CHUYỆN HỒN MA THÀY LUYỆN NGẢI. CHƯƠNG 8.
CHƯƠNG
8. NHỮNG THÁNG NGÀY Ở BẢN TAM – CHIỀNG NGÀM – THUẬN CHÂU.
Những người lính năm xưa về thăm Bản Tam.
Sau gần 1 ngày hành quân, chúng tôi về
đóng quân tại Bản Tam thuộc Xã Chiềng Ngàm – Thuận Châu – Sơn La. Xã Chiềng
Ngàm nằm ở phía Đông Bắc của huyện, diện tích tự nhiên 49,64 km2, dân số 5.181
người, mật độ dân số 104 người/km2. Gồm 3 dân tộc chính: Thái, Mông, Khơ Mú. Xã
có 16 bản: Sẳn, Búa Bon, Pù, Mùa, Chao, Nong Cạn, Quây, Huối Sói, Tam, Mện, Nà
Cưa, Ngàm Tợ, Ngàm Nưa, Lọng Bon, Pú Bâu, Huổi Lán, với 1.089 hộ. Đây là số liệu hiện nay , thời
chúng tôi đóng quân , dân số chắc chỉ khoảng một phần tư.
Trời về chiều , sương giăng mịt mù , bốn
xung quanh toàn là rừng núi xanh đen. Thật đúng là : Rừng núi âm u – Thày bu
kính mến như những dòng đầu những lá thư lính gửi về quê nhà.Trước doanh trại
sơ sài của chúng tôi là một dòng suối lớn , nước chảy khá xiết . Một chiếc cầu
treo đơn sơ nối giữa hai bờ ngăn cách một bên là doanh trại đơn vị chúng tôi ,
một bên là bản của người Thái có tên là Bản Tam. Từ chỗ này ra đến ngoài Chiềng
Pấc là chỗ đường 6 đi qua khoảng 15 km và đường ra đó chỉ là con đường mòn của
dân Thái. Chúng tôi sớm ổn định nơi ăn ở và bắt tay vào công việc. Nhiệm vụ của
đơn vị tôi về đây là phá đá , mở đường từ Bản Tam ra Quốc lộ 6. Trung đội tôi được giao nhiệm vụ cung cấp đá để
làm đường , các trung đội còn lại làm nhiệm vụ mở đường .
Trung đội chúng tôi tiến hành nổ mìn
phá đá tại một quả núi nhỏ bên đường. Cứ từng cặp 2 người , một chòong, một búa
, chúng tôi đục lỗ trên các phiến đá để tra thuốc nổ. Sau mỗi nhát búa tạ giáng
xuống , người cầm chòong lại xoay đi một chút để tạo thành một cái lỗ tròn. Thỉnh
thoảng lại phải dùng cái múc bột làm bằng tre để múc bụi đá lên khỏi lỗ. Cứ như
vậy từ sáng sớm tới trưa , chúng tôi khoan được một cái lỗ sâu hơn 1 m, rộng
khoảng 3-4 cm. Thỉnh thoảng người cầm búa trật tay lại phang ngay vào tay người
cầm chòong tóe máu. Sau khi có lỗ khoan , chúng tôi dồn thuốc nổ TNT xuống hố,
tới gần miệng hố thì thả kíp mìn có gắn dây cháy chậm vào rồi dùng bột đá lấp
chặt miệng lỗ lại. Khi tất cả dồn mìn xong , trung đội chỉ để lại hiện trường
vài người nhanh nhẹn để đốt dây cháy chậm. Thông thường dây cháy chậm phải để
chiều dài khoảng 1,5 m để có thời gian chạy tới chỗ tráng đá văng. Nhiều khi ,
do phải tiết kiệm nên trung đội trưởng chỉ cho cắt dây dài khoảng 1- 1,2 m nên
thật là nguy hiểm cho những người đốt dây cháy chậm. Cũng may là những người đốy
dây cháy chậm đa phần là những tiểu đội trưởng người Thái rất cao lớn và nhanh
nhẹn. Vậy mà cũng không tránh khỏi những lúc sứt đầu , mẻ trán do đá văng. Sau
khi dây cháy chậm cháy đến kíp nổ , những tiếng nổ trầm đục vang vọng cả một
cánh rừng. Tiếng nổ nào đanh và trầm đục , chứng tỏ thao tác tốt nên lưỡng đá
phá được nhiều. Tiếng nào to nhưng vang là do dồn thuốc chưa chặt nên lực công
phá kém. Chiều đến , chúng tôi phải tiếp tục bê đá hộc xếp thành khối. Ban chỉ
huy khoán cho mội người buổi chiều phải bê xếp được mỗi người 2 m3 mới đủ chỉ
tiêu. Thời gian này vì phải lao động nặng nên chúng tôi đói khủng khiếp. Không
có gạo nở mà chỉ ăn toàn gạo dẻo nên cơm rất ít . Mỗi người chỉ được hơn một
bát cơm ăn với canh rau rừng và thịt hộp kho lõng bõng toàn nước. Dân Thái tại
khu vực này cho đến tận ngày hôm nay cũng vẫn là một bản thuộc diện đặc biệt
khó khăn. Tuy nhiên nhờ có nương rãy nên họ không đến nỗi đói như bọn lính
chúng tôi. Vậy là có bao nhiêu ni lông , võng dù, áo K74, dày bata chúng tôi
đem sáng Bản đổi sạch lấy gạo, củ sắn và lâu lâu là con gà để cải thiện. Nhà
chúng tôi cũng hay gử đồ ăn lên cho chúng tôi. Thường là cứ 1kg mắm tôm + 1kg
riềng giã nhỏ + 1kg thịt mỡ và vài lạng ớt bột là chúng tôi có những bữa ăn
ngon lành. Lấy rau rừng cho một thìa hỗn hợp trên vào là được một nồi canh rất
ngon. Dân Thái ở đây rất chân chất và cần cù. Con gái Thái khá đẹp , thường ra
chỗ mó nước trước đơn vị tắm và lấy nước nên cũng khá vui. Nam và nữ tắm truồng
, chỉ cách nhau có một tấm phên tre đan thưa nên hầu như có cũng như không. Lúc
đầu , chúng tôi khá ngượng ngùng khi phải tắm kiểu này. Sau lâu dần quen nên
cũng thấy bình thường. Còn dân ở đây do tập quán từ ngàn đời nên họ coi việc tắm
truồng là hiển nhiên.
Người con gái Thái.
Dạo này chúng tôi đã giao tiếp với dân ở
đây bằng tiếng Thái khá tốt. Nói chuyện đã hiểu được nhau . Các bạn người Thái
cũng dạy chúng tôi võ vẽ một chút về chữ viết Thái . “ Người Thái có một nền
văn hóa đặc sắc, đặc biệt, họ còn có chữ viết nên lưu giữ được nhiều di sản văn
hóa của cha ông. Hệ thống chữ viết cổ của người Thái từ xưa đã được ghi lại
trên giấy dó, giấy dướng với nội dung rất phong phú. Chữ viết cổ của người Thái
có tự dạng Sanscrit, vốn được vay mượn từ Ấn Độ và được sáng tạo thành bộ chữ
riêng. Tiếng Thái là ngôn ngữ đơn tiết, có thanh điệu. Về mặt phân loại thân tộc
ngôn ngữ, tiếng Thái thuộc ngữ hệ Tai – Kadai, nhánh Tai, tiểu nhánh Tai Tây
Nam. Người Thái là hậu duệ của người Tai cổ, chủ nhân của nền văn minh lúa nước
đặc trưng của vùng Đông Nam Á cổ.
Chữ Thái ở Việt Nam là loại chữ cổ và
hiện nay vẫn giữ gần như nguyên vẹn từ tổ tiên người Thái để lại. Người Thái ở
Việt Nam sống rải rác tại nhiều địa phương, nên chữ viết cũng dùng trong phạm
vi từng địa phương, chưa được thống nhất và chưa được cải tiến. Riêng người
Thái ở Tây Bắc Việt Nam, từ thời bản mường dưới sự thống lĩnh của Tạo Xuông, Tạo
Ngần, khoảng thế kỷ XI, XII, khi đưa dân Thái (Thái đen) từ Mường Ôm, Mường Ai
nơi đầu "sông nước đỏ" (sông Hồng) vào chiếm Mường Lò (Nghĩa Lộ) đã
có “Một mường", "Mo mường” và mang theo sách sử…
Tiếng Thái giàu thanh điệu, vùng phát
triển cao nhất là 6 thanh thường và 2 thanh tắc (như tiếng Thái đen Việt Nam).
Hai thanh tắc phát âm rõ thanh sắc và thanh nặng (gần như tiếng Việt). Trong số
các thanh có thể phân thành hai nhóm cao và thấp hoặc có thể gọi là nhẹ và nặng,
từ đó, sáng tạo ra 2 tổ phụ âm cao và phụ âm thấp. Sáng tạo lớn nhất trong bộ
chữ của người Thái là tìm ra cách ghi, phân biệt rõ ràng và có quy tắc các
thanh trong ngôn ngữ của mình. Người Thái đã sáng tạo
ra cách đánh vần nên với họ, chữ này rất dễ học. Chữ viết của người Thái viết
liền, không có dấu chấm, dấu phẩy, không có chữ viết hoa; hơn nữa, bộ ký tự chữ
Thái ở mỗi địa phương ít nhiều có sự khác biệt. Bộ chữ Thái đã thể hiện tương đối
đầy đủ, toàn diện về hệ thống ngữ âm, từ vựng và ngữ nghĩa của ngôn ngữ Thái.
Tuy vậy, nó vẫn có một số hạn chế là không có dấu thanh và chưa thống nhất cao
giữa các vùng. Chúng tôi suốt ngày cứ ngồi đánh vần những âm : May co, May ca ,
may ki… Từ bộ chữ Thái cổ (có 19 cặp chữ cái phụ
âm “tồ” và 19 nguyên âm “mày”, một số chữ tượng hình và viết tắt), bộ chữ Thái
thống nhất đã thay và bổ sung thêm hai chữ của vùng Mộc Châu là O, Ò và 3 cặp tồ
đặc trưng cho vùng Thái ở Lai Châu, Phong Thổ. Như vậy, bộ chữ Thái thống nhất
có 22 cặp chữ cái phụ âm “tồ” và 19 chữ cái nguyên âm “mày”. Các chữ tượng hình
và viết tắt vẫn giữ nguyên như bộ chữ Thái đen cổ. Chiều chiều đài phát thanh
tiếng Thái Sơn la lại vang lên “ Mơi pi nọong phăng com pá Đài phát thanh Sơn
la. Bộ độ trung đoàn hỏi nâng pét síp sí khẩu ma Chiêng Ngàm đệt tang ( Mời các
anh chị nghe đài phát thanh Sơn La . Bộ đội trung đàn 184 vào Chiềng Ngàm làm
đường …”Những sáng chủ nhật được nghỉ, chúng tôi cuốc bộ hơn 20 km ra chợ Thuận
Châu chơi. Cũng vẫn phở ngô như Nà Sản , cũng vài chục nóc nhà người kinh dựng
2 bên đường 6 nhưng đối với chúng tôi là được “Ra Tỉnh “ . Cái thèm nhất là nghe
tiếng người Kinh nói chuyện với nhau.Trong đơn vị có người Thái , Người Mường ,
người HMông , người Kinh , nhưng toàn đực rựa . Ra tới Thuận Châu nghe tiếng
con gái Kinh nói chuyện nghe mới thấy ngọt làm sao.
Con đường chúng tôi làm cứ dài ra mãi
theo thời gian. Tuy so với những con đường cao tốc bây giờ thì nó thật nhỏ bé ,
nhưng con đường đó là biết bao mồ hôi , công sức thậm chí cả máu của đồng đội
chúng tôi trong trung đoàn 184.
Con đường ngày xưa chúng tôi làm.
Đầu năm đó , khi con đường vừa hoàn
thành thì có Lệnh Tổng động viên toàn quốc . Chiến tranh bắt đầu lan rộng ở Cao
Bằng , Bắc Cạn , Lạng Sơn…..
Trung đoàn chúng tôi được lệnh đi chiến
trường Lào qua cửa khẩu Tây Trang.
“ Ruồi vàng , bọ chó , gió Tây Trang “.
Liên miên những cuộc hành quân , liên miên là rừng già Bắc Lào…. Phông
Sa Lỳ , Huổi Phăn , Sầm nưa ,Udonsay.....Chúng tôi bước đi mãi theo khúc quân
hành.
“ Đời mình là một khúc quân hành
Đời mình là bài ca chiến sỸ
Ta ca vang, triền miên qua tháng ngày
Lượn ba trên núi rừng, biên cương đến nơi đảo xa...
Mãi mãi lòng chúng ta
Ca bài ca người lính
Mãi mãi lòng chúng ta
Vẫn hát khúc quân hành ca...
Dù rằng đời ta thích hoa hồng
Kẻ thù buộc ta ôm cây súng
Ta yêu sao làng quê non nước mình
Tình quê hương vút thành thanh âm khúc quân hành ca...
Mãi mãi lòng chúng ta
Ca bài ca người lính
Mãi mãi lòng chúng ta
Vẫn hát khúc quân hành ca”
CHƯƠNG 9.
Xin theo dõi tiếp chương 9. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét