Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 14.
PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.
PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.
I. ĐI TÌM LAI LỊCH DÒNG HỌ NGUYỄN DU.
Huyền thoại Trạng nguyên Nguyễn Thiến.
(Thethaovanhoa.vn) -
Với tài năng văn chương kiệt xuất, Đại thi hào Nguyễn Du đã làm rạng danh cho
dòng họ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nhưng "mạch văn" của
dòng họ này bắt nguồn từ đâu? Đi tìm thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Tiên Điền là cả
một câu chuyện dài. Nghiên cứu của PGS-TS Lê Thị Bích Hồng (Chi hội Kiều học Hà
Nội) đưa ra những tư liệu thú vị từ các nguồn gia phả. Xin trân trọng giới
thiệu bài viết có tính chất tham khảo này để góp thêm một góc nhìn về cuộc đời,
sự nghiệp Nguyễn Du.
. Tôi gặp cựu chiến
binh Nguyễn Phúc Nhạ - con cháu dòng họ Nguyễn ở Canh Hoạch, xã Dân Hòa, huyện
Thanh Oai (TP Hà Nội) tại Lễ giỗ 200 năm mất Đại thi hào Nguyễn Du ở Khu Di
tích Nguyễn Du (thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Nhận lời
mời trân trọng của dòng họ Nguyễn làng Canh Hoạch, ngày 9/10/2020 (23/8 năm
Canh Tý) Ban Chấp hành Chi hội Kiều học đã có mặt, dự Lễ kỷ niệm 525 năm sinh
Trạng nguyên Nguyễn Thiến (1495-2020) - hiệu Cảo Xuyên, danh sĩ nổi tiếng thế
kỷ 16, Thủy tổ dòng họ Nguyễn Tiên Điền và Đại thi hào Nguyễn Du…
Tôi may mắn được
tiếp cận từ nhiều nguồn sử liệu, trong đó có tư liệu, gia
phả do ông Nguyễn Văn Thắng - hậu duệ đời thứ 18 của Trạng
nguyên Nguyễn Đức Lượng và nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Nhạ.
Bác kể cho tôi nghe nhiều sự kiện lịch sử quan trọng liên quan
dòng họ Nguyễn Canh Hoạch - Tổ quán của dòng họ Nguyễn Tiên
Điền và Đại thi hào Nguyễn Du.
Câu chuyện thấm đẫm
màu huyền thoại về cuộc hợp huyết đặc biệt của 2 người con làng Tảo Dương và
Canh Hoạch cùng xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay
là TP Hà Nội) sinh ra Trạng nguyên Nguyễn Thiến cứ gieo mãi trong tôi bao ấn
tượng sâu sắc.
Theo Ngọc phả lưu giữ
tại Đình Đụn làng Canh Hoạch, đời Hùng Vương thứ 18, tên gọi của làng là Trang
Cổ Hoạch (chạy dài từ Ngà Tư Vác đến hết làng Tảo Dương ngày nay). Trang Cổ
Hoạch được chia làm 2 khu vực: khu vực trên (Canh Hoạch) gọi là Thượng Trang Cổ
Hoạch; khu vực dưới (Tảo Dương) gọi là Hạ Trang Cổ Hoạch. Ở Hạ Trang Cổ Hoạch
có cụ Nguyễn Quang Cảnh (con trai cụ Nguyễn Quang Kinh), tự là Phùng, tính nết
hiền hòa, ham đọc sách canh nông lập nghiệp, gia đình khá giả, thích làm việc
thiện, đón thầy địa lý tìm đất đặt mộ. Khi tìm được đất tốt, cụ đã đem hài cốt
cha táng ở đó.
Mấy năm sau, cụ Quang
Cảnh sinh được người con trai là Nguyễn Doãn Địch. Ngay từ nhỏ cụ Nguyễn Doãn
Địch đã bộc lộ thiên tư khác lạ. Gia đình gửi cụ Doãn Địch lên Thượng Trang Cổ
Hoạch (Canh Hoạch ngày nay) học cụ Nguyễn Đức Phương và được thầy yêu quý gả
con gái yêu là Nguyễn Thị Canh. Năm 25 tuổi, cụ Nguyễn Doãn Địch đỗ Cử nhân
khoa Dậu; năm 37 tuổi đỗ Thám Hoa khoa Tân Sửu (niên hiệu Hồng Đức thứ 12 -
1481 đời Lê Thánh Tông) làm quan đến chức Thượng thư bộ Lễ, kiêm tập hiến viên
đại học sĩ, Hàn lâm thị tộc. Cụ có 3 người con trai: Nguyễn Doãn Tụ, Nguyễn
Doãn Toại và Nguyễn Doãn Dật (chết yểu).
Thấy công tử Toại ở
trên đất đó, gia đình ông Nguyễn Đức Lượng ra sức thuyết phục ông Toại chuyển
chỗ ở. Nhưng thuyết phục thế nào công tử cũng không thuận. Cuối cùng, ông Lượng
buộc lòng phải thú thực điều bí mật đại sự của gia đình. Nghe xong, công tử
Toại đề đạt nguyện vọng được trò chuyện một đêm với cô em gái xinh đẹp của ông
Lượng và sau đó sẽ chuyển đi chỗ khác ngay.
Về nhà, ông Nguyễn Đức
Lượng buồn rầu, than thở với thầy địa lý. Không ngờ em gái Nguyễn Thị Hiền nghe
được và xin anh trai tự nguyện gặp chàng trai Nguyễn Doãn Toại. Đêm đó, vào hạ
tuần tháng 11 mưa phùn gió bấc, cô Hiền đội nón, xách đèn, một mình lặn lội ra
lều tranh chuyện trò cùng công tử. Công tử Doãn Toại tuy bệnh tật, nhưng giao
tiếp thể hiện tư chất thông minh, hiểu biết, tài đức. Hai người chuyện trò tâm
đầu ý hợp. Âu đây cũng là duyên trời, cô Hiền đem lòng yêu mến, thương chàng
trai giàu chí khí mà bệnh tật phải sống cô đơn.
Vào khoảng canh tư,
hai người ân ái mặn nồng thì công tử ngộ phòng đột tử. Cô Hiền sợ hãi, vội về
báo gia đình. Nghe tin, ông Nguyễn Đức Lượng cho người xuống báo tin dữ cho gia
đình ông Thám Hoa Nguyễn Doãn Địch biết để cùng lo hậu sự. Về phần ông Lượng
cũng dự định sáng ngày mai sẽ mang hài cốt cha đặt vào chỗ đất đó. Còn công tử
Toại sẽ an táng ở nơi khác. Sáng sáng hôm sau, 2 gia đình đến nơi thì thi hài
ông Doãn Toại không tẩm liệm, không áo quan, được mối bồi đất táng thành đống,
chỉ còn hở 2 chân.
Gia đình cụ Nguyễn
Doãn Địch nói: “Đây là thiên táng không chuyển đi nữa. Tốt thay công tử đã được
người tốt lại được cả đất tốt”. Ông Nguyễn Đức Lượng chỉ còn biết than:
"Thật là hết phúc, công tử kia đã được người lại còn chiếm cả đất
này". Thầy địa lý an ủi: "Việc trời làm vậy, đất này tuy mất huyệt
chính, còn huyệt bàng, táng vào vẫn kết phát được, ông nên nghe tôi táng mộ cụ
vào huyệt bàng". Không còn cách nào khác, ông Nguyễn Đức Lượng đành táng
mộ cha vào bên mộ công tử Doãn Toại.
3. Năm ấy, ông Lượng
30 tuổi (1494). Năm 1514 Triều đình mở khoa thi, ông Nguyễn Đức Lượng thi đỗ Đệ
nhất giáp, Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh (tức Trạng Nguyên) năm Giáp Tuất, niên
hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514) dưới triều vua Lê Tương Dực. Và kể từ đó, vua ban
đổi tên ông từ tên Hề thành Đức Lượng.
Năm thi đỗ, ông đã 50
tuổi và sau 20 năm kể từ khi đặt mộ cha. Ông từng đi sứ nhà Minh; được phong
chức Tả thị lang Bộ Lễ (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao ngày nay). Gia đình ông 3 đời
liên tiếp đỗ cao: “Cha là Bá Ký, con là Khuông Lễ, em họ là Nguyễn Thuật. Bá Ký
đỗ Tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận, làm đến Lại bộ Thượng thư.
Khuông Lễ đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Đại Chính nhà Mạc, làm đến chức Tự
Khanh, chết dọc đường trong lúc đi sứ Tàu, tặng Hữu Thị Lang. Nguyễn Thuật đỗ
Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Đoan Khánh, làm đến Ngự sử”.
Ông nêu một tấm gương
sáng về lòng quyết tâm kiên trì học tập và được người đương thời ca ngợi là
“Văn chương lừng lẫy suốt bậc nho khoa, lẫm liệt tựa tùng bách với sương thu”.
Khi mất, ông Nguyễn Đức Lượng được phong tặng Thượng thư. Là người phụ nữ đảm
đang, tài giỏi, luôn bên cạnh giúp chồng, vợ Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng được
vua phong là "Liệt phu nhân" (người vợ tài giỏi oanh liệt).
Lại nói về em gái ông
Lượng, sau đêm cùng công tử Toại, cô Nguyễn Thị Hiền mang thai. Gia đình, dòng
họ mang nỗi buồn đau riêng. Thương em gái, để tránh tiếng dị nghị, ông Nguyễn
Đức Lượng làm cho cô Hiền gian nhà nhỏ ở rìa làng (ngôi nhà hiện ở khu vực nhà
thờ Sắc).
Năm 1495, cô Nguyễn
Thị Hiền sinh con trai, đặt tên là Đàm, húy là Thiến (Sảnh). Ngay từ nhỏ, Nguyễn Thiến đã bộ lộ tư chất thông
minh. Năm lên 6 tuổi, ông đã giục mẹ cho theo học ông Nguyễn Đức Lượng. Lúc
này, ông Lượng mở trường dạy học và giao lưu với các sĩ tử trong vùng để chờ
ngày thi cử. Một đêm, ông Lượng chợt nghe có người bảo: "Ngày mai ông dọn
dẹp nhà cửa có quan đồng khoa đến chơi". Ông Lượng tỉnh giấc, biết là
chiêm bao, nhưng ông vẫn cho dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ có ý chờ đợi. Cả ngày
không thấy khách tới, ông nghĩ là giấc chiêm bao. Đến sẩm tối, cô Hiền dắt cháu
đến chơi và nói: "Thưa anh! Cháu đã lớn và chỉ đòi đi học. Em cho cháu lên
đây, mong anh thương em dạy dỗ cháu, giúp cho em được phận nhờ". Ông Đức
Lượng thương em gái, thương đứa cháu cút côi, thu xếp cho 2 mẹ con em gái ở nhà
dưới và cho cháu theo học.
Từ ngày đến học ông
cậu ruột, Nguyễn Thiến càng bộc lộ tư chất thông minh, vượt xa bạn đồng học…
Khi nhà Lê suy yếu, chán ghét cảnh lộng hành, bè đảng của các đại thần trong
triều, Nguyễn Thiến không mặn mà chuyện thi cử. Sau khi Mạc Đăng Doanh lên
ngôi, nể lời ông Lượng vừa là người trong gia tộc, vừa là thầy và nghe lời
khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, năm 38 tuổi, ông mới đi thi và đỗ Đệ
nhất giáp, Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh (Trạng nguyên) năm Nhâm Thìn niên hiệu
đại chính thứ 3 (1532) đời vua Mạc Đăng Doanh.
Trạng Nguyên cháu đỗ
sau Trạng nguyên cậu 18 năm. Thi đỗ, nhưng gặp hoàn cảnh xã hội, ông không muốn
ra làm quan phục vụ nhà Mạc. Nhưng do thúc ép của Triều đình, Nguyễn Thiến vẫn
phải làm quan, giữ các chức: Lại bộ thượng thư, Ngự sử đài đô ngự sử, Đông các
đại học sĩ, Nhập thị Kinh diên, Tước lại quận công (chức Thượng Thư bộ Lại).
Năm Mạc Cảnh Lịch thứ
3 (1551), Mạc Phúc Nguyên nghi ngờ ông Nguyễn Thiến không toàn tâm với nhà Mạc,
nên cho quân định vây bắt một số đại thần. Trước tình thế đó, Nguyễn Thiến cùng
với Phụng Quốc Công, Tể tướng - Lê Bá Ly đem toàn quân 2 đạo Sơn Tây và Sơn Nam
cùng gia quyến đến Thanh Hóa quy thuận vua Lê. Vua Lê Trung Hưng rất mừng, đã
ban thưởng và giữ nguyên chức tước. Ông sinh được 3 con (2 trai, 1 gái): Nguyễn
Quyện (Thái Bảo Thường quốc công), Nguyễn Miễn (Phù Hưng Hầu) và con gái Nguyễn
Thị Ngọc Cẩn (sau lấy Trịnh Kiểm). Làm quan cho nhà Lê khoảng 8 năm, Nguyễn
Thiến mất ngày 24/8 năm Thiên Hựu (1557) đời Lê Anh Tông tại Thanh Hóa, thọ 63
tuổi.
1. Thấy cha con Nguyễn
Thiến theo vua Lê, vua Mạc rất lo sợ. Trận đánh của Nguyễn Quyện đánh nhà Mạc ở
vùng Sơn Nam năm 1557 càng làm vua Mạc lo sợ hơn. Khi biết Nguyễn Bỉnh Khiêm là
thầy dạy của Nguyễn Quyện, vua Mạc Phúc Nguyên sai sứ sang hỏi kế. Sống dưới
thời nhà Mạc, chán ghét cảnh binh đao, tàn sát lẫn nhau, Trạng trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã gửi Nguyễn Quyện một bức thư: “Đạo ở trong ta có khó gì/ Phương
chi trí khí đã tương kỳ/ Nghìn năm quân phụ cương thường đó/ Trung hiếu một
lòng chớ đổi đi”.Sau đó, trước sự thúc bách của nhà Mạc, Trạng Trình tìm cách thuyết
phục Nguyễn Quyện.Ông giữ trọn chữ hiếu với cha, theo cha quy thuận nhà Lê. Sau
khi cha chết, trước sự thúc bách của nhà Mạc, nể thầy học, 2 anh em Nguyễn
Quyện trở lại nhà Mạc…
Vua Mạc được anh em
ông Nguyễn Quyện trở về rất lấy làm vui mừng, úy lạo 2 ông, phong chức tước và
gả con gái tôn thất cho… Uy danh Nguyễn Quyện kể từ đó càng lừng lẫy, được
phong nhiều tước vị quan trọng: Văn Phái hầu (năm 1549), Thạch Quận Công (năm
1557). Đặc biệt năm 1584, ông được phong Thường Quốc Công và sau một năm (1585)
được phong Thái Bảo. Ngoài ra, Nguyễn Quyện còn giữ chức Đông quân Đô Đốc, Nam
đạo tướng quân, Bình chương quân trọng quốc, kiêm trưởng phụ sự.Đông đảo trai
hai làng Canh Hoạch và làng Tảo Dương đi theo ông xông pha nơi trận mạc và lập
nhiều công danh. Đến nay, trong dân gian vẫn truyền tụng câu ca: “Gái thì bảy
huyện xứ Đông/ Trai thì Gạo, Vác cháu ông già Thường”.
Năm Nhâm Thìn 1592,
các con cháu của Trạng nguyên Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện cùng bốn người con,
Nguyễn Miễn cùng 5 người con quyết tử khôi phục và giữ Nhà Mạc… Năm 1592, Trịnh
Tùng huy động quân đánh nhà Mạc. Quân Mạc chịu tổn thất nặng nề. Vì muốn bảo vệ
Kinh thành Thăng Long, Nguyễn Quyện tổ chức tàn quân trấn giữ ở ô Cầu Dền,
nhưng thua trận và ông bị bắt. Bắt được Nguyễn Quyện, Trịnh Tùng đãi ông theo
lễ thân khách, không giết, chỉ nhắc ân nghĩa của Tiên Vương nuôi dưỡng. Nguyễn
Quyện than rằng: "Tướng thua trận không thể nói mạnh được, trời đã bỏ nhà
Mạc thì người anh hùng cũng khó thi sức". Chúa Trịnh biệt đãi, thu phục
Nguyễn Quyện quy thuận triều đình, nhưng ông một mực thể hiện khí tiết của một
danh tướng nhà Mạc. Biết không thể dụ dỗ được, chúa Trịnh ra lệnh tống 3 cha
con ông vào ngục. Sáng mùng 4/11 nhuận năm Quý Tỵ (1593), cả 3 cha con Nguyễn
Quyện, Nguyễn Tín và Nguyễn Trù cùng chết trong ngục.
Nguyễn Miễn - em ruột
Nguyễn Quyện - cùng 2 con là Văn Bảng hầu và Đô Mỹ hầu cũng bị sát hại. 3 người
con còn lại của ông Nguyễn Miễn, trong đó có Nam dương công Nguyễn Nhiệm (con
thứ 3, cụ tổ 7 đời của Nguyễn Du) thu thập tàn quân, đánh phục thù ở sông Hoàng
Giang định khôi phục lại nhà Mạc.
Tháng 10/1600, Nguyễn
Đình Luyện (tướng của Lê - Trịnh) dẫn quân cùng nhiều chiến thuyền tiến vào xứ
Sơn Nam đánh chiếm Hoàng Giang, nhưng đã bị quân của Nguyễn Nhiệm đánh bật trở
ra, mất hơn 40 chiến thuyền. Sau trận này, Nguyễn Nhiệm được phong Quận Công.
Để trả thù cho trận
thua nặng nề năm trước (tháng Giêng năm 1601), Trịnh Tùng đích thân mang toàn
bộ quân tinh nhuệ vào vùng Nam Xương đánh Nguyễn Nhiệm. Trận đánh diễn ra vô
cùng ác liệt. Chấn Quận công (tướng tiên phong của Trịnh Tùng) tử trận. Quân
Trịnh quá đông, quân nhà Mạc bị đánh tan.
Sách Lê Quý Đôn toàn
tập ghi “Khi Nhiệm bị giết thì bọn giặc (quân Mạc) đều tan”. Trịnh Tùng cho
quân thu về Thăng Long. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Nam Dương hầu bị tử
trận, còn 2 người em là Nguyễn Tào và Nguyễn Vị (tức An Nghĩa hầu và Thọ Nham
hầu) bị bắt và bị chém đầu”. Nhưng theo gia phả dòng họ Nguyễn Tiên Điền và họ
Nguyễn ở Canh Hoạch thì trong trận ấy, Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm chỉ bị
thương. Ông thoát chết là do nằm ở dưới các tử thi, đến khi chiến trận yên ắng
thì thoát được. Ông nghĩ tới nhiều phương án: Vận nhà Mạc đã hết, nên theo nhà
Mạc lên Cao Bằng cũng không được. Trở về làng Canh Hoạch lại càng không thể vì
sẽ bị quân Trịnh bắt… Sau thời gian suy nghĩ mông lung, Nguyễn Nhiễm nghĩ tới
Trấn Nghệ An tiếp giáp với Thuận Quảng của Nguyễn Hoàng. Có đến vùng đất này
may ra mới tránh được sự truy bức của quân Trịnh (Theo Họ Nguyễn Tiên Điền -
Đinh Sỹ Hồng).
Và hướng đi đã hiện ra
trước mắt. Nguyễn Nhiễm cùng một số người sống sót đã chạy ra biển. Theo đường
biển thuyền vào tới cửa Hội thì ngược dòng sông Lam, đến làng Tiên Điền thì
dừng lại.
Tiên Điền khi ấy còn
là một nơi hoang vu, ít người. Nguyễn Nhiệm bắt đầu một cuộc đời mới, tránh xa
việc binh đao. Nhờ người bản Mường, “Ông Nam Dương” sống qua những ngày gian
khổ và lên bờ dưới danh nghĩa một thầy lang chữa bệnh. Cuối Nhà Mạc, đến thời
Quang Hưng - Lê Thế Tông năm Bính Thân (1596), người con của đất Sơn Nam Thượng
xứ Canh Hoạch đã tổ chức, hình thành khu dân cư sống chuyên nghề nông tang, mới
đổi U Điền ra làng Tiên Điền và khẳng định dòng họ Nguyễn ở vùng đất mới - xã
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh - địa danh gắn với tên tuổi Đại thi
hào Nguyễn Du…
Như vậy, tổ quán (nội,
ngoại) của Nguyễn Du đã có nhiều đời ở Canh Hoạch, Tảo Dương. Thủy tổ họ Nguyễn
Tiên Điền là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm (con của Nguyễn Miễn, cháu nội của
Trạng nguyên Nguyễn Thiến). Từ đời Nam Dương công đến đời Nghi Hiên công Nguyễn
Nghiễm là 6 đời...
Họ Nguyễn Canh Hoạch
đến họ Nguyễn Tiên Điền danh gia vọng tộc, văn võ toàn tài có nhiều danh nhân
nổi tiếng:
- Thủy tổ là Nguyễn
Doãn Địch đậu Thám hoa năm 1481.
- Công tử Nguyễn Doãn
Toại - con trai Thám hoa Nguyễn Doãn Địch.
- Trạng nguyên Nguyễn
Thiến (1495-1557) - con trai công tử Nguyễn Doãn Toại và bà Nguyễn Thị Hiền.
- Làng Canh Hoạch có 2
Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và Nguyễn Thiến, thường được gọi là Trạng cậu,
Trạng cháu.
- Nguyễn Huệ - anh
ruột Nguyễn Nghiễm: Tháng 3 năm Quý Sửu (1733) dự thi Hội đứng thứ 6, thi Đinh
Dậu tam giáp Tiến sĩ suất thân đứng thứ 7.
- Tể tướng Nguyễn
Nghiễm (1708 - 1775) cha của Nguyễn Du.
- Tể tướng Nguyễn Khản
(1734 - 1786) anh trai cùng cha với Nguyễn Du.
- Tiến sĩ Nguyễn Tán
(1804 - 1835) cháu nội Nguyễn Nghiễm.
- Tiến sĩ Nguyễn Mai
(1876 - 1954): Cháu 4 đời thuộc chi Nguyễn Trọng (Nguyễn Trọng là em ruột
Nguyễn Nghiễm).
- Đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du (1765 - 1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, con thứ 7 Tể tướng Nguyễn
Nghiễm. Truyền đến đời thứ 6 kể từ ông Nguyễn Nhiệm có Tể tướng Xuân quận công
Nguyễn Nghiễm sinh được 21 người con, 12 con trai, 9 con gái, trong đó có người
con trai thứ 7 là Đại thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng “Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn…”.
Con cháu dòng họ
Nguyễn tự hào về mảnh đất “địa linh nhân kiệt” đã nuôi dưỡng người tài cho đất
nước:
“Duyên vàng lại nảy cành vàng
Đất thiêng lại nảy những hàng
kiệt linh”.
Do có nhiều người đỗ
đạt, vinh hiển, nhiều đời đỗ đạt làm quan, hiện ở nhà thờ Sắc có nhiều đôi câu
đối vinh danh:
- Văn đỗ Trạng Nguyên,
võ làm Quốc công, áo tía đầy triều.
Nam thì trung thần, nữ
thì oanh liệt, sử sách ngợi ca.
- Ngọn bút lấn mây,
văn chiếm trạng nguyên, võ chuyên chức tướng.
Cành bạc chia nhánh,
nhà ở Canh Hoạch, quán tại Tảo Dương.
- Cậu Trạng nguyên,
cháu Trạng nguyên, khoa bảng đỗ đầu sáng danh sử sách.
Bố Tiến sĩ, con Tiến
sĩ, tám đời quyền quý phúc lớn gia truyền.
Đất kiệt linh, quê
hương của Thám Hoa Nguyễn Doãn Định cụ tổ 11 đời, quê hương của Trạng Nguyên
Nguyễn Thiến cụ tổ 9 đời, quê hương của Thái Bảo Thường Quốc Công Nguyễn Quyện,
Phù Hưng hầu Nguyễn Miễn cụ tổ 8 đời và quê hương của Thái Bảo Nam Dương công
Nguyễn Nhiệm cụ tổ 7 đời của Đại thi hào Nguyễn Du:
“Gặp buổi Mạc vương thành sụp đổ
Nam Dươmg hầu còn cố hy sinh
Tiên Điền thành đất lánh mình
Nghi Xuân đại tộc ngát xanh muôn đời”.
(Đinh Công Vĩ).
Về cái chết của Nguyễn
Du: "Hữu Tham tri Lễ bộ là Nguyễn Du chết. Du là người Nghệ An rộng học
giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ. Đến bây giờ có mệnh sai sang nước Thanh, chưa
đi thì chết. Vua thương tiếc, cho 20 lạng bạc, 1 cây gấm Tống...". Ảnh:
Trong đền thờ Nguyễn Du ở Tiên Điền.
3. Tại Lễ giỗ 200 năm
Đại thi hào Nguyễn Du (10/8 năm Canh Thìn 1820 - 10/8 năm Canh Tý 2020) tại Khu
di tích Tiên Điền, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Nhạ nói với tôi: “Năm 2012, dân
làng Canh Hoạch vào Tiên Điền được đón tiếp rất ân cần, chu đáo và được cung
cấp rất nhiều tư liệu quý để Canh Hoạch bổ sung vào lịch sử nhà thờ Thường Quốc
Công Nguyễn Quyện. Năm 2014, Canh Hoạch dẫn đoàn đại biểu họ Nguyễn Duy thôn
Tảo Dương, xã Hồng Dương vào nhận họ tộc. Năm 2014, Lễ đón bằng Di tích lịch sử
nhà thờ Thường Quốc Công Nguyễn Quyện, làng Canh Hoạch vinh dự được đón lãnh
đạo tỉnh Hà Tĩnh và dòng họ Nguyễn Tiên Điền ra dự chung vui. Năm 2017, Canh
Hoạch vào dự lễ kỷ niệm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du đã đề xuất trồng một cây
đại lấy từ nhà thờ Trạng nguyên Nguyễn Thiến và tặng đôi câu đối gỗ tặng Khu di
tích Nguyễn Du”. Đôi câu đối nối liền Tổ quán với dòng họ Nguyễn Tiên Điền có ý
nghĩa nhân văn như chim có tổ, như người có tông:
“Canh Hoạch cổ danh hương, Trạng nguyên cậu, Trạng nguyên cháu danh
truyền khắp nước
Tiên Điền miền phúc địa, Tể tướng cha, Tể tướng con phúc ấm muôn nhà”.
Hai làng Canh Hoạch –
Tiên Điền có cùng chung nguồn cội“Cây chung nghìn nhánh sinh từ gốc/ Nước chảy
muôn dòng phát tại nguồn”. Những cuộc thăm hỏi của dòng họ Nguyễn làng Canh
Hoạch hai đã được Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du, dòng họ Nguyễn Tiên Điền
đón tiếp rất nồng hậu, ấm áp tình họ tộc. Đúng như lời cổ nhân: “Chim có tổ,
người có tông, tuy ở cách nghìn sông không mờ nhạt tổ tông Hồng Lạc/ Nước có
nguồn, cây có cội, dẫu đi xa vạn đỗi chẳng phai nhòa nguồn cội Rồng Tiên”.
Từ làng Canh Hoạch đến
đất Tiên Điền - dòng họ Trạng nguyên Nguyễn Thiến đã làm rạng danh, xứng đáng
là họ trâm anh thế phiệt. Tính từ đời Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm đến Nguyễn Du
là đời thứ 7. Dòng họ Nguyễn Tiên Điền tự hào có Đại thi hào dân tộc, danh nhân
văn hóa Nguyễn Du.
Tôi đọc đôi câu đối
trong nhà thờ Thường quốc công: “Văn đỗ Trạng nguyên, võ tước Quốc công đầy
triều đỏ tía/ Nam là trung thần, nữ là liệt phụ, thực chép sử xanh” mà ngẫm
ngợi bao điều sâu xa. Câu đối ca ngợi công danh vinh hiển ông và cháu, cha và
con, vợ và chồng. Như vậy, nội dung đôi câu đối đã lan tỏa từ đất Canh Hoạch
đến đất Tiên Điền, đến con cháu Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Khản, Nguyễn Du… 2 vị
Trạng Nguyên có quan hệ thân tộc Trạng cậu, Trạng cháu, lại cùng từ một nơi
nuôi dưỡng phát triển tài năng là làng Canh Hoạch. Dòng Trạng nguyên Nguyễn
Thiến trâm anh thế phiệt, kinh bang tế thế đã làm rạng danh đất Canh Hoạch và
đất Tiên Điền.
Khi Chi hội Kiều học
trở về, hậu duệ Trạng nguyên Nguyễn Thiến cùng dòng họ Nguyễn Canh Hoạch đã bày
tỏ nguyện vọng tha thiết: “Dân làng Canh Hoạch chúng tôi mong muốn xây dựng Nhà
lưu niệm Trạng nguyên Nguyễn Thiến cùng dòng Nguyễn tôn vinh xứng đáng những
danh nhân của đất nước khởi sinh từ mảnh đất này. Nhà lưu niệm tọa lạc ở trên
chính mảnh đất thiêng này - nơi sinh ra Trạng nguyên Nguyễn Thiến, Thường Quốc
công Nguyễn Quyện… là Thủy tổ dòng họ Nguyễn Tiên Điền và Đại thi hào Nguyễn
Du. Chúng tôi muốn lưu danh dòng họ Nguyễn Canh Hoạch và dòng họ Nguyễn Tiên
Điền cho muôn đời sau…”.
(Bài viết sử dụng tư
liệu của dòng họ Nguyễn Canh Hoạch; Họ Nguyễn Tiên Điền và Khu di tích Nguyễn
Du của Đinh Sỹ Hồng).
( PTS-TS Lê Thị Bích
Hồng.)
Xin theo dõi tiếp BÀI 15. Thân ái. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét