc trạch pháp. Thuyết này về sau phát triển thành học thuyết Lý pháp. Phái Phúc Kiến ít nhân tài, trước tác cũng không nhiều, có chăng thường là mượn tên của người đời trước, khó biết đích xác là của ai. Từ đời Minh Thanh trở đi, phái này suy dần, chỉ lưu truyền rộng rãi ở vùng Chiết Trung, ảnh hưởng kém hơn hẳn phần Giang Tây.
Lý pháp : Học thuyết Phong thủy. Còn gọi là Lý khí, tức hệ thống lý luận Phong thủy do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng các nguyên lý thuật số như : âm dương, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà Lạc để tổng hợp và phán đoán cát hung, nhân mạnh phương vị tọa hướng. Ví dụ thuyết Bát trạch trong lý luận dương trạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử nguyên phi bạch, phép Tam hợp trạch, Song sơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số mệnh của người phối hợp với bát quái, cửu tinh, can chi, ngũ hành mà có được. Trong âm trạch, Tam ban đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành thủy pháp cũng dùng các loại nguyên lý thuật số căn cứ vào phương vị sông núi mà tính toán. Dù là âm trạch hay dương trạch, hầu như không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phương thức và quá trình suy lý rất trừu tượng, phức tạp, rắc rối. huyền bí, đầu tính tư biện. Trước tác về lý luận gồm Bát trạch minh kinh, Thanh nang hải giác kinh. Hệ thống lý luận chặt chẽ, kết quả suy lý gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm lâu dài. nhiều ít. Lý pháp thịnh hành thời Minh Thanh, nhưng vì tính trừu tượng, huyền bí nên nó không được tầng lớp dưới trong xã hội tiếp nhận.
Ốc trạch pháp : Tức phái Phúc Kiến. Vì lý luận về dương trạch hết sức chú trọng nguyên lý thuật số, biện luận phức tạp, độc đáo, rút ra từ Hoàng đế trạch kinh nên có tên như vậy.
Đồ trạch thuật : Một lý luận Phong thủy thịnh hành giữa thời Hán Đường, phép này lấy họ tên của người phối hợp với ngũ âm, đem nhà ở, mộ phần cũng phối hợp với ngũ âm, rồi phối hợp với nguyên lý ngũ hành sinh khắc, để xác định cát hung về nhà ở và mộ phần của những người có họ khác nhau. Chương "Khiết thuật thiên" trong Luận hoành của Vương Sung đời Đông Hán, chuyên luận về Đỗ trạch thuật. Xem mục Ngũ tính.
Hình gia Tức Phong thủy tiên sinh (thày địa lý). Thời Hán có Hình pháp gia, là người xác định cung độ của nhà cửa mà định cát hung. Về sau những người hoạt động Phong thủy đều tự xưng hoặc được gọi là Hình gia.
Kham du gia : Lúc đầu là Chiêm gia, về sau là Phong thủy tiên sinh. Đời Hán có các nhà Kham dư. Sử ký. Nhật giả liệt truyện : "Thời Hiếu Võ đế, ông mời các thày bói đến hỏi : vào ngày nọ có thể cưới vợ được không? nhà ngũ hành bảo được, các nhà Kham dư nói không được". Các nhà Kham dư đoán cát hung dựa vào 12 thần, tương ứng với khu vực, bao gồm hoạt động xây dựng hữu quan, có quan hệ nhất định với Phong thủy. Nên đời sau dùng Kham dư để gọi thay cho Phong thủy, còn nhà Kham Dư tức là Phong thủy tiên sinh. Hằng ngôn lục của Tiền Đại Hân đời Thanh viết: "Nhà Kham dư đời xưa, tức là người xem nhà cửa, mộ phần đời nay". Xem mục Kham dư.
Âm dương gia : Một trong "Cửu lưu" (9 trường phái) thời Xuân Thu, thời Hán cũng có âm dương gia, bao gồm nội dung : can chi âm dương, ngũ hành sinh khắc, ngũ đức chung thủy. Trước tác có Kham dư kim quí, cũng chứa đựng nội dung Phong thủy, nên đời sau gọi Phong thủy tiên sinh là âm dương gia hoặc âm dương tiên sinh.
Âm dương tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy , vốn xuất phát từ tên gọi âm dương gia thời Tiên Tần. Hai chữ tiên sinh biểu thị sự tôn kính.
Mông nhân : Chức quan thời Chu, chuyên trách quản lý phần mộ chung, phân biệt địa hình, vẽ đồ hình trình lên thượng cấp.
Mộ đại phu : Chức quan thời nhà Chu , chuyên trách quản lý phần mộ trong nước, vẽ địa hình bốn phương và phần mộ trình thượng cấp .
Lư trạch đãi chiếu : Chức quan đời Hán. Trung Quốc cổ đại phần nhiều dùng hệ thống quan lại "Thái sử lệnh" quản lý bốc phệ chiêm tinh, tướng trạch, tướng mộ; thời Hán thiết chế "Đãi chiếu" 37 người dưới chức Thái sử, trong đó có 4 người là Lư trạch đãi chiếu, chuyên trách về tướng trạch.
Tư thiên đài học sĩ : Chức quan thời Kim. Các triều Trung Quốc thời xưa dùng hệ thống cơ cấu quan lại Tư thiên đài để quan sát tượng trời, định lịch pháp. Thời Kim quy định chức Học sĩ trong phạm vi toàn quốc phải trải 1 hi tuyển mới được bổ vào chức đó. Khoa mục thi tuyển thiên văn, lịch pháp, chiêm bốc, thuật Phong thủy (Địa lý tân thư) và thuật hợp hôn an táng. Một khi đã trúng tuyển trở thành Thiên đài học sĩ, phải đồng thời tham gia sự hoạt động Phong thủy.
Âm dương nhân : chức quan đời Nguyên. Đời Nguyên quy định Tư thiên giám tuyển chọn âm dương nhân qua thi cử. Khoa mục thi tuyển gồm : chiêm toán, tam mệnh, Chu dịch, Lục nhâm, Phong thủy dương trạch (thi theo "Chu thư bí áo", "Bát trạch thông chân luận"), Phong thủy âm trạch (thi theo "Địa lý tân thư", "Doanh nguyên tổng luận", "Địa lý minh chân luận"). Trúng tuyển sẽ trở thành âm dương nhân thuộc Tư thiên giám, tham gia tòng sự hoạt động phong thủy. Về sau , đời Minh cũng có thiết chế âm dương nhân thuộc Khâm thiên giám, tòng sự hoạt động Phong thủy. âm dương sinh Thời Nguyên, Tư thiên giám thiết lập khoa âm dương học, học sinh theo học khoa ấy gọi là âm dương sinh, chuyên về thuật số, lấy Chu dịch làm đầu, thứ đến thiên văn, tinh mệnh, chiêm bốc, tướng trạch, tướng mộ. Tư thiên giám lo bồi dưỡng nhân tài, học sinh do các địa phương trong cả nước tiến cử, qua thi tuyển, nếu đỗ sẽ được nhập học. Đời Minh, Khâm thiên giám cũng có thiết lập khoa Địa lý, dạy phương pháp lý luận Phong thủy; có chức quan nào khuyết, sẽ được bổ nhiệm.
Phong thủy tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy. Từ đời Đường bắt đầu có tên gọi.này, nó trở nên phổ biến khắp nơi trong nước cũng có khi gọi là Phong thủy sư.
Phong thủy sư : Tên gọi nhung người chuyên hoạt động Phong thủy. Xem mục Phong thủy tiên sinh.
Địa lý gia : Tức Phong thủy tiên sinh, vì Phong thủy còn gọi là địa lý, cho nên người chuyên hoạt động Phong thủy còn gọi là địa lý gia. Vân lộc mạn chung, quyển 4, của Triệu Nhan Vệ đời Tống, viết : "Nhà địa lý không rõ có từ thời nào . Từ khi Hoàng đế ra lệnh thay đổi Giáp tí, phối hợp can chi mà phân ngũ hành, nay nhà địa lý tất có thuyết đại ngũ hành, chẳng hạn Nhâm thuộc thủy, nhà địa lý báo bảo Nhâm thuộc Hỏa". Dung am bút ký. Dật văn của Tích Phúc Thành đời Thanh: "Người đời rất tin vào lời nói của nhà địa lý, họ bảo mai táng người thân ở chỗ đất lành, thì con cháu sẽ được giàu sang phú quí, trái lại sẽ nghèo hèn suy tuyệt"
Địa lý tiên sinh : Người lấy thuật Phong thủy làm chức nghiệp, tức Phong thủy tiên sinh. Vì Phong thủy còn gọi là địa lý, nên có tên gọi đó. Sơ khắc phách án kinh kỳ, quyển 16: "Lại cách 2 tháng nữa, mời một địa lý tiên sinh đến chọn đất hoàn tất việc mai táng Vương thị, từ đó dần dần có người tới cầu thân".
Địa lý sư : Tức địa lý tiên sinh. Sơ đàm tập . Sư hữu. Học đạo của Lý Chí đời Minh : "ở đây Cưu Thắng là địa lý sư (thầy địa lý). Kiên Hồ tứ tập. phong thủy của Chử Nhân Hoạch đời Thanh : "Thân phụ của Hồ Sơn Khiêm nói với thầy địa lý rằng, người đời biết tường tận về huyệt mộ trong núi, há biết đến huyệt mộ trong lòng người".
Táng sư : Người tòng sự hoạt động Phong thủy âm trạch . Phong thủy chia ra âm trạch và dương trạch. Âm trạch chuyên nói về việc chọn đất mai táng, nên người ta gọi người chuyên về hoạt động này là táng sư.
Địa sư : Người tòng sự hoạt động Phong thủy. Phong thủy có tướng địa, bốc địa, lại còn gọi là địa lý, địa học, nên người ta gọi người chuyên tòng sự hoạt động Phong thủy là địa sư.
Bốc công : Người tòng sự chiêm bốc. Luận hoành. Cát nghiệm của Vương Sung đời Hán: "Ban đêm không trăng mà trong phòng tự bừng sáng, vua lấy làm lạ, bèn triệu Công tào sứ Sung Lan đến để đi hỏi bốc công". Còn chỉ người tòng sự hoạt động Phong thủy, tức Phong thủy tiên sinh. Hậu Hán thu. Đống Tuyên truyện : "Công Tôn Đan làm nhà ở, mà bốc công cho rằng nhà này sẽ có người chết". Thái Bình quảng ký, quyển 137, dẫn sách U minh lục của Lưu Nghĩa Khánh thời Nam triều : "Phụ thân của Viên An chết, bà mẹ sai An mang gà rượu đến biếu bốc công, nhờ chọn đất chôn cất".
Đạo sĩ : Chỉ Phong thủy tiên sinh. Vốn chỉ người theo đạo phương sĩ, tăng lữ, tín đồ Đạo giáo, trong đó phổ biến chỉ tín đồ Đạo giáo. Vì các phép vu thuật, phù chú của Đạo giáo cũng giống như các phương pháp tương tự trong thuật Phong thủy, nên vào một số thời kỳ, ở một số nơi các đạo sĩ cũng tham gia hoạt động Phong thủy, đồng thời các Phong thủy tiên sinh chân chính cũng được người ta gọi là đạo sĩ.
La bàn : Còn gọi là La kinh. Công cụ quan trọng nhất trong thuật Phong thủy. Do Tư nam bàn, Lục nhâm bàn diễn hóa mà thành , xuất hiện như một công cụ định hình chuyên dùng trong thuật Phong thủy vào khoảng cuối đời Đường Năm 1985 đào được một chiếc la bàn bằng gỗ trong tay bức tượng "Trương Tiên. Nhân" thời Nam Tống bằng đất nung. Đến đời Minh, Thanh, la bàn được chế tạo khá lớn, chứa dựng nội dung cũng ngày thêm phức tạp; chiếc la bàn lớn nhất đạt tới hơn 40 lớp, bao gồm vạn tượng kinh vĩ trời đất, tập hợp cái lý của hai khí âm dương, cái chỉ của bát quái ngũ hành, cái số của Hà đồ Lạc thư, cái tượng của thiên văn tinh tú, trình tự của tiết khí bốn mùa, dùng để xác định phương vị, quan sát thiên văn, tính toán ngày lành, dự đoán họa phúc, trở thành công cụ không thể thiếu trong hoạt động Phong thủy, biểu hiện nhận thức và hiệu chỉnh góc lệch địa bàn, đồng thời gợi mở vô số khái niệm mang tính suy lý tổng hợp và liên tưởng triết học. Nhất là khi ứng dụng cho học thuyết Lý pháp thì nó càng thêm huyền bí khó hiểu.
La kinh: Tức La bàn. Thuật Phong thủy dùng nó để thâu tóm vạn tượng, kể cả kinh vĩ trời đất, huyền diệu khó đoán. Xem mục La bàn.
La bàn bát kỳ : Chỉ 8 trạng thái của chiếc kim trên la bàn trong những tình huống khác nhau, đó là : đường, đoái khi, thám, trầm, nghịch, trắc, chính. Đường, chỉ chiếc kim la bàn run rẩy bất định, không trở lại trung tuyến, chứng tỏ dưới đất có đồ cổ. Đoái, nghĩa là đột khởi, chỉ chiếc kim cứ nằm ngang la bàn, không trở về trung tuyến, chứng tỏ dưới lòng đất có khoáng sản hoặc vật bằng sắt. Khi nghĩa là dối trá, chỉ việc dùng sắt nhiễm tử dẫn kim, khiến nó di chuyển không ổn định. Thám, nghĩa là chúi xuống, chỉ chiếc kim nửa nổi nửa chìm, hoặc một đầu nổi, đầu kia chìm. Trầm, nghĩa là chìm, chứng tỏ dưới đất có đồ đồng. Nghịch, nghĩa là không thuận, chỉ kim nổi mà không có trật tự. Trắc, nghĩa là không thẳng, chỉ kim cứ dao động sang hai bên, không trở về trung tuyến. Chính, nghĩa là không tà, chỉ kim ổn định, luôn chỉ hướng Tí Ngọ. Trong bát kỳ, chỉ có Chính là cát; còn 7 trạng thái kia chứng tỏ đất chỗ ấy không lành, không nén làm nhà, xây mộ.
Thiên trì : Trung tâm la bàn, tức lớp thứ nhất. Nói chung, đường kính là 1 thốn 2 phân, tượng trưng 12 tháng trong 1 năm; sâu 3 phân, ví với 1 tháng có 30 ngày. Thiên trì trên la bàn dùng để bố trí kim la bàn chỉ hai hướng nam bắc, cũng có loại vẽ đồ hình Thái cực mà không bố trí kim la bàn.
Phân kim : Phương vị. Tức lấy 60 Giáp Tí phối thuộc ngũ hành, như Giáp Tí, ất Sửu là kim, bính dần, đinh mão là hỏa, mậu thìn, kỷ ty là mộc, canh ngọ, tân mùi là thổ, bính tý, đinh sửu là thủy. Vì ngũ hành lấy kim làm đầu, nên gọi là phân kim. Còn gọi là 60 long, trên la bàn biểu thị phương vị, đồng thời có thể dựa vào đó mà phán đoán sinh khắc cát hung.
Chính châm : Trên la bàn lấy phương vị nam bắc mà kim nam châm chỉ hướng làm Chính châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Chính châm để xác định tọa hướng của nhà cửa, phần mộ. Có thuyết nói Chính châm dùng để định ô vuông của Lai long.
Địa bàn: Các lớp sở thuộc Chính châm trên la bàn gọi là Địa bàn, thống nhất ở dưới Chính châm, dùng để xác định tọa hướng. Có thuyết nói vừa để định ô vuông của Lai vừa để định hướng. Xem mục Chính châm.
Trung châm : Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, ngược chiều kim đồng hồ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Trung châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Nó có tác dụng hiệu chỉnh góc lệch địa bàn , có tính chất khoa học, song thuật Phong thủy giải thích là do tác dụng cảm ứng của khí ngũ hành hoặc hai khí âm dương. Trung châm trên la bàn dùng để định ô vuông Lai long. Vì Lai long là từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, nên trước tiên phải xác định tọa hướng của chúng. Có thuyết nói Trung châm dùng để nạp thủy.
Thiên bàn : Các lớp sở thuộc Trung châm trên la bàn gọi là Thiên bàn, thống nhất ở dưới Trung châm. Tác dụng của Thiên bàn là định ô vuông Lai long. Vì long thuộc dương, thiên (trời) cũng thuộc dương, nên gọi là Thiên bàn. Lại vì trời thuộc dương, mà đất thuộc âm, dương động trước mà âm động sau, nên Thiên bàn vận hành trước nửa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Thiên bàn dùng để nạp thủy. Xem mục Trung châm.
Phùng châm: Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, thuận chiều kim đồng hổ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Phùng châm, thực tế là cột bóng Tí Ngọ, tức là dùng cột bóng để đo bóng nắng mà biết được phương vị nam bắc. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Phùng châm để thu nạp sa, thủy. Vì sa thủy là tử gần ra xa, tử trong ra ngoài, nên cần vận hành nửa bước mà thu nạp. Có thuyết nói Phùng châm chuyên để tiêu sa.
Nhân bàn : Các lớp sở thuộc Phùng châm trên la bàn gọi là Nhân bàn, thống nhất ở dưới phùng châm, dùng để tiêu sa nạp thủy. Vì sa thủy là từ gần ra xa, từ trong ngoài, nên Nhân bàn vận hành sau nứa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Nhân bàn dùng để tiêu sa. Xem mục Phùng châm.
Môn xích : Một trong những công cụ chuyên dùng trong thuật Phong thủy. Làm bằng gỗ, trên cán chia thành từng nấc đều nhau, với các ký tự phân biệt cát hung, để đo đạc kích thước cổng, cửa và đồ dùng trong nhà. Nếu khớp vào ký tự cát tường thì là cát (tốt lành), khớp vào ký tự hung thì là hung. Môn xích gồm các loại như Lỗ Ban xích (thước lỗ ban), môn quang xích.
Lỗ Ban xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Mặt trước và mặt sau cùng chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 5 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. Dùng để đo kích thước cổng, cửa đi, cửa sổ, phòng khách, bếp, các vật dụng trong nhà . Lấy chiều ngang, chiều dọc, hoặc 3 chiều dài, rộng, cao, nếu rơi vào chữ cát tường là cát, rơi vào chữ hung là hung. Còn tính chi li hơn, như cổng, cửa chính phòng khách nếu rơi vào các chữ "quyền lộc", "cát khánh" , "quan lộc"
" thiên lộc" là đại cát; cửa đi và cửa sổ từng phòng trong nhà rơi vào các chữ " tử tôn" , "hoạnh tài" , "tuấn nhã" , " yên ổn" là đại cát; cửa bếp, bệ bếp nếu rơi vào các chu " thanh quí" , "mỹ vị" là đại cát; cửa đi, cửa sổ thư phòng nếu rơi vào các chữ "trí tuệ", "thông minh" là đại cát. Do độ dài của thước thời xưa và thời nay khác nhau, cho nên khó xác định độ dài tổng cộng của thước Lỗ Ban là bao nhiêu. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì con số ấy là 29,7 cm.
Môn Quang xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Trên mặt chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 4 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. (Xem hình vẽ ở trang 347 nguyên tác). Dùng để đo kích thước nhà cửa. Lấy chiều ngang, chiều dọc, nếu rơi vào chứ cát tường (tài, nghĩa, quan, bản) là cát, rơi vào chữ hung là hung. Theo Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì độ dài tổng cộng của thước Môn quang là 42, 76 cm.
Sơn tổ : Tổ tiên của các mạch núi. Còn gọi là Tổ Long, tức núi Côn
Nam long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền nam Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam thì tách khỏi Bắc Long mà chạy xuống phía nam, đến Thượng Lạc (nay là huyện Thường, tỉnh Thiểm Tây), vượt Hán Thủy, đến núi Kinh, men mạch núi Đại Ba chạy xuống phía đông nam, lại vượt Trường Giang, đến Hoành sơn, men phía đông Nam Lĩnh, tới Phúc Kiến, Chiết Giang mà ra biển. Thuật Phong thủy cho rằng mạch núi Nam Long phần nhiều kỳ vĩ, ở Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh) tạo thành địa thế hiểm trở, là đất đế vương phát tích.
Bắc long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền bắc Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi Chung Nam, Hoa sơn, lại vượt Hoàng Hà mà quành lên phía bắc, qua núi Vương ốc, núi Thái Hành, chạy sang phía đông, đến Liêu Đông thì dừng. Thuật Phong thủy cho rằng Bắc Long là đất kết tuyệt vời, với các đỉnh núi cao ngất trời, được Hoàng Hà và sông áp Lục ôm ấp trước sau, cùng với mạch núi Yên sơn tạo nên cơ nghiệp đế vương ngàn năm.
Trung long : Một trong 3 đại hành Long, chỉ mạch núi nằm ở khoảng giữa Nam Long và Bắc Long. Phần đầu nó đồng hành với Nam Long, đến Tần Lĩnh thì hướng sang phía đông, qua mạch núi Đại Biệt mà ra biển. Mạch núi này không có thế liên tục rõ rệt, chỉ là do vua cha của Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương được an táng tại Phụng Dương, tỉnh An Huy, nên người đời Minh thần bí hóa Trung Long một cách khiên cưỡng.
Khiếu lĩnh : Mạch núi. Thuật Phong thủy dùng để đặc chỉ mạch núi ở miền tây nam, thuộc Nam Long. .
Tái viên : Thời xưa gọi vùng biên giới phía bắc là Tái viên. Thuật Phong thủy dùng để chỉ mạch núi miền đông bắc, thuộc Bắc Long.
Toàn khu : Hình thế núi. Chỉ mạch núi khởi từ đường chân trời, có đầu có đuôi. Thái tổ ở nơi xuất phát cao lớn hùng vĩ, đoạn giữa liên tục, nhấp nhô, phần cuối kết huyệt có tình, triều sơn và án sơn phía đối diện ngay ngắn đoan chính. Chỉnh thể trông như toàn bộ thân mình đầy đủ của một con rồng, như vậy thì sinh khí tự nhiên thỉnh vượng, an táng sẽ đại cát.
Phân chi : Hình thế núi. Chỉ mạch núi chính tách ra mấy mạch nhánh, các ngọn núi nhô cao, xếp đặt có thứ tự lớp lang. Chỉ cần Tổ sơn cao lớn hùng tráng, thì sinh khí của các mạch nhánh cũng sẽ thịnh vượng, an táng sẽ đại cát.
Ẩn phục : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tuy có ngọn núi không cao to lắm, nhưng nhấp nhô chạy đến, liên tục không đứt, lúc ẩn lúc hiện, đến ngay trước mắt. Long ẩn phục có sức mạnh lâu dài, an táng sẽ cát. Thực tế tương đương ẩn Long. Xem mục ẩn Long.
Lĩnh quần long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở giữa, được các ngọn núi xung quanh tiền hô hậu ủng, nghiễm nhiên nó trở thành thủ lĩnh, an táng sẽ cát.
Sinh long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi cao đẹp, nhấp nhô lên xuống, uyển chuyển chạy đến một cách sinh động, đồng thời có khá nhiều mạch nhánh, giống như cành lá phân bố đồng đều, như con rết lắm chân, hoặc không có mạch nhánh, nhưng giống như chuỗi ngọc đẹp. Sinh Long có tương ngũ hành thuộc hỏa, an táng sẽ cát.
Phi long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi sinh động khoáng đạt, có 2 mạch nhánh như hình chim nhạn giang cánh, phượng hoàng sải cánh ôm ấp huyệt mộ; an táng sẽ cát.
Đằng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tương đối thấp, nhưng dần dần đi cao lên, với các đỉnh núi đẹp, thân núi dày rộng. Phải chọn huyệt tại đỉnh núi, gọi là định Thiên huyệt; an táng sẽ cát.
Giáng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát cao đẹp lạ thường, nhưng mỗi lúc đi một thấp dần, giống như con rồng từ trên trời mây đáp xuống biển xanh. Giáng Long có sinh khí cực vượng, an táng sẽ đại cát. Có câu ca rằng "Thế nhược giáng Long, thủy nhiễu vân tòng, tước lộc tam công" (Thế như rồng đáp, từ mây cuốn nước, tước lộc sánh ngang chức tam công) (theo sách Quản thị địa lý chỉ mông).
Hồi long : Hình thế núi. Như Phiên Long. Chỉ mạch núi uốn lượn trở lại, đầu đuôi tương ứng, giống như con rồng cuộn mình lại. Hồi Long có tượng ngũ hành là mộc, là đệ nhất Long; an táng sẽ đại cát.
Phiên long : Hình thế núi. Xem mục Hồi Long.
Ngọa long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi đường bệ sừng sững, dáng vững vàng, yên ổn, chân núi thu lại như con hổ dừng chân, con trâu nằm quì. Ngọa Long có sinh khí lâu bền; an táng sẽ cát, tuy phát tích hơi muộn.
Thụy long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi du dương mà đến, thản nhiên bình dị, khí độ ung dung, tinh thần bình tĩnh, giống như mắt rồng nhắm lại, mạch khí ẩn phục, tương tự Ngọa Long, có tượng ngũ hành là thổ; an táng sẽ cát.
Hoành long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tràn ngang qua, tiến thẳng không vòng lại. Nói chung không nên định huyệt; nhưng nếu sa, thủy có tình, có tả hữu hộ vệ, thì cũng có thể an táng gần sống núi, gọi là Phán Long định huyệt. Xem mục Phán Long định huyệt.
Xuất dương long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tứ chỗ đất bằng đột nhiên cao vút lên, siêu quần xuất chúng một mình đẹp đẽ, uốn lượn như rắn bò, giống ngư mãnh thú ra cửa rừng. Xuất dương Long có sinh khí thịnh vượng, sức mạnh rộng lớn, chớ thấy nó đơn độc mà bỏ qua; về tượng ngũ hành, Xuất dương Long là kim, an táng sẽ cát.
Ẩn long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi bàng bạc từ xa mà đến, mạch lạc không rõ, tông tích lừ mờ, như có như không, giống như rồng rắn ẩn hiện; thực ra nó uốn trườn liên tục, sinh khí không hề bị tiết thoát, cứ thế tiến đến thẳng huyệt vị. Ở chỗ tận cùng, địa thế tựa như bàn tay để ngửa; định huyệt ở nơi hai dòng nước hội tụ; an táng sẽ cát.
Can long: Hình thế núi. Chỉ một mạch núi chính trong một số mạch núi, cao lớn hùng vĩ, có nguồn gốc từ xa, giống như thiên mã hành không (ngựa trời phi trên không trung), khí tượng tôn quí, có vô số núi hai bên hộ vệ. Can Long có sính khí cực vượng, nếu triều và án sơn có tình, thì an táng đại cát, chủ con cháu đời đời làm quan to.
Chi long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tương đối nhỏ tách ra từ mạch núi chính, thấp và ngắn hơn núi chủ. Sinh khí của Chi Long không vượng, nếu an táng ở đó, con cháu chỉ bình thường mà thôi.
Bình nguyên long: Địa hình. Đồng bằng không có núi, lấy gò đống làm Long. Nếu không có cả gò đống, thì lấy chỗ đất hơi cao làm Long, như câu "Đất cao 1 tấc cũng là núi". Nhưng nếu dùng sức người đắp đất cao lên thành gò thì không Phải là Long. Hoặc lấy thủy đạo làm Long. Xem mục Thủy Long.
Giáp phụ long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi nhỏ hơn ở hai bên mạch núi chính, như cành lá tách ra tứ thân cây hình thế thâm thúy; an táng sẽ cát.
Ứng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi đối diện với Lai Long; cần phải ngay ngắn có tình, hô ứng với Lai Long. Nếu Lai Long không có ứng, thì không phải là Chân Long; Ứng Long không có chủ thì cũng không phải là Chân ứng.
Sát long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hung dữ, đá cứng sần sùi, nhọn sắc như lưỡi dao, mũi tên, hiểm ác dị thường; an táng ở đó con cháu sẽ gặp nhiều tai họa, hung hiểm.
Kiếp long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tán loạn, không phân chính phụ, sinh khí không tụ; an táng sẽ đại hung.
Phúc long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn ốc thâm hậu, hình thế tổ tông hoàn hảo, có các núi hai bên hộ tống. Phúc Long có sinh khí thịnh vượng; an táng được phúc. Dù tình huống nơi kết huyệt không thật như ý, cũng có thể căn cứ địa hình cụ thể mà chọn huyệt mộ.
Bệnh long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi uể oải, lúc liền mạch lúc đứt quãng, sạt lở, nhiều hầm hố, do đó sinh khí bị thất thoát, không nên mai táng. Nếu miễn cưỡng kết huyệt, chủ con cháu cô hàn.
Tiến long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn gốc cao lớn, lần lượt thấp dần tổ tông cha mẹ phân minh, giống như ngựa trời phi xuống ráng mây. Nếu phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi tựa hồ cao dần lên, an táng sẽ khiến con cháu làm quan to; tương tự Giáng Long.
Thoái long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi sau khi xuất phát cứ từng bước cao dần. Nếu ở phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi cứ tựa hồ thấp xuống, như lúi lại, thì an táng sẽ hung. Dù được huyệt đẹp, con cháu cũng chỉ phát phúc một đời, khó tránh khỏi bần cùng.
Thuận long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trập trùng chạy đến, các mạch nhánh hai bên đối xứng, phía trước có dãy núi bao bọc hộ vệ, bản thân nó nhấp nhô rõ ràng với nhiều mạch nhánh. An táng sẽ cát.
Nghịch long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi chạy đến không thuận, chạy xéo đi không ngoảnh lại, các ngọn núi phía trước và hai bên huyệt quay đầu đi mỗi cái mốt hướng, như anh em chẳng buồn quan tâm đến nhau. Không nên mai táng.
Cường long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hùng tráng, linh hoạt khí khái, mạch nhánh hai bên có lực. Nếu an táng ở chỗ cuối của mạch núi, con cháu sẽ lập tức trở nên phú quí.
Nhược long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trơ trọi đơn bạc, cỏ cây lơ thơ, tựa như con trâu gày trơ xương, ngã quỵ xuống đất, như con hạc gày không có gì ăn, rụng hết cả lông. Nhược Long quá ít sình khí, không nên mai táng.
Tử long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi lở lói, hình thể lở loét, không thể gượng dậy nổi, không có mạch nhánh hộ vệ, như cá mắc cạn, như cây không cành lá, chẳng nên mai táng.
Thái tổ: Hình thế núi. Còn gọi là Tổ sơn, Thái tổ sơn, phát tướng. Chỉ đỉnh núi ở nơi mạch núi xuất phát, đột nhiên nổi lên cao sừng sững, trấn giữ một phương, là đỉnh núi cao to nhất trong vùng. Từ đây có một hoặc nhiều mạch nhánh xuất phát mà trườn đi như rắn bò. Thái tổ phải cao chọc trời, hùng vĩ trang nghiêm, đường bệ đáng kính. Thuật Phong thủy lấy quan hệ gia tộc thời cổ đại để ví với địa mạo. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ, tiếp đến Thái tông, Thiếu tổ, Thiếu tông, Phụ mẫu (cha mẹ), Tử tôn (con cháu), trong đó con cháu chỉ triều và án sơn. Xem các mục bên dưới.
Tổ sơn: Tức Thái tổ. Xem mục Thái tổ.
Phát tướng: Hình thế núi. Tức Tổ sơn. Xem mục Tổ sơn
Thái tông: Hình thế núi. Tức Thái tông sơn. Chỉ đỉnh núi tiếp sau chỗ xuất phát, thấp nhỏ hơn Tổ sơn một chút, là phần đầu của mạch núi.
Thiếu tổ: Hình thế núi. Tức Thiếu tổ sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau Thái tông trong mạch núi, là phần hệ trọng của Long. Nếu hai cánh mở ra, cao to đoan chính là cát; nếu thấp nhỏ cô đơn là ít sinh khí.
Thiếu tông: Hình thế núi. Tức Thiếu tông sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau thiếu tổ trong mạch núi, tiếp cận chỗ của mạch núi, nếu rõ ràng mạch lạc và liên tục là cát.
Phụ mẫu: Hình thế núi. Chỉ nơi nhập thủ của mạch núi, mạch núi tới đó thì dừng. Phải nguy nga cao đẹp, lại lại có thế đi xuống. Ca quyết nói : "Vấn quân hà giả vi phụ mẫu, huyệt hậu nga nga tủng nhất sơn" (Xin hỏi thế nào là núi cha mẹ, là sau huyệt có một ngọn núi cao vút nguy nga). (Theo sách Kham dư mạn hưng).
Tử tôn: Hình thế núi. Tức triều và án sơn. Chỉ dãy núi đối diện với Lai Long. Sau khi mạch núi đã tận cùng, cần có đất dung nạp huyệt mộ và sa ở hai bên tả hữu. Ngay phía trước huyệt mộ, phải có núi cao với diện mạo như chào đón, gọi là Tử tôn (con cháu) của Long.
Giáng thể : Hình thế núi. Chỉ nơi Lai Long nhập thủ phải có hình thế từ cao trải xuống thấp dần, để địa thế dần dần trở lại bằng phẳng, tiện lợi cho việc dựng nhà xây mộ.
Chẩm kháo: Hình thế núi. Chỉ đồi núi ở sau lưng nhà ở hoặc phần mộ, nói chung là nơi tận cùng của Lai Long, cũng chính là Huyền Vũ. Chẩm kháo có nghĩa là đối đầu dựa vào phía sau.
Tam thoa: Hình thế núi . Tam là 3 , thoa là giao nhau. Chỉ mạch núi ở chỗ nhập thủ giao nhau như hình chữ "cá" (của tiếng Hán), nên còn gọi là "Cá tự" . Hai mạch nhánh chạy ở hai bên phía trước là Long, Hổ, huyệt vị nằm ở giữa chỗ giao nhau, hai bên có dòng nước kèm theo, ví như cái trán trên mặt người.
SƠN HÌNH VÀ ĐỊA HÌNH
Long mạch núi (sơn mạch) : Vốn là tên một con vật mang lại may mắn, theo truyền thuyết cổ đại Trung Quốc. Thuật Phong thủy mượn để chỉ mạch núi có sinh khí, nhấp nhô uyển chuyển như hình con rồng, nên gọi mạch núi, thế núi là Long. Âm dương nhị trạch toàn thư : "Sự vận hành nhấp nhô của mạch đất (địa mạch) gọi là Long". Sinh khí vận hành trong lòng đất, không thể trực tiếp nhìn thấy, mà chỗ sinh khí thịnh vượng biểu hiện là mạch núi. Cho nên, Long là sinh khí sớ tại, Long đi thì khí đi, Long dừng thì khí dừng. Đất là mẹ của khí, khí dày ắt núi cao, khí dài ắt Long dài. Khí là mẹ của thủy, Long đi ất thủy tùy theo, thủy ngăn lại ắt Long dừng. Long gắn liền với sinh khí , dòng nước, chẳng thể tách riêng. Long dừng khí tụ, ắt là đất lành, có thể làm nhà xây mộ. Do mạch núi thiên hình vạn trạng, nên Long có hàng loạt tên gọi. Các bộ phận của mạch núi cũng có sự phân biệt thành các bộ vị khác nhau trên thân Long. Mạch núi có đất, đá, cỏ cây, trong đó đất là thịt của Long, đá là xương của Long, cây cỏ là da lông của Long. Ở vùng đồng bằng không có núi, thì chỗ hơi nhô cao lên là Long. Ở vùng đất thấp trũng, thì thủy đạo (đường nước) là Long, gọi là Thủy Long. Để phân biệt với mạch núi, thế núi của mạch núi gọi là Sơn Long. Thẩm Long hình, biện Long mạch, định vị trí của nhà cửa và huyệt mộ, là nội dung quan trọng hàng đầu của thuật Phong thủy.
Lấy mạch núi chỉ sinh khí, dùng cha Long cho thêm thần bí, là mặt hạn chế của thuật Phong thủy. Còn mượn cách tìm Long để lặn lội khảo sát hoàn cảnh địa hình thích hợp cho việc dựng nhà xây mộ, là mặt có giá trị của thuật Phong thủy.
Địa mạch : Tức mạch khí dưới lòng đất, sự vận hành lên xuống của nó biểu hiện ở mạch núi trên mặt đất, cũng là "Long" trong thuật Phong thủy vậy.
Long mạch Mạch núi. Nơi sinh khí vận hành. Thuật Phong thủy gọi mạch núi là Long. Long có mạch khí vận hành trong đó gọi là Long mạch.
Tầm long : Còn gọi là "mịch Long". Tức là khảo sát toàn diện và thăm dò đo đạc hoạt động của chủ sơn (núi chính), là bước thứ nhất trong nội dung của thuật Phong thủy. Phương pháp tiến hành cụ thể là : trước hết, phải xem mạch núi bắt nguồn tử xa hay gần, tổ tông của nó cao to chừng nào, cha mẹ của nó ở đâu, tiến thoái rõ ràng hay không; hai bên mạch núi có các chi nhánh nhấp nhô như hộ vệ hay không, nếu có nhiều thì đại (rất) quí; thứ đến trung quí (quí vừa), tiểu quí; cuối mạch núi cần có thế thoải xuống, đằng trước cần có thủy lưu uốn quanh, hai bên có dãy núi hộ vệ, như vậy thì sinh khí mới dừng tụ, gọi là Chân Long. Long chia ra âm dương, đại thể mạch núi chạy sang bên trái (hướng đông) là dương, chạy sang bên phải (hướng tây) là âm. Lại coi mạch núi thuộc phương vị dương chạy đến là dương, mạch núi thuộc phương vị âm là âm. Khi tầm Long, phải chú ý điều hòa phương vị âm dương. Nguyên tắc chung của tầm Long là nó phải tụ, nghĩa là mạch chính rõ ràng, uyển chuyển tiến về phía trước, không nên phân tán thành nhiều mạch nhánh khó tìm. Ở chỗ Long dừng lại, tức chỗ cuối mạch núi, cần có thủy ôm ấp sinh khí tụ tập; nếu không, sinh khí sẽ thoát đi nơi khác, là đất hung. Phương vị của nơi mạch núi nhập thủ cũng có qui định phức tạp, đại thể nếu từ phương bắc nhập thủ là cát Tầm Long là nội dung trọng yếu của thuật phong thủy. Những tổng kết về mạch núi và một số nguyên tắc là kết tinh vốn kinh nghiệm lâu dài.
Lai long : Tức núi chính (chủ sơn). Chỉ mạch núi chủ yếu ở giữa, cao lớn nhất. Lai Long đồng hành với mạch khí, là nơi sinh khí thịnh vượng, có thể dựng nhà xây mộ, tức là nhừ Lai Long mà đấc sinh khí. Bởi vậy, trước tiên phải khảo sát phương vị, hình dáng của Lai Long để định cát hung.
Chủ sơn: Địa hình, tức Lai Long. Chỉ mạch núi hoặc ngọn núi chủ yếu ở phía sau huyệt mộ hoặc nhà ở, là nơi có mạch khí, sinh khí theo đó mà đến. Xem mục Lai Long.
Tổ long : Mạch núi. Còn gọi là Sơn tổ. Chỉ nơi xuất phát của mọi mạch núi trong thiên hạ, tức núi Côn Luân. Côn Luân có hình thế cao lớn hùng vĩ, chúa tể thiên hạ. Tổ Long tách ra 2 đại hành Long là Nam Long và Bắc Long. Có thuyết nói chia ra 3 đại hành Long, nghĩa là có thêm Trung Long. Tổ Long và hành Long là nơi sinh khí tổng hội tụ, dựng nhà xây mộ tại đó thì đại cát.
3/ HUYỆT MỘ, HUYỆT PHÁP VÀ TÁNG PHÁP.
Huyệt : Địa hình. Chỉ huyệt mộ hoặc mảnh đất sở tại, nơi tận cùng của Lai Long, sinh khí hội tụ, có hai sa tả hữu bảo vệ, có thủy ngăn lại phía trước. Huyệt quan hệ mật thiết với mạch khí, hơi xê dịch, tức là thoát sinh khí. Phép định huyệt vô cùng phúc tạp. Trước tiên phái xác định vị trí hai bên cao thấp, tiếp đó nhận đúng tọa hướng, thứ ba là phải phối hợp với hình thế bốn phía; bốn là xác định độ nông sâu thích đáng. Nguyên tắc chung là vừa có được sinh khí nuôi dưỡng, vừa tránh ba cái hại là bị gió thổi, nước xối và kiến đục. Có rất nhiều yêu cầu cụ thể, ví dụ, huyệt ắt phải có môi, tức Táng khẩu, phải có trán, tức Cầu thiềm; phải có hai thủy giao hợp, tức thủy Hà tu và thủy Hợp khâm. Do Lai Long, hai sa Long Hổ và ứng án phía trước có hình dạng khác nhau, huyệt cũng phải có vị trí biến đổi tương ứng, nên có khi huyệt ở đỉnh núi, ở sườn núi, ở chân núi, lại khác nhau như trực thụ, trắc thụ, nghịch thụ. Huyệt cao không nên chênh vênh, huyệt thấp không nên lặn mất; huyệt nổi rõ không nên vội vã; huyệt tĩnh không nên huyên náo. Huyệt của núi cao, ắt phải ở chỗ hơi lõm; huyệt tại vùng đồng bằng, nên ở chỗ hơi nhô cao. Hình của huyệt hoặc hiền như hoa, căng như nỏ, hoặc như bàn tay để ngửa, như miệng hổ, hoặc như vú xệ, như lỗ rốn... Trong một vài trường hợp cũng có thể dùng sức người cải tạo địa hình cho phù hợp với yêu cầu kết huyệt. Mục đích cuối cùng của hàng loạt hoạt động Phong thủy âm trạch là tìm cho được huyệt địa lý tương, phương pháp vô cùng phức tạp, gắn liền với cát hung họa phúc. Ngoài nội dung mê tín, một số phương pháp rất chú trọng việc báo vệ thi thể và môi trường tự nhiên.
Thổ huyệt : Huyệt mộ trong đất. Còn có huyệt ở núi đất núi đá. Thổ huyệt trên núi đất, chọn chỗ chất đất mịn nhỏ, chắc chắn là cát (lành), nếu quá ẩm thấp, tơi tả thì hung; trên núi đá thì mở huyệt ở chỗ có đất màu hồng và màu vàng thì cát.
Thạch huyệt : Huyệt mộ trong đá. Còn có sự khác nhau ở núi đất, núi đá. Thạch huyệt trên núi đá, chọn chỗ đá mềm, ấm, dễ đào khoét là cát; trên núi đất thì mở thạch huyệt ở chỗ đá có màu tím và màu trắng, chất đá mềm ấm là cát, nếu chất đá cứng khô là hung.
Bối tù chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ sườn núi u ám, ẩm thấp. Táng ở đó sẽ bị kiến đục và nước xối lở, không cát lành.
Đằng lậu chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ mạch núi xung quanh huyệt bảo vệ không chu đáo, hoặc trên sống núi có chỗ khuyết. Táng ở đó sẽ bị gió thổi, không cát lành.
Bất cập chi huyệt : Chỉ huyệt mộ mà ở ngay phía trước không có án sơn, triều sơn, khiến Ao phong thổi thẳng vào, đời con cháu sẽ bị tuyệt tự, hung.
Bất súc Chi huyệt : Chỉ huyệt mộ nằm ở chỗ không có mạch núi bảo vệ, gió cứ thổi thốc vào, khiến xương cốt mau bị hủy hoại, hung.
Tứ trấn thập tọa: Huyệt pháp. Tức căn cứ hình thế của Lai Long để xác định chỗ đặt huyệt mộ. Trấn, nghĩa là trấn thủ; tọa, nghĩa là tọa lạc. Tứ trấn tức là trấn đầu Long, trấn gáy Long, trấn bụng Long, trấn chân Long (có khi nói là trấn lưng Long). Tức là căn cứ hình thế hướng đi của mạch núi mà lựa chọn bộ vị tọa lạc của huyệt mộ. Nói chung, Long chạy thẳng đến, trấn đầu Long, tức là huyệt ở chỗ tận cùng, còn gọi là Tông Long. Long nằm ngang, trấn gáy Long, tức là huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, nên gọi là huyệt bám vào sống núi, hoặc Phán Long. Long cuộn khúc, trấn bụng Long, tức là huyệt ở chỗ đầu ngoảnh nhìn lại phía trong sườn núi, còn gọi là Ky Long. Long cao to bàng bạc, trấn chân Long, tức là huyệt ở chân núi, còn gọi là Thửa Long. Do "tứ trấn" mà sinh "thập tọa". Trấn đầu Long ắt tọa tai Long, mũi Long, trán Long, bờm Long; mà tránh đuôi Long, sừng Long, răng Long, mắt Long. Trấn gáy Long, ắt tọa vai Long, gáy Long; mà tránh lưng Long, cổ Long. Trấn bụng Long ắt tọa rốn Long, vú Long; mà tránh ngang lưng Long, sườn Long. Trấn chân Long ắt tọa cổ tay Long , mắt cá chân Long; mà tránh khuỷu chân Long, móng chân Long. Có nhiều tiêu chuẩn nói về tứ trấn thập tọa khác nhau đôi chút, lại có thuyết nói thập nhị tọa, thực ra đều biểu thị một cách hình tượng sự lựa chọn bộ vị tốt nhất để định huyệt.
Tông long : Huyệt pháp. Mạch núi từ xa chạy thẳng tới định huyệt ở chỗ tận cùng của mạch, thì gọi là Tông Long, hoặc trấn đầu Long. Hình của nó như nhụy hoa, trông ngay ngắn. Ky phía trước Lai Long không có dãy núi che chở, bị ác phong thổi thẳng vào làm tiêu tán sinh khí. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Kỵ long : Huyệt pháp. Mạch núi quay đầu ngoảnh lại nhìn phía đuôi, trông như vòng tròn, định huyệt ở chỗ lõm núi mà đầu Long quay lại, lấy đuôi Long làm án sơn, thì gọi là Ky Long, hoặc trấn bụng Long. Hình của nó trông như gian chính của tòa nhà, phía trước huyệt có dãy núi chắn gió. Kỵ đối diện với sơn khẩu, gọi là "Kiềm lưu trực huyền", nghĩa là dãy núi hai bên dốc thẳng xuống, sinh khí theo đó mà thất thoát hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Phán long : Huyệt pháp. Mạch núi chạy ngang, thẳng về phía trước, không quay đầu nhìn lại, định huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, thì gọi là Phán Long, hoặc trấn gáy Long. Hình của nó giống như huyệt Kiên tỉnh lúc thân người đang nằm. Tối kỵ không có huyệt Kiên tỉnh và Hạ sa không ôm vòng, thủy Bát tự (thủy hình chữ "bát") không tụ lại, không có sinh khí, hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Thừa long : Huyệt pháp. Mạch núi cao to bàng bạc, nhấp nhô tiến tới; định huyệt ở khoảng giữa chân núi và vùng đồng bằng, thì gọi là Thừa Long, hoặc trấn chân Long.
Hình của nó như ánh mắt lờ đờ, ngụ ý thế núi đã hết, nhưng mạch khí vẫn còn, ở chỗ đất bằng tuy khó tìm dấu vết, song vẫn là đất lành. Ky mất thế mất mạch, cô đơn không chỗ dựa. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Tam đình : Huyệt pháp. Vốn là thuật ngữ khoa xem tướng, chỉ 3 phần trên mặt người : phần trán là thượng đình, phần mũi là trung đình, phần miệng là hạ đình; hoặc chi 3 phần trên thân thể người : phần đầu là thượng đình; phần từ vai đến eo lưng là trung đình; phần tử eo lưng xuống chân là hạ đình. Lý luận Phong thủy cho rằng tướng núi giống như tướng người, nên lập huyệt Tam đình, gọi là Thiên đình, Trung đinh, Địa đình. Huyệt thiên đình nằm ở nơi cao nhất, đòi hỏi Lai Long lớn và xa, thế xuống như mây vờn, hai bên phía trước có hộ vệ nghiêm mật, Minh đường ở phía dưới . Huyệt trung đình thì mạch núi uốn lượn, trong vuông ngoài tròn, rất chú trọng hình thế bốn phía xung quanh, đòi hỏi Minh đường phải rộng rãi sáng sủa. Huyệt hạ đình nằm ở vùng đất bằng, nhưng không được tách khỏi mạch khí, đòi hỏi Thủy thành phải như hình cầu vồng ôm ấp kín đáo.
Thập nhị trượng pháp : Huyệt pháp. Còn gọi là Thập nhị đảo trượng, là phép Thừa Long định huyệt do Dương Quân Tùng đởi Đường sáng lập. Phương pháp này căn cứ thế đến khác nhau của mạch núi mà qui định cách định huyệt khác nhau, như thuận trượng, nghịch trượng thúc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, ly trượng, một trượng, đối trượng, phạm trượng, tiệt trượng, đốn trượng; tổng cộng 12 trượng. Ngoài 12 trượng, còn có hình thế núi đặc thù, tạo thành 17 phương pháp kết huyệt, như thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm thúc, nghịch trượng kiêm thuận, đại thể lấy thuận trượng và nghịch trượng làm phương pháp cơ bản, kiêm với phương pháp khác, rất cụ thể tường tận. Thập nhị trượng pháp có ánh hưởng rất lớn trong Phong thủy âm trạch, một số nguyên tắc trở thành tiêu chuẩn mà các Phong thủy sư đều tuân theo.
Thuận trượng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thuận theo mạch chính của Lai Long. Yêu cầu lực lượng của Lai Long phải hậu trọng, thế đến hơi hòa hoãn, hơi uốn lượn; định huyệt phải chính giữa mạch khí, dung 4 phép Cái huyệt, Chương huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt. Huyệt loại này cực quí, chủ con cháu làm vương hầu, trạng nguyên.
Nghịch trượng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ngược với mạch chính của Lai Long. Yêu cầu Tổ sơn phải cao vút, nhấp nhô chạy thẳng đến trước mặt.
Định huyệt thì lấy Tổ sơn làm Triều sơn, dùng 4 phép Niêm huyệt, Tịnh huyệt, Câu huyệt, Tà huyệt. Mạch núi phía trước không được chĩa thẳng vào huyệt, nên huyệt phải cách mạch khí vài thước, ngược đón mạch khí. Huyệt loại này phát phúc lâu dài.
Thúc trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long dài mà kết thế ngắn, khí tụ ở trên đỉnh, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở chỗ sống núi co lại. Yêu cầu chỗ tận cùng của đỉnh núi phải hơi nhô, sinh khí tụ tại đó giống như huyệt Bách hội trên đỉnh đầu con người; dùng 2 phép Cái huyệt và Thôn huyệt. Do huyệt ở chỗ khá cao, rất sợ gió thổi, nên bốn phía phải cao tương ứng, Minh đường viễn tụ. Thúc trượng nên cao, không nên thấp; nếu thấp sẽ bị núi bốn phía lấn át.
Xuyết trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có thế đến hùng vĩ mà lục lượng nhỏ nhẹ, đến thẳng mà xuống gấp, cần thoát mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Mạch và huyệt lúc liền lúc rời, như thể dùng chỉ khâu áo, nên có tên như vậy (xuyết nghĩa là khâu). Yêu cầu huyệt phải ở cách mạch khí hoặc 1 - 2 thước, hoặc 3 -4 thước, không cao không thấp; thường dùng 2 phép Niêm huyệt và Trụy huyệt. Nếu huyệt cách mạch
quá gần, khó tránh bị xung sát, nếu cách quá xa, sinh khí không được tiếp nối.
Khai trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long xộc thẳng đến như kẻ xung sát đáng sợ, cần né sang hai bên mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thành 2 huyệt; dùng 3 phép Ỷ huyệt, Ai huyệt và Tịnh huyệt, để huyệt mộ tránh bị xung sát mà tiếp nhận sinh khí từ bên cạnh. Yêu cầu phải quan sát xem Minh đường, sa thủy, Triều sơn và án sơn qui tụ tại phương nào. Huyệt cách mạch 2 - 3 thước, gọi là mượn mạch lập huyệt, chủ phát đạt mau chóng.
Xuyên trượng : Huyệt pháp. Chỉ mạch núi đến ngang hoặc đến xéo, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) tại chính diện, giống như dùng chỉ xỏ lỗ kim, tra cán búa, khí nhập vào eo lưng. Yêu cầu Lai Long từ xa đến thẳng, không tách thành các nhánh, tứ ứng đều tốt; dùng 3 phép Sáp huyệt, Chương huyệt, Cái huyệt. Mạch khí chỉ có thể đi vào từ eo lưng, không được xung não, sau khi mai táng chủ phát phúc lâu dài.
Ly trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có khí thế hùng vĩ, đang chạy đến thì bỗng nhiên sững lại, tụt xuống biến mất tại đồng bằng, cần tách khỏi mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Long mạch đang nhấp nhô chạy về phía trước, đến chỗ kết huyệt bỗng dàn trải thoáng rộng, tựa như con rắn con ve lột xác, sinh khí không tụ, cách mạch 2 - 3 thước ở phía trước tất có chỗ lõm đột ngột, sinh khí tụ lại ở đó; định huyệt tại đây rất tốt.
Dùng 3 phép Cái huyệt, Tịnh huyệt và Trụy huyệt. Huyệt không nén sâu.
Một trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long uốn lượn xuống gấp mà chỗ tận cùng lõm hãm sinh khí đến đó thì hết; định huyệt (kết huyệt thụ huyệt) chỗ lõm, chìm vào mạch khí. Yêu cầu Lai Long phải có hình thế cao lớn, đến trước huyệt thì uốn lượn sang hai bên rồi vòng lại, kết thành lõm núi, xung quanh cao, huyệt mộ tàng ẩn ở sâu bên trong. Dùng 5 phép Chương huyệt, Sáp huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt, Giá huyệt. Nếu chỗ lõm quá nhỏ, có thể dùng sức người đục đẽo để tạo huyệt.
Đối trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long cao thẳng to lớn, ở chỗ nhập thủ bỗng nhiên thấp xuống, trải ra bằng phẳng, không có chỗ lõm, chỗ kẹp, nên định huyệt ( kết huyệt, thụ huyệt) ở giữa mảnh đất đó, hoặc ở chỗ tiếp giáp giữa phần cao với phần thấp. Do mạch Đối trượng cao mà gấp, xung sát liên tục, nên nửa cát nửa hung, khó biết thành bại.
Tiệt trùng : Huyệt pháp. Chỉ mạch khí của Lai Long không mạnh mẽ, chưa đến chỗ tận cùng thì dừng thâu mạch khí mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Yêu cầu chân núi của Lai Long phải khá dài, lập huyệt ở chỗ mạch khí chưa tận cùng; huyệt cao ắt bị gió thổi, huyệt thấp ắt bị băng đè, nên cần ngăn chặn mạch khí, làm cho sinh khí không bị tiết thoát, đó là điểm cốt yếu của Tiệt trượng.
Phạm trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long ngắn nhỏ, hòa hoãn, nên định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở trên mạch; nếu lập huyệt ở chỗ tận cùng thì sinh khí quá yếu, kém tác dụng, cho nên phải phạm mạch tọa huyệt để lấy vượng khí; thường dùng 4 phép Chương huyệt, Thôn huyệt, Cái huyệt, Sáp huyệt; đồng thời yêu cầu Minh đường phải rộng, núi sông phải ở phía xa. Có thuyết nói mạch Phạm trượng nguy hiểm, lập huyệt kiều này rất hung.
Đốn (đột) trượng: Huyệt pháp. Chi Lai Long cao lớn hùng vĩ, Tứ ứng đều thấp, nên đắp đất thành gò ở chỗ tận cùng mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Do sinh khí của Lai Long quá vượng, gặp thủy thì dừng mà cuồn cuộn bốc lên, bởi vậy phải đắp đất tạo huyệt để tiếp nhận sinh khí mà không bị xung. Nếu không đắp đất thành gò, huyệt mộ sẽ bị mạch khí bắn thẳng tới, mai táng ở đó con cháu sẽ tán gia bại sản.
Oa kiềm nhũ đột: Địa hình. Thuật Phong thủy cho rằng lập huyệt mộ ở chỗ lõm tròn, là nơi sinh khí hội tụ. Nơi lõm tròn có hình dạng khác nhau, nên có tên gọi khác nhau, trên tròn dưới nhỏ là Oa kiềm, dưới tròn trên lớn là Nhũ, giữa tròn trên dưới nhỏ là Đột.
Bào đột : Địa hình. Ở trong chỗ lõm tròn của huyệt mộ có điểm nhỏ nhô lên, trông như cái bong bóng nước (bào : bong bóng, đột : nhô lên); Nếu trong Oa kiềm có Bào đột, gọi là La văn, đại quí.
Phù thổ: Chỉ thổ nhưỡng của mặt đất ở chỗ có huyệt mộ. Bên dưới nó là Thực thổ.
Thực thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở sâu dưới mặt đất, chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Phù thổ, bên dưới nó là Huyệt thổ.
Huyệt thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở rất sâu dưới mặt đất chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Thực thổ, trên nữa là Phu thổ. Huyệt thổ ở dưới cùng, như hạt châu dưới vực, như ngọc trong đá; khi đào huyệt mộ tất phải đào tới Huyệt thổ, không được đào xuyên sâu hơn. Vì huyệt thổ tàng chứa sinh khí, nếu chưa đào tới đo thì chưa đắc khí, nếu đào xuyên qua ắt làm tổn thương Long cốt. Phân biệt Huyệt thổ thì căn cứ vào màu sắc va đường vân của đất. Mà sắc của huyệt thố thì trong và nhuận ẩm, đường vân của huyệt thổ thì có nhiều dạng, hoặc như đồ hình Thái cực, hoặc như vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ, vừa vặn dung nạp quan quách; hoặc bao quanh tảng đá, gỡ bỏ tảng đá đi thì thành huyệt. Còn có cách, khi đào tơi huyệt thổ thì dùng ngón tay vê thử, nếu đất thành viên tròn, đó chính là chân thổ (đất thực sự). Sâu dần xuống, đất cứng lại, không thể vê thành viên nhỏ, tức là chân thổ đã hết, nên san lấp lại dày chừng 2 ~ 3 tấc, rồi hãy đưa quan tài xuống.
Tam hại: Tức gió, nước, kiến. Phong thủy âm trạch cho rằng huyệt mộ bị gió thổi, nước xối, kiến đục là 3 cái hại, cho nên phải cẩn thận lựa chọn đất lành, tránh bị tam hại. Nếu chất đất tại huyệt mộ khô vụn, tơi, huyệt mộ không sâu, ắt khó tránh bị kiến đục. Nếu huyệt mộ ở chỗ đất ám ấm thấp, đào xuống quá sâu, thì khó tránh bị nước xói lở. Nếâu xung quanh huyệt mộ sông núi bao bọc không kín, ngay phía trước lõm khuyết, thì khó tránh bị gió thổi. Huyệt bị tam hại thì sinh khí không tụ, xương cốt khó được bảo tồøn nguyên vẹn, nguời chết không yên, người sống gặp họa, đại hung.
Tam cát lục hung: Tam cát nói về huyệt mộ, Lục hung nói về phép mai táng. Tam cát : một là tàng thần hợp sóc, thần đón quỷ tránh; hai là âm dương xung hòa, ngũ thổ tứ bị , ba là mục lực chi xảo (nhìn vừa mắt), công lực chi cụ (công lực có đủ ), chu toàn không khuyết, tăng cao ích hạ. Phải chọn đất mai táng sao cho có thể đón cát tránh hung, điều hòa ngũ hành, bốn phía bảo vệ, dùng sức người tu bổ được, là cát. Lục hung : một, âm dương sai biệt; hai, ngày tháng sai lạc; ba, sức nhỏ đòi làm lớn; trông chờ phúc đức lớn; năm, đội trên đạp dưới; sáu, ứng biến quái dị. Nghĩa là khi mai tang, nếu phạm hung sát, chọn sai ngày giờ cuồng vọng hưởng phúc, đối xử không đúng với người trên kẻ dưới, phá hoại đất lành, nhiều lần gặp chuyện kinh dị, đều là hung. Thuật Phong thúy cho rằng huyệt cát mà táng hung thì chẳng khác gì đem thi thể vứt bỏ đi, rất xấu.
Phong thi : Phép mai táng. phong tục thời cổ, trước khi chôn người chết bèn dùng thủy ngân rót vào các lỗ trên thi thể để bít kín "thất khiếu", đề phòng thi thể khỏi bị thối rữa. Thuật Phong thủy cho răng nếu làm như vậy, thi thể sẽ không thể hóa, sinh khí khó bề nhập vào, chẳng khác gì thủy táng (đem vứt xác xuống sông), đại hung.
Đạo táng : Phép mai táng. Thuật Phong thủy qui định : trước khi đào mộ chôn người chết, phải đem rượu cúng Thổ thần, rồi cắt cỏ ở khoảnh đất ấy thành 3 đoạn, rồi mới đào huyệt mai táng, nếu không sẽ là Đạo táng (chôn trộm), thì hung.
Ái khoảng: Phép mai táng. Khoảng, nghĩa là huyệt mộ. Phong tục ngày xưa, sau khi đào mộ, dùng than hoặc củi đốt nóng để sưởi ẩm trong lòng huyệt, gọi là ái khoảng. Thuật Phong thủy cho rằng, sinh khí gặp lửa sẽ không đến, việc ái khoảng sẽ diệt hết sinh khí, chẳng khác gì hỏa táng, đại hung. Đồng thời phản đối việc dùng gạch nung xây quanh huyệt mộ, vì gạch nung đều được chế tạo qua lò lửa, bên trong vẫn còn khí hỏa; thứ khí hỏa ấy sẽ tấn công sinh khỉ trong đất, tiêu diệt ngũ hành, hung.
Hóa huyệt: Phép mai táng. Tức ái khoảng. Xem mục ái khoảng.
Quan thượng gia quan : Phép mai táng. Phong tục xưa đem người chết sau chôn chung vào huyệt mộ của người đã chết trước, gọi là "quan thượng gia quan", ngụ ý để lấy phúc. Thuật Phong thủy nghiêm cấm việc đó, vì cho rằng huyệt mộ được mai táng lần thứ nhất là đất mới, sinh khí thịnh vượng, nếu đào lần thứ hai để mai táng thì không còn là đất tự nhiên, sinh khí bị tiết thoát, sẽ làm cho cả hai cùng hỏng. Một mảnh đất cát lành đã có một huyệt đắc khí thì huyệt thứ hai không có sinh khí; cho nên trong gia tộc đem chôn người chết sau chung huyệt với người chết trước là hung. Những ngôi mộ danh nhân cũng vậy.
Trạch triệu: Đất huyệt mộ. Hiếu kinh. Táng thân viết : "Bốc kỳ trạch triệu nhi an thố chi". Đường Huyền Tông chú giải : "Trạch, nghĩa là đất huyệt mộ, triệu, đất mồ mả vậy". Vị nhân trần tình biểu của Trần Tử Ngang đời Đường có câu "Kim bốc cư trạch triệu, tương nhập cựu doanh" (Nay bói đất đào huyệt, đem an táng ở ngôi mộ cũ. Về sau các chữ "Bốc trạch", "Bốc triệu" đều chỉ việc chọn đất an táng, riêng Bốc trạch còn có nghĩa chọn nơi làm nhà ở. Xem mục Bốc trạch.
Ngưu miên địa: Đất huyệt mộ. Rút từ Tấn thư. Chu Phỏng truyện : "Hồi Đào Khản còn nhỏ, Đinh Gian chết, sắp mai táng, nhà có con trâu bỗng dưng bỏ đi đâu không biết. Gặp một ông già nói: Ở cái gò phía trước lão thấy có con trâu nằm ngủ, nếu mai táng ở đó, sẽ được làm quan to. Ông già lại chỉ tay về phía một quả núi mà nói, chôn ở đấy cũng tốt, đời này sẽ có người làm quan hưởng lương hai ngàn thạch, nói đoạn biến đi luôn. Khản tìm thấy trâu, nhân đó đem mai táng ở chỗ ấy". Về sau người ta bèn dùng hai chủ ngưu miên" (trâu ngủ) để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngưu miên địa, Bình lập Thái sơn đới vĩ tư".
Giai thành: Đất huyệt mộ. Rút từ Bác vật chí, quyển 7 "Dị văn" : "Đời Hán, Đằng Công (Hạ Hầu Anh) chết, định mai táng ở bên ngoài thành Đông Đô , các quan đi đưa tang, chiếc xe tứ mã chở quan tài. Mấy con ngựa không chịu đi, cứ hí thảm thiết và dùng vó cào xuống đất, hằn thành dòng chữ "Giai thành uất uất, tam thiên niên, kiên bạch nhật, hu giai Đằng Công cư thử thất" bèn mai táng tại chỗ đó. Về sau người ta bèn dùng hai chữ "Giai thành" để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngưu miện địa, Binh lập Thái sơn đới vĩ tư".
Huyền thất: Nhà mồ. Tư đồ Lã Công lỗi của Trương Hoành đời Hán (xem Nghệ văn loại tụ, quyến 47): "Khứ thử ninh ngụ, qui ư u đương. Huyền thất minh minh, tu dạ di trường". Tấn thư. Tá Quí Tần truyện: "Ái định trạch triệu, khắc thành huyền thất". Thuật Phong thủy bèn dung hai chữ "huyền thất" để chỉ huyệt mộ.
Huyền trạch Huyệt mộ. Trịnh quân mộ chí minh của Hàn Dũ đời Đường (xem Xương Lê tập, quyển 32), có câu : "Động nhiên hỗn phác tuyệt hà thương, Giáp Tí nhất chung phản huyền trạch". Đôn Hoàng, quyển Tử Bá 3358 "Mộ huyệt phù": "Thử thư huyền thất tứ giác, đại cát lợi".
Huyền khư: Huyệt mộ. Quán thị địa lý chỉ mông. Thịnh suy cải độ đệ tứ thập" : "Đương sơ lũ khảm, cự khoa kim nhật chi huyền khư, huống thử giai thành, ninh bảo thiên niên chi hoang tần !" với lời chú "Huyền khư, nghĩa là huyệt vậy".
Sinh khoảng : Nhà mồ xây dựng cho mình lúc còn sống. Phong tục này có từ đời Hậu Hán. Hậu Hán thư. Triệu Kỳ truyện : Lúc còn sống, Triệu Kỳ xây dựng thọ tàng đúc 4 bức tượng Tử Sản, Án Anh, Lý Trát, Thúc Hướng đặt ở vị trí tân khách, lại tự vẽ chân dung mình treo ở vị trí chủ nhân, ngụ ý tán tụng". Lý Hiền chú giải : thọ táng nghĩa là nhà mồ, dùng chữ thọ, ngụ ý mong được lâu bền như chữ thọ quan, thọ khí vậy". Về sau, vào đời Đường, quan Tư không xây dựng sinh khoảng, mỗi khi đến ngày lành vào mùa xuân, mùa thu, lại mời quan khách đến đó ngâm vịnh. Ngày nay vẫn còn có người theo cách ấy, thực là một hủ tục.
THỦY ĐẠO VÀ THỦY HÌNH
Thủy long: Chi thủy đạo (đường nước chảy) ở vùng đồng bằng. Thuật Phong thủy vốn lấy mạch núi làm Long, sinh khí tùy theo nó mà vận hành trong lòng đất, là Nội khí, còn thủy lưu thì gọi là Ngoại khí. Ở vùng đồng bằng sông nước, không có núi, chỉ có thủy, nên lấy thủy lưu làm Long, đồng thòi cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất mà vô hình, khi dồi dào sung mãn thì tràn lên mặt đất, tức là thủy. Quan sát thủy tức là quan sát khí, giống như tầm (tìm) Long ở vùng núi. Ca quyết nói: "Hành đáo bình dương mạc vấn tông, Chỉ khán thủy nhiêu thị chân Long" (Thủy Long kinh tự ). Thuyết thủy Long lấy dòng sông lưu thông làm Hành Long, tức là Can Long (thân Long), thân Long uốn lượn. giới định Ngoại khí. Mương ngòi, kênh rạch là các Chi Long (phân nhánh), Chi Long giao hội, Nội khí thai nghén. Dựa vào thủy Long mà định huyệt dựng nhà, lấy Chi không lấy Can, nhưng cần có Can Chi tương xứng. Can Long không có Chi, khí của nó dàn trải, không thiết thân với nhà ở, huyệt mộ. Chi Long không có Can, tuy phát phúc nhưng chẳng lâu bền. Điều quan trọng là phải phối hợp Can Chi một cách sinh động. Vùng sông hồ, nước mênh mông trông như đại Can, dựng nhà có thể hội tụ sinh khí, làm mộ chỉ cần Chi thủy có tình là được. Trong thuật Phong thủy, thuyết thủy Long căn cứ vào tình hình vùng sông nước mà được đề ra, có ảnh hưởng rất lớn đối với Phong thủy dương trạch.
Thủy thành : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu uốn quanh như bức tường thành. Sinh khí vận hành trong lòng đất, gặp thủy thì dừng; thủy lưu uốn lượn như cánh cung, giới hạn chân núi, ngăn dừng sinh khí, nên gọi là Thủy thành. Huyệt mộ, nhà ở đều cần nằm ở bên trong Thủy thành; nếu ở bên ngoài Thủy thành sẽ là phản cung, hung.
Ngoại thuỷ : Thủy đạo. Đối ứng với Nội thủy, tức là dòng nước chảy ở bên ngoài Minh đường. Thuyết thủy Long lấy Can lưu ở bên ngoài Chi thủy làm Ngoại thủy.
Nội thủy: Thủy đạo. Chỉ dòng nước chảy bên trong Minh đường. Nói chung, nó chảy theo hai bên mạch núi đến Minh đường, hội hợp ở trước huyệt, yêu cầu phải Bình, Hoành, Nhiêu; có thể dùng sức người cải tạo cho phù hợp với yêu cầu. Thuyết thủy Long lấy Chi lưu ở bên trong Can lưu sông nước làm Nội thủy.
Nhuế vị : Thủy đạo. Nhuế, nghĩa là chỗ dòng sông uốn khúc. Còn gọi Thủy bắc là Nhuế. Phần lớn vị trí của huyệt mộ, nhà ở đều tọa bắc hướng nam; vị trí sơn nam thủy bắc gọi là Nhuế. Nhưng yêu cầu thủy lưu phải ôm vòng lấy phía trong như cánh cung, thì chỗ đất ấy mới lành.
Nghênh tài: Thủy đạo. Chỉ phía trước huyệt mộ có thủy lưu bốn phía chảy tới hội tụ. Thủy tượng trưng tiền tài, nên gọi là nghênh tài. Mai táng thì cát.
Kim long: Thủy đạo. Thuật Phong thủy lấy Thìn sơn, Tuất sơn, Mùi sơn, Sửu sơn làm đất Tứ mộ; thuỷ chảy đi phương vị Tứ mộ là cát. Nếu dòng nước ở phương vị Tứ mộ thông thoáng, thì nói là Kim Long động; nếu dòng chảy ở đó bế tắc, thì gọi là Kim Long không động. Kim Long động, thì tại đất huyệt mộ âm dương điều hòa, thư hùng giao hội, cát lành. Kim Long không động, thì thiếu sinh khí, hung.
Thủy khẩu : Thủy đạo. Chỉ chỗ nước chảy vào chảy ra ở phía trước nhà ở, thôn xóm hoặc huyệt mộ. Theo lý luận Phong thủy, sinh khí vận hành tùy theo mạch núi, gặp thủy thì dưng. Nghĩa là Lai Long từ xa đến, ắt cần có thủy lưu ở phía trước để ngăn Long tụ khí. Bất kể thủy lưu từ phương nào chảy đến và chảy đi phương nào, chỗ nó đến là nhập khẩu (chảy vào), cũng gọi là Thiên môn; chỗ chảy ra là xuất khẩu, gọi là Địa hộ. Hai chỗ đó gọi gộp là Thủy khẩu. Yêu cầu Thiên môn phải rộng rãi, không nên vòng vèo ách tắc; Địa hộ thì phải phong tỏa kín đáo, tối kỵ chảy thẳng đi một cách vô tình. Do tác dụng của địa hình, nước bao giờ cũng chảy từ chỗ cao tới, nói chung có thể tự nó tìm cách mở rộng lối đi, nên Địa hộ (chỗ nước chảy ra) càng trở nên quan trọng. Thuật Phong thủy trong đa số trường hợp nhắc đến thủy khẩu thì chủ yếu là nói về Địa hộ. Táng kinh dực viết: "Thủy khẩu là một phía mà các loại thủy cùng chảy ra vậy". Vị trí của thuỷ khẩu nên nằm ở giữa hai bên núi cao hoặc ở chỗ mạch núi uốn lượn; yêu cầu dòng nước uốn khúc mà chảy đi, không thấy nó chảy đi là cát Núi ở hai bên bờ thủy khẩu co 4 tên gọi là Sư (sư tử), Tượng (voi). Qui (rùa), Xà (rắn), lớp lớp che chắn trong thì tụ khí, ngoài thì chắn gió. Nếu Hanh Long phương khác thích hợp với thủy khẩu, sẽ tạo thành các cục diện Hoa biểu, Cản môn, Thiên mã đại quí. Xây dựng đô thành, lăng tẩm đế vương, thì núi ở hai bên thủy khẩu phải sừng sững, cao đẹp, hùng cứ một phương. Cự li của thủy khẩu có xa và gần. Nhìn chung, đất huyệt mộ cách thủy khẩu tương đối gần, còn thôn xóm đô thị thì cách thủy khẩu tương đối xa, từ 1 đến 2 ~ 3 dặm, 7 ~ 8 dặm, thậm chí vài chục dặm, 2 ~ 3 trăm dặm. Cách thủy khẩu xa tất là đại địa. Thủy khẩu đại chia ra nội, ngoại, đại, tiểu. Ngoại thủy khẩu tức Đại thủy khẩu, là nơi tổng vào ra của toàn bộ thủy lưu trong vùng, tức Tổng thủy khẩu. Bên trong Tổng thủy khẩu bất kể Lai Long nhiều hay ít, kết địa nếu là Can, thì sát thân mình cần có Tiểu thủy khẩu, tức Nội thủy khẩu, yêu cầu Sa phải thành lớp lớp thu thủy. Ca quyết viết "Quan môn nhược hữu thập trùng tỏa. Tất hữu vương hầu cứ thử gian"; (Táng kinh dực), là đất đại quí. Trong Phong thủy dương trạch, tại thủy khẩu người ta có thể tiến hành kiến tạo các công trình che chắn phong tỏa thủy khẩu, như bắc cầu, đắp đê, hoặc xây dựng trên bờ đình đài, lầu tháp, hoặc đắp gò nổi ngay trong nước. Ở vùng đồng bằng không có núi che chắn thủy khẩu, thi đòi hỏi thủy lưu phải uốn khúc, đồng thời phải kiến tạo công trình phong tỏa. Phương vị của thủy khẩu cũng có quy tắc phải theo; Ở vùng rừng núi, nói chung thủy lưu tùy theo hướng của mạch núi mà định, ở vùng đồng bằng, thì căn cứ địa thế cao thấp mà quyết. Đặc điểm địa hình của Trung Quốc là phía tây cao, phía đông thấp, nên các dòng sông chủ yếu chảy từ phía tây sang phía đông mà ra biển, cho nên thủy khẩu phần lớn cũng phải nằm ở phía đông, phía nam hoặc đông nam, mà phổ biến là ở phía đông nam. Thuật Phong thủy tổng kết rằng thủy khẩu ở vị trí Tốn sơn là cát lành. Thủy khẩu có nhiều tên gọi, ví dụ Phong môn, ngụ ý có gió thổi vào đây; gọi là Lậu đạo, ngụ ý sinh khí thất thoát từ đây; nên núi ở thủy khẩu có tên gọi Phong thành, Cản môn ngụ ý chắn gió, cản gió. Thuật Phong thủy cực kỳ coi trọng thủy khẩu". Có lý luận "Nhập sơn quan thủy khẩu" (vào núi quan sát thủy khẩu), cho rằng một vùng đất có đủ mọi điều kiện tốt mà thủy khẩu không được phong tỏa, thì rất hung. Tác dụng thực tế của thủy khẩu là giới định phạm vi bên ngoài của đất huyệt mộ, thôn trấn, đồng thời thủy khẩu cùng nằm ở chỗ địa thế thấp nhất, thường thường cũng là nút giao thông. Thuật Phong thủy rất chú trọng thủy khẩu về căn bản là do người ta coi trọng môi trường bên ngoài của huyệt mộ và thôn trấn.
Kim tinh thủy : Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu uốn cong giống như cánh cung, như cầu vồng, lấy tọa bắc ôm vòng phía nam làm chính thể cát. Nếu tọa đông, ôm vòng phía tây, gọi là Hữu Kim, chủ con trai thứ phát phúc; tọa tây mà ôm vòng phía đông, gọi là Tả Kim, chủ con trai cả phát quí; nếu phản cung quay lưng lại chủ suốt đời bần cùng. Trên thực tế, nhà ở và huyệt mộ nhất thiết phải co thủy lưu ôm vòng ở một phương.
Mộc tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu chảy thẳng theo hướng nam bắc.
Vị trí đối diện thẳng với Mộc tinh thủy là bị bắn thẳng, hung. Mộc tinh thủy phối hợp với 4 tinh khác cung là hung, duy phối hợp với thổ tinh thủy thì chủ yếu là hung, chỉ có một chút cát lành.
Thủy tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, cát (lành). Thủy tinh thủy bất kể chảy về phía nào, nếu phối hợp với Kim tinh thủy đều là cát; nếu gặp Mộc tinh thủy, Hỏa tinh thủy bắn thẳng thì hung.
Hỏa tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu đến xéo đi xéo, hai thủy giao nhau thành mũi tên, trông thẳng cứng hoặc hơi uốn lên, hung. Chỉ có một thry đến xéo đi xéo, gọi là Tà phi, cũng hung. Hỏa tinh thủy phối hợp với các tinh khác, cũng hung.
Thổ tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu tràn ngang, theo hướng đông tây, hung. Các biến thể như Thổ thành thủy, Trung thổ thủy thì cát.
Thanh long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía đông (phía bên trái) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Chu tước thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía Nam (phía trước) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng và tiếng nước chảy của nó mà xác định cát hung.
Bạch hổ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía tây (phía bên phải) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Huyền vũ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía bắc (phía sau) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Triều thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu chảy đến từ phía trước nhà ở và huyệt mộ. Yêu cầu nó phải uốn lượn như con rắn trườn mình mà tới, hoặc như dải ngọc quấn quanh eo lưng, trông dịu dàng hòa hoãn. Ca quyết nói: "Thủy kiến tam loan, phú quý an nhàn" (Thủy Long kinh). Nếu chảy thẳng đến, gọi là xung xạ, đại hung.
Kiềm thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ôm vòng hai bên tả hữu huyệt mộ như cái kìm, còn gọi là "Lưỡng thủy hợp". Sau khi mai táng chủ con cháu không phú thì quí. Nếu bên trong cái kìm có chỗ đất cao, định huyệt tại đó, chủ con cháu văn võ toàn tài.
Đấu thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu có hình dạng tròn, lõm, khuyết như cái đấu. Ca quyết nói: "Long hổ lưỡng tương đấu, gian nghịch đa hung cữu, phụ tử bất tương thân, huynh đệ như cừu khấu" (Thủy long king). Hung.
Xung xạ: Thủy đạo. Phàm thủy lưu chảy thẳng đến trước nhà ở hoặc huyệt mộ, đều gọi là Xung Xạ, đại hung.
Phân phi: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng chảy đi, gọi là Phân phi. Hung.
Phi thủy: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở một bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng chảy đi, chứ không ôm vòng lấy phía trong gọi là Phi thủy, hung.
Phản thủy : Thủy đạo. Phàm thuỷ lưu ở một bên hoặc cả hai bên nhà ở và huyệt mộ như cánh cung ôm ra phía ngoài, gọi là Phản thủy, hung. Nếu thủy lưu ở phía sau nhà ở, huyệt mộ như cánh cung trở ngược, thì gọi là Phản khiếu thủy. Nếu ở một bên hoặc ở phía sau thoạt đầu uốn lượn ôm lấy phía trong, nhưng sau đó lại quay lưng chảy đi, thì cũng gọi là Phản phi hoặc Tiên bão hậu phản, đều là hung.
Ất tự thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng như chữ Ất, chảy vòng qua nhà, qua mộ mà đi, đại cát.
Chi huyền thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng như chữ Chi, chữ Huyền, uốn lượn mà đến, đại cát. Nếu Chi huyền thủy ở phía trước nhà ở hoặc huyệt mộ, gọi là Triều thủy.
Thập tự thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Thập, ngang dọc rõ ràng, mai táng sẽ hung.
Nếu xây nhà ở trong thị trấn thì cát; riêng một nhà thì hung. Nếu thủy lưu giao xéo nhau thành chữ Thập, bất luận âm dương trạch, đều là hung.
Tính tự thuỷ: Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Tỉnh, ngang dọc rõ ràng, mai táng sẽ hung. Nếu xây nhà ở trong thị trấn thi cát, riêng một nhà thi hung. Nếu thủy lưu uốn lượn mà giao nhau như chữ Tỉnh, thì dựng nhà sẽ đại quí.
Song long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng uốn lượn như con rồng, đồng thời ôm vòng lấy phía trong, an mộ dựng nhà đại cát.
Lục kiện thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành thần đồng, trạng nguyên, Tể tướng.
Nghênh thần thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chỉ con cháu trở thành thần đồng, trạng nguyên.
Kim ngư yêu đới: Thủy Đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại phú, đại quý.
Tứ long hí châu: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại phú, đại quý.
Tiên chưởng phủ cầm: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây chủ con cháu thi cử đỗ đạt cao.
Phi phụng thủy : Thuỷ đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu có kẻ trở thành phi tần.
Hồi long thủy : Thủy đạo. Chi thúy lưu tử phương đông nam chảy đến, vòng sang phía tây, ôm lấy nhà ở hoặc huyệt mộ, sau đó chảy về hướng đông bắc, hình dạng như chữ U nằm ngang, chủ con cháu nhiều đời phú quí, làm quan to. Ca quyết nói : "Thủy thần lai xứ phục hồi đầu, hồi long khí mạch thâu, phúc lý bao tàng vô thẩm lậu, phát phúc vĩnh vô hưu" (Thủy Long kinh). Nếu thủy lưu từ phương tây nam chảy đền ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, sau đó chảy về hướng tây bắc, thì cũng tốt như vậy.
Qua đằng thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, từ phía sau chảy đến ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, rồi lại chảy về phía sau mà đi; đại cát. Ca quyết nói : "Diện tiền nhất chuyển nhất trùng khố, tài bảo đa vô số, đại giang tiện xuất đại quan vinh, tiểu khê tất chủ gia hào phú" (Thủy Long kinh).
Hoành thủy : Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu từ phía trước hoặc phía sau nhà ở, huyệt mộ chảy tràn ngang qua, hung.
Thực tế đó là Thổ tinh thủy. Ca quyết nói : "Thất hậu hoành thủy trực lưu thông, tạm thời vị bại tức bần cùng" (Thủy long kinh).
Đao thương thuỷ : Thủy đạo. Chỉ nơi thủy lưu giao nhau hoặc dừng lại có hình dạng nhọn như mũi dao, mũi thương, chĩa thẳng vào nhà ở và huyệt mộ, đại hung. Ca quyết nói : "Lưu lai thủy thế tự đao thương, xạ hiệp xung tâm bất khả đương" (Thủy Long kinh)
Bát tự phân lưu : 1) Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía trước huyệt mộ chảy ra như hình chữ Bát, chứ không giao nhau, hung. 2) Hình thế bên trong nhà ở. Chỉ rãnh nước bên trong nhà từ sân giữa chảy ra thành hình chữ Bát cùng gọi là Thiên thần, hung.
Tam hợp thủy : Thủy đạo. Chi ở 3 chỗ Bát tự, Tiết bao, Cầu thiềm đều có thủy lưu từ hai bên chảy xuống, chia thành 3 lớp trong ngoài giao hội tại trước huyệt và ở phía trong hai sa tả hữu, gọi là Tam hợp thủy. Trên thực tế thường thường không thấy mặt nước, chỉ có rãnh nước rất nông, dòng chảy không rõ. Cách kiểm tra như sau: đốt cỏ thành tro, rắc tro bốn phía, chờ lúc mưa nhỏ, thấy tro bị dồn thành vệt, chính là nó. Cũng có Nhị hợp thủy, là Chi long kết mạch. Tác dụng của Tam hợp thủy là tụ họp sinh khi, nếu không có nó thì không phải đất lành.
Đại bát tự: Thủy đạo. Ở chỗ tam thoa của Lai Long có thuỷ chảy tách ra hai bên hình dạng như chữ Bát. Vì bên dưới nó lại có Bát tự thủy phân lưu, nên gọi là Đại bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai vai.
Tiểu bát tự : Thủy đao. Bên dưới tam thoa của Lai Long, ở chỗ Cầu thiềm, có thủy chảy tách ra hai bên, hình dạng như chữ Bát. Vì bên trên nó đã cỏ Bát tự thủy là Đại bát tự, nên gọi nó là Tiểu bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai mắt.
Hà tu thủy : Thủy đạo. Ở hai Sa tả hữu phía trước huyệt mộ có thủy gần như giao nhau tại phần đầu mút, đó là Hà tu thủy. Ví với cơ thể người, thì Hà tu thủy là ria mép.
Ngọc tính: Chỉ rãnh, hào chứa nước ở trước huyệt mộ. Nói chung người ta dùng sức người lát các phiến đá che bên trên rãnh nước cho ngang bằng mặt đất; sau đó ngầm dẫn nước từ hai bên Lai sơn cho chảy vào Ngọc tỉnh, rồi từ đây cho chảy ra phương vị lục thế. Thực tế là dùng sức người cải tạo Nội thủy. Ngọc tỉnh có tác dụng khiến Nội thủy giao hội ở trước huyệt mà không phá hoại địa thế bằng phẳng của Minh đường Ngọc tỉnh phải là rãnh hoặc hào nước do thiên nhiên tạo nên ở trước huyệt, không thể do con người đào khoét, nêu không sẽ hứng chịu nhiều tai họa. Có thuyết nói Ngọc tỉnh là chỗ chứa nước dơ trước huyệt, không nên che đậy bên trên.
Thủy thanh: Chỉ âm thanh do nước chảy mạnh phát ra. Phàm thủy lưu ở bốn phía nhà ở, huyệt mộ bất kể từ đâu chảy tới rồi chảy đi đâu, đều phải êm đềm hòa hoãn mới tốt; nếu chảy xiết réo sôi là hung; nghe rì rào thì được nghe ai oán hoặc sôi reo, ùng ục như tiếng sấm thì đại hung. Tiếng nước chảy ở trước nhà nghe như tiếng khóc la thoái tài (tiền tài sa sút).
Thưởng thủy pháp: Phương pháp phân biệt chất lượng tốt xấu của thủy (nước) để xác định cát hung. Thuật Phong thủy cho rằng vị của nước tốt hay xấu có quan hệ với cát hung của mạch đất, nên dung Thưởng thủy pháp (phép nếm vị của nước) để dự đoán tình hình mạch đất. Ở vùng đồng bằng và gò đồi, thì lấy nước giếng, nước suối hoặc nước mương ngòi; Ở vùng núi thì lấy nước khe suối, đưa lên miệng nếm thử, nếu thấy vị ngọt, thơm, dịu là cát (lành), nếu thấy vị đắng, chua, cay, nồng là hung.
4/ PHƯƠNG VỊ VÀ TỌA HUỚNG.
Nhị thập tứ sơn: Phương vị. Còn gọi là Nhị thập tứ lộ, Nhị thập tứ hướng, là một trong những khái niệm quan trọng nhất của thuật Phong thủy. Xuất hiện sớm nhất trong Ty nam ( kim chỉ nam ) thời cổ, hiện còn giữ được dụng cụ loại đó chế tạo vào đời Hán. Tức là đem chia vòng tròn 360 độ thành 24 phần bằng nhau, mỗi phần là 15 độ, gọi là 1 sơn và dùng 4 duy 8 can 12 chi để đặt tên. Trong thuật Phong thủy, phàm nói đến phương vị, hầu như đều đề cập 24 sơn; được ứng dụng rất rộng rãi. Trên hình vê, đường gạch đứt ( - ) chỉ ranh giới âm dương. Có thuyết nói từ Tuất sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Ất sơn là dương, từ Thìn sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Tân sơn là âm. Một thuyết khác coi từ Tí sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Bỉnh sơn là dương, từ Ngọ sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Nhâm sơn là âm. Khi nói đến Tọa hướng thủy pháp, lại thường lấy 12 sơn Nhâm, Tí, Quý. Dần, Giáp, Ất, Thìn, Ngọ, Khôn, Thân, Tuất, Càn làm dương; còn 12 sơn Hợi, Sửu, Cấn, Mão, Tốn, Ty, Bính, Đinh, Mùi, Canh Dậu, Tân lam âm. Trong phạm vi dương là dương sơn dương thủy, trong phạm vi âm là âm sơn âm thủy, phái căn cứ qui tắc mà phối hợp, dương chảy theo dương, âm chay theo âm, âm dương rối loạn thì hung. Mỗi một trong 24 sơn có tên gọi cát hung khác nhau, âm dương trạch khác nhau. Dương trạch lấy Càn sơn làm Thiên môn, Thú dương; Hợi sơn là Chu tước, Long đầu (đầu của long); Nhâm sơn là Đại họa; Tí sơn là Tử táng, Long hưu thủ (tay phải của Long), đối ứng quẻ Khảm; Quý sơn là Phạt ngục; Sửu sơn là Quan ngục, Huyền ngục. Cấn sơn là Quỉ môn Trạch ung; Dần sơn là Thiên hình Long bối (lưng của Long ); Giáp sơn là Trạch hình; Mão sơn là Hình ngục, Long hữu hiệp (sườn bên phải của Long), đối ứng quẻ Chấn, Ất sơn là Đằng xa, Tụng ngục, Thìn sơn là Bạch hổ, chân bên phải của Long; Tốn sơn là Địa hộ, Phong môn. Phúc thủ, Tỵ sơn là Thiên phúc, Trạch cực, đuôi Long; Bính son là Minh đường, Trạch phúc; Ngọ sơn là Cát xương, chân trái của Long, đối ứng quẻ Ly; Đinh sơn là Thiên thương; Mùi sơn là Thân phủ; Khôn sơn là Nhân môn, ruột của Long, Phúc nang (Túi phúc); Thân sơn là Ngọc đường; Canh sơn là Trạch đức. Dậu sơn là Đại (đức, sườn bên phải của Long, đối ứng quẻ Đoài; Tân sơn là Kim quý, Tuất sơn là Đia phủ, tay trái của Thanh Long. Tên gọi cát hung của 24 sơn âm trạch thì ngược hướng với dương trạch, ví dụ Hợi sơn của dương trạch là Chu tước, đầu của Long, thì đối nghịch là Tỵ sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, vậy Hợi sơn của Âm trạch biến thành Tỵ sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, âm trạch Ty sơn biến thành Chu tước, đầu của Long. Những cái khác theo đó mà suy, nhưng Tứ duy thì không biến động, nghĩa là Càn sơn, Cấn sơn Tốn sơn, Khôn sơn thì âm dương trạch giống nhau. 24 sơn lại có tọa mệnh, như Hợi sơn dương trạch là phụ mệnh (mệnh cha), Nhâm sơn là Mẫu mệnh (mệnh mẹ ), Tí sơn là mệnh con trai cả, Quý Sơn là mệnh con trai thứ. Âm trạch thì lấy Tỵ sơn làm mệnh cha, Bính sơn làm mệnh mẹ, Ngọ sơn làm mệnh con trai cả, Đinh sơn làm mệnh con trai thứ. Phàm xung phạm mệnh tọa, thì tai họa sẽ ứng vào người tương ứng, đại hung. 24 sơn có quan hệ với ngũ hành, bát quái, 12 cung, cửu tinh, 24 thiên tinh, 24 tiết khí. Xem mục La bàn.
Nhị thập tứ lỗ : Tức Nhị thập tứ sơn. Xem mục Nhị thập tứ sơn.
Tứ chính : Phương vị. Chỉ 4 hướng chính đông, chính tây, chính nam, chính bắc. Trong 24 sơn đó là Tí sơn (chính bắc), Ngọ sơn (chính nam), Mão sơn (chính đông), Dậu sơn (chính tây), phân biệt đối ứng 4 quẻ Khảm, Ly, Chấn, Đoài. Tầm Long định huyệt nhìn chung không coi việc toạ lạc hoặc mặt hướng về tứ chính là cát.
Tứ ngung : Phương vị. Tức 4 góc. Chỉ 4 hướng đông nam, tây bắc, tây nam, đông bắc. Góc đông nam còn gọi là "Giao", góc tây bắc còn gọi là "Ốc lậu", góc tây nam còn gọi là "Áo", góc đông bắc còn gọi là "Hoạn". Trong 24 sơn, Tứ ngung là Càn sơn (tây bắc), Cân sơn (đông. bắc), Tốn sơn (đông nam), Khôn sơn (tây nam). Hạ tang lấy tọa lạc hoặc mặt hướng về Tứ ngưng là quí. Tứ ngưng còn gọi là Tứ duy.
Tứ duy: Phong vị. Tục Tứ ngung. Xem mục Tứ ngưng.
Bát can : Phương vị. Chỉ 8 thiên can trong 24 sơn là Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất, Tân, Đinh, Qúy. Phân biệt lần lượt nằm ở các vị trí: chính đông thiên bắc 15 độ (Giáp), chính tây thiên nam 15 độ (Canh), chính nam thiên đông 15 độ (Bính), chính bắc thiên tây 15 độ (Nhâm), chính đông thiên nam 15 độ (Ất), chính tây thiên bắc 15 độ (Tân), chính nam thiên tây 15 độ (Đinh), chính bắc thiên đông 15 độ (Quý). Vì thiên can không có Sát mà địa chi không có Sinh nên hạ táng lấy tọa lạc hoặc chính hướng tám Can nói trên là quí. Ca quyết có câu : "Cổ nhân vi hà chỉ hữu bát, trong dục phùng sinh bất phùng sát" (Quản thị địa lý chỉ mông).
Thiên môn : 1) Phương vị. Chỉ hướng tây bắc. Chính là Càn sơn. Thuyết này xuất hiện rất sớm. Thuật Phong thủy cho rằng ở phương vị Thiên môn không nên xây lầu cao, phạm vào chỗ đó sẽ hại cho gia trưởng. Chọn ngày Đinh, ngày Nhâm trong tháng Năm mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thi cát. 2) Địa hình. Chỗ nước chảy đến hoặc chảy vào, cần phải rộng mở. Xem mục Thủy khẩu.
Địa hộ : 1) Phương vị. Chỉ hướng đông nam. Chính là Tốn sơn. Còn gọi là Phong môn. Thuật phong thuỷ cho rằng ở phương vị Địa hộ không nên xây lầu cao, (chỉ nên mở cửa hoặc xây phòng thấp, để sinh khí khỏi bị bế tắc. Chọn ngày Bính, ngày Tân trong tháng Mười Một mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. 2) Địa hình. Chỗ nước chảy đi hoặc chảy ra, cần uốn lượn ngoằn ngoèo. Xem mục Thủy khẩu.
Nhân môn : Phương vị. Chỉ hướng tây nam. Chính là Khôn sơn. Còn gọi là Long tràng. Phong thủy dương trạch cho rằng Nhân môn là nơi nên làm chuồng trâu chuồngngựa. Chọn ngày ất, ngày Canh trong tháng Hai mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. Có thuyết nói Nhân môn là "Lý quỉ môn" hoặc "Nữ quỉ môn", không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phương vị này.
Quí môn : Phương vị. Chỉ hướng đông bắc. Chính là Cấn sơn. Còn gọi là Quỷ Lộ. Tà khí, Sát khí phần nhiều từ phương này đến, cho nên tuyệt đối không mở cửa hoặc làm phòng ở. Nên xây tường cao che chắn sát khí. Chọn ngày Giáp, ngày Kỷ trong tháng Tám mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. Có thuyết gọi đây là "Biểu quỉ môn" , không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phương vị này.
Quí lộ : Phương vị. Tức Quỉ môn. Xem mục Quỉ môn.
Lục tương : Phương vị. Tương có nghĩa phu trợ. Chỉ trạng thái sinh vượng của ngũ hành. Thuật Phong thủy lấy Dưỡng, Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục tương, ở các vị trí lần lượt khác nhau như : Bính hỏa lấy Ngọ làm Đế vượng. Đinh kim lấy Mùi làm Quan đới. Khôn thổ lấy Thân làm Tràng sinh, Canh thổ lấy Dậu làm Mộc dục, Tân thủy lấy Tuất làm Quan đới, Canh mộc lấy Dần làm Lâm quan, Ất hỏa lấy Thai làm Quan đới. Căn cứ phương vị Lục tương, có thể dự đoán sự cát hung hưu vượng của sơn, thủy. Nói chung, phàm Long hoặc Thủy đến từ phương vị Lục tương thì đều là cát lợi. Phương vị sở tại của Lục tương thì biến đổi theo ngũ hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập tứ sơn ngũ hành thủy pháp).
Lục thế : Phương vị. Thế có nghĩa phế bỏ, suy bại. Thuật Phong thủy lấy Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục thế, ở các vị trí lần lượt khác nhau và biến đổi theo Ngũ hành, như Giáp thủy lấy Dần làm Bệnh, Tốn mộc lấy Thìn làm Mộ, Càn kim lấy Hợi làm Bệnh, Nhâm hỏa lấy Tý làm Thai, Quý thổ lấy Sửu làm Suy. Từ đó có thể suy ra cát hung của sơn thủy. Nói chung, phàm sơn, thủy tử phương vị lục thể đi tới thì không cát lợi. Từ phương vị Lục tương đến, rồi đi tới phương vị Lục thế, thì cát. Phương vị sở tại của Lục thế thì biến đổi theo ngu hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập tứ sơn ngù hành thủy pháp).
Tứ mộ : Phương vị. Chỉ 4 phương Thìn sơn, Tuất sơn, Sửu sơn, Mùi sơn trong 24 sơn, lần lượt nằm ở vị trí đông nam thiên đông 15 độ (Thìn), tây bắc thiên tây 15 độ (Tuất), đông bắc thiên bắc 15 độ (Sửu) tây nam thiên nam 15 độ (Mùi). Hạ táng mà toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phương vị Tứ mộ thì chỉ có hung, không có cát. Nêu thủy lưu chảy đi phương Tứ mộ, thì cát lợi. Xem mục Kim long.
Tứ tuyệt: Phương vị. Chỉ 4 phương Dần sơn. Thân sơn, Tỵ sơn, Hợi sơn trong 24 sơn, lần lượt nằm ở vị trí đông bắc thiên đông 15 độ (Dần), tây nam thiên tây 15 độ (Thân), đông nam thiên nam 15 độ (Tỵ), tây bắc thiên bắc 15 độ (Hợi). Hạ táng mà toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phương vị Tứ tuyệt thì đại hung.
Tứ hung : Phương vị. Phong thủy dương trạch coi phương vị sở tại của 4 hung tinh Lục sát, Ngũ quỉ, Họa hại. Tuyệt mệnh là Tứ hung. Ở vị trí Tứ hung thì phòng ốc nên thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Nếu Du niên của chủ nhà định cung Sinh tại phương vị Tứ hung, thì không nên động thổ sửa chữa.
Sinh khí tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Sinh Khí, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Tham Lang, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là quẻ Cấn. Rất tốt. Âm trạch phong thủy dùng sao này chi phương vị và hình dạng sơn.
Xem thêm mục Tham Lang. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thi Sinh Khí ở phương vị đông nam Tốn ; Đoài trạch thì Sinh Khí ở vị trí Càn, tây bắc. Tại vị trí có Sao Sinh Khí nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng nước, chuồng gia súc. Sinh Khí còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Diên niên tinh : Phương vị. Thương gọi tắt là Diên Niên, một trong cửu tinh. Tương ứng Vũ Khúc, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Đoài. Rất tốt. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Vũ khúc. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Càn trạch thì Diên Niên ở vị trí Khôn, tây nam; Chấn trạch thì Diên Niên ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Diên Niên nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng nước. Diên Niên còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. (Xem mục tương ứng)
Thiên ất tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Thiên ất, còn gọi là Thiên Y, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Cự Môn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Tốn. Tốt vừa.
Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Cự Môn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khôn trạch thì Thiên ất ở vị trí Khảm, chính bắc; Ly trạch thì Thiên Ất ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Thiên Ất, nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa; bô trí phòng ở, chuồng gia súc. Thiên ất còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Thiên y tinh : Phương vị. Tức sao Thiên ất. Xem mục Thiên ất tinh.
Lục sát tinh : Phương vị. Thường gọi tắt là Lục Sát, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao văn Khúc, ngũ hành thuộc thủy, bát quái là quẻ Ly, hung (xấu vừa). âm trạch phong thủy dung sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Văn Khúc. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Tốn trạch thì Lục Sát ở vị trí Đoài, chính tây; Cấn trạch thì Lục Sát ở vị trí Chấn, chính đông. Tại vị trí có sao Lục Sát, không nên xây phòng ốc cao lớn, mà nên bố trí nhà bếp, nhà vệ sinh. Lục Sát còn là một trong Xuyên cung cửu tinh.
Xem mục tương ứng.
Ngũ quỉ tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Ngũ Quỉ, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Liêm Trinh, ngũ hành thuộc hỏa, bát quái là quẻ Chấn, đại hung (rất xấu). Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Liêm Trinh. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thì Ngũ Quỉ ở vị trí Cấn, đông bắc, Ly trạch thì Ngũ Quỉ ở vị trí Đoài, chính tây. Tại vị trí có sao Ngũ Quỉ phòng ốc nên thấp bé, nên bố trí chuồng gia súc, nhà vệ sinh. Ngũ Quỉ còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Họa hại tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Họa Hại, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Lộc Tồn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Càn. Am trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Lộc Tồn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Cấn trạch thì Họa Hại ở vị trí Ly, chính nam; Đoài trạch thì Họa hại ở vị trí Khảm, chính bắc. Tại vị trí có sao Họa Hại phòng ốc nên thấp bé, nên bố trí nhà bếp, chuồng gia súc. Họa hại còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng. .
Họa hoạn tinh: Phương vị. Tức sao Họa Hại. Xem mục Họa Hại tinh.
Tuyệt mệnh tinh : Phương vị. Thường gọi tắt là Tuyệt Mệnh, một trong Cửu tinh. Tương ứng sao Phá Quân, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Khảm. đại hung (rất xấu). Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Phá Quàn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Chấn trạch thì Tuyệt Mệnh ở vị trí Đoài, chính tây; Cấn trạch thì Tuyệt Mệnh ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Tuyệt Mệnh, không nên xây phòng ốc cao lớn, chỉ nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Tuyệt Mệnh còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Phụ Bật tinh : Phương vị . Tên gọi gộp hai sao Tả Phù và Hữu Bật, một trong Cửu tinh. còn gọi là Phục Vị, hoặc Phục Ngâm. Tương ứng sao Phúc đức, tức bản cung, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là quẻ Khôn. Tốt vừa. Có thuyết coi là hung tinh. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Phụ Bật, Tả phù, Hữu bật. Dương trạch phong thủy lấy Phụ Bật làm chỗ ký gửi phúc đức của chủ nhà, chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thì Phụ bật vị trí Khảm, chính bắc; Khôn trạch thì Phụ Bật ở vị trí Khôn, tây nam. Tại vị trí có sao Phục Vị, tức có cổng chính của ngôi nhà thì mở cửa ở giữa Tam sơn; duy cấn sơn chính là Quỉ môn, chỉ có thể mở cửa ở hai bên Dần sơn, Sửu sơn. Phụ bật làm bản cung, còn là mộït trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Phục vị: Phướng vị. Chỉ phương vị ký gửi cung Phúc Đức của chủ nhân. Còn gọi là Phục Ngâm hoặc Bản cung, tương ứng sao Phu bật. Cổng lớn của dương trạch đều ở phương vị Phục Vị. Xem mục Phụ bật tinh.
Thái tuế : Phương vị. Thời xưa lấy phương đối xứng với Tuế tinh làm Thái tuế. Hung. Ở phương vị sở tại của Thái tuế, 1ớn thì như việc quốc gia cất quân, xây dựng cung điện mở mang bờ cõi, nhỏ thì như việc xây tường sửa nhà, đều phải né tránh nếu phạm tức thị rất xấu. Thái tuế cứ 12 năm sẽ trở lại một vòng, năm Tý ở phương Tý, năm Sửu ở phương Sửu phương vị đối xứng với Thái tuế ở dưới mặt đất gọi là Tuế Hạ, ý nói bên dưới Thái tuế.
Tuế phá : Phương vị. Phương đối xứng với Thái tuế là Tuế Phá, thực ra là Tuế tinh sở tại. Hung. Phương vị Tuế Phá sở tại không được động thổ xây dựng, thay đổi hôn nhân, xuất hành đi xa, phạm vào đó thi hao tổn tiền bạc, hại cho gia trưởng. Tuế phá 12 năm trở lại một vòng, năm Tý thì Tuế phá ở Ngọ, năm Ngọ thì ở Tý, vòng trong là 12 chi ghi năm, vòng ngoài là phương vị Tuế Phá sở tại.
Tuế hạ : Phương vị. Tức bên dưới sao Thái tuế. Thái tuế ở trên trời, phương vị đối ứng với nó ở dưới đất là Tuế hạ, thực ra là phương vị Thái tuế. Xem mục Thái tuế.
Thái tuế thổ: Phong tục thời xưa cho rằng phương vị sở tại của Thái tuế thì không được động thổ tu sửa hoặc xây dựng, nếu phạm sẽ rất xấu. Đồng thời nếu đào thấy trong đất một khối thịt, người trong nhà sẽ bị bạo bệnh mà chết, tức là Thái tuế thổ. Trước thuật thời cố có nhiều ghi chép về điều này. Gần đây ở một huyện nọ thuộc tỉnh Cam Túc có đào được một khối thịt, giám định khoa học cho biết đó là một loại khuẩn mô trắng hiếm thấy gọi là "Thái tuế khuẩn". E rằng đó là "Thái tuế thổ" mà cổ nhân từng gọi.
Đại tướng quân : Phương vị. Phương mà Thái tuế "ăn" (che lấp) gọi là Đại tướng quân. Hung. Có hai thuyết. Thuyết thứ nhất nói rằng không được động thổ tu sửa hoặc xây dựng xung phạm Đại tướng quân. Thuyết thứ hai cho rằng nếu động thổ xay dựng ở phương vị Thái tuế, thì người ở phương vị Đại tướng quân sẽ bị tai hoạ. Đai tướng quân thường cư ở Tứ chính, ba năm thay đổi một lần. Ví dụ, nếu Thái tuế ở phương Dần, Mão, Thìn, thì Đại tướng quân ở vị trí Tý, chính bắc. Trong đồ hình, vòng ngoài là nơi sở tại của Đại tướng quân, vòng trong là phương vị sở tại của Thái tuế.
Lai lộ để lộ : Phương vị . Phàm người ta di chuyển chỗ ở, nơi từ đó dời đi gọi là Lai lộ, nơi sẽ điều gọi là Để lộ. Ví dụ chuyển từ phương nam lên phương bắc, thì phía nam của nhà ở là Lai lộ, phía bắc của nhà ở là Để lộ. Sửa nhà không nên ở hướng Để lộ, sẽ khiến người ở bất an; còn sửa ở hướng Lai lộ thì không sao.
Trùng âm trùng dương : Hương vị. 24 sơn lấy từ truất Sơn thuận chiêu kim đồng hồ đến Ất sơn là dương, từ Thìn sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Tân sơn là âm. Lại lấy 12 sơn là Càn, Giáp Khôn, Ất, Khảm (Ty), Quý, Thân, Thìn, Ly (Ngọ), Nhâm, Dần, Tuất lam dương; lấy 12 sơn Cấn, Bính, Tốn, Tân, Chấn (Mão), Canh, Hợi, Mùi, Đoài (Dậu), Đinh, Ty, Sửu làm âm. Thuật Phong thủy cho rằng dương hoặc âm không nên vượng một ình, phải phối hợp với nhau mới là tốt, bởi vậy chủ trương dương trạch nên tu sửa ở phương âm, âm trạch nên tu sửa ở phương dương.
Nếu dương trạch lại tu sửa ở hướng dương, gọi là trùng dương, âm trạch tu sửa ở phương âm, gọi là trùng âm, đều không tốt.
Tử khí : Phương vị. Chỉ phương vị cố định nào đó đối xứng với Sinh Khí trong xây dựng nhà ở. Trong một năm, vị trí của Tử khí thay đổi tùy từng tháng. Tử khí vào tháng Giêng đóng ở Ngọ, Đinh (chính nam và nam thiên sang tây 15 độ). Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tháng Hai ở Mùi, Khôn; tháng Ba ở Thân, Canh , tháng Tư ở Dậu, Tân; tháng Năm ở Tuất, Càn; tháng Sáu ở Hợi, Nhám, tháng Bảy ở Tý, Quý; tháng Tám ở Sửu, Cấn. tháng Chín ở Dần, Giáp; tháng Mười ở Mão, ất; tháng Mười một ở Thìn, Tốn, tháng Chạp ở Tỵ, Bính. Mỗi năm Tử khí khởi đầu từ chính nam, thuận chiều kim đồng hồ xoay một vòng, ở vị trí đối diện với Sinh khí. Nếu tu sửa hoặc xây dựng nhà ở mà xung phạm Tử khí, thì sẽ bị tai họa.
Thổ khí : Phương vị. Phong thủy dương trạch cho rằng tu sửa hoặc xây dựng nhà ở sẽ động thổ, làm kinh động thổ khí. Thổ khí bị kinh động, một phương vi cố định nào đó bị xung phạm, thì người sống ở phương vị ấy sẽ gặp tai họa. Ở phương vị đo cần được yểm, trấn. Phương vị thổ khí bị xung phạm trong một năm sẽ khác nhau tùy từng tháng: tháng Giêng ở Đinh , Mùi (chính bắc và tây bắc thiên sang bắc 15 độ). Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tháng hai ở Khôn, tháng ba ở Nhâm. Hoả ; tháng Tư ở Tân, Tuất; tháng năm ở Càn; tháng Sáu ở Dần, Giáp, tháng Bảy ở Quý, Sửu; tháng Tám ở Cấn; tháng Chín ở Bính, Tỵ, tháng Mười ở Thìn, Ất; tháng Mười một ở Tốn; tháng Chạp ở Thân, Canh.
Chỉ có 4 phương vị chính nam (Ngọ), chính bắc (Tý), chính đông ( Mão), chính tây (Dậu) là thổ khí không bị xung phạm.
Nhị thập tứ sơn ngũ hành thủy pháp Phương vị. Phương pháp phối hợp 24 sơn với Chính Ngũ hành, Tràng sinh Ngũ hành và Cửu tinh. Căn cứ phương vị của Lai long để biểu thị cát hung của phương vị thủy chảy đến và chảy đi. Trình tự cụ thể như sau: trước hết đem 24 sơn phối thuộc Ngũ hành theo ca quyết "Giáp dần thìn tốn đại giang thủy, tuất khảm (Tý ), thân tân thủy tổng đồng. Chấn ( mão) Cấn tỵ sơn người thuộc mộc, ly ( ngọ) nhâm bính ất hỏa vi tông". (Thanh nang hải giác kinh ). Khi đã định tính chất Ngũ hành của 24 sơn ất sẽ phân chia 5 cục kim mộc, thủy, hỏa, thổ, khởi Tràng sinh từng cục, đồng thời tạp phối Cửu tinh, tổng cộng được 24 vị trí, tương ứng 24 sơn. Trong đó kim cục khởi Tràng sinh ở Tỵ sơn, mộc cục khởi Tràng sinh ở Hợi sơn; thủy cục và Thổ cục khởi Tràng sinh ở Thân sơn; hỏa cục khởi Tràng sinh ở Dần sơn. Tràng sinh Ngũ hành phối hợp với Cửu kinh (thực ra chỉ với 7 sao) xếp theo trật tự thuận và trạng thái cát hung như sau : Tràng sinh (cát), Tham Lang (cát); Mộc dục (hung), Văn khúc (hung), quan đới (hung), Văn khúc ( hung), lâm quan (cát) Vũ khúc ( cát), Đế vương (cát), Vũ khúc (cát ), Suy ( hung ), Cự môn (hung), Bệnh (hung), Liêm trinh (hung), Tử ( (hung), Liêm trinh (hung), Mộ (hung ), Phá quân (hung), Tuyệt (hung), Lộc tồn (hung) Dưỡng (cát), Tham lang (cát). Lấy 24 vị trí, khởi từ Tràng sinh, thuận chiều kim đông hồ, sắp xếp 24 sơn tương ứng. Câu ca là: "Dưỡng sinh Tham lang vị, Quan đới Mộc dục văn, Vũ khúc làm quan vượng, phùng suy thị Cự môn. Liêm trinh đa bệnh tử, đại mộ thuộc Phá quân, tuyệt thai thị Lộc tồn, thất diệu nhất khởi phân". (Thanh nang hải giác kinh). Do 5 cục khởi Tràng sinh khác nhau nên Tràng sinh Ngũ hành sau khi phối với Cửu tinh tại 24 sơn tương ứng mỗi cục cũng khác nhau. Dưới đây chỉ nêu ví dụ thủy cục và thổ cục khởi Tràng sinh. Các cục khác có thể suy diễn tương tự. Đã biết phương vị của 24 sơn tương ứng với Tràng sinh Ngũ hành, Cửu tinh, thì có thể suy ra phương vị đến và đi nào của thủy là cát hoặc là hung. Nguyên tắc cơ bản là nên từ phương sinh vượng (phương cát ) chảy đến, và chảy đi phương tử tuyệt (phương hung). Ví dụ, Tý sơn lai long. Về Ngũ hành tý sơn thuộc thủy, thủy cục khởi Tràng sinh tại Thân, nên phàm là 4 phương vị Canh sơn (tương ứng Tham lang), Mùi sơn (tương ứng Dưỡng), Khôn sơn (tương ứng Than Lang), Thân sơn (tương ứng Tràng sinh ), mà có thủy chảy đến, thì đều chủ có nhiều phú quý; còn phương vị Dậu sơn (tương ứng Mộc dục), Tân sơn (tương ứng Văn khúc) thủy chảy xộc đến thì chủ phụ nữ trong nhà dâm loạn; lai thủy phương vị Cấn sơn (tương ứng Mộ) chủ người trong nhà bị hình phạt; lai thủy phương vị Can sơn (tương ứng Văn khúc), Tân sơn (tương ứng Văn khúc), chủ trong nhà có dịch bệnh.
Nếu lai thủy chảy về phương sinh vượng, thì không có gì đáng lưu luyến đất này. Nếu thủy chảy đi về hướng phương vị Bính sơn (tương ứng Lộc tồn) , Tốn sơn (tương ứng Phá quân), chủ đời sau có công khanh. Ca nói : "Tý sơn địa, Canh Mùi cập Khôn Thân. Tứ vị triều lai đa phú quí, Dậu tân xạ nhập phụ nhân dâm. Long (Thìn) tẩu nhập, định tao hình. Lưu Phá, Sinh, Vượng bất tu tầm. Văn khúc triều lai động ôn hỏa, như lưu Bính, Tốn xuất công khanh, lai khứ yếu phân minh" (Thanh nang hải giác kinh). Nói chung chỉ cần nhớ rằng thủy từ thường sinh vượng chảy đến và chảy đi về hướng tử tuyệt là cát thì đủ rồi.
Tràng sinh Ngũ hành : Tức Ngũ hành ký sinh 12 c ung. Vốn chỉ trạng thái khác nhau trong 12 tháng của Ngũ hành theo trình tự Tuyệt, Thai, Dưỡng, Tràng sinh, Mộc Dûục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ. Thuật Phong thủy mượn các tên gọi ấy để chỉ trạng thái cát hung của phương vị, trong đó Tràng sinh, Dưỡng, Lâm quan, Đế vượng là cát, còn lại đều hung. Cũng có khi coi Quan đới, Mộc dục cũng là cát. Tràng sinh Ngũ hành trong thuật Phong thủy chỉ phương vị, tùy Ngũ hành sở thuộc khác nhau của 24 sơn mà biến đổi, trong đó tác dụng chủ yếu là biểu thị phong vị thuỷ lưu chảy đến và chảy đi. Xem thêm mục Nhị thập tứ sơn Ngũ hành thủy pháp.
Đại du niên biến hào pháp : phương pháp tính toán phương vị bát quái Cửu tinh ký gửi cung phúc đức của chủ nhà dùng để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà. Trình tự cụ thể như sau. Trước hết, căn cứ phép Tam nguyên tính xem mệnh của chủ nhà ký gửi ở cung nào (tên quẻ ), tức cung Phúc đức, hoặc còn gọi là Bản cung; sau đó khởi từ bản cung tính Cửu tinh theo trật tự thuận cùng phương vị sở tại. Phải sử dụng phép biến hào tức là phải biến đổi ba hào trên, giữa, dưới của quẻ ký gửi Bản cung, hào dương thì biến thành âm, hào âm thì biến thành dương, từ đó mà biết được phương vị Cửu tinh. Lấy quẻ Càn làm ví dụ. Nếu mạng của chủ nhà ký gửi ở quẻ Càn, biến hào trên sẽ thành quẻ Đoài, là Sinh khí; biến hào trên và hào giữa, sẽ thanh quẻ Chấn là Ngũ quỉ; biến hào trên và hào dưới sẽ thành quẻ Khảm, là Lục sát; biến hào giữa sẽ thành quẻ Ly, là Tuyệt mệnh. biến hào giữa và hào dưới, sẽ thanh quẻ Cấn, là Thiên ất hoặc còn gọi là Thiên y; biến hào dưới, sẽ thành quẻ Tốn, là Họa hại; biến cả ba hào sẽ thành quẻ Khôn, là Diên niên; cả ba hào đều không biến thì vẫn là quẻ Càn, là Phụ bật, hoặc còn gọi là Phục vị, tức cung Phúc đức, hoặc Bản cung. Trong Cửu tinh, lấy Sinh khí, Diên niên, Thiên Ất, Phụ bật làm 4 cát tinh; con Họa hai, Lục sát, Ngũ quỉ, Tuyệt mệnh làm 4 hung tinh; cũng có thuyết coi Phụ bật là hung tinh. Do phương vị bát quái đã định, tức là cung Phúc đức sở tại, ta đem Cửu tinh (thực ra chỉ có 8 sao) sắp xếp theo trật tự thuận trên bề mặt 8 vị trí của nhà ở (Tứ chính và Tứ ngung), thì có thể phán cát hung, chỉ đạo việc xây dựng nhà ở. Vì sự biến hào quá rắc rối, cho nên các trước tác Phong thủy nói chung đưa ra cách bố trí thứ tự Cửu tinh bát quái như sau : Càn trạch là Càn ( Phúc đức, Phụ bật, Phục vị, từ đây xuống dưới cũng như vậy), Lục sát, Thiên Ất, Ngũ quỉ, Hoạ hại, Tuyệt mệnh, Diên niên, Sinh khí, Khảm trạch là Khảm, Ngũ quỉ, Thiên ất, Sinh khí, Diên niên, Tuyệt mệnh, Họa hại, Lục sát. Cấn trạch là Càn, Lục sát, tuyệt mệnh, họa hại, Sinh khí, Diên niên, Thiên Ất, Ngũ quỷ. Chấn trạch là Chấn, Diên niên, Sinh khí, Họa hại, Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ. Thiên ất, Lục sát. Tốn trạch là Tốn, Thiên ất, Ngũ quỷ, Lục sát, Hoạ hại, Sinh khí, Tuyệt mệnh, Diên niên, Ly trạch là Ly, Lục sát, Ngũ quỷ, tuyệt mệnh, Diên niên, Hoạ hại, Sinh khí, Thiên ất. Khôn trạch là khôn, Thiên ất, Diên niên, Tuyệt mệnh, Sinh khí, Hoạ hại, Ngủ quỷ, lục sát, Đoài trạch là đoài, Sinh khí, Hoạ hại, Diên niên, Tuyệt mệnh, Lục sát, Ngũ quỷ, Thiên Ất. Đối chiếu trật tự sắp xếp trên, có thể phân biệt phương vị cát hung của 8 phía nhà ở.
Tam nguyên pháp: Phương pháp căn cứ trình tự nhất định mà tính toán bát quái ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Còn gọi là "Phúc nguyên Pháp". Tam nguyên tức là thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên. Lục thập (60) Giáp Tý là một nguyên. Tam nguyên cộng là 180 năm. Trước hết cần biết niên đại khởi đầu hoặc chấm dứt ở Giáp Tý thượng nguyên, trung nguyên hay hạ nguyên. Qui định rằng năm 1504 (năm thứ 17 niên hiệu Hoằng Trị, Giáp Tý, đời nhà Minh ) là Thượng nguyên Giáp Tý, năm 1564 (năm thứ 13 Gia Tĩnh, Giáp Tý, đời nhà Minh) là Trung nguyên Giáp Týù, năm 1624 (năm thứ 4 Thiên Khải, Giáp Tý, đời nhà Minh ) làm hạ nguyên Giáp Tý. Từ năm 1504 trở về trước và từ năm 1684 trở về sau, cứ 180 năm là một Tam nguyên mà tính mãi mãi. Ví dụ, năm 1864 1à Thượng nguyên Giáp Tý, năm 1924 là Trung nguyên Giáp Tý, năm 1984 là Hạ nguyên Giáp Tý, năm 2044 lại là Thượng nguyên Giáp Tý. Khi đã biết tam nguyên Giáp Tý, căn cứ giản đồ Dã mã Khiêu ta tính trên các ngón tay, theo khẩu quyết : "Dã mã khiêu giản tấu, tòng Dân số đáo Cẩu (Tuất). Nhất niên cách nhất vị, bất dụng Hợi, Tý, Sửu". Khẩu quyết phối hợp Tam nguyên pháp : "Thượng nguyên giáp tý nhất cung liên, Trung nguyên khởi Tốn hạ Đoài gian. Thượng ngũ trung nhị hạ bát nữ, nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên"(Dương trạch thập thư). Ngoài ra qui định nam ở 5 trung thì ký gửi tại Khôn, nữ ở 5 trung thì ký gửi tại Cấn. Cách tính cụ thể như sau : trước hết tra xem can chi nam sinh của chủ nhà nam hoặc nữ, xem thuộc nguyên nào trong tam nguyên; sau đó tính theo khẩu quyết. Nếu chủ nhà là người sinh năm Bính Dần thượng nguyên, thì áp dụng câu "Thượng nguyên giáp tý nhất cung liên", tức là nam sinh trong 60 năm thượng nguyên, thì khởi nhất Khảm ở vị trí Dần, nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên, tức là nam thì tính số theo chiều nghịch , nữ thì đếm số theo chiều thuận, vậy sau 1 sẽ đến 9 Ly ở vị trí Tuất, là năm Ất Sửu, đó là do "nhất niên cách nhất vị, bất dụng Hợi Tý Sửu", cho nên phải chuyển tới 9 Ly, vị trí Tuất. Tính nghịch tiếp đến số 8 là Cấn, vị trí Dậu, là năm Bính Dần, ắt sẽ biết cung Phúc đức của chủ nhà là ở Cấn. Nếu chủ nhà là người sinh năm Qúy Hợi, thuộc Hạ nguyên, trung nguyên khởi Tốn, Hạ Đoài gian", tức là nam giới sinh vào Trung nguyên, thì năm Giáp tý khởi tính từ số 4 ở vị trí Tỵ, còn người sinh vào Hạ nguyên thì khởi tính từ số 7 Đoài, ở vị trí Thân. Vậy là năm Giáp Tý hạ nguyên tính từ sô 7 Đoài ở Thân, đếm nghịch đến 6 càn ở Mùi là năm Ất Sửu, đến 5 trung ở ngọ là năm Bính Dần, đến 4 Tốn ở Ly là năm Đinh Mão, đến 3 Chấn ở Thìn là năm Mậu Thìn, đến 2 khôn ở mão là năm Kỷ Tỵ, đến 1 Khảm ở Dần là năm canh Ngọ, nhảy sang 9 Ly ở Tuất ( vì bỏ qua Hợi tý sửu) là năm Tân Mùi đến 8 Cấn ở Dậu là năm Nhâm Thân, tiếp đến 7 Đoài ở Thân là nărn Quý Dậu. Do năm Quý Hợi ở cuối 60 giáp tý, nếu cứ tính lần lượt từng năm một như thế thì quá phiền toái. Trên bàn tay Dã mã khiêu có 9 vị trí, trong 60 giáp tí cứ 10 năm thì thiên can lặp lại một lần, mỗi lần một vị trí, thực tế mỗi vị trí vừa vặn cách nhau 1o năm; do đó ta có thể đơn giản hóa quá trình tính toán. Như vậy, khi tính nghịch đến 6 Càn ở Mùi là năm Quý Mùi cách năm Quý Dậu 10 năm, đến số 5 trung ở Ngọ là năm Quý Ty, đến số 4 Tốn ở Tỵ là năm Quý Mão, nên số 3 Thìn ở thìn là năm Quý Sửu, đến số 2 Khôn ở mão sẽ là năm Quý Hợi, ắt ta biết Phúc đức của chủ nhà ấy nằm ở Khôn. Nếu chủ nhà là nữ giới, theo câu : "Thượng ngũ trung nhị hạ bát nữ" tức là Nữ sinh vào thượng nguyên giáp ty thì khởi 5 trung ở Ngọ, sinh vào trung nguyên giáp tý thì khởi tính 2 khôn ở mão, sinh vào hạ nguyên giáp Tý thì khởi Bính 8 Cấn ở Dậu. Nếu nữ chủ nhà sinh năm ất Dậu thuộc trung nguyên, thì khởi tính 2 Khôn ở Mão, rồi "nam nghịch nữ thuận", vậy theo chiều thuận.
Xin xem tiếp bài 2. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét