Đoạn bôi vàng dịch nghĩa ra: “Mùa đông ấy (1801) xa giá [của Thế tổ] trở về Kinh (Đô Phú Xuân), báo cáo ở Tông miếu và dâng hiến tù binh, tội phạm Tây Sơn đều bị giết để trừng trị, đào phá mộ (của Nguyễn) Nhạc, (Nguyễn) Huệ, giã nát và đổ bỏ, nhốt sọ đầu vào nhà ngục, đổi tên ấp Tây Sơn gọi là ấp An Tây” (Ảnh tư liệu của Nguyễn Đắc Xuân trình bày tại Hội thảo “Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn tại Huế” tháng 10/2015)
Đoạn sử cho biết con người liên quan với Phong trào Tây Sơn đều bị giết, lăng mộ bị quật phá đổ bỏ và cái tên quê hương Tây Sơn cũng bị đổi thành An Tây. Việc đổi tên địa danh liên quan đến Phong trào Tây Sơn cũng bị đổi, ví dụ Phủ Qui Nhơn đổi thành Phủ Bình Định. Ngoài ra, toàn bộ sách vở, tài liệu của thời Tây Sơn bị hủy bỏ, các đồ tự khí bằng đồng bị nấu chảy để đúc thành đồ đồng thời Nguyễn; dời đổi những trị sở mà Tây Sơn đã từng đi qua… Chính vua Quang Trung mất trong thời kỳ độ tuổi sung mãn nhất 40 đã làm cho triều đại của ông xuống dốc và đi đến chỗ cáo chung, phong trào Tây Sơn đã bị trả thù một cách nghiệt ngã.
Theo Việt sử đại cương, không kể cá nhân Nguyễn Ánh bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì: năm 1777, Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (chú ruột vua Gia Long), Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương (em chú bác ruột) và Nguyễn Phúc Đồng (anh ruột) bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Tiếp đó, vào năm 1783, hai người em ruột của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn. Và thêm nữa, hoàng đế Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790".Một số tài liệu cũng ghi rằng, hoàng đế Quang Trung đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, gồm: chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613); chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635); chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648); chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687); chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691); chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725); chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738); và Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765); sau đó, lấy hài cốt ném xuống sông. Trong đó, phụ thân của vua Gia Long là con của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết: Theo truyền thuyết, khi Tây Sơn khai quật hài cốt Nguyễn Phúc Côn ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người).Như vậy, từ mối thâm tù cá nhân, vua Gia Long đã tận pháp trừng trị nhà Tây Sơn, mà không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình, khi tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù".
Theo Quốc sử quán triều Nguyễn, vua Gia Long sau khi có những hành động tận pháp trừng trị lên hài cốt của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và thân xác của Nguyễn Quang Toản…, đã chừa lại ba đầu lâu bỏ vào 3 cái vò, đậy nắp kỹ, niêm khằng, quấn xích sắt, chú bùa để giam vĩnh viễn trong Nhà Đồ ngoại (sau đổi thành Vũ Khố) vào tháng 11 năm Nhâm Tuất (1802).
Đến năm 1822, vua Minh Mệnh ra lệnh đưa 3 cái vò vào giam ở Khám đường. Đêm 22 rạng 23 tháng năm Ất Dậu (1885), phòng thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi phòng thành, quân Pháp vào thành…Lúc đó, có người mang 3 vò chạy trốn. Riêng một vò (sọ vua Quang Trung) được một ông họ Phan, người ở gần Cầu Ngói đã theo hào, lạch, sông đưa về Cầu Ngói Thanh Toàn…
Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện sơ tập. Quyển 30, chép rành rành " Mùa đông (Nhâm Tuất, 1802) xa giá (Gia Long) về Phú Xuân, cáo ở Tôn miếu, dâng tù binh Tây Sơn, đem hết phép trừng trị, đào mộ Nhạc, mộ Huệ, đem giã hài cốt vất đi, giam đầu lâu ở nhà ngục... ".
Công chúa Ngọc Hân trong lịch sử được biết đến là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Nàng lấy vua Quang Trung và trở thành Bắc Cung Hoàng hậu - một vị Hoàng hậu nổi tiếng trong lịch sử.
Công chúa Lê Ngọc Hân sinh năm 1771, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, là công chúa thứ 21, con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Mẫu thân của công chúa Lê Ngọc Hân là Nguyễn Thị Huyền, người làng Phù Ninh (huyện Ðông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh). Công chúa Lê Ngọc Hân là em Thái tử Lê Duy Vỹ và là cô Hoàng tử Lê Duy Kỳ tức người sau này lên nối ngôi vua Lê lấy niên hiệu Chiêu Thống.
Khi Nguyễn Huệ làm Tiết chế, thống lĩnh quân đội Tây Sơn đánh Bắc Hà với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh” năm 1786 thì công chúa Ngọc Hân mới 16 tuổi. Công chúa Lê Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ năm 1786, thụ phong Bắc Cung Hoàng hậu năm 1789. Từ đây, bà đã có vai trò rất lớn đối với sự nghiệp của của chồng là Quang Trung-Nguyễn Huệ. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trungtrước khi kéo quân ra Bắc lần thứ ba để diệt quân Thanh, Lê Ngọc Hân được phong làm Hữu Cung Hoàng hậu.Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng Hậu. Bà đãcó 2 con với Nguyễn Huệ là Công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và Hoàng tử Nguyễn Quang Đức.Công chúa Ngọc Hân mất năm 1799, đương triều vua Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn. Năm đó nàng mới 29 tuổi.
Bắc Cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân chỉ sống hạnh phúc với chồng được trọn 6 năm và vua Quang Trung băng hà trong lúc tuổi đời còn rất nhiều hứa hẹn...Ngọc Hân đau xé lòng, khóc thương chồng bằng tác phẩm chữ Nôm “Ai tư vãn”, đây là một bài văn tế vua Quang Trung được giới văn học đánh giá cao về tài năng văn chương lỗi lạc, phản ánh mối tình chung thủy của bà đối với vua Quang Trung-Nguyễn Huệ:
Buồn thay nhẽ! Sương rơi gió lọt
Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa!
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.
Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa nở!
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong?
Quyết liều mang vẹn chữ tòng
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e!
Con trứng nước thương vì đôi chút
Chữ tình thân chưa thoát được đi
Vậy nên nấn ná đợi khi...
Hình thì tuy ở phách thì đã theo...
“Hồng nhan đa truân”, câu nói đó có lẽ nó ứng vào cuộc đời của Bắc Cung Hoàng hậu Ngọc Hân. Nàng mất ở tuổi 29 vì héo mòn trước nỗi đau mất chồng, mất con. Những tưởng đó là dấu chấm hết cho một kiếp hồng nhan, nhưng, cái nghiệp “giai nhân” đã đeo đuổi số phận của nàng ngay cả sau khi Ngọc Hân mất.
Vòng xoáy báo thù của triều Nguyễn với những người trung thành với vương triều Tây Sơn đã không buông tha cả khi Bắc Cung hoàng hậu Ngọc Hân đã thành người thiên cổ.
Công chúa Ngọc Hân từng chịu nhiều đau đớn ở cõi trần. Và lúc chết, nàng vẫn còn bị đày đọa khi có kẻ tà tâm báo cho triều đình nhà Nguyễn (thời vua Thiệu Trị) biết nơi công chúa đã nhắm mắt xuôi tay. Nhà Nguyễn không ngần ngại cho đào mộ công chúa Ngọc Hân và hai con của nàng với vua Quang Trung vứt xuống sông Hồng.
Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi vua cha là Quang Trung, bị họ ngọai chuyên quyền, nội bộ triều Tây Sơn lục đục rồi suy tàn. Bắc Cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân và hai con phải trốn vào sống lẫn với dân chúng ở Quảng Nam. Không lâu sau, vào năm Kỷ Mùi 1799, danh tính được phát hiện và bị bắt, Ngọc Hân uống thuốc độc quyên sinh khi bà còn rất trẻ, chỉ mới 29 tuổi; hai người con cũng đã bị thắt cổ chết. Nghe tin đau đớn này, bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền, mẹ của Ngọc Hân, lúc đó sống ở quê Phù Ninh (tục gọi là làng Nành, tỉnh Bắc Ninh) liền thuê người vào Quảng Nam lấy trộm được xác con và hai cháu ngoại đem về mai táng tại làng rồi cho dựng miếu thờ. Gần 50 năm sau, dưới thời Thiệu Trị thuộc nhà Nguyễn, miếu thờ bị đổ nát; một ông Tú người làng Nành nhớ công lao của bà Chiêu Nghi họ Nguyễn đối với dân làng nên đã quyên góp tiền để tu sửa ngôi miếu. Công việc này đã bị tên Phó Tổng cùng làng vốn thù riêng với ông Tú đã cất công vào Huế tâu báo vua Thiệu Trị việc thờ "ngụy Huệ". Triều đình Huế liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu thờ, quật đào ba ngôi mộ và vứt hài cốt xuống sông. Ông Tú này đã bị kết án trọng tội và Tổng đốc Bắc Ninh là Nguyễn Đăng Giai cũng bị giáng chức. Phần mộ của Bắc Cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân cùng hai người con đã từng tồn tại ở bãi Cây Đại, làng Nành, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm trong khoảng thời gian từ năm 1804 đến năm 1843 được chứng minh là có thật. Sự kiện vua Thiệu Trị thuộc nhà Nguyễn sai người đào mộ và đổ hài cốt 3 mẹ con bà xuống sông, sau đó con cháu dòng họ Nguyễn Đình và nhân dân tại đây đã lập ngôi mộ tượng trưng trên bãi Cây Đại để thờ cúng bà cách đây trên 70 năm cũng đã được các nhà khoa học khẳng định.
Cho đến nay giới khoa học đã khẳng định được năm qua đời của Công chúa Ngọc Hân là 1799. Tất cả những ức thuyết gì đề cập đến Công chúa mà không khớp với thời điểm Công chúa mất vào năm 1799 đều không đúng. Công chúa có với vua Quang Trung 2 người con, 1 trai (Nguyễn Văn Đức), 1 gái là Nguyễn Thị Ngọc (theo Đỗ Bang), nhưng theo Phạm Văn Diêu (Lành Mạnh, số 2, 1.11.56, tr.2) là Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Sau khi Công chúa mất, hai con của bà vẫn ở Huế hay đi đâu chưa xác định được. Đến mùa hè năm 1801, ông Nguyễn Ánh (sau nầy là vua Gia Long) lấy lại Phú Xuân trong tay nhà Tây Sơn, tất cả những người thân của gia đình vua Quang Trung và vua Quang Toản không chạy kịp đều rơi vào tay quân Nguyễn Ánh. Barizy - một sĩ quan người Pháp theo chân Nguyễn Anh vào Phú Xuân ngay từ ngày đầu của cuộc thắng thế ở Huế, trong thư viết ngày 16.7.1801, Barizy cho biết:
“ Nhà vua (Nguyễn Ánh) bảo tôi đi xem mặt các cô công chúa của kẻ tiếm vị (tức Quang Trung). Tôi đến đó, họ ở trong một căn phòng hơi tối, không phải là một phòng sang trọng, có tất cả 5 công chúa: 1 cô 16 tuổi, theo tôi là một cô gái đẹp, một em bé 12 tuổi là con gái của bà công chúa Bắc Kỳ (tức Ngọc Hân) em nầy cũng coi được. Còn 3 cô nữa từ 16 đến 18 tuổi thì nước da hơi nâu nhưng diện mạo cũng dễ thương. Ngoài ra còn có 3 con trai, có 1 em độ 16 tuổi cũng da nâu nhưng nét mặt thì tầm thường, còn em trai kia độ 12 tuổi là con của bà công chúa Bắc Ky thì diện mạo rất đáng yêu và có những cử chỉ rất dễ thương.”
Giả thuyết rằng Barizy viết đúng vào tháng 7 năm 1801 thì những người thân của các vua Nguyễn Tây Sơn đã bị giam cho đến tháng 11, rồi tất cả những người bị bắt ấy đều bị giết như Đại Nam Thực lục Chính biên - bộ biên niên sử của triều Nguyễn đã viết:
Năm Tân Dậu (1801), tháng 11:“Phá hủy mộ giặc Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu của giặc 31 người đều bị lăng trì cắt nát thây”
Nếu chúng ta tin Barizy viết đúng và chưa tìm được một tài liệu nào chứng tỏ hai người con của Công chúa Bắc Kỳ đã vượt ngục hay được Nguyễn Ánh ân xá thì ta phải tin là hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã chịu chung số phận trong số “31 người đều bị lăng trì cắt nát thây” như Thực lục đã viết.
Sau cuộc trả thù đó một năm, Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long và ông lại thực hiện một cuộc giết chóc kinh khủng thứ hai nữa.Trong chiếu ra vào tháng 11 Nhâm tuất (1802) đề cập đến lễ Hiến phù (dâng những người bắt được trong chiến tranh) vua Gia Long cho biết: “ Ngày 7 tháng 11 năm Nhâm tuất (1802) yết tế Thái Miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy thái tể Quang Huy, Nguyên súy Quang Thiệu, đốc trấn Quang Bàn, thiếu phó Trần Quang Diệu, tư đồ Võ Văn Dũng, tư mã Nguyễn Văn Tứ; đổng lý Nguyễn Văn Thận, đô ngu Nguyễn Văn Giáp, thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng...”
Trong danh sách tử tội bị hành hình lần thứ hai nầy không hề thấy có tên Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Thị Ngọc (Bảo). Điều đó củng cố thêm ý tưởng hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã chết hồi tháng 11 năm trước rồi (tức năm 1801).
Theo Barizy thì hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã sa vào tay Nguyễn Ánh. Nhưng theo tài liệu của nhà Nguyễn thì không hề thấy một tư liệu nào chứng tỏ điều đó. Mà theo sử nhà Nguyễn thì hai người đó đã “chết non cả”. Chết ở đâu, lúc nào, vì sao thì chưa ai khám phá ra được. Xin đọc đoạn Thực lục sau đây của nhà Nguyễn viết về thời Thiệu Trị:
Nhâm dần, Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), mùa Thu, tháng 7:“Tỉnh Bắc-ninh có dân xã Phù-ninh ngầm thờ ngụy quỉ. Việc bị phát giác. Vua sai hủy bỏ đền thờ.
(Nguyên người xã ấy là Nguyễn Thị Huyền, làm cung nhân của vua Lê Hiển tông, có người con gái là (tr.183) Ngọc Hân, sau gả cho ngụy (Nguyễn) Huệ sinh được 1 trai, 1 gái. Ngọc Hân chết, trai gái cũng chết non cả. Khoảng đầu năm Gia-long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú-xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù-ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả dối, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích. Tới đây, việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy đi) .
Đọc kỹ đoạn trích nầy ta thấy:
Đô đốc Hài là một tướng của Tây Sơn mà không bị Nguyễn Ánh bắt và có thể bí mật dời hài cốt của mẹ con Công chúa Ngọc Hân về chôn cất ở xã Phù Ninh. Chứng tỏ việc dời đó chỉ có thể diễn ra trước khi Nguyễn Ánh làm chủ được ở Phú Xuân tức phải trước tháng 6.1801;
Các con bà Công chúa Ngọc Hân phải chết trước khi Nguyễn Ánh về lại Phú Xuân (6.1801) thì mới có hài cốt để cho đô đốc Hài mang về Phù-ninh;
Thông tin dẫn trong đoạn trích trên có độ tin cậy cao, bởi vì: Đô đốc Hài làm một việc thiêng liêng, khó khăn và đầy nguy hiểm như thế không thể dời mộ sai, bà Nguyễn Thị Huyền không thể dựng bia đắp mộ cho những người không phải thân thuộc của mình; vua quan nhà Nguyễn thời Thiệu Trị không thể làm một việc thất nhân tâm đến thế mà lại làm sai đối tượng!
Công chúa Ngọc Hân và hai người con của bà đã chết trước khi Nguyễn Ánh trở lại và làm chủ được Phú Xuân là khớp với toàn bộ những sử liệu của triều Nguyễn viết về sự kiện nầy.
Nếu chưa tìm ra được những tư liệu gì xác đáng hơn để có thể bác bỏ được những tư liệu trên thì ta có thể tin là nếu hai người con của Công chúa Ngọc Hân không chết trước khi Nguyễn Ánh về Phú Xuân (6.1801) thì cũng phải chết trong các cuộc trả thù của Nguyễn Ánh vào tháng 11 Tân dậu (1801) và tháng 11 Nhâm tuất (1802). Tức là Hoàng tử Nguyễn Văn Đức và Công chúa Nguyễn Thị Ngọc (Bảo) không còn ở trên cõi đời cho tới cuối năm 1802.
3.PHẨM BÌNH CỦA LỊCH SỬ .
Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn ánh về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của ông. Cuộc báo thù này có hai mục đích: Trả thù cho những việc Tây Sơn làm với cho gia tộc và bản thân Nguyễn ánh trước kia: phá lăng mộ các chúa nhà Nguyễn, giết chết người thân và cả những đắng cay trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy; Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới. Có lẽ vì vậy, Nguyễn ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. ông tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù". Trong các đánh giá về sau về sự việc này, sử sách cho rằng Nguyễn ánh thực hiện quá tay và "đôi lúc rất tiểu nhân".
Tại miền Nam trước 1975, có hai bộ thông sử tiếng Việt thông dụng là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn. Viết về vua Gia Long, cả hai bộ sử đều giống nhau ở một điểm: có phê phán sự hẹp lượng của vua Gia Long qua việc giết hại công thần (vụ án Nguyễn Văn Thành và vụ án Đặng Trần Thường), có kể rõ việc hành hình trả thù Tây Sơn nhưng hoàn toàn không bình luận, phê phán gì đến sự “quá tay” trong việc này. Tại sao?
Hoa Bằng, tác giả Quang Trung, Anh hùng dân tộc (Nxb Bốn Phương, Saigon, 1953) khi kết luận thiên biên khảo đầu tiên bằng tiếng Việt về đề tài này đã ngậm ngùi viết: “Vậy mà Nã Phá Luân [Napoléon I] được gởi nắm xương trong đền Invalides để cho người sau hoài niệm, viếng thăm; còn Quang Trung: mả phải đào, xương phải tán, dòng dõi bị chu di, sự nghiệp liệt liệt oanh oanh gói tròn trong một chữ ‘Ngụy’”.
Nhà viết sử Trần Gia Phụng trong Nhà Tây Sơn (Nxb Non Nước, Toronto, 2005) cũng đã có lời bình phẩm nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc: “Cuộc trả thù được vua Gia Long xem là ‘nghĩa lớn Kinh Xuân Thu’ nhưng hành hạ di cốt địch thủ trước mắt con cái họ trái hẳn với đạo lý cổ truyền của dân tộc” (tr.240).
Phê bình mạnh tay, mạnh mẽ hơn có Quách Giao:
Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ.
Còn đối với Nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng [Cảnh Thịnh], cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã. Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê.
Vua tôi Nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật báo. Quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết.
Trong văn hóa phương Tây, đánh nhau là đánh nhau nhưng không có chuyện trả thù kẻ chiến bại một cách tàn nhẫn, nhất là đối với người đã chết. Do đó, khi bắt gặp hành động “dã man” này của vua Gia Long, Stanley Karnow, tác giả tiếng tăm bộ sử ( VietNam, A History (Penguin Book, 1984) đã viết:
“Ông ta tỏ ra chẳng khoan dung chút nào đối với kẻ thù đã chiến bại, dù đã chết hay còn sống. Binh sĩ của ông đã quật xương cốt của một cặp vợ chồng cầm đầu Tây Sơn đã chết [Nguyễn Huệ], tiểu tiện vào xương cốt đó trước sự chứng kiến của con cái họ và những người này sau đó tay chân bị trói vào 4 con voi và xé nát.” (p.65).
Các sách sử Việt Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia Long đều lấy tài liệu từ các bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết khác do nguồn sử liệu Tây phương cung cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đã không giấu diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người sau chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà không có bớt.
Như vậy, từ mối thâm tù cá nhân, vua Gia Long đã tận pháp trừng trị nhà Tây Sơn, mà không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình, khi tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù".Tuy nhiên, hậu thế rất lên án hành động này, khiến vua mang tiếng "tội nhiều hơn công"... "Sự tàn bạo của hoàng đế Gia Long khi áp dụng các hình phạt thời Trung cổ, trả thù Tây Sơn khiến hậu thế nhiều khi có định kiến nặng nề về ông đến nỗi xóa nhòa hết công lao nhất định của ông đối với sự thống nhất đất nước. Và đó là điều đáng tiếc đối với vị quân vương quá nặng về khôi phục vương nghiệp, cố đạt được mục đích bằng bất cứ giá nào", theo Wikipedia. Tuy nhiên, trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim vừa khen vừa phê Gia Long: "Vua Thể tổ có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.
Công nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại nhiều người, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa".
Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn ánh về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của ông. Cuộc báo thù này có hai mục đích: Trả thù cho những việc Tây Sơn làm với cho gia tộc và bản thân Nguyễn ánh trước kia: phá lăng mộ các chúa nhà Nguyễn, giết chết người thân và cả những đắng cay trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy; Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới. Có lẽ vì vậy, Nguyễn ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. ông tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù". Trong các đánh giá về sau về sự việc này, sử sách cho rằng Nguyễn ánh thực hiện quá tay và "đôi lúc rất tiểu nhân".
Theo thiển ý của dienbatn thì đánh giá của Nhà nghiên cứu lịch sử Võ Hương An có lẽ là xác đáng nhất :
“Các sách sử Việt Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia Long đều lấy tài liệu từ các bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết khác do nguồn sử liệu Tây phương cung cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đã không giấu diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người sau chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà không có bớt.
Riêng người viết, trong niềm ngưỡng mộ chiến thắng oanh liệt hào hùng của vua Quang Trung trước quân Xiêm và quân Thanh xâm lăng, ban đầu thì cũng đồng ý với những bình phẩm chê trách hành động của vua Gia Long đối với Tây Sơn là thái quá, tàn nhẫn, nhưng sau đó, khi được biết những nguồn tin khác, không khỏi đắn đo tự hỏi và tìm lời giải đáp.
Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát .Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Sau khi làm chủ Bắc hà, vua “Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc thờ cúng họ Trịnh. Trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: ‘Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời” (Thực lục I, tr.508).
Vậy là Trịnh Tư được giao lo việc thờ cúng, họ Trịnh được cấp 500 mẫu ruộng để lấy huê lợi cúng tế hàng năm, 247 người họ Trịnh được xét tha thuế dinh và miễn binh dao (đi lính và chịu sưu dịch).
Ai cũng biết La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được coi như một Gia Cát Lượng của vua Quang Trung, một cố vấn tối cao, được vua quan trên dưới đều kính nể (4 lần vua khẩn khoản mời ra giúp, cuối cùng nhận chức Viện trưởng Viện Sùng Chính năm 1790, giúp vua chấn chỉnh việc giáo dục, văn hóa, giúp vua chọn đất Nghệ An làm Phượng Hoàng trung đô…).
Khi Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân, ông đang ở Huế giúp vua Cảnh Thịnh nhưng không chạy theo khi vua đào thoát (hay chạy theo không kịp?) và dường như không bị bị bắt mà chỉ quản thúc tại gia, dù phía Nguyễn Vương biết rõ lý lịch, sau đó Nguyễn Vương đã ra lệnh:
“Thả xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về. Thiếp là người xã Nguyệt Áo huyện La Sơn, đậu Hương tiến đời Lê, làm quan huyện Thanh Chương, bỏ quan về nhà. Khi nhà Lê mất, theo lời mời của Nguyễn Quang Toản mà ở lại Phú Xuân. Tới nay vào yết kiến, xin trở về làng. Vua [Nguyễn Vương] dụ rằng ‘Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta.’ [người viết in đậm]. Bèn sai quan quân đưa về” (Thực lục I,tr.445).
Lại năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành bắt giải về Kinh, vua Gia Long tha hết cho về quê. Lại khi Bộ Hình tâu xin vua định đoạt số phận của người vợ lẽ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên Đại và Vạn bị bắt thì vua nói: “Vợ lẽ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì?” (Thực lục I, tr.544).
Những chứng dẫn nho nhỏ đó cho thấy vua Gia Long là con người phải chăng, tùy theo người, theo trường hợp mà có quyết định tha hay phạt, chứ không phải bạ đâu giết đó, thà giết lầm hơn bỏ sót. Vậy tại sao giết Tây Sơn chưa đủ, phải hành hạ mới hả, kể cả nắm xương khô. Thù chi mà dữ vậy?..
… Vua Gia Long có một thanh gươm mang tên Qui Y. Sử ghi rằng thanh gươm này có tính ưa giết người (hiếu sát), Tối hôm nào gươm tự động thoát ra khỏi vỏ thì hôm sau thế nào cũng có người phạm tội bị chém bằng thanh gươm đó. Vua Gia Long ghét tính hiếu sát của gươm bèn đem qui y cửa Phật và đặt tên là Qui Y (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu).
Sự thật là đây :
Về chuyện vua Gia Long trả thù Tây Sơn, nhà viết sử Trần Gia Phụng đã đi xa hơn các học giả đi trước khi lần đầu tiên ông phân tích chính xác rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì ba việc chính: thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790” (Việt Sử Đại Cương, Tập 2, tr.445).
Chừng đó nợ máu nghe đã nặng (5 người cật ruột), nhất là món nợ thứ 3, nhẹ vật chất mà nặng tâm linh và đạo đức, ít người biết. Nhưng kể vậy cũng chưa đủ.
Khi đọc câu mở đầu của chiếu bố cáo lễ hiến phù: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” (Thực lục I, tr.532) tôi không khỏi mỉm cười một mình với ý nghĩ: thiệt mấy ông đời xưa văn chương lớn lối quá, cái chi cũng lôi điển tích với sách vở ra, tô vẽ cho long trọng. Nhưng sau đó, khi đọc kỹ Thực lục mới biết mấy chữ vì 9 đời mà trả thù mang một ý nghĩa rất thực, rất cụ thể, bên cạnh màu sắc điển tích văn chương tô điểm.
Ngày 13/6/1801, Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô Phú Xuân, nơi ông đã vội vã ra đi khi mới 13 tuổi (ta), và ròng rã 27 năm mơ ước được trở về. Tuy đã làm chủ được Phú Xuân nhưng lực lượng hùng hậu của Tây Sơn Cảnh Thịnh vẫn còn ở bên kia lũy Trường Dục (Quảng Bình), vậy mà đến đầu tháng 8 năm đó đã lo sửa sang lăng mộ tổ tiên và cấp tốc hoàn tất ngay trong tháng.
Sao việc này lại làm gấp rút còn hơn cả công tác sửa sang thành trì, xây đồn đắp luỹ để phòng chống Tây Sơn? Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của Thực lục sau đây, có thể thấy được lý do thúc đẩy (những chữ in đậm là do người viết, chữ ghi giữa hai ngoặc đứng [x] là chú giải của người viết):
“Tháng 9, ngày Ất hợi [ 9/8/1801], sửa lại Sơn lăng.
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.
Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên.
Vua thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại. Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Ngày Kỷ hợi [1/11/1801], vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều khóc cả. Sai đổi xã Cư Hóa làm xã Cư Chính, cho dân miễn dao dịch làm hộ lăng. Cho Huyên làm Cai đội (năm Minh Mệnh thứ 11[1830] phong An Ninh bá, lập đền thờ ở núi Cư Chính) con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài tòng quân ở Bình Định cũng được gọi về hậu thưởng cho” (Thực lục I, tr.466).
Thứ nhất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy hài cốt ném xuống sông. Việc này cộng với việc giết chết vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên năm 1777 thì quả nhiên vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chậy chút nào. Vì vậy có thể nói được rằng chữ 9 đời có một ý nghĩa rất cụ thể.
Đây là 8 đời chúa Nguyễn:
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613);
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635);
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691);
Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725);
Chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738);
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765);
Về ông tổ Nguyễn Kim, có lẽ vì không biết đích xác mộ phần nẳm ở đâu trong cái bát ngát của núi Triệu Tường ở Thanh Hóa, nên vua Quang Trung đành phải cho qua mà không tính sổ.
Tám đời chúa Nguyễn này không có hận thù gì với anh em Tây Sơn, đã có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước khi kế tục nhau mở nước về phương Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, cống hiến cho tổ quốc non một nửa nước, trài dài từ Phú Yên trở vào Nam, với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn lãnh thổ nam tiến của các triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cộng lại. Không có sự nghiệp này thì hậu thế ngày nay lấy chi để khoe với thế giới rằng “nước ta hình cong như chữ S” với “rừng vàng biển bạc”?!
– Thứ hai: Phần mộ của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long cũng bị quật lên và hài cốt ném xuống sông.
Ông Nguyễn Phúc Côn là con thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm 1765, khi con là Nguyễn Phúc Ánh đang còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế (1806) mới truy tôn cha làm Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ cho đến khi chết dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan, ông chẳng làm vua làm chúa gì. Chỉ vì con ông là Nguyễn Phúc Ánh dám chống lại Tây Sơn mà ông đã không được ngủ yên, lâm vào cảnh con làm cha chịu!
Trong văn hóa Việt Nam, phận làm con cháu là phải lo gìn giữ mồ mả tiên tổ cha ông. Do đó chúng ta thông cảm với vua Gia Long chỉ trong 2 tháng sau khi tái chiếm Phú Xuân đã vội vã hoàn tất việc tu sửa lăng mộ bởi khi đã biết tình trạng lăng mộ bị phá tanh banh thê thảm như thế thì không một ai có thể chờ đợi được nữa.
Trong lịch sử Việt Nam, việc tranh giành quyền lực dẫn đến những hành động giết hại nhau tàn nhẫn không phải là hiếm. Điển hình, để cướp ngôi nhà Lý, Trần Thủ Độ không ngần ngại dồn Lý Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ nhổ cỏ tận gốc, mặc dù Huệ Tông đã biết thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở chùa Chân Giáo. Đã thế, Trần Thủ Độ còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý chôn sống trọn gói (may mà Hoàng tử Lý Long Tường nhanh chân thoát qua tị nạn ở Cao Ly, trở thành thuỷ tổ họ Lý của xứ Đại Hàn ngày nay).
Nhưng có lẽ trong cuộc tranh chấp quyền lực chưa có ai trong lịch sử phải trả cái giá 5 mạng người ruột thịt và 9 ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh với xương cốt không biết đâu tìm như trường hợp vua Gia Long trong khi đối đầu với Tây Sơn để phục hồi cơ nghiệp của ông cha đã tốn công xây dựng.
Ở đời, có vay thì có trả. Nợ nào cũng có tính lãi suất, chỉ có khác là nặng hay nhẹ, không hình thức này cũng hình thức khác. Nếu Quang Trung Nguyễn Huệ không tạo nhân ác thì có thể đã không gặp quả ác. Hận thù luôn luôn vẫy gọi thù hận là chuyện thường của thế gian, huống chi lại có yếu tố tranh giành quyền lực trong đó, tham lam và sân hận hẳn phải bốc lên ngùn ngụt.
Phải chăng nên thử tự đặt mình vào địa vị của vua Gia Long để có nhiều thông cảm và có lời phẩm bình phải chăng hơn.”
Xin theo dõi tiếp BÀI 16 . dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét