a/ Phương pháp thành môn là phép phụ trợ cho việc tọa Sơn lập Hướng.
Quẻ Thành môn có 2 loại : Thành môn chính và Thành môn phụ.
Về lý Khí , Thành môn chính hỗ trợ cho chính hướng 60 % Khí.
Thành môn phụ hỗ trợ cho chính hướng 40 % Khí.
Dựa vào Lạc thư, khi biết hướng nhà thì 2 quẻ 2 bên hướng là quẻ Thành môn.
Thành môn chính là quẻ kết hợp được với số của Hướng sẽ phù hợp tạo thành hành.
VÍ DỤ : Hướng số 1.
1 Thủy, 6 Kim . Kim sinh Thủy nên cung 6 là quẻ Thành môn chính.
1 Thủy , 8 Thổ . Thổ khắc Thủy nên cung 8 là quẻ Thành môn phụ.
Dựa theo nguyên vận khác nhau để xây dựng nhà ở , tọa Sơn lập Hướng là phải tìm được " Vượng Sơn - Vượng Hướng " , làm cho gia nghiệp thịnh vượng . Nếu lập được " Vượng Sơn - Vượng Hướng " , sẽ co được một loại vượng Khí phụ trợ , giúp đỡ thêm thì đã vượng lại càng thêm vượng. Nếu nhà lập được không phải " Vượng Sơn - Vượng Hướng " , nhưng được Khí của 2 bên hướng trợ giúp , thì dù hướng không đẹp vẫn có thể phát đạt, giống như đang khó khăn nhận được sự giúp đỡ. . Sức mạnh phụ trợ này chính là tìm được vượng Khí của thành môn bằng phương pháp Thành môn.
b/ Vượng Khí của Thành môn đến từ phương nào ?
* Lập hướng Chấn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Cấn và quẻ Tốn.
* Lập hướng Cấn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Chấn và quẻ Khảm.
* Lập hướng Khôn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Ly và quẻ Đoài.
* Lập hướng Càn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Khảm và quẻ Đoài.
* Lập hướng Tốn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Chấn và quẻ Ly.
Bát quái có tất cả 24 Sơn, Hướng , mỗi quẻ có 3 hướng , mỗi hướng phải chọn 2 bên nó làm Thành môn . Lập Hướng theo Nguyên long nào thì quẻ Thành môn phải chọn 2 bên thuộc nguyên long đó .
Ví dụ : Lập Hướng thuộc Thiên nguyên long thì phải chọn 2 bên Thiên nguyên long đó làm Thành môn.
Có như vậy mới giữ được " Khí thuần cùng nguyên " . Khí phải thuần nhất, cùng nguyên , không pha tạp mới có hiệu quả , nếu không dễ gặp tai họa.
* Lập hướng Tý, Thành môn chính ở Càn , Thành môn phụ ở Cấn.
* Lập hướng Quý, Thành môn chính ở Hợi, Thành môn phụ ở Dần.
* Lập hướng Nhâm , Thành môn chính ở Tuất , Thành môn phụ ở Sửu.
* Lập hướng Càn , Thành môn chính ở Tý , Thành môn phụ ở Dậu.
* Lập hướng Hợi , Thành môn chính ở Quý , Thành môn phụ ở Tân.
* Lập hướng Tuất , Thành môn chính ở Nhâm , Thành môn phụ ở Canh.
* Lập hướng Dậu , Thành môn chính ở Khôn , Thành môn phụ ở Càn.
* Lập hướng Tân , Thành môn chính ở Thân, Thành môn phụ ở Hợi.
* Lập hướng Canh , Thành môn chính ở Mùi, Thành môn phụ ở Tuất.
* Lập hướng Khôn , Thành môn chính ở Dậu , Thành môn phụ ở Ngọ.
* Lập hướng Thân , Thành môn chính ở Tân , Thành môn phụ ở Đinh.
* Lập hướng Mùi , Thành môn chính ở Canh , Thành môn phụ ở Bính.
* Lập hướng Ngọ , Thành môn chính ở Tốn , Thành môn phụ ở Khôn.
* Lập hướng Đinh , Thành môn chính ở Tỵ, Thành môn phụ ở Thân.
* Lập hướng Bính , Thành môn chính ở Thìn , Thành môn phụ ở Mùi.
* Lập hướng Tốn , Thành môn chính ở Ngọ , Thành môn phụ ở Mão.
* Lập hướng Tị , Thành môn chính ở Đinh , Thành môn phụ ở Ất.
* Lập hướng Thìn , Thành môn chính ở Bính , Thành môn phụ ở Giáp.
* Lập hướng Mão , Thành môn chính ở Cấn , Thành môn phụ ở Tốn.
* Lập hướng Ất, Thành môn chính ở Dần , Thành môn phụ ở Tị.
* Lập hướng Giáp , Thành môn chính ở Sửu , Thành môn phụ ở Thìn.
* Lập hướng Cấn , Thành môn chính ở Mão , Thành môn phụ ở Tý.
* Lập hướng Dần , Thành môn chính ở Ất , Thành môn phụ ở Quý.
* Lập hướng Sửu , Thành môn chính ở Giáp , Thành môn phụ ở Nhâm.
c/ Không phải hai bên của hướng nào cũng có Thành môn đáng chọn.
Về nguyên tắc, 2 bên của một Hướng xác định , đều tốn tại Thành môn chính và Thành môn phụ. Nhưng vì âm , dương của Hướng tinh Thiên bàn bay đến 2 bên khác nhau sẽ tạo ra 3 tình hướng :
* Một là hai bên của Hướng tồn tại Thành môn chính và thành môn phụ.
* Hai là Chỉ có 1 bên của Hướng có Thành môn chính hoặc phụ, còn bên kia không có .
* Ba là 2 bên đều không có Thành môn nào có thể chọn .
Tại sao lại xuất hiện 3 tình hướng này ? Đó là do nguyên nhân tương quan của 2 bên tạo nên.
a/ Thứ nhất là do Tam nguyên của Hướng được xác lập tạo nên . Hướng được lập có tam nguyên là một trong cac nguyên ( Thiên - Địa - Nhân nguyên long ) . Nếu hướng là Thiên nguyên long cũng sẽ đòi hỏi Thành môn 2 bên Hướng là Thiên nguyên long. Các trường hợp Hướng là Nhân nguyên long và Địa nguyên long cũng tương tự như vậy.Chỉ khi đạt được yêu cầu đó mới có thể giữ được một thứ khí cùng nguyên..
b/ Thứ 2 là do tính chất âm - dương của cung gốc Hậu Thiên bát quái của phi tinh Thiên bàn hai bên quyết định.
Ví dụ : Lập sơn Tuất - Hướng Thìn , Thành môn 2 bên hướng Thìn là Giáp và Bính , cùng là Địa nguyên long đảm bảo chắc chắn được một loại khí cùng nguyên.
Tính Thành môn vượng hay suy .
Ví dụ : Nhà tọa Canh - Hướng Giáp - Vận 3.
Thành môn chính đưa số 6 nhập trung cung.
Thành môn phụ đưa số 2 nhập trung cung.
Thành môn chính và Thành môn phụ đều vượng khí.
Luận : 1/ Thướng Sơn - Hạ Thủy ( xấu ).
2/ Phục ngâm Sơn tinh.
3/ Hướng thủ đoạt hồn( gây chết chóc ).
4/ Nhà này muốn tốt cần phải mở cửa tại cung Tốn ( 2 ) , xung quanh có đường đi để khí vào vì Thành môn chính và Thành môn phụ đều vượng khí, để hỗ trợ cho hướng chính.
Thành môn ngầm : Hướng có số 5 ở bên phải hoặc bên trái hướng nhà gọi là Thành môn ngầm.
Thành môn quyết: là thông qua tứ vị khởi cha mẹ, nhìn ra cách bí mật của mạch để lập toạ hướng. Quyển sách này vốn dựa vào hướng thượng tả và hữu hai cung, những vận phi lâm khác có thể dựa vào nghịch ái đương lệnh vượng khí đến cung này, tức là có thể dùng " Thành môn quyết". Phương pháp này là dùng để bổ cứu cho sơn hướng mà không phải đương nguyên; âm trạch dùng để thu nhân thuỷ, dương trạch dùng để mở cửa, an phúc thần, bàn làm việc. Nếu sử dụng những điều này thì phát tài rất nhanh chóng. Căn cứ vào kinh nghiệm của tác giả, lấy vượng khí và sinh khí của hướng tinh, những phương của nước mà sao di chuyển tới có, mới là " Thành môn quyết" chuẩn nghiệm nhất. "Thành môn quyết" thực sự là tác giả dùng để khảo cứu long mạch, định toạ hướng. Người đọc cần suy nghĩ cẩn thận " Ngọc chiếu kinh". "Ngũ tinh nhất quyết phi chân thuật, thành môn nhất quyết tối vi Cấn; Khi nhận biết được ngũ tinh Thành môn quyết, thì việc xây dựng nhà cửa hay yên phần mồ mả mới là cát.
Phép mở cửa dùng “thành môn quyết”
Đối với những nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh có hướng bị kiêm hướng, hướng không có vượng khí tới hướng hoặc có vượng khí tới hướng nhưng muốn mở thêm cửa phụ tại những cung có hướng tinh là sinh, tiến khí thì ta cần dùng “thành môn quyết” còn gọi là "bí quyết thành môn" để mở cửa.
Điều cần lưu ý là khi dùng “ thành môn quyết”để mở cửa phụ là vấn đề hoà hợp âm dương. Thí dụ: cửa chính tại sơn dương thì cửa phụ tại sơn âm và ngược lại. Có như thế thì mới được lâu dài, bằng không thí chỉ được lúc đầu mà thôi.
Ngoài ra còn một số trường hợp sau:
1)_ Nhà bị kiêm hướng hoặc hướng không có vượng khí. Thí dụ: nhà GIÁP hướng CANH vận 8. Khi an hướng bàn thì tử khí tam bích(3) tới hướng. Nếu mở cửa tại CANH thì gặp tử khí. Nay dùng bí quyết thành môn xét cung DẬU: Vận tinh 1 nhập trung cung, DẬU là thiên nguyên, thiên nguyên của 1 là TÝ, TÝ tính chất là âm nên 1 đi nghịch, vượng khí 8 tới DẬU. Vậy nếu mở cửa tại dậu thì sẽ có vượng khí tới cửa. Điều này sẽ làm vượng những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Cần lưu ý cửa chỉ để trọn trong cung đó mà thôi, không nên cho lấn qua cung khác vì lúc đó âm dương lẫn lộn mà mất đi cái tốt đẹp.
2)_ Nhà qua vận sau không còn vượng khí. Thí dụ: Nhà TUẤT hướng THÌN vận 7 có cửa tại TUẤT được vượng sơn vượng hướng, nay qua vận 8 thì 7 trở thành thoái khi. Nếu có đổi vận thì cũng không tốt đẹp vì tinh bàn vận 8 tử khí 6 tới hướng. Nay không dùng cửa tại THÌN nữa mà mở cửa khác tại TỐN (hoặc TỴ), dùng bí quyết thành môn với vận bàn 8 nhập trung cung, vận tinh tại TỐN là 7, TỐN là thiên nguyên, thiên nguyên của 7 là ĐOÀI, ĐOÀI âm nên 7 đi nghịch, vượng khí 8 tới TỐN
3)- Nhà có hướng tinh là sinh vượng khí nhưng mở cửa không đúng cách thì cũng không nhận được vượng khí vào nhà mà làm ăn suy bại. Thí dụ: nhà tọa Càn hướng Tốn. Thay vì mở cửa ở Tốn hay Tị, nay lại mở ở Thìn. Xét cung Đông Nam vận 8 có vận tinh 7. Thìn là địa nguyên long, Địa nguyên long của thất xích là Canh. Canh dương nên đi thuận thì tử khí lục bạch đến cung Thìn. Vậy nhà không nhận được vượng khí.
4)- Nhà Tuy không được vượng khí đến hướng nhưng nếu mở cửa có khí thành môn thì vẫn không đến nỗi suy bại. Thí dụ nhà tọa Thìn hướng Tuất vận 8. bị Thướng sơn hà thủy, có hướng tinh 1 đến hướng. 1 tuy là tiến khí nhưng còn xa. Nếu mở cửa tại cung Càn hoặc Hợi thì vẫn tốt đẹp một thời.
5)_ Nhà đã được cửa có vượng khí nay muốn mở thêm cửa phụ tại hướng có hướng tinh là sinh hoặc tiến khí. Thí dụ: Nhà SỬU hướng MÙI vận 8. Tinh bàn có vượng tinh 8 tới hướng, sao sinh khí 9 tới hướng BẮC. Nay muốn mở cửa tại BẮC ta áp dụng bí quyết thành môn. MÙI thuộc địa nguyên long, địa nguyên long tại hướng BẮC là NHÂM. Vận tinh tại BẮC là 4, lấy 4 nhập trung cung bay nghịch (địa nguyên long của 4 là THÌN, tính chất của THÌN là âm) vượng khí 8 tới NHÂM. Để ý ta thấy tính chất của MÙI là âm và tính chất của NHÂM là dương
rất hay
Trả lờiXóa