Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHẦN IV.MÔN HỌC ĐẦU TIÊN VỚI THÀY BẢY TÂY NINH. ( Tiếp )
Gồng Trà kha và các giai thoại .
Trong các môn phái bùa phép hầu
như phái nào cũng có bùa gồng , như là, gồng Trà kha, Thất sơn thần quyền , bùa
Miên , bùa Xiêm , bùa 5 ông , Phật huyền môn vạn thiên giới linh , Thần quyền
lục pháp.
Môn phái Thất sơn Thần quyền tôn đức
Quán thế âm Bồ tát là Tổ sư và có thêm 8 vị đại diện nữa thay mặt sư Tổ truyền
dạy cho các môn đồ . Tám vị Thần đó là :
1, Hỏa Hỏa
Chơn Chơn,
2/Bá Thiên
Đạo trưởng.
3/ Thanh
Trúc Đạo trưởng.
4/ Hoàng
Thiên Đạo trưởng.
5/ Sa
Thiên Đạo trưởng.
6/ Nga Mi
lão Tổ.
7/Ngư Câu
lão ông.
8/ Bá Hành
ngũ độc.
Theo tài liệu của Thày Bửu Thiền thì
Thần quyền lục pháp có 6 pháp , mỗi pháp có nhiều bài , mỗi bài mang giá trị
linh ứng khác nhau . Tùy theo cấp học sinh mà vị sư phụ sẽ truyền dạy cho các
môn sinh những bài học từ thấp đến cao . Đối với những người luyện võ Bùa hay
Thần quyền , lời thề trước Tổ là điều rất linh thiêng cao quý bởi nếu môn sinh
càng luôn giữ đúng lời thề thì công lực càng mạnh mẽ và ra đòn càng hiệu
quả.Vào các thập niên 50-70 của thế kỷ 20 , Thất Sơn Thần quyền nở rộ từ miền
Trung vào Nam. Đệ tử của phái này quy tụ nhiều nhất tại Sài Gòn trong một số võ
đường. Sau năm 1975 , theo dòng thời gian biến chuyển , môn phái Thất sơn
Thần quyền lặng lẽ theo chân các đệ tử ra đi nước ngoài rất nhiều.
Theo thày Sương Mãn Thiên : "Phép
gồng có 2 cách , gồng bùa và gồng thuốc . Gồng bùa là nhờ thần chú , chử bùa
mình luyện nhiều ngày thỉnh mấy ông Tổ gồng , Thầy gồng về ứng độ cho mình ,
đao kiếm , giáo mác , roi cây đánh đâm , chém bửa cũng không đứt , lủng , đau .
Lúc ấy da thịt người luyện gồng bùa không phải là sắt thép gì đâu , chỉ là có
Thần nhập khiến cho nó có thể đàn hồi như cái vỏ xe hơi bơm cứng vậy , chém vào
thì dội ra mà thôi !
Gồng thuốc thì khác , quả thực sự là
mình đồng da sắt , không gì đả phá , phương hại được , trừ tầm dông vạt nhọn
đâm hậu môn , kim đâm 2 tròng mắt , đủa tre đóng lỗ tai , lỗ mủi , chỉ có xuyên
phá qua đường thất khiếu ấy mới hại được người luyện gồng thuốc , nhưng làm
chuyện hại họ như vậy thiết tưởng không dể .
Muốn học gồng trước tiên là phải được
1 vị Pháp sư điểm đạo (vô phép trong người ), ra mắt Tổ Thầy , Pháp sư làm phép
vô nước , vẻ bùa đốt vô nước đó cho tân đệ tử ấy uống , dùng nhang họa thổi
trên đỉnh đầu , trán , tam tinh (ấn đường) , 2 lổ tai , trước ngực , sau lưng ,
rồi cho đệ tử mới đó lẩm nhẩm đọc 1 câu thần chú , sau đó vị thầy cầm cây dao
sắt chuối thật to bén ngót dang tay chém thẳng vào ngực người đệ tử đó hết sức
3 dao liền không đứt , không rướm máu chỉ nổi dấu 3 lằn đỏ như ta dùng móng tay
quẹt ngang vậy thôi ! như vậy coi như là Tổ đã chứng , người đệ tử làm phần kết
cuộc là cầm 3 cây nhang đã đốt tuyên thệ trước bàn Tổ :
Không phản
tổ phản thầy
Không tà
dâm lấy vợ người
Không cậy
mạnh hiếp yếu
Không tham
lam trộm cắp
Không dùng
bùa phép thư ếm người ta vì tiền
Sau đó là người đệ tử đó coi như đã là
con Thầy Tổ , đi bất cứ nơi nào cung có chư vị khuất mặt theo hộ độ , nhưng cần
giử các điều cấm kỵ như : không, ăn chó , trâu , mèo , khỉ , rắn , rùa , lươn ,
ếch , vì ăn những thứ da trơn này thì phép gồng khi thăng khi giáng không được
linh nghiệm như ý , ngoài ra cần phải siêng năng luyện tập , sáng sớm ra nhìn
mặt trời luyện đọc thần chú tưởng chử bùa gồng đó trên mặt trời rồi hớp khí
nuốt vô bụng , luyện chừng 15, 20 phút lúc mới , sau dần thì lâu hơn 40 phút 1
tiếng . Khi luyện xong đọc chú gồng thổi vô 1 chung dầu dừa rồi uống sẽ cầm
phép không phai .
Người học gồng mà luyện tới thường là
hiền lắm , hay nhịn nhục , không kiếm chuyện với ai bao giờ , không ra tay đánh
người trước , chỉ miễn cưởng khi tự vệ thôi .
Song song với cách luyện bằng khí ,
điển nhập thân người học gồng có thể được hỗ trợ thêm bằng nhiều cách : vô kim
, vô tượng Phật trong người khi có dao chém , hay cây , vật nặng đánh tới thì
những vật đó tự động chạy đến đở , thường là được vô 2 kim hay 2 cốt phật nhỏ
cở ngón tay út nằm ở vị trí 2 bên bắp tay gần dưới nách , khi cho những vật đả
phù phép sẳn đó vô người , vị sư phụ mình không cần mổ xẻ gì tới thân thể mình
đâu , chỉ cầm để ướm sát vào và đọc chú tự nhiên nó sẽ chạy vô trong người đột
ngột mà mình không hay , có người còn vô cả mấy cây đinh 1 tấc 2 nữa đó . Ngoài
ra còn phép gồng đấu võ đài bằng cách ngậm tượng Phật , đeo Cà tha như các võ
sĩ kick boxing của thailand hay xài v.v....
Bùa , phép hay rất hay tuy nhiên cái
gì cũng có điểm khắc kỵ của nó , ví dụ những người luyện , xài các loại phép
trên , nhứt là kẻ vô kim khi mà lấy vợ phá gia cang người khác tự động 2 cây
kim đó chúng sẽ trổ ra đui 2 mắt liền , còn người vô cốt phật làm bậy sẽ bị bể
nát tượng phật đó mà tan trong cơ bắp , tỉnh mạch nghẹt máu mà chết ."
Một số bài chú và bùa
gồng sưu tầm.
* CHÚ GỒNG .
Luyện ngó nhang hay mặt Trời hớp nuốt
:
Á mách
Phật chiếu , anh ru hắc nưng hắc , xê hết xê mắc mô bồ tía ca quít ba tu tha
qua ca mắc mắc . Nam mô Đức Phật , Đức Tổ , Đức Thầy , 136 vị Lục Tổ , Tây Phương
Phật độ cho con :
Súng bắn
không trúng
Đâm không
lủng
Chém không
đứt
Đánh không
đau .
*Chú Gồng cứng như sắt :
Ắ Rặc Hăng
nắc
Ắ Rặc Hăng
mắc
Ắ Rặc Hăng
ắc
Ắ Rặc Hăng
ú
Ắ Rặc Hăng
ú
Ắ Rặc Hăng
ắc
Ắ Rặc Hăng
mắc
Ắ Rặc Hăng
nắc .
Gồng này không kỵ đồ dơ , ô uế gì cả ,
chỉ cữ không ăn chó , trâu , lươn , ếch , khế . không bất hiếu cha mẹ , lấy vợ
người khác .
Chú : ề hế con dăn mờ rây mắc mắc .
*Chú Pali , sáng thức dậy và trước khi
đi ngủ đọc 7 lần , làm tan kế của bất cứ kẻ nào mưu hại mình .
Ế tế bế sô
sam bô thi ,
Pút Thăn
kôl năn
Thơm Măn
kôl năn
Son khăn
kôl năn
Pút thé
kôl năn
Thơm mé
kôl năn
Son khé
kôl năn .
* Hội Phép :
Ề hế ề hế
ca tế sách tắc sắc hắc sa thơm mắc khanh thia , núc phia wên nắc a dăn , ề hế ề
hế kia tha . (3 lần)
(Câu này hội 84 ngàn phép Phật về
.)
* Phép hộ phía sau , không cho ai bất
ngờ đâm , chém , đánh lén từ đằng sau :
Kê bách sô
lô nô tô ra la chá .
*Cầm máu : đọc thổi vô tay vuốt
:
Ru mô Pút
Thô ắ , ru mô Pút Thô ú , ắ thô ắ .
*Bị địch nhân , kẻ thù bao vây , đọc
câu dưới đây từ trong đi ra họ không thấy mình :
Bre mê ơi
....nhum sôm rum si sa la sod' tâm tha dol tăn .
*Đọc khóa chất nổ Mìn , lựu đạn
.
Quyết quăn
sưng úng ắ .
*Đọc khóa nòng súng bắn mình không nổ
:
Thia chuốt
căn ẮC .
* Chú ẩn thân , hộ mạng , ra trận
.
Nam mô Tổ
Sư , Lục Tổ ,Chúa Động , Sơn Thần , chư vị theo hộ mạng đệ tử đi đến nơi về đến
chốn .
Nam mô yết
đế yết đế sơn lâm tá ha . ( 3 lần).
* Kêu Phép phản ngược lại các
Thầy thư , ếm hay làm ác hại người , đọc 12 lần thổi vô nước cho người bịnh
uống và đọc thổi vô chổ đau của người bịnh , binh tướng thần của ông Thầy đó sẻ
về phá lại ổng .
Ung Bút đà
đá mô tăn gô , ma ta bi tu a , sá ri do anh , tơ cà sá dà ca . (12 lần)
Câu dưới
đây cùng công dụng như trên nhưng của Phái Chà (Châu Giang).
Kôl u hy
da in na ma hú sa na fa rum mi nal chinh , ni fa co la sa mén cuốt kôl ranh mal
fa fa . (7 lần)
* Trị sưng trật
mật chú: Ề Hí Mắc Mắc, Son Fa Ri Dol, Gô Chao Ly
Dùng ấn kiết tường niệm chú khoán phù
vào chỗ bị sưng trật.
* Bùa Cầm máu:
Khoán vào chỗ máu đang chảy rất hiệu
nghiệm.
* Phép hộ mạng và thâu mọi thứ có
lợi về cho mình , trừ các thứ hung bạo của trần gian , đọc mỗi ngày 7 lần , hay
nhiều hơn càng tốt (21 , 36 , 72 , 108 , 500 lần v.v.... tùy ý ).
A LI BÓT
SÁC
CHẮC NÓT
TÍC MÓT
BA LÔ CA
CHẾP
GOA LA MI
MÁC
PHÓT SẮC
TẮC NÓT
U LA CHẮC
MÓT
GÔ NÁC TẠC
MÓT
GOA RAY
MÁC BÓT
TON MÁC SA
RI
SO NÍCH TA
SÓT.
Đọc nơi bàn thờ Phật hay Quán Âm cũng
được.
Ắc cờ răng
săn măng măng măng
Phê rít
măng măng
Phê rắc
tắc tấp tắc tấp
Cờ phăng
phăng
Phô phô
mặc mặc
* Bài chú xuất quyền của Vạn Thiên
Giới Linh Thần Quyền :
NAM MÔ A
DI ĐÀ PHẬT (12 lần)
NAM MÔ BÁT
VƯƠNG PHẬT (9 lần)
NAM MÔ SƯ
TỔ HỘI VẠN THIÊN GIỚI LINH (9 lần)
NAM MÔ SƯ
PHỤ HỘI VẠN PHÁP TÔN LINH (7 lần)
NAM MÔ ĐẠI
HÙNG LỰC CHÍ NGUYỆN ĐỘ TÂM LINH (3 lần )
Độ đệ
tử....tên họ tuổi....Thần Quyền vô địch , thần cước vô song ,để đệ tử phò trì
chánh Đạo.
Sau đó đọc
liên tục 2 chử : ẶC RIN.
*PHÉP HỘ THÂN
Phép hộ thân , gồng thì rất nhiều ,
nhưng chú Mẹ Sanh sau đây là nhạy và mạnh , diệu dụng dể xài hơn cả , mổi ngày
cứ ngồi tịnh tọa 5 , 10 phút niệm 21 lần giờ nào cũng được .
Á MÁCH
PHẬT CHIẾU ANH RU HẮC NƯNG HẮC , XÊ HẾT XÊ MẮC , MÔ BỒ TÍA CA QUÍT BA TU THA
QUA CA MẮC MẮC .
NAM MÔ ĐỨC
PHẬT , ĐỨC TỔ , ĐỨC THẦY , 136 VỊ LỤC TỔ , TÂY PHƯƠNG PHẬT ĐỘ CHO CON , SÚNG
BẮN KHÔNG TRÚNG , ĐÂM KHÔNG LŨNG , CHÉM KHÔNG ĐỨT , ĐÁNH KHÔNG ĐAU . ( đụng
chuyện khẩn cấp chỉ cần kêu á mách phật chiếu , á mách phật chiếu v.v.....liên
tục ).
*BÙA CẦM MÁU :
Hít vô nín hơi dùng lưởi họa bóng chử
Mã (trong cờ tướng -馬 ) nơi lòng bàn tay rồi đọc 12 con
giáp 3 lần thổi vô vuốt sẽ cầm , hoặc đọc câu sau : ru mô pút thô á , ru mô pút thô ú , á thô á (3 lần)
* VUỐT SƯNG : thượng đài hay bị đánh
sưng nhức đọc phép này thổi vào xẹp hết : bách
tô nô răn căn á (3 lần)
*PHÉP GỒNG , TAY KHÔNG ĐỞ DAO , CÂY ,
GẬY , BÚA V.V...
bách bách
sanh ca ru , mà da du si ho lai manh mách (phép này phải luyện
mặt trời 100 ngày)
* CHÚ LÀM CHO NGƯỜI THÙ OÁN ĐẾN KIẾM
MÌNH SỢ BỎ ĐI :(đọc liên tục )
ề hế nô mô
pút thia dắ , nạ mạ á ú .
*PHÉP THỔI TRẶC TAY CHÂN : (nín hơi
đọc thổi chà chổ đau ngược chiều kim đồng hồ)
tá ní bú
tăn nứ mứ tứ ứ ắc . (3 hoặc 7 hoặc 9 lần )
* ĐUỔI NGƯỜI HÀNH HUNG , QUẬY PHÁ
:(đọc thổi tam tinh họ nam 7 nử 9 lần bỏ đi liền)
ề hế ná xà
xá xoa ế .
*KINH HỘI CẦU TỔ PHÁI THẤT SƠN THẦN QUYỀN :
Nam mô Tây
phương Phật Tổ Thích ca như lai, Bồ đề Tổ sư , 36 vị Lục Tổ lục cụ, Chuẩn đề bồ
tát, Quan âm , Già lam quan đế , 9 phương Trời 10 phương Phật , tả quan Châu
hửu quan Bình , Đấu chiến thắng Phật , bạch hổ sơn động .
Nam mô
Ngọc hoàng Thượng đế , chư vị Phật Tổ , Linh sơn Thánh mẩu , Cửu thiên huyền nử
, Nguyên nhung chúa tướng ,Cửu vị tiên nuơng, 3 ông Quốc vương đại thần , vong
hồn sư ông sống cứu thế trợ dân , vảng về chầu Phật Tổ cảm ứng chứng minh cho
đệ tử ...(xưng tên họ tuổi mình ra) hội cầu tổ ........(chửa bịnh , xuất quyền,
luyện phép v.v...đọc 3 lần như trên )
ề hế no
thăn ngăn
xá xây cà
ra mây chư vị nhập xác cho đệ tử (đọc liên tục)
Xin chư
Phật thượng động (khi muốn dừng không nhập nữa
* BỊ BAO VÂY ĐỌC KẺ THÙ HỌ TAN HẾT KHÔNG ĐỤNG ĐƯỢC TỚI MÌNH :
mắc tắc
mắc te nó nơ xá ra tha pút thô . ( 7 lần h 9 lần hít vô)
* CHÚ TRỪ CHƯ VỊ CỎI TRÊN XUỐNG THẾ LÀM BẬY VÀ QUỶ HÚT TINH NGƯỜI :
om fắc fắc
xoá ha (6 lần)
sam si ca
ma ha, sam si ca fắc ma ni băng đa, fắc ma ha ma ni băng đa , fắc rát sa rát sa
, fắc ma ha rát sa rát sa, sắc sắc sắc sắc , va va va va , vé vé vé vé , hùm
kha hùm kha hả cáp ve xoá ha (7 lần)
* Chú Nam Tông , quới nhơn giúp đỡ , đi bất cứ nơi nào sáng , chiều 2 thời đốt
nhang ngoài bàn Thiên đọc 7 lần , luôn luôn được người trên , trước ủng hộ giúp
đỡ :
DÊ NĂN PỤT
THE A
DÊ NĂN
THƠM ME A
DÊ NĂNG
SON KHE A
CÁ BA DÍ
NÔ
TÚC CÁ
QUẾT TÁ NE A
DÊ NĂNG
THƠM MÁ RỆT CHE A
TÚC KHÁ
QUẾT TÁ NE A
DĂN DĂN
THÁ QUÍ HÔL TỐ
CHÂY DÔ
MÔNG KÔL LẮ LẮ LẮ .
(mỗi khi đốt nhang đọc 7 lần)
* Thổi vô vết thương cầm máu, nín thở niệm 3 câu sau, rồi thổi vô vết
thương:
-ề hế na
má ba
-ề hế na
má ba
-ề hế na
má ba –tá.
*Niệm khi đi qua chổ ô uế hay có tà
khí, ngải nghệ để nó không xâm nhập và không theo mình về nhà:
-nia ri
thô cùn kia du sồthê tế bal, nhặn tuc khăn.(niệm liên
tục)
*Đi đường niệm kinh nầy, dọc đường ít
bị trở ngại:
-nứ mứ tứ
ứ ă, ă ră hăn, ná má ă ú.
* Bị nóng lạnh,2 tay cầm ly nước
sạch ra ngoài trời, tụng 30 lần kinh vô nước uống, mau thuyên giảm(cho mình hay
người đều được)
-nạ mạ ca
đạt ,ca đạt nạ mạ.
*Trị kinh phong giật,niệm kinh 9 lần
vô rượu ,phun họ từ đầu tới chân,rồi thổi vô miệng họ, người bịnh có thể tự
niệm vô rượu ,lấy rượu đó rửa mặt và vuốt từ đầu xuống chân, mổi ngày làm vậy
có thể trị dứt cơn, không xảy ra:
-ê xê, ê
xê, mạ mạ,e sa thí so hăt,mạ mạ sa thí y mạ.
* Mắt nhậm đau, niệm 7 lần thổi mắt,
hay thổi vô nước sạch ,lấy nước đó rửa mắt, nên dụng lúc ban ngày , nhanh kết
quả:
-chăc khú
cô rô, quí nia son tế, kê cô quí ông.
* Đi đường xá, hay ở rừng núi, niệm
kinh nầy để không trúng gió,bị máu xâm, có ai bị thì mình đọc 1 hơi rồi thổi họ
mau tỉnh:
-bặc căc
ăc săc.
* Đi bộ , trèo đèo lội suối,niệm kinh
trong lúc đi cho tăng sức lực:
-ní minh
thú pặc, tặc quác tô mặc mặc.
* Câu kinh hội nầy, lúc gấp rút, có
thể dùng chửa bịnh hay cho các việc cần, mà công năng chỉ tạm thời,niêm liên
tục 3,5,7,9 lần thổi vô nước uống hay chổ đau, tạm thời đối phó:
-nặc mô
buốt thia dá, ăc săc tặc,mê brặc ăc tăc,sô căc me săc mẹt mẹt.
* Niệm
kinh nầy 7 lần ,thổi chổ sưng trặc,mau phục hồi:
-buôt thia
chia nia tế, thom mia chia nia tế, son khia chia nia tế.
* Ở chổ lạ, trước lúc ngủ niệm kinh
nấy, người khuất mặt họ không phá mình:
-ki ăc
buôt ta tou giăc thăc ki ăc.
* Buổi tối, đi chổ bụi rậm, niệm kinh
nầy 3 lần ,rắn không cắn:
-prẹt che
tha, tí quít lít tế.
* Ngủ chổ lạ, rừng núi,vv…niệm kinh
thổi vô 4 nắm đất ,quăng ra 4 hướng, mình nghỉ ở giửa,tối không có thú vô hại
mình được, mà có kẻ xấu thì sẻ tự giật mình dậy:
-pát che
tha buôt thăn qui tat phế,qui tát phết
--pát che
tha thom măn qui tat phế,qui tát phết
--pát che
tha son khănl qui tat phế,qui tát phết.
* Có chuyện lộn xộn xảy ra quanh mình,
đọc kinh nầy thì bình an, không ai đụng chạm kiếm chuyện:
-pat che
tha put put păn păn chăn chetl,pat che tha hăn hăn năn năn chetl.
* Niệm chú nầy , dù đứng giửa ổ rắn
độc, củng không con nào cắn mình, tuy nhiên chỉ để phòng thân , xin các bạn
đừng thử, vì bắt rắn cần bình tỉnh cao độ và tập trung vào chú thuật:
-crế mà
thế,crế mà the,crăc măc thăc, crăc mà thăn.
* Hay niệm câu Phật nầy ,có nhiều linh
cảm dự đoán:- ă nut ta rô.
* Nệm câu nầy , không ai kiếm chuyện
hại mình:-bặc sê phế , bế sê păc.
* Muốn xử dụng hiệu quả kinh chú gốc
pali,mổi ngày ta nên trì niệm kinh ân đức phật 7, 21 ,49 hay 108 lấn, váo lúc
sáng sớm hay chiều tối
-ế tế bế
sô ba gá qua, á rá hăn sam ma sam buôt đô,vic cha chá rá ná sám banh đô,sú gác
tô,lô ca quí đu, ă nut ta rô, phú rí sá đam, má sa rá thi,sá tha đô qua ma nú
sa năn, buôt đô,ba ga qua tê.
Và niệm qui y tam bảo 3 lần:-na mô ta sa ba ga qua tô, ă ra hăt tô, sam
ma sam buôt ta sá.
rồi kinh chú bên trên nào mình muồn,
nên chấp tay niệm cho nhiều, không kể số lần, cho nhập tâm là 1, hai là cho đều
đặn mổi ngày thì rất tốt, không phân biệt nam nử chi, đã có nhiều vị nử rất
giỏi dùng chú pali trị bịnh.
đã trì kinh chú, ta nên giử điều Phật
dạy:
-1)không
sát sanh hại vật.
-2)không
nói dối lợi ta hại người
-3)không
lấy cắp, tước đoạt của người
-4)không
tà dâm,nói, làm, phá gia đạo mình và người.
-5)không
tham uống rượu say, mất tự chủ.
*Chú Niệm Hương (Nam Tông)
Bud' thăn
bô chăng
Thơm măn
bô chăng
Son khăn
bô chăn
Ten năng
bô chăng
Sanh lăn
bô chăn
Kích năn
ka rô mí .
(Đốt 3 cây hương chấp trước trán tập
trung niệm 3 lần trước khi công phu bên Pháp cũa Nam Tông )
Những chữ thường gặp trong trường phái
này như : Bud' Thăn = Phật , Thơm Măn = Pháp , Son Khăn = Tăng . Ắ Rặc Hăn = A
La Hán , Ề hế hoặc Ê hí = Sắc Lịnh . Mặc mặc = cấp cấp , Cà Ra Mây = tập hợp ,
Xắ Xây = chứng minh ...........
Thường bên Nam Tông các phái Xiêm ,
Lèo , Miên , Miến Điện v.v.... trước tiên muốn thĩnh mời , làm phép gì gì .....
đi chăng cũng phãi đọc câu tán thán đãnh lễ Như Lai sau đây :
Nắc mô ta
sắc , phắc cá wá to , á rá há to , sam ma sam Bud' ta sắc (3 lần ,
lạy 3 lạy) .
Bùa Chú nên đọc theo các biến lẽ như :
1 , 3 , 5 , 7 , 9 lần là tiễu số . Các biến đại số là : 12 , 18 , 21 , 36 , 72
, 49 , 108 lần v.v.... thì sẽ linh nghiệm .
* Bài viết này cho những ai thích hành
trì Thần Chú bên Nam Tông (Pali hay Bà Lây), đây là tập hợp lại những câu Chú
ngắn từ dể dần lên khó , từ những sinh hoạt hằng ngày trong Tứ Oai Nghi (đi
,đứng ,nằm ,ngồi ) đến sau này có thể lập Đàn v.v..... Bất kỳ ai đã có Qui Y
Tam Bảo , có thờ Đức Thích Ca là đều trì niệm tốt đẹp , linh ứng .
Đầu tiên đốt 3 cây nhang chắp ngay
trán tập trung niệm.
1)TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN :
Om Ram Xóa Ha (7 lần)
2)TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN : Om xoa pha va sud' đa sạt va đạt ma xoa pha
va sud' đa hàm (3 lần)
3) AN THIÊN ĐỊA CHƠN NGÔN : Na mắc sa măn tá búd đa năm , Om đu ru đu ru
, đi ri đi ri pơ rít thi vi dê xoá ha . (7 lần)
Sau 3 phần trên thì đọc câu chú Niệm
Hương sau đây 3 lần rồi cắm nhang lên bàn thờ :
Bud' thăng
bô chăn
Thơm măn
bô chăn
Son khăn
bô chăn
Ten năn bô
chăn
Xanh lăn
bô chăn
Kích năn
ca rô mí
( 3 lần cắm nhang lên )
Tiếp theo là đọc câu Tán Thán , Đảnh
Lể Phật dưới đây 3 lần và lạy 3 lạy :
Nắc mô ta
sắc
Phắc cá
quá to
Á rá há
to
Sam ma sam
Bud' ta sắc
(3 lần lạy 3 lạy)
Sau đó đọc Thỉnh Tổ sau đây 3 lần
:
No Tho
Ngăn , mách na măn , ís soi sô , Ề hế nắ mắ bà tá , ề hế nô mô bud' thia dắ , ề
hế ắ sa ngăn ma mắ
Tiếp theo đọc câu cúng Thầy dưới đây 3
lần :
Úc ca sắc
ết măn xà lăn á ký tha mí
Tút tế dăn
bế ế măn xà lăn á ký tha mí
Tách tế
dăn bế ế măn xà lăn á ký tha mí .
Nguyện
Trời Phật Thầy Tổ hộ độ v.v..... đọc 3 lần rồi lạy 3 lạy :
Lệnh Ngọc
Hoàng Thượng Đế , mẹ Tam Vị Thánh Tổ , Chư Vị 5 Ông . Phật Tổ Như Lai , Lưu
Quan Trương Châu Bình , chư Tiên chư Phật chư Thánh chư Thần , Tam Thập Lục Tổ
, Chư Vị Thần Bùa chứng kiến độ trì cho đệ tử tên họ tuổi v.v..... Học Pháp
thành công đắc Đạo cứu nhân độ thế .
Sau đó đọc Kinh 10 Danh Hiệu Phật dưới
đây 7 lần:
Ế tế bế so
pha ca qua
A ra
hăng
Sam ma sam
bút thô
Vi cha chá
ra na săm pan nhô
Su ga
Tô
Lô ca qui
đu
A nút ta
rô
Pu ri sá
thăm ma sá rá thi
Sát tha đê
wa ma nút sa năn
Bút thô
Pha ga wa
ti .
(Trên đây là phần căn bản Nhựt tụng
cầu an hay để tu luyện Pháp Thuật cũng bắt đầu căn bản như vậy trước )
* Sáng thức dậy còn trên giường đọc 3
lần nhắc nhở Phép mình nhạy bén hoài :
Hết đô
bạch cho dô ế tế bế sô féc ca quia frẹc tố sắ bo-rờ mây dol tế , Ê hí sách thi
mê chặc phặc . (3 lần)
*Tối khi lên giường trước khi ngủ cũng
đọc 3 lần nhắc nhở như vậy :
Ắ rặc hăng
bút thô , Nặc Mô Bút Thê Dắ . (3 lần)
* Sáng thức dậy và trước khi đi ngủ
đều đọc 7 lần , làm tan kế mọi kẻ trù tính hãm hại mình :
Ế tế bế so
sam bô thi
Bút Thăn
kôl năn
Thơm Măn
kôl năn
Son Khăn
kôl năn
Bút thé
kôl năn
Thơm mé
kôl năn
Son khé
kôl năn
(7 lần)
* Khi ăn đồ bị phạm như dấp cá , ngò
om , khế . Chó , trầu , mèo , rắn , rùa v.v.... đọc câu này 7 lần vô nước uống
giải . Nhớ đó là do vô tình bị trúng thôi , đừng cố ý ăn không hay :
Ề hế ắc ca
ra kia tha dol tăn sol tăn quí tăn cắc rê ề hế mắc mắc . (7 lần)
* Đi ra khỏi nhà kêu Tổ theo hộ mạng ,
kêu 7 lần :
Ê hí mia
rê so mia rê mắ mắ .
* Đi qua trạm ải kêu Chú này Hải Quan
không xét bắt bớ được.
Vái : 36 vị Lục Cụ độ cho con .....tên họ tuổi ......qua trạm ải bình an
Ề hế nắp
cập banh âm phù ra mắc mắc , mắc mắc ra phù âm banh cập nắp hế ề (7 lần
hít hơi vô nuốt , đọc lập đi lập lại nhiều lần càng tốt . Nhớ đi tiểu ngồi)
Câu thứ 2 công dụng che thân qua trạm
, ải :
Nô mô nô
khai khai .
* PHÉP GỒNG :
1) Ế
tế quí tế
(hít sâu đọc liên tục nín hơi ,
câu này cũng dành để thử học trò mới nhập môn Thầy cho đọc Thầy cầm dao chém
không đứt để thêm tin tưởng )
2)Ú
ca sắ nắ mắ , nô mưng ắ .
* PHÉP CHẠY NHANH HƠN XE HƠI : Luyện
21 ngày , mổi ngày tàn 1 cây nhang , khi sử dụng đọc 7 lần thổi vô cọng cỏ ngậm
vô miệng chạy .
Ú ắ khăn ú
thô , phét két quí nia sanh tố .
* THẦN QUYỀN ĐẠO 5 ÔNG :
Nắc mắc
pắc tắc mô la căn (3 lần)
Ô CA SA MA
BÀ TẠ (đọc liên tục)
* TRƯỚC KHI ĂN CƠM ĐỌC :
Ề hế no
túc , no phách , no băn , no răn chia tố sắ
* KHI VÔ NHÀ VỆ SINH HAY CHUI QUA SÀO
QUẦN ÁO HOẶC TRƯỚC KHI GIAO HỢP ĐỌC THẦM , TẨY UẾ KHÔNG DƠ PHÉP MÌNH :
Bút thăn
băn ca sa
Thơm măn
băn ca sa
Son khăn
băn ca sa
(3 lần)
* CÁC LOẠI CHÚ TRỊ BỊNH , THÔNG THƯỜNG
ĐAU ĐÂU ĐỌC THỔI ĐÓ , THỔI VÔ TAY VUỐT XOA CHỔ ĐAU VÀ ĐỌC THỔI VÔ NƯỚC UỐNG LÀ
HẾT :
* SƯNG QUAI BỊ :
Sắ bế sắ
tế quí ré hôn tố (7 lần)
* SƯNG , NHỨC , ĐAU :
Thu ri âm
pắc cam bơ lăng (21 lần)
* SƯNG :
Ô ma hom
bru brơ anh sa đós ôi qui nét sol tế ắ se sa tô (7 lần)
* TRẶC :
Ô ma tho
lós bru brơ anh sa đós ôi qui nét sol tế ắ se sa tô (7 lần)
* GÃY XƯƠNG :
Ô ma pắc
cho ăn bru brơ anh sa đós ôi qui nét sol tế ắ xe sa tô (7 lần)
* TRỊ RẮN CẮN :
Nẹt mẹt
bút thế dắ xoa sô cật (21 lần)
* TOM ÔNG PHẬT ĐEO TRỪ SÚNG ĐẠN :
Nặc phích
phịch , phách xa ra , phạch phích phịch, phạch phạch phịch (21 or
108 lần)
*KÊU CHƯ THẦN :
Ề hế mê
brây cô ma dăn mặc mặc
* KÊU CHƯ THÁNH :
Ề hế no ni
quăn sắc nha thô
* KÊU TRẠNG :
Ề hế Bút
Thô đùm a rây mặc mặc
* KÊU TÀ ĐÁ :
Ề hế Bút
Thô rốp bờ xây mặc mặc
* KÊU CHƯ VỊ ÔNG TÀ :
Ề hế cà sa
dắ mặc mặc , ề hế bề xê mặc mặc , Bút thô rép bòn Tà Mun , Tà Mi , Tà Bạch , Tà
Sơn , Tà Sa , Tà sét , Tà Ắ Rặc , Tà Hồng xây xây lơn
do mo .
* KÊU LỤC :
Ề hế mắc
mắc Lục ơi ..... chú kha bút thu bút thăn ề hế cà răng mặc mặc .
CHÚ THỔI U SƯNG.
Nô mô bốt
the vo sách thum ,o a ách ây, óc âu rứt rư rưt rư , e ai a ô , a ôm á ( 7 biến
).
Chú : Ngô phụng Thái Thượng lão quân , cấp cấp như lực lịnh lai giang hạ phò
trì đệ tử toàn thân ( 7 biến ).
* BA ÔNG TỔ LỚN NHẤT.
• Ề hế tế
dá mặc mặc.
• Ề hế thế
dái mặc mặc.
• Ề hế Bi
li mặc mặc.
Ba câu này kêu cho thường xuyên,
* KINH KÊU TỔ.
Nam mô
tassa phagavato arahato sammasambut tasac.
Khi muốn làm việc gì lớn phải đọc bài
kinh này.
* KINH KÊU TỔ,
Nô phích
chi quých – Nô phích duol chanh – Ni hai ni duol – Nắt phích bích tíc – Nắt lom
mô quên – Bíc quên bel thắt quên – Dul chai nắt lom – Lon lại nắt săng ti mô –
Sa rắt pút thắt ma ních muốt mô ( 3 biến ).
* CHÚ ĐỌC TRỪ CÁC VIỆC DỮ, BIẾN HUNG
HÓA CÁT.
Nặt tắng
xa tha ( 7 biến ).
* CHÚ ĐỌC ĐỂ KHÔNG AI NÓI XẤU MÌNH.
• Nặt sa
lịch mặt – Không hại mình.
• Nặt sa
lịch á – Người ta không nói xấu.
• Nặt sa
lịch ú – Người ta thương mình.
• Mê cha
chách tăng – Kêu người cũ trở lại.
* CHÚ ĐỌC CHO PHÉP CỦA MÌNH LINH
NGHIỆM.
Ir ra quá
buốt thô mí .
* CHÚ LÀM CHO NGƯỜI TA MUỐM TÌM NHÀ
MÌNH TÌM KHÔNG ĐƯỢC.
Ắc săn
quýt sô ắc.
*KINH TÔM PHÉP CHO PHÉP Ở LẠI.
Sết so
xăng- á rặc hăn á ( 3 biến ) .
Xo xo thia
dạ - xo a ra hăng.
*KINH TÔM KHÔNG CHO AI PHÁ PHÉP MÌNH.
Pút tế -
tút tế - tặc tế.
* CÀ THA MỘT MẮT HỘ MẠNG CHO ĐỆ TỬ.
Chú : Khật tân quýt tân – Khật rê a ra
hăng.
Khi cần thiết đọc thêm chú này :
Chút tế
mút tế,
* KINH THỈNH TỔ CHÚ KHĂN.
Nam mô bổn
sư thích ca mâu ni Phật.Thỉnh Hồng mông sơ khởi vạn linh linh. Niệm đạt Huỳnh
đình siêu vạn quả. Tâm niệm Huỳnh đình Thiên Địa động. Siêu phàm nhập Thánh
thác trần ai. Vạn kiếp Thần Tiên quy căn bổn.Tiễn vong hậu quá thượng liên đài.
Hạ thỉnh Thích lịch kim quang phóng Phật lực tà tâm thối vạn tán,
* CẨN THỈNH HỒNG MÔNG.
Hồng mông
chư Phật hội đồng cảm ứng hạ không bảo triều tâm pháp . Tam tinh thủ chấp , đại
phóng quang minh . Chư Phật hộ hình bồng lai thiết hội . Lục Đinh lục Giáp , tam
thập lục thiên can ,thất thập nhị Địa sát, cấp Thiên Long bát bộ , cộng bát lão
chơn Tiên , hội ngũ hành , tam Giáo. Thỉnh bắc phương chân võ Như lai , hộ trợ
ngô thân , niệm Quan âm ứng hiện . Chiếu thất tinh vạn đẩu . Chư Phật đồng
chứng giám. Ngọc Hoàng thâu sắc hạ , vạn Thánh chí lai lâm. Chư Phật đồng hội
diện thỉnh pháp chân ngôn. Thần khâm , quỷ phục trai Đàn pháp hội . Chư Phật hộ
hình sử ngã chân linh. Đằng vân giá vũ, biến tướng phóng hình , lực sĩ âm binh
, đồng văn pháp ngã thông minh, Thiên Địa biến hóa vô cùng . Pháp bố tứ tung
ngũ hoành tróc quái, quân thâu vạn kiếp hoán vũ hô phong . Nguyện hồi Thiên ý
thiết la thiết võng . Thủ chấp thập phương chuyển thạch di sơn . Ma Vương thúc
thủ , kim cang thâu tróc , đả diệt tà tinh . Ly mị tàng hình, tam tinh hội ngã.
Phi phù niệm chú , biến hóa oai thần , thông tam giới . Hữu hô hữu ứng, hữu
hình. Lực sĩ huỳnh côn tứ phương tốc khởi . Kim cang hòa thủ bá vạn Thần tiên ,
xử ngã diên niên , ẩn thân hộ ngã, chánh Đạo ta bà ha , cấp cấp như luật lệnh.
* CHÚ VÀ BÙA .
Án Thiên
thâu Địa quyền ám . Á phong vũ ám . Á lôi điển thần , thích lịch thần thiết
võng bố ngũ phương tứ tung ngũ hoành . Hộ Thiên Long bát bộ , tróc phược hỗn
nhị khí âm dương – Cấp cấp như luật lệnh. Án oanh oanh tá ha .
* BÙA CỬU DĨ TRẤN TÂM.
Bùa nào cũng phải có chữ bùa này. Dùng
hộ thân và hộ các chữ bùa.
CHÚ :
Tả phết
chống Thiên Địa – Thâu nhật nguyệt tinh.
Phết
thượng hoành phong – Nhất điểm quỷ thần kinh.
Đông trấn
, Tây trấn – Nam Bắc trấn.
Đông Tây Nam
Bắc – Thiên địa nhân.
Thìa thí
thìa thá – Thìa mí thìa má.
Thìa má
thìa tú – Thìa thá.
Luyện bằng đèn bão gắn 8 cung bát quái
xung quanh, cung của bản mệnh mình trước mặt. Luyện đến khi đèn bão chớp tắt 3
lần thì ra luyện ngoài mặt trời.Lời dặn : Khi luyện phải nói thầm , không nói
ra tiếng sợ động Thiên địa. Nếu đọc ra tiếng tức là thỉnh họ về, khi họ về đến
nơi không thấy có chuyện gì nguy nan họ sẽ giận mình.Phải học thật thuộc nhão
không sơ suất. Khi có sự nguy nan, đọc và quán bùa thì họ về che chở cho mình.
Bùa chú là pháp thuật được
các đấng thiêng liêng truyền dạy xuống thế để cứu giúp chúng sanh ,nhưng bởi vì
có kẻ tốt người xấu khi thọ phù ,mà huyền thuật như con dao 2 lưởi ,có thể giúp
và hại đời. Nhứt yểu ,nhì
bần ,tam vô tự .
Cái đó nhìn về mặt nhân quả thì đúng thôi ,ví dụ 1 kẻ nghèo khó đến xin lá bùa
cầu tài ,khi mình cấp cho rồi thì vô hình trung sẽ làm giảm đi cái lộc của
mình, ví dụ khác : khi trị bệnh tà ma, mở thư ếm cho bệnh nhân khỏi ,thì mình
đã kết oán với con tà ,trong linh giới tà ma ,họ cũng có bạn bè ,phe đảng như
thế gian vậy thôi ,khi phá mình không được thì sẽ quậy vợ con mình ,nhưng cũng
không nghiêm trọng gì lắm đâu , chỉ cần cấp Thần tướng chư vị theo giữ xác họ
là được ,ngoài ra phải năng trì các chú bổ khuyết những phần mình đã mất đi ,và
tuỳ thuộc tâm đức mổi người thầy mà xem kết quả chung cuộc cuối đời ,Duy một
điều chắc chắn là khi ai đã luyện pháp thuật lâu năm rồi thì không ai có thể đoán
trúng vận hạn của kẻ đó 1 cách chính xác được (coi không ra )
Trong các cách ,chánh khí là tối ưu .thắng được tà ma ,xoay chuyển được nghịch
cảnh ,sát khí đôi khi cũng khắc chế được ma tà trong linh giới ,nhưng cũng dể
bị các cỏi ma lớn ( Thiên ma ba tuần v.v..) lợi dụng khống chế ,điều khiển hành
động mình trong vô thưc' mà mình không biết . Con người là tiểu Vũ trụ , trời
đất là đại Vủ trụ có sự hỗ tương ,liên quan mật thiết , ví dụ :
Trời có tinh, nhựt ,nguyệt , người có tinh khí thần
Trời có ngủ hành ,người có ngủ tạng .
Trời có hô` hải giang hà, người có máu huyết châu lưu nên mổi móng niệm trong
tâm mình đều ứng trong thiên địa ,thánh thần tri giác ,trư` khi mình đã nhập
thiền định bala mật ,chứng thoát vô sanh nhẩn ,có khả năng siêu tam giới ,vượt
ngủ hành
Đường đi của các bậc Tiên gia.
Sơ nhứt chuyễn luyện cho Tinh hóa Khí , điều hòa thân tâm an lặng
Sơ nhị chuyễn bế ngũ quan , điều Thần hiệp Khí
Sơ tam chuyễn khử trược lưu thanh , hâu thiên ngưng giáng , Thần Khí giao thông
, thân thể nhẹ nhàng , linh hồn minh huệ , cách trí tri , mỗi sự vật dưói thế
gian nầy đều hiểu biết , ấy là bá nhựt trúc cơ , đắc thọ tam-kỳ đến thập ngoạt
hoài thai , hoàn thành NHỨT BỘ , xuất dưong thần , triều ngươn ngũ khí thì
chứng cảnh không .
Sang tứ chuyễn mạch máu lưu thông điều hòa thái tức ,
Ngũ chuyễn nhũ bộ tam niên , hườn hư vô cực
Lục chuyễn thân tâm đều bất động , vô thân , vô thể , vô tâm , vô cấu mỗi việc
đều không , đắc thành NHỊ BỘ , xuất thông giáo lý , mở khiếu nhãn quang , các
hiện tưọng siêu hình nơi trung giới đều thấy hết , ấy là chứng Thiên Nhãn ,
Thiên Nhĩ Thông
Thất Chuyễn
Nhứt trí thần thông quảng đại vạn thâu vạn pháp
Nhì trí thần thông quảng đại thiên binh thiên tướng thiên kỳ
Tam trí thần thông quảng đại hô phong hoán vỏ thích lịch
Tứ trí thần thông quảng đại hoá long hiện hổ bôn trì
Ngủ trí thần thông quảng đại cử tẩy thiên sầu địa thảm
Lục trí thần thông quảng đại trì cung tà quỷ khứ thần khi .
Luyện tinh
hoá khí
Luyện khí hoá thần
Luyện thần hoàn hư
Khi khí lực điều hoà thì thần tự ninh tỉnh , mà thần định thì hành giả dể nhập
cảnh giới hư vô (Thiền tông gọi trạng thái khinh an) ,người tu luyện huyền
thuật nên giử gìn 3 báu linh : tinh, khí ,thần dòm đèn cầy, nhang , mặt trời
v.v....... không chỉ riêng mục đích trụ thần ,còn có công năng thu hút linh
điển từ nhựt ,nguyệt ,lôi công v.v.....
Khí phù như lưu thủy chi bất an ,
Tâm định thị cao sơn chi bất động .
Sơ nhứt chuyễn luyện cho Tinh hóa Khí , điều
hòa thân tâm an lặng
Sơ nhị chuyễn bế ngũ quan , điều Thần hiệp Khí
Sơ tam chuyễn khử trược lưu thanh , hâu thiên ngưng giáng , Thần Khí giao thông
, thân thể nhẹ nhàng , linh hồn minh huệ , cách trí tri , mỗi sự vật dưói thế
gian nầy đều hiểu biết , ấy là bá nhựt trúc cơ , đắc thọ tam-kỳ đến thập ngoạt
hoài thai , hoàn thành NHỨT BỘ , xuất dưong thần , triều ngươn ngũ khí thì
chứng cảnh không .
Sang tứ chuyễn mạch máu lưu thông điều hòa thái tức ,
Ngũ chuyễn nhũ bộ tam niên , hườn hư vô cực
Lục chuyễn thân tâm đều bất động , vô thân , vô thể , vô tâm , vô cấu mỗi việc
đều không , đắc thành NHỊ BỘ , xuất thông giáo lý , mở khiếu nhãn quang , các
hiện tưọng siêu hình nơi trung giới đều thấy hết , ấy là chứng Thiên Nhãn ,
Thiên Nhĩ Thông
Thất Chuyễn ....
Nhứt trí thần thông quảng
đại vạn thâu vạn pháp
Nhì trí thần thông quảng đại thiên binh thiên tướng thiên kỳ
Tam trí thần thông quảng đại hô phong hoán vỏ thích lịch
Tứ trí thần thông quảng đại hoá long hiện hổ bôn trì
Ngủ trí thần thông quảng đại cử tẩy thiên sầu địa thảm
Lục trí thần thông quảng đại trì cung tà quỷ khứ thần khi .
Luyện võ gồng không khó lắm nhưng đòi hỏi phải có tính kiên trì. Trước
tiên, người học sẽ được Sư phụ thông các huyệt đạo trên người bằng nội lực. Sau
đó sẽ chỉ cho các câu Thần chú, rồi cứ học thuộc trong lúc ngồi thiền. Cứ kiên
trì luyện tập ngồi thiền, đọc chú kết hợp với vận nội công hằng ngày thì tự
nhiên nội lực sẽ tăng lên. Khi tập đến đỉnh thì da cứng như đồng, như sắt, đao
kiếm không gây thương tích được.Thày Bảy rút từ túi hành lý ra một cây đao bén
ngót rồi tự chém phằm phặp vào người. Lưỡi đao bén ngót nhưng chạm vào da thịt ông
như chạm vào trái bóng da, cứ bật ra. Cao hứng, ông còn nhờ mọi người lên cầm đao chém giúp. Thày
Bảy cho biết thêm : Khi học thành tài thì Dao chém, búa bổ, đòn đánh không đau.
Khỏe mạnh suốt đời không bao giờ đau ốm vặt. Không kiêng cữ nhiều chỉ kiêng ăn
thịt chó, khế, lươn và rắn. Trừ được tà ma.
Phép gồng có 2 cách , gồng bùa và gồng thuốc . gồng bùa là nhờ Thần chú
. Khi bùa mình luyện nhiều ngày thỉnh mấy ông tổ gồng , thầy gồng về ứng độ cho
mình , đao kiếm , giáo mác , roi cây đánh đâm , chém bửa cũng không đứt , lủng
, đau . Lúc ấy da thịt người luyện gồng bùa không phải là sắt thép gì đâu , chỉ
là có thần nhập khiến cho nó có thể đàn hồi như cái vỏ xe hơi bơm cứng vậy ,
chém vào thì dội ra mà thôi !
Gồng thuốc thì khác , quả thực sự là mình đồng da sắt
, không gì đả phá , phương hại được , trừ tầm dông vạt nhọn đâm hậu môn , kim
đâm 2 tròng mắt , đủa tre đóng lổ tay , lổ mủi , chỉ có xuyên phá qua đường
thất khiếu ấy mới hại được người luyện gồng thuốc , nhưng làm chuyện hại họ như
vậy thiết tưởng không dễ .
Thuốc Gồng bao gồm những vị : dây ổ chim kên kên (bên núi Tà
lơn của Cao miên mới có ) , con bìm bịp con mới ra ràng , rắn hổ đất con , rắn hổ
mây con , rắn mai gầm con , con lọ nồi , sanh mã tiền , nước tiểu đồng tử , mạt
sắt vụn sét , vàng mài ra thành bột , huyền , chuổi hổ , châu thần (châu sa ,
thần sa ).
Sau khi hoàn thành việc tôm phép và
qua những bài kiểm tra về võ và về gồng, một ban kiểm tra gồm nhiều vị Thày có
thâm niên sẽ cấp Sắc Trà Kha cho đệ tử. Phái Chà Kha thì có cả trăm cái sắc ,tùy
theo đẳng cấp đại trung hay tiểu Sư mà các Thày sẽ cấp cho phù hợp.
Thày
Bảy còn dạy thêm : Một số võ sĩ Thái Lan, Lào, Campuchia thường luyện võ bùa,
võ gồng, khi ra đấu, bắp tay họ đeo “cà tha” (vòng chỉ ngũ sắc), trong miệng
ngậm tượng “ông Phật” làm từ nanh heo rừng. Đó là những “linh bùa” đã được yểm,
muốn thắng, chỉ có cách nhập nội, nhắm đánh trúng vào yếu huyệt, đánh sao cho
văng tượng “ông Phật” ra khỏi miệng họ, lập tức đối thủ sẽ bủn rủn toàn thân,
chân tay rũ liệt, tinh thần bấn loạn...Nhưng để làm được điều đó phải luôn tập
luyện cho tinh tấn con à.
Hàng
ngày ông đốc thúc tôi thức khuya ,dạy thật sớm để luyện đèn cày, luyện Mặt
Trăng , mặt Trời. Ông còn dặn dò rất kỹ : Những người trì Chú, dụng Phù :
Nên ăn chay và không làm chuyện Phòng Sự trong 2 ngày Sóc , Vọng (mùng 1 ,
rằm), không nên ăn thịt chó , thịt mèo , trâu, khỉ , rắn , rùa .....
Không được bất hiếu với Cha Mẹ, lấy vợ phá gia cang người khác , người tu luyện
huyền thuật đúng nghĩa không được coi tiền tài hơn việc nghĩa (có tiền mới cứu
, không tiền không cứu), không nên vổ ngực "Ta Đây" thường xuyên biểu
diển những phép thuật mình đã thủ đắc cho người khác xem ( chém không đứt ,
nhai miểng chai , đã cách không , thổi ghẹo gái theo v.v.....)
Buổi tối đừng ăn no quá , khi dụng công , công phu phải kiên trì , thức sớm lể
bái , trì tụng đều đặn mỗi ngày dù trời lạnh hay nóng , nên thường xuyên quán
sát Tâm mình , diệt Ngã và tránh xa những Tổn Hửu ác đãng (bạn bè xấu có hại
cho việc tu trì của mình), nên gần các Thiện Hửu Tri Thức , không đố kỵ, ghanh
tài, nói xấu kẻ đồng nghiệp , đồng môn , như vậy mà nắm giử trì chí chắc chắn
sự nghiệp Huyền Học sẻ thành tựu . dienbatn hỏi Thày Bảy : Vậy bên mình vẫn
uống rượu bia như vậy thì có sao không ? Thày Bảy trả lời : Uống vài chai Beer
hôm trước thì không ảnh hưởng gì đến công phu của hôm sau đâu , tuy nhiên nếu
chất men dùng thường mỗi ngày sẻ làm tản thần , giảm tập trung của nảo bộ khi
tu trì . Luyện bùa chú không cần phải từ bỏ beer , rượu , đừng uống say xỉn
hoài thì vẫn ổn.
Hiểu biết thâm sâu ,
Một lòng hướng Đạo .
Pháp vị nhân sinh ,
Thần thông quảng đại .
Pháp lực vô biên ,
Hành trì miên mật .
Đạo sánh đại hải .
Tâm như gương sáng ,
Đức tựa Thái Sơn .
Ấy bậc thượng nhân ,
Cửu ngưỡng , cửu ngưỡng.
Thày Bảy còn
dạy rằng :" Chỉ có người có Tâm Đạo bao la mới dung nạp được Đạo thuật vô
ngại". Vì khi đó tôi còn trẻ, nhiều dục vọng nên Thày Bảy có cho tôi học
bài chú PALI , DIỆT DỤC .
Om mắc nô mô ế tế bế sô phắc ca qua Ắ rặc
hăng sam ma sam Pút Thô , Ắ rặc hăng tăn tế chô sô pắc tế , pha la tế chô sách
thi tế lê đế chô , rịch thư sách thi tế chô , chây dạch chây dô quí nia sol tế
.
( Bài Chú này các Sư Nam Tông còn trẻ đi tu hay trì mỗi ngày diệt sắc dục
rất hay , tâm tư không còn nghĩ tới bóng sắc , Chú này thích hợp cho người có
lòng hướng Đạo mà còn sức vóc . )
Tuyệt học vô vi nhàn Đạo nhân
Bất trừ vọng tưởng chẳng cầu Chân
Vô minh thực tánh tức Phật tánh
Huyễn hóa không thân tức Pháp thân .
Hướng Đạo Chơn Ngôn Yếu Quyết :
Tịnh lấy Dưỡng Tâm ,
Minh lấy Kiến Tánh
Huệ lấy Quán Thần
Định lấy Trường Khí
Quả Dục sanh Tinh
Trí Hư lập Ý
Tịnh thì vô vi cho nên Tâm Thanh
Minh thời chẳng tối cho nên Kiến Tánh
Huệ thời năng chiếu cho nên Thần Toàn
Định thời thường tồn cho nên Khí Thư
Quả Dục Tinh cố cho nên Tinh Sanh
Trí Hư dứt Duyên Không cho nên Ý Thiệt .
Thất Tình Thọ Thương :
Hỷ đa thương Tâm
Oán đa thương Can
Ái đa thương Thần
Ác đa thương Tình
Ái đa thương Phế
Cụ đa thương mật
Dục đa thương Tỳ .
Thày
Bảy còn căn dặn : Còn 1 điều tối ư quan trọng phải cấm kỵ khi họa Phù là : ngày
Sát Sư của mỗi tháng và tháng Sát Sư của ngày đó , phạm những ngày này tổn
phước Hành Giả , Phù phép không linh , và những ngày trong năm cấm kỵ phòng sự
, nếu phạm thì không chứng quả Tiên , Thánh được v.v.
Vì
là học cả 3 Thày một lúc nên dienbatn có hỏi Thày Bảy :
Một
người đi học võ bình thường, có thể học học một lần hai ba thứ võ khác nhau.
Võ
Thần quyền có nhiều môn phái, vậy khi học nhiều môn phái của Thần quyền có bị
chỏi gì hay không?
Vì
môn phái khác nhau nên thần cũng khác nhau, do đó không biết các vị Thần có
chống khắc nhau hay không?
Nếu
chống khắc thì bị tác hại gì?
Thày Bảy trả lời : Không hề có chuyện bị chống
, khắc khi 1 đệ tử học 3, 4 môn phái hay nhiều hơn cũng vậy ! suy theo lý thông
thường của thế gian thì còn biết Nhân , Nghĩa , Lể , Trí , Tín mà , huống hồ
chư Thần họ là cõi giới cao hơn? Như bản thân các Thày xưa nay , trong Pháp Đàn
thờ chung khăn ấn các phái :Lỗ Ban ,Mao Sơn , Chà , Ngũ Phương Phật , Mọi ,
Xiêm , Vạn Thiên phái cũng đâu có sao ? đâu thấy gì chống khắc gì ?
Trong khi đọc chú Pali Nam tông những chữ thường gặp trong trường phái này như : Bud' Thăn = Phật ,
Thơm Măn = Pháp , Son Khăn = Tăng . Ắ Rặc Hăn = A La Hán , Ề hế hoặc Ê hí = Sắc
Lịnh . Mặc mặc = cấp cấp , Cà Ra Mây = tập hợp , Xắ Xây = chứng minh
...........
Thường
bên Nam Tông các phái Xiêm , Lèo , Miên , Miến Điện v.v.... trước tiên muốn
thĩnh mời , làm phép gì gì ..... đi chăng cũng phãi đọc câu tán thán đãnh lễ
Như Lai sau đây :
Nắc mô ta sắc , phắc cá wá to , á rá há to , sam ma sam
Bud' ta sắc (3 lần , lạy 3 lạy) .
Sau gần 3 năm học theo Thày Bảy, rồi cũng đến một ngày đẹp trời kia tôi
được ông bà Bảy và Thày Chàm làm lễ xuất Sư và trao khăn Ấn cho. Thật là vui
mừng quá đỗi. Cảm giác giống như ngày xưa khi nhận tấm bằng tốt nghiệp Đại học
vậy. Tuy nhiên khác với lần nhận bằng Đại học, lần nhận Khăn Ấn này tôi thấy
mình già giặn và trưởng thành lên rất nhiều. Hình dáng thư sinh ngày trước cũng
biến mất và thay vào đó một vẻ rất cứng cỏi, thâm trầm và phong trần. Tôi tự
tin nhiều hơn vào cuộc sống, một mình có thể đi đêm đi hôm , thậm chí ra ngủ
tại bãi tha ma mà vẫn thấy ấm áp. Lúc nào tôi cũng có cảm giác có Thày Tổ luôn
đi theo bên cạnh hỗ trợ, nâng đỡ mình vượt qua những khó khăn , nguy hiểm.Từ
một người với số không tròn chĩnh về Huyền môn, nay tôi đã được trang bị khá
nhiều kiến thức và kinh nghiệm về chuyện đó. Đặc biệt là khả năng sinh tồn giữa
thiên nhiên hoang dã tôi đã được phát huy đến cao độ. Tôi có thể đi xuyên rừng
cả ngày mà không sợ bị lạc đường, bị đói khát hay thú dữ tấn công. Với tôi bây
giờ , rừng già hoang vắng cũng êm đềm , ấm áp và thân thiên như ngôi nhà của
mình ngoài Hà Nội. Đến như ông Thày Bảy khó tính là thế mà khi trao Khăn Ấn cho
tôi, Ông chỉ nói gọn lỏn : Tao biết mày là thằng Bắc Kỳ chịu chơi. Còn bà Bảy
thì nhìn tôi âu yếm như một người mẹ vậy. Riêng ông Thày Chàm thì vẫn nhìn tôi
lom lom và giớ cánh tay cụt ra chọc chọc cù lét tôi rồi cười phá lên. Cũng trong
đợt này, mấy anh em bị Trùng tang thủa trước cũng được làm lễ Xuất Sư. Nhìn họ
cầm khăn Ấn , nước mắt đầm đìa, tôi hiểu họ đã phải trải qua những tháng ngày
cực khổ biết bao nhiêu. Cuộc đời là vậy, cái gì qua đi hãy để nó qua, những khi
nhớ lại những gian khó đã phải trải qua, nó chỉ còn có tác dụng giúp ta vững
bước hơn về phía trước.
Một
ngày mới lại đến trên mảnh đất Tây Ninh yêu dấu. Nơi đây dù nghèo khó nhưng đã
hun đúc được rất nhiều người thành đạt trong cuộc sống về kinh tế, chính trị
cũng như trong Huyền môn. Mảnh đất Tây Ninh luôn chắt chiu từng củ mì , từng bó
mía, từng trái xoài trái điều…để con người có điều kiện vươn tới những ước mơ
xa. Xin cảm ơn đất Mẹ, cảm ơn những Thày Tổ, cảm ơn những người nông dân nghèo
khó đã nâng đỡ cho những bước chân của chúng tôi hôm nay.
Trong
ngày này, Thày Bảy cũng cho báo tôi một tin không biết nên buồn hay vui : Tôi
sẽ nghỉ làm và tháp tùng ông Thày Bảy và ông Thày Chàm một chuyến đi dài ngày .
Mục đích của chuyến đi tôi không hỏi đến vì biết tính của Thày Bảy, cái gì cần
nói lúc cần sẽ nói.
PHẦN IV.MÔN HỌC ĐẦU TIÊN VỚI THÀY BẢY TÂY NINH.
Môn học đầu tiên mà ông thày Bảy dạy cho tôi là pháp môn phái Trà Kha.
Thày giảng giải cho tôi rất tỷ mỷ về Nguồn Gốc Phái Trà Kha.
" Các hệ phái
thuộc miền Nam của Việt Nam gồm có phái Trà Kha, Lỗ Ban, Năm Ông, Thần Quyền
Thất Sơn, Mẹ Sanh vv...
Thường hay được giới
Huyền Môn gọi chung là Nam Tông để phân biệt với các phái miền Bắc Việt Nam.
Hệ phái thuộc Nam
Tông tại miền Nam chủ yếu được truyền thừa theo kiểu truyền khẩu, và các đạo sĩ
thường hay ẩn dật ở những nơi hoang vu ít người lui tới, đơn cử như vùng Thất
Sơn là nơi hội tụ của rất nhiều đạo sĩ, các hệ phái Nam Tông sử dụng cách
truyền pháp là Khẩu Truyền cho nên tài liệu về các phái này hết sức là ít ỏi,
gần như là không có, 1 phần cũng vì sự kiêng kị của các phái là không muốn các
Phù Chú của Tổ mình bị lan truyền ra ngoài, họ sợ làm vậy sẽ mang tội, ngày nay
thời đại đã thay đổi những chuyện Phù Chú Huyền Bí rất ít người tin tưởng, người
theo học cũng chả còn bao nhiêu, trong khi thực tế thế giới huyền bí vẫn
cứ hiện diện trong đời sống chúng ta, hàng ngày, hàng giờ, mà vẫn chưa có 1 lời
giải thích nào thỏa đáng.
Xin thưa với các bạn là 1 chữ
Bùa, 1 câu chú, các cụ ngày xưa đã phải đúc kết và học hỏi thậm chí giữ gìn hết
sức cẩn thận từ đời này sang đến đời khác, ngày nay tôi nghĩ là với tình trạng
như hiện nay, người theo học Pháp chả còn là bao nhiêu, sớm hay muộn gì các
chữ Bùa các câu chú cũng sẽ bị thất truyền đi, bởi vậy vì muốn giữ gìn văn hóa
cha ông nay tôi xin chép lại các phép này, chữ bùa và câu chú trong sách được lấy
từ các tài liệu chép tay mà tôi may mắn có được, ở đây tôi xin chép rõ theo
nguyên văn, những chữ bùa tôi biết sẽ có thêm phần chú giải, còn không tôi sẽ để
nguyên bản, tôi xin nói rõ để các bạn nghiên cứu và tìm hiểu về phù chú biết vậy."(
Phần tài liệu của Tantric).
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài
này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có Chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành
vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.
Căn Bản Của Phù Chú Nam Tông .
Các pháp thuộc hệ Nam Tông khác xa với
các Pháp Bắc Tông, Nam Tông không chú trọng nhiều đến Thủ Ấn, khi học Nam Tông
cần nhất phải có thầy điểm đạo, cấp sắc, khi học bất cứ 1 phái nào đều có Tổ
của phái đó, các phái đều có Kinh Cầu Tổ, Sắc Tổ Truyền, các phép lớn còn cần
những Âm Binh để trợ giúp cho, nếu không có thầy điểm Đạo , cấp Sắc thì Tổ nào,
âm nào biết mà theo giúp đỡ, về căn bản tu luyện bên các pháp Nam Tông thì
người học thường phải luyện Bùa theo các phép sau đây.
Quán Tưởng .
- Nghĩa là vẽ 1 chữ bùa ra sau đó Quán
Tưởng đọc chú, luôn luôn tưởng chữ Bùa đó trong đầu cho đến khi có cảm giác chữ
Bùa nhập vào cơ thể mình, khi tưởng ra chữ Bùa có cảm giác nó ngay trước mắt
mình, thậm chí có trường hợp chữ Bùa lóe sáng, xoay chuyển theo ý nghĩ của
người luyện.
Các Cách Luyện.
- Khi họa 1 chữ Bùa thường phải nín
hơi, chữ bùa đó ngắn, dài, đều phải nín hơi, định tâm thần vào đó, khi khoán
bùa cũng vậy.
Hình thức vẽ Bùa có sự quy định như
sau, các chữ Bùa thường có vòng khuyên xoắn ốc, bình thường là Bùa nam sẽ xoắn
7 vòng, Bùa nữ là 9 vòng, dùng chung cho 2 phái là 1,2..... số vòng sẽ thay đổi
theo số lẻ như 3,5,7,9,12,21,36 tuy nhiên thường không bao giờ vượt quá 36
vòng.
( Lỗ
Ban Sát – Mạch Chí Nhân 1974 )
Cách Luyện Âm
Dương .
Luyện Âm Dương : Sáng luyện mặt trời mới mọc, chiều luyện
mặt trời khi ở ngọn cây, nóc nhà, đêm có trăng thì luyện trăng, không trăng thì
chọn 1 ngôi sao nào sáng nhất khởi luyện.
Cách Luyện Đèn .
( Còn
gọi là dòm đèn cầy Phái Lỗ Ban Sát )
Khi luyện đèn có 2 cách luyện:
*1 là vẽ chữ Bùa lên 1 mảnh giấy sau đó đặt sau nó 1 ngọn đèn cầy, sau đó
dùng mặt tập trung ngó vào nó và dùng mắt vẽ theo nó, tùy loại bùa mà thời gian
nhanh hay chậm, thường thời gian luyện sẽ là 1 cây nhang, và luyện 49 hoặc 100
ngày, đến khi trong đầu thấy chữ Bùa đó lóe sáng hoặc giả khi nhìn bất cứ vào
chỗ nào là ta đã có thể cảm giác chữ bùa hiện lên ở chỗ đó, ( các thầy giỏi khi
nhìn vào cốc nước là đã khoán đước chữ Bùa vào cốc nước rồi )
* 2 là cách luyện đèn khác là lấy 1
cái đèn như cái đèn bão bên ngoài có 4 mặt kính, trước tiên thắp 1 ngọn đèn cầy
vào trong sau đó dùng nến vẽ ở bên ngoài kính, rồi dùng phấn, vôi, son vẽ bùa
lên mặt kinh đó và ngó luyện.
Các cách luyện khác gồm có vẽ bùa bằng
ngón trỏ, ngón chân cái, và vẽ bằng lưỡi, nhưng tựu chung đều là phải thuộc chữ
bùa và làm sao cho chữ Bùa phải có tâm mình và nhập vào bản thể của mình, tương
tự như người tu Mật Tông quán chữ Om vậy.
Thông thường các chữ để trị bệnh chỉ
cần 7 ngày là thành, còn các loại chữ Bùa khác như hộ thân, Chiêu Tài,
vv.....mất thời gian hơn và có luật định riêng.
Dụng Bùa.
Khi dụng bất cứ 1 loại bùa nào nên lưu
ý về thứ mình dụng, trị tà, thì phải theo nghi thức trị tà, chữa bệnh phải xem
rõ căn bệnh, chọn phù thích hợp, nhưng quan trọng nhất phải cầu Tổ, hội phép,
vẽ bùa, niệm chú, khi niệm thường nín thở niệm chú.
Theo thầy TDT thì khi luyện các phép
bên Nam Tông nếu là Miên, Lèo, Xiêm, lục, cần chú ý như sau
Chú Niệm Hương (Nam
Tông)
Bud' thăn bô
chăng
Thơm măn bô
chăng
Son khăn bô
chăn
Ten năng bô
chăng
Sanh lăn bô
chăn
Kích năn ka rô mí
.
(Đốt 3 cây hương chấp trước trán tập
trung niệm 3 lần trước khi công phu bên Pháp cũa Nam Tông )
Những chữ thường gặp trong trường phái
này như : Bud' Thăn = Phật , Thơm Măn = Pháp , Son Khăn = Tăng . Ắ Rặc Hăn = A
La Hán , Ề hế hoặc Ê hí = Sắc Lịnh . Mặc mặc = cấp cấp , Cà Ra Mây = tập hợp ,
Xắ Xây = chứng minh .
Trước tiên khi muốn thỉnh mời bất cứ
vị nào để luyện phép nên cần đọc câu chú sau, thiếu câu chú này không có sự
linh diệu nào cả ( đặc biệt với các bạn nghiên cứu không có 1 hệ phái nào chính
tông cả )
Nắc mô ta sắc , phắc
cá wá to , á rá há to , sam ma sam Bud' ta sắc
(3 lần , lạy 3
lạy) .
Trong các hệ phái Nam Tông người thầy
thường cấp cho các đệ tử các lá Sắc như Sắc Hộ Thân, Sắc Triệu Thần, Sắc Triệu
Âm Binh.
Sắc Hộ Thân : khi gặp
những tà ma, hoặc những vị Thần lớn quá không hại đến thân thể.
Sắc Triệu Thần : để kêu
gọi các vị thần tướng theo mình.
Sắc Triệu Âm Binh : để kêu
gọi âm binh đi theo giúp đỡ hoặc các thầy sẽ nuôi âm để giúp việc sai khiến.
36 VỊ TỔ CHÁNH.
PHÁP DANH HỘI
Nam mô Tây Phương
Phật Tổ Thích Ca Như Lai.
Bồ Đề Tổ Sư.
36 vị Lục Tổ
Phật
Chuẩn Đề Bồ
Tát.
Quan Thế Âm Bồ Tát.
Ông Già Lam Quan
Đế.
Chín phương trời.
Mười phương Phật .
Tả ông Quan Châu. Hữu
ông Quan Bình.
Đấu Chiến Thắng
Phật.
Bạch Hổ Sơn
Động.
Nam Mô Ngọc Hoàng
Thượng Đế.
Chư vị Phật Tổ.
Ba ông Quốc Vương Đại
Thần.
Cửu vị Tiên
Nương.
Vong hồn sư
ông.
Sống cứu thế trợ dân.
Vãng về chầu Phật Tổ. Cảm ứng chứng minh cho đệ tử ......... cầu Ông Tổ
........... nhập xác chửa bệnh, xuất quyền, luyện phép).
PHÁP DANH 36 VỊ TỔ CHÁNH.
1./ XÁ XÂY KÀ RA MÂY
2./ NO THĂN NGÂN
3./ NO NẠC NĂNG
4./ HẾ XA SẤP
5./ PHÁCH GIÁ BÀ TÁ
6./ NÁ MÁ BÀ TÁ
7./ NÚM NÁ BRUM
8./ NÁ Á MO RI
9./ NA SA PA
10./ NÁ CÀ XA DÁ MẮC MẮC
11./ NÍT KHÉT BĂNG CÀ RA MÍ
12./ Ề HẾ NẮP CẶP BANH NAM PHỜ RA MẮC
MẮC
13./ Ề HẾ SA MA THÍ Á
14./ Ề HẾ A CÚ SA GIÁ MẮC MẮC
15./ Ề HẾ Ế Á TẾ GIÁ MẮC MẮC
16./ Ề HẾ KHEO QUĂN TẾT MĂNG KỆ RÊ
THA
17./ Ề HẾ PÚT THỐ PÚT LÀ MANH TUA MẮC
MẮC
18./ PÚT THỐ KHAI NĂN SĂN TUA MẮC
MẮC
19./ Ề HẾ MÊ BỜ RÂY CÔ MA VĂN MẮC MẮC
20./ Ề HẾ PÚT THỐ ĐUM BỜ RÂY CÔ MA DĂN
MẮC MẮC
21./ THÓC THỊA QUĂN SĂN SÓC CĂN
22./ ẮC CÀ RA ĐUM TĂN SĂN LĂN Á THÍ Á
THÁ MÍ
23./ Á HĂN BĂN SẾ TA SA LA VĂN SA
MAO
24./ Á MÊ MÍ CĂN ÔNG PHÚC CHẤC Ề
HẾ
25./ Ề HẾ CA RA MÂY TỐ TA TÊ TIN DĂN
ÔNG PHÚC CHẮC Ề HẾ
26./ Ề HẾ NA RA MO MẮC MẮC
27./ Ề HẾ MẮC HUẤN SUNG Ắ HUẤN SUNG Ú
HUẤN SUNG
28./ Ề HẾ MÍ TẾ CHỀ TẾ BẾ TẾ CĂN
29./ ÔNG CÀ RA MÍ NÍT KHÉT BĂN CÀ RA
MÍ MẮC QUAN TÂY
30./ CÀ RA KHA KHA KHÁ KHÁ
31./ PÚT THỐ MA HĂN SĂN TUA MẮC
MẮC
32./ KHÁ KHÁ KHA KHA CÀ RA
33./ Ề HẾ Á SA NGĂN MẮC MẮC
34./ Ề HẾ NẮC MÔ PÚT THÊ DẮC
35./ PÚT THÔ BÔN RÁP BRÂY MẮC
MẮC
36./ ÔNG MẮC ĐẶC CĂN ĐẶC CĂN ĐÁT THÔ
MÔN SÔN CĂN QUAN CÔNG MẮC MẮC THÍ Ắ.
Còn một bản khác ghi các vị Tổ như sau :
cầu 36 vị trang tổ chứng:
-1-bili
2-núsê
-3-no tho ngan
-4-tế sa
-5bề mắc
-6-săn khê
-7-da tô
-8-a sa thá
-9-a quê săn
-10-bạch hổ
-11-lục cham
-12-lục chi
-13-lục nha rây
-14-lục cà chui
-15-a sà lam
-16-ngủ hổ
-17-nha thô
-18-nha bênh
-19-ba lưu
-20-ná ba nặc
-21-but no má
-22-no nặc hăn
-23-bi sa tha
-24-tăc đà bà
-25-lưu quan chơn
-26-cám rừng
-27-thần hưu thánh
-28-thần hoàng
-29- a chàm
-30-bửu da đà bửu
-31-buôl thá
-32-á sa ngăn
-33-ná cà xa dá
-34-nha rây
-35-bí sa tha
-36-bi nha rây.
-Cầu chứng luyện mau thành:
Trời trên,Trời
dưới,Phật tổ,Phật thầy, mẹ Quan thế âm ,5 sư ,6 tổ,Lục tổ-Lục Mun-Lục Xiêm
hiệp-Lục Lèo-ông 5, ông 6, ông 7-Trời Phật Thánh Thần-ông trạng mình-cho con
luyện phép siêu xuất giúp đời .
Mỗi đệ tử theo học đều có 1 vị tổ theo
hộ mạng. Sau khi đọc Pháp danh hội người thầy dùng nhang khoán bùa số 6 vào người của đệ tử và 1 số nghi lễ khác,
rồi cho đệ tử đọc mời chư Tổ về luyện võ.
Trên là phần giới thiệu cơ bản chung
chung của các pháp thuộc hệ phái Nam Tông .
Môn phái Trà Kha hiện ở Việt Nam rất
ít người nắm rõ bởi phái này không phát triển rầm rộ như các môn phái khác như
Lỗ Ban, Năm Ông Thần Quyền, người biết về phái này và theo học cũng không có
nhiều cho nên về tài liệu cũng như nguồn gốc rất ít người nắm rõ, cũng như tất
cả những môn phái thuộc hệ Nam Tông ( theo cách gọi của giới Huyền Môn) các
phái Huyền Thuật thuộc hệ Nam Tông tại Việt Nam thường không có 1 dòng
truyền thừa chính thức mà thường là lai tạo hoặc truyền khẩu, 1 người học Huyền
môn thường học rất nhiều phái khác nhau mà tất cả các phái này đều cũng không
thuộc hệ chính tông truyền thừa cho nên việc truy tìm về gốc của 1 phái là rất
khó, thậm chí có rất nhiều truyền thuyết được truyền miệng ra, sau đây tôi xin
chép về nguồn gốc của phái Trà Kha theo 1 thuyết mà có rất nhiều người hiện nay
cho là đúng với gốc phái.
Về mặt tôn giáo thường hay có rất
nhiều chuyện hoang đường được thêu dệt ra môn phái Trà Kha cũng không ngoại lệ
này. Về gốc phép có 1 thuyết như sau :
Phái Trà Kha có nguồn gốc từ Ấn Độ sau
đó được truyền vào Thái Lan theo hệ Tiểu Thừa Phật Giáo, Phái này nằm trong gốc
Phật Giáo, khi xưa Phật Tổ khi còn mang xác tục của mình đi giảng đạo, ngài di
chuyển trong những nơi hang sâu cùng cốc, khi ngài đi giảng đạo thì gặp đủ thứ
những chuyện gian truân như sự thù hận, ganh ghét, chém giết của loài người cho
đến những khó khăn khi gặp thú dữ, ác quỷ, khi đó Thượng Đế tức là ông
trời thấy vậy mủi lòng thương xót mới sai 3 vị thần tướng xuống để giúp đỡ đức
Phật làm tròn sứ mệnh tu thành đạo và cứu vớt chúng sinh, ba vị thần tướng đó
đội lốt rắn và khi ẩn khi hiện luôn theo sát Đức Phật, nhưng vì Đức Phật có
lòng từ bi thương xót luôn cả những kẻ gian ác có lòng hại mình, cho nên mỗi
khi 3 vị thần tướng ra tay trừng trị là kẻ ác là Đức Phật lại cầu xin Thượng Đế
tha lỗi cho họ, nghĩ vậy Thượng Đế không biết làm sao vì Đức Phật quá nhân từ,
Thượng Đế liền ra lệnh cho 3 vị Thần Tướng phải truyền cho Đức Phật các phép để
giữ mình, 3 vị tướng liền trao cho Đức Phật phép thần thông làm cho ngài khi
gặp chuyện thú dữ, kẻ ác, đâm chém làm hại mà thân thể không có 1 vết xước nhỏ,
ba vị tướng lại uốn mình thành những hình kì lạ và Đức Phật chép lại gọi là
Bùa, 3 vị truyền lại cho Phật những câu Thần Chú và Phật gọi là Kinh, bởi vậy
nên Phép Trà Kha mới có hình bùa như rắn vậy, pháp Trà Kha thường vẽ bằng son
đỏ trên giấy vàng, bởi khi xưa 3 vị tướng uốn mình trên đất vàng.
Phái Trà Kha thờ thần rắn gọi là NaGa,
phái này còn có 1 hệ ở bên Thái Lan là hệ phái gốc, còn được gọi là Xiêm, thực
tế khi truyền vào Việt Nam mới có tên là Trà Kha ( lấy theo tên ấp Trà Kha ở
Bạc Liêu ) các phép của Xiêm và Cambot thường du nhập vào Việt Nam qua những
ông thầy người Việt gốc Miên, Chà, sau đó các thầy người Việt được truyền lại,
về phái Trà Kha có những điều căn bản và những pháp rất phổ thông nhiều người
biết như sau.
Các
Điều Căn Bản Về Phép Trà Kha.
Căn
bản của người luyện phép Trà Kha cần phải hội đủ 5 bài Kinh và Chú gồm có :
Kinh Tam Giáo, Chú Thỉnh Tổ, Chú Hội Phép, Chú Gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện các
bài chú này thường được thầy cho kèm theo chữ Bùa để luyện hàng đêm, phép Trà Kha
cũng có những cách thức luyện tương tự như các phái Nam Tông khác đó là Đọc
Kinh , Đọc Chú Thỉnh Tổ, Chú Hội Phép và Quán Tưởng bùa.
Kinh
là gì ?
Kinh
tức là các câu Thần chú, các bài kinh chủ yếu theo ngôn ngữ PaLi, Kinh khác Thần
chú ở chỗ khi đọc có thể cho lưỡi chạm vào răng, Kinh thường đọc đầu tiên để
bắt đầu làm 1 phép gì đó, có những phép mà Kinh có luôn chức năng là Thần Chú
nếu như chữ Bùa đó không có Thần Chú đi kèm thì có thể lấy Kinh mà thay Thần
Chú, nhưng tất cả đều phải có quy tắc và cách dùng rõ rệt, điều này do thầy
truyền thụ chỉ bảo mới nắm rõ.
Chú
là gì ?
Cũng
giống như Kinh Chú là những ngôn ngữ bí mật rất khó dịch nghĩa, khi chuẩn bị
làm 1 phép nào đó cần phải đọc Kinh, vẽ Bùa sau đó niệm chú, khi niệm Chú thì
lưỡi không được chạm vào răng.
Bùa
là gì ?
Bùa
là những kí tự bí mật, thường được vẽ bằng son trên giấy vàng, phái Trà Kha
thường vẽ bùa uốn lượn như rắn, các Bùa được vẽ theo lối xoáy vòng khuyên từ 1-
7 vòng thậm chí nhiều hơn, tùy vào công dụng mỗi lá Bùa, người khi đã thấu hiểu
được quy tắc hoặc thuộc hàng cao thủ có thể tự chế và vẽ Bùa mới, hầu như Phái
Trà Kha ở Việt Nam đều dùng các lá Bùa chế do sự va chạm giữa trình độ các Pháp
với nhau cho nên cùng 1 công dụng nhưng Bùa của Việt Nam và Xiêm cũng có sự
khác nhau, bản thân câu chú và kinh cũng vậy, do truyền thừa không chính tông
nên bị tam sao thất bản rất nhiều, tuy nhiên về nguyên tắc Huyền Môn quan trọng
nhất vẫn là thành tâm và tin tưởng, bởi vậy mới có chuyện 1 người chưa hề học
qua về Huyền Môn nhưng vì quá thành tâm và thù ghét kẻ khác mà đã vẽ 1 đạo bùa
rồi dồn hết tâm lực vào trù ếm kẻ kia, dĩ nhiên trong Huyền Môn sự thành tâm
chỉ chiếm 50 % những việc tu luyện và được thầy chỉ dẫn vẫn quyết định sự thành
công.
Cầu
Tổ Là Gì ?
Cầu
tổ là 1 hình thức như lên đồng cốt, người học phải thành tâm tin tưởng mới cầu Tổ
được, về các hệ phái Nam Tông rất chú trọng việc cầu Tổ bởi các hệ phái này chủ
yếu là nhờ Tổ giúp đỡ hay làm phép gì đó đơn cử như Phép Gồng Trà Kha, Võ Bùa,
các phép này họ chủ yếu là nhờ Thần Lực của Tổ về nhập xác để đánh võ hoặc chịu
gồng, vì với xác phàm thì khó có thể chịu được những xung lực như dao chém
không đứt hoặc đánh võ chịu đòn, tất cả đều nhờ thần lực hoặc sự nhập xác của
Tổ bởi vậy nên người học các phép này cần kiêng cữ để cho cơ thể không bị ô uế,
như vậy các Tổ hoặc thần linh mới nhập xác được, hoặc phép không bị mất.Tuy
nhiên cầu Tổ không phải ai cũng có thể làm được nếu không nắm rõ cách thức, tế
lễ, niệm kinh cầu, hoặc giả phải có sự truyền thừa.
Phái
Chà Kha xuất xứ từ Ấn Độ và đã truyền vào Thái Lan nhiều năm rồi, phái này thờ
Thần Rắn còn gọi là Naga (cho nên những nét Bùa của Chà Kha uốn lượn như rắn).
Căn bản cho người luyện Phép Chà Kha thì phải hội đủ 5 bài Kinh Chú, bao gồm:
Kinh Tam Giáo, Thỉnh Tổ, Chú Hội Phép, Chú gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện, và
cộng thêm10 chử Buà của 10 Vị Tổ trong bài Thỉnh Tổ (cho Thầy mỗi đêm luyện và
uống). Buà Phép của Chà Kha rất nhạy bén và công dụng sài cho trăm việc như:
thư ếm, chửa bệnh, trục tà, lên đài đấu, sên dầu thơm ăn nói, buà chú thương,
gồng, .v.v.,
KINH
HỘ TỔ 1 :Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam Hanh Phanh, Cam Mành Mảnh, Cam Mây
Nghanh, Cam Manh Nganh, Cam Sắc Xi, Cam So Rẹc, Cam Chuốt, Cam Phược.
KINH
HỘI TỔ 2 : Bra ti ít sắc nặc – Bra sao
ti ni phịt nặc – Bra chôm sắc sắc nặc – Bra xây tha na mặc nặc – Bra chôm bry
rặc nặc .
KINH
HỘI PHÉP:
Công
dụng của bài hội phép, ngoài luyện ra còn có thể sên buà và dùng cho những chử
buà Chà Kha mà không có chú kèm theo. Đây chỉ là căn bản cho người nhập môn
luyện pháp Cha Khà, còn biến hoá và sử dụng thì nhiều lắm.
Bờ
Ri Ti Ti Tích Nặc, Bờ Ri Tích Ti Na Nặc, Phắc Cu Bờ Rích Nặc, Sắc Phịch Phổ
Nặc, Ô Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Manh Manh Lơn.
Phép
Tra Kha có nguồn gốc Phật Giáo nhưng sự kiêng kị không quá khắt khe như Phật
Giáo, cũng giống như các hệ phái thuộc Nam Tông khác học phái Trà Kha cần kiêng
các thứ sau.
-
Khế, Ngò Om,
-
Cá Không Vảy
-
Các Vật Thuộc Hệ Bò Sát
-
Trâu,Ngựa, Chó, Rắn, Rùa.
Tại
sao lại kiêng các thứ đó ?
Các
thứ như Trâu, Chó là những thứ thuộc hàng hôi tanh người học phép không nên ăn,
và còn 1 điều nữa theo như người xưa truyền lại đó là con Chó nó có đủ 4 thứ
Trung, Tín, Lễ, Nghĩa chỉ thiếu đúng chữ Nhân, theo tục truyền Trâu,Ngựa, Chó
đều là con người khi chết mắc tội phải đầu thai làm Trâu, Ngựa,Chó trả nghiệp
cho người, cho nên giết nó tội cũng ngang giết người, tục xưa có câu : Kiếp Sau
Sẽ Làm Thân Trâu (Ngựa ) Chó để đáp đền, bởi vậy nên mấy tay nhậu hay kêu là ăn
mấy thứ này đen là vậy, bởi giết nó là mang tội, mang nghiệp, nên phải trả ngay,
có người chịu quả báo nhãn tiền là vậy, trong Lục Đạo Luân Hồi Đồ của Phật Giáo
cũng có chép cảnh kẻ ác khi chết kiếp sau đạo vào làm súc sinh cũng có vẽ hình
Trâu, Ngựa, Chó. Bởi vậy người học phép chớ nên ăn mấy con này mà mang tội.
Con
Rắn và Khế thì tại sao kiêng đó là vì Rắn thuộc loài bò sát mà Rắn lại là xác
tục của 3 vị Thần Tướng đã giúp Đức Phật, cũng được coi là Tổ của Phái, ( Bên
Xiêm họ thờ Tổ là Naga Rắn ) khi không còn giúp Đức Phật nữa 3 vị này nằm vắt
lên cành Khế, bởi vậy nên kiêng Khế, đây là cách kiêng kị để tỏ lòng thành kính
với Tổ, bởi thực tế nếu vi phạm sẽ khó mà được Tổ chấp nhận, mà Tổ đã không
chấp nhận thì kết quả ra sao chắc các bạn cũng hiểu.
Các
loại bò sát thì sao lại kiêng vì bò sát là có họ hàng liên hệ với Rắn ví như
Lươn, Trạch vv.......
Học
Phép Trà Kha Cần Những Điều Gì ?
Học
phép Trà Kha điều tiên quyết nên phải có thầy truyền Đạo, như đã nói ở trên tất
cả các phép thuộc hệ Nam Tông thường hay cần sự truyền thừa hoặc có thầy truyền
bởi các phép cần có Tổ theo chứng và giúp đỡ nếu thầy không cho phép thì Tổ nào
biết mình là ai mà về chứng, không có Tổ hoặc không có bàn thờ Tổ thì khó mà
luyện thành.Có những phép không cần Tổ nhưng có những phép phải có Tổ chứng mới
làm được, họa chăng có những người hết sức thành tâm trong lòng luôn nghĩ đến
Tổ thì may ra có thể học được, tuy nhiên khuyến cáo nên có thầy truyền chỉ cấp
Sắc Ấn không khuyến khích tự học.
Nhập Môn Trà Kha Học Phép Gồng Trà Kha.
Học phép này cần có những thứ sau :
Lễ vật : Lễ vật học Gồng Trà Kha cần
phải có là các thức cúng chay, nguyên tắc nên cúng chay ( Gồng Tra Kha – Vũ Ồn ) cúng rất sơ sài gồm có 1 cục than, 1 đĩa
bỏng ( Nổ ), 1 nải chuối , 1 đĩa Hoa , 1 chén nước trong, 9 ngọn nến, và 9 cây
nhang.
Hoa để cúng phật, Chuối và Than để
cúng 3 vị Thần Tướng trong lốt rắn
Tranh Tổ : Người học cần có 1 bức tranh Tổ để thờ, cách thức thờ
như là ta thờ bài vị, tranh thờ cho người học biết rõ về gốc tích của phép Trà
Kha, người học có thể vẽ tùy theo ý thích hoặc cần phải được thầy cho cách thờ,
cách thức tranh có thể vẽ tùy theo sự tích gốc của Phái miễn sao khi vừa trông
thấy tranh là có thể biết được nguồn gốc của Phái Trà Kha có tranh vẽ trên cùng
là 1 Vị Phật từ bi dưới là xác 3 vị thần rắn, có tranh vẽ 3 thần rắn cuốn quanh
cây khế, có tranh vẽ hình 3 thần tướng đứng sau Đức Phật vv............
Hình minh họa Tranh
Tổ Trà Kha tại Cambot
Lời Thề : khi học
phép học trò đều phải đứng trước bàn thờ Tổ thề nguyện những điều sau đây.
( chiếu
theo sách Trà Kha của thầy TPL )
1 Con tên là
................tuổi .............
2 Nay nhận thầy
...............là thầy của con.
3 Con xin học ................( Phép
gì nói rõ ) và xin nguyện như sau :
Không Phản Thầy Phản Tổ.
Không Làm Trái Lương Tâm
Không Làm Việc Ác
Không Dùng Phép Vào Những Việc Bất
Lương
Không Tham Tài Danh
Nếu học gồng thì có thêm lời thề Không
dùng Gồng vào việc vô nhân đạo, không ỷ có Gồng mà hại kẻ khác, nếu làm trái
xin thày Tổ thu lại phép và không ân hận gì ( Gồng Trà Kha – Vũ Ồn ).
Nghi Thức Truyền
Phép .
Người dạy truyền phép cho đệ tử trong
6 lần, hoặc 6 tối hoặc 3 ngày, mỗi ngày 2 lần, muốn cho nhanh có thể rút ngắn
lại chỉ 2 ngày 3 buổi cuối dồn vào 1 ngày, làm vậy cũng không có gì mất thiêng
cả.
Nghi Thức Khoán Bùa .
Có 2 cách khoán Bùa khoán Bùa : Trên
giấy và khoán bùa vào người học vẽ bùa trên giấy rồi lấy 1 cây hương đốt cháy
sau đó hua hua theo các đường vẽ trên giấy như vậy gọi là khoán bùa, cũng có
khi khoán trên người mà không cần vẽ giấy.Khi khoán bùa miệng phải đọc kinh
chú, khoán vào người thì khoán vào Đầu, Ngực,Lưng, Tay, Chân, uống bao nhiêu
Bùa phải khoán bấy nhiêu lần lên người.
Khi vẽ Bùa lòng phải hết sức thành tâm
tưởng Tổ, và nghĩ hết sức tập trung vào việc mình làm, lúc bắt đầu khoán xong
phải quán tưởng như là Tổ đã nhập vào mình rồi, ngậm 1 hơi thổi mạnh vào giấy
bùa, hay là khoán lên thân mình.
Người học phải mua 4 thước vải trắng,
2 thước vải đen người dạy luyện phép vào vải, để dùng trong khi truyền phép,
vải ấy sau này thầy chôn ở 1 nơi khác để yểm phép cho bền, khi truyền phép thì
vải trắng xếp quanh cổ người học còn vải đen thì xếp dưới chân.
( Qua thực tế đây là nghi thức truyền Đạo,
thầy sẽ truyền và vẽ lên vải 10 chữ bùa Tổ, đây là 1 hình thức gần như cấp sắc
sau này người luyện đã thành công có thể truyền lại cho người khác phép, tự học
hoặc nghiên cứu thì cần thành tâm tìm hiểu là đủ ).
Tối thứ nhất : Sau khi đã bày lễ
vật lên ban thờ , thắp đèn , hương, nến, đọc kinh cầu Tổ sau.
Kinh Thỉnh Tổ.
Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam Hanh Phanh,
Cam Mành Mảnh, Cam Mây Nghanh, Cam Manh Nganh, Cam Sắc Xi, Cam So Rẹc, Cam Chuốt,
Cam Phược...
Kinh Cầu Tổ 1
Bờ Ri Ti
Ti Tích Nặc, Bờ Ri Tích Ti Na Nặc, Phắc Cu Bờ Rích Nặc, Sắc Phịch Phổ Nặc, Ô
Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Manh Manh Lơn.
Kinh Cầu Tổ 2.
Bờ Ra Tít Ít Xắc Nặc.
Bờ Ra Xao Ti Ni Phịch
Mặc.
Bờ Ra Chôn Xắc Xắc
Nặc.
Bờ Ra Xây Tha Na Mặc
Nặc.
Bờ Ra Chôn Bờ Ruy Dặc
Nặc.
Sau khi
đọc xong kinh liền đốt 3 bùa sau đây cho vào nước uống khi uống xong liền thư (
khoán ) 3 đạo bùa đó vào đầu , ngực, lưng, tay, chân.
3 lá bùa này cần phải vẽ và luyện tập
trước khi bắt đầu luyện và đọc Kinh Cầu Tổ , khi vẽ Bùa cần đọc bài chú sau.
Chú Vẽ Bùa.
Ô Ma Ten, Cu Tha Na
MaNia Ta Rằng Ten, Căng Xoa Hạ
Ô Pê Ma Pa, A Pạ Ê
Tệ, Pê Xô Phắc, A Quy A Xắc
Sau khi đốt bùa uống xong thì khoán
bùa lên người, uống bao nhiêu Bùa cần khoán lên người những bùa đó, khi khoán
vẫn câu chú trên.
Tại sao phải luyện tập trước để khi
khoán bùa thì khoán 1 mạch luôn không bị nhầm lẫn, bởi các bùa đều dùng 1 nét
mà thành, 1 điều nữa khi luyện tập trước cũng là để cho thần lực khoán có lực
hơn ( đỗi với người tự tìm hiểu, còn với người có thầy truyền thì đã có thầy
làm rồi ).
Tối Thứ 2 : Vẫn dùng như nghi thức trên và khoán
các bùa sau đây.
Các bùa trên vẫn dùng như ngày đầu
tiên, tốt nhất vẫn luôn phải tập trước, sau khi khoán xong nên ngồi trước bàn
tổ quán tưởng đến các lá bùa này trong thân mình và liên tục tưởng tổ hoặc niệm
kinh.
Tối Ngày Thứ 3 : Vẫn Kinh Cầu Tổ và khoán bùa như
trước.
2 Đạo Bùa dùng hóa ra tro rồi hòa cùng
dầu lạc ( Tràm ) rồi phun thoa lên người.
Tối ngày thứ 4 : Vẫn như các ngày trên chỉ khác 1 điều
là bài Kinh khoán bùa có khác đi.
( Theo sách Gồng Trà Kha thì không đọc
Kinh Cầu Tổ nữa mà dùng bài Kinh Sau đọc thay Kinh Cầu Tổ, kể cả khoán Bùa cũng
dùng Kinh này luôn, có nghĩa là ngày thứ 4 chỉ dùng duy nhất 1 bài Kinh sau.
Kinh Khoán Bùa.
Tối ngày thứ 5 : Làm y như ngày thứ 4 với bài Kinh
này, và khoán đạo bùa sau:
Thu Na Ca Môn Bu
Chôn.
Xô Ca Mi Bờ Ri Xọt
Xọt.
Thu Na Thắc Mặt Ít
Ắc.
Bờ Rô Ôi Ca Nít Y It
Ti Ni.
Bờ Ra Chôn Tha Na
Thắc Mặt.
Tối ngày thứ 6 : Lại đọc kinh của ngày thứ 4 và 5 và
vẽ 2 đạo Bùa sau rồi uống khoán.
Lời Dặn : Riêng vải trắng và vải đen lễ vật chỉ dùng
được 1 lần, sau 6 đêm có thể gọi là thành tài, sự linh nghiệm sẽ không bị mất
đi. Xin nhắc lại 1 lần nữa, pháp thuật không nên đem đi làm bừa, nếu không đến
khi mất phép lại tưởng ta đây vẫn còn mà hống hách có ngày bị chém chết mà chả
biết tại sao.
Phép Đánh Võ Trà Kha.
Căn Bản Của Phép.
Phép
này tương tự như 1 phép thuộc Thần Quyền, được gọi là Thế Công, phép này luyện
chữ Bùa vào bàn tay trong vòng 100 ngày, khi dùng thì họa vào tay chữ Bùa rồi
đánh ra, nếu chưởng lực mạnh có thể đánh ngã người khi cách xa 1,2 mét, các
phép thuộc hệ đánh như vậy môn phái nào cũng có, Bắc Tông có những pháp dùng
Kiếm Ấn họa chữ Lôi ( 雷 ) vào lòng bàn tay rồi đánh ra, ma quỷ, thần
tiên, cũng phải ngã bổ nhào, tuy nhiên lưu ý các phép sau không nên dùng bừa,
nếu ỷ mình có phép này đánh bừa bãi sẽ có hậu quả nhãn tiền ngay, nhẹ là mất
phép, nặng sẽ bị hành đến phát ốm, bởi vậy hết sức lưu ý thận trọng.
Cách Luyện .
Cũng
giống như tất cả các pháp khác thuộc hệ Nam Tông, do có sự bắt nguồn từ Phật
Giáo Mật Tông cho nên khi học bất kì 1 pháp nào đều cần nhất 1 chữ Quán Tưởng,
người học cần mỗi ngày bỏ ít thời gian ra để tu luyện trước tiên cầu Tổ, sau đó ngồi tưởng tượng trong tay trái có đạo bùa sau.
Trước
tiên nên vẽ đạo bùa này ra giấy rồi để trước 1 ngọn đèn cầy luyện bằng mắt và tâm
trí cho thuộc lòng hình bùa đi, rồi sau đó bắt đầu quán tưởng chữ bùa này nằm
trong bàn tay trái của mình, khi quán tưởng mồm đọc kinh sau :
Giặc Nắc Thắc Úc Rốc ( 3 lần
)
Làm
liên tục trong vòng 100 ngày thậm chí hơn, người giỏi học nhanh có thể ngắn
ngày hơn tùy từng người, khi mà luyện đến mức nhắm mắt lại là đã nhìn thấy lá
bùa hiện rõ trong đầu lóe sáng đỏ lên như ngay trước mắt vậy là thành công.
Cách Dùng .
Trước
khi chuẩn bị ra tay đánh thì trong đầu tưởng nghĩ đến Tổ, có thể đọc Kinh Cầu Tổ
sau đó tưởng nghĩ đến bùa trong lòng bàn tay trái, mồm niệm bài kinh và ra tay.
Khi
ra tay niệm bài kinh : Giặc Nắc Thắc Úc
Rốc ( 7 lần ) rồi đánh.
Phép đánh võ tay trái.
Thời
hạn luyện 100 ngày,
Cách
luyện : Mỗi ngày sau khi cầu Tổ như trên , ngồi quán tưởng trên tay mình có một
lá bùa như sau :
Đọc
chú sau :
Giặc nắc thắc úc rốc – 3 lần.
Ngồi
quán tưởng cho nhuần nhuyễn đạo bùa. Khi vào tình thế hiểm nghèo, quán tưởng
Tổ, miệng đọc chú ở trên rồi đẩy nắm đấm về phía địch. Khi đạt trình độ cao có
thể cách không đả thương địch.
Phép Đánh Võ Tay Phải
Phép
này cũng tương tự với phép trên về cách thức luyện tập chỉ khác về câu chú và
chữ Bùa và tay là tay phải. Luyện chữ Bùa sau đây.
Câu
kinh khi luyện như sau :
Bờ Ra Quýt Xôn ( 2 lần )
Ô Pê Ma Pa ( 2 Lần )
Các
phép trên nên sử dụng vào việc nhân đạo, nếu dùng vào việc ác đặc biệt là đánh
người vô cớ, hoặc đánh phải kẻ có phúc đức lớn thì sẽ lãnh chịu hậu quả gấp
nhiều lần.
Phép Đánh Tam Sao Thất Bản
Lời Tựa
Pháp
này dùng đánh hoặc trị tà đều được cả, cách thức tu luyện cũng gần giống các
pháp trên, tuy nhiên đây là pháp do người chép sách gốc là người đã học rất
nhiều môn phái nên gọi là Tam Sao Thất Bản e cũng không phải quá lời.
Cách
Luyện.
Như
cách luyện ở trên chỉ khác là chữ phù này tập quán trong đầu sau khi đã học
thuộc thì họa vào không khí, dùng kiếm ấn họa vào không khí, hoặc tưởng tượng
trong không khí rồi dùng tay phải đánh ra.
Khi
đánh 2 tay chắp kiếm quyết sau đó họa phù vào không khí hoặc tưởng chữ phù,
niệm chú.
Bờ Ra Quýt Chuôl ( 9 lần )
Có
1 cách luyện khác như sau không rõ thuộc hệ phái nào, trước khi luyện niệm bài
kinh sau thay cho bài kinh cầu tổ :
Nam Mô Ì Hí Lục Cụ Lục Chui Mặc Mặc Trợ Lực
Cho Đệ Tử Tu Luyện. Nam Mô A Di Đà Phật.
Niệm
xong kinh dùng Ấn Kiếm vẽ chữ Bùa trên vào không khí 3 lần, khi vẽ niệm bài chú
Bờ Ra Quýt Chuôl 3 lần rồi há miệng
thâu chữ Bùa đó vào miệng hớp nuốt, luyện liên tục 1 thời gian 100 ngày, có thể
ngắn hơn tùy người học. Khi dùng thì dùng Ấn Kiếm họa chữ Bùa trên rồi sau đó
thổi ra bằng miệng, tay phải buông kiếm ấn vẩy về phía người cần đánh.
***
Lưu ý các chữ Bùa trên thuộc vào loại Pháp Thuật Nội Công bởi vậy nên chú ý về
cách luyện khí công mới có thể dụng được.
Các Bài Hội Phép Trà Kha Khác
Lời Tựa
Như
đã viết ở trên phép Trà Kha căn bản cần nhất là thuộc 5 bài kinh gồm có Kinh
Tam Giáo, Thỉnh Tổ, Hội Phép, Chú Gọi Âm Binh, Kinh Cầu Nguyện, và 10 chữ Bùa
Tổ thày cho, dưới đây gồm 10 chữ Bùa.
10
chữ bùa tổ trên tương tự với các tên Tổ trong bài Thỉnh Tổ Trà
Kha sau đây.
Chú Thỉnh Tổ.
Cam Cò Cây, Cam Manh Manh, Cam Hanh Phanh,
Cam Mành Mảnh, Cam Mây Nghanh, Cam Manh Nghanh, Cam Sắc Xi, Cam So Rẹc, Cam
Chuốt, Cam Phược.
Chú Hội Phép.
Bờ Ri Ti Ti Tích Nặc, Bờ Ri Tích Ti Na Nặc,
Phắc Cu Bờ Rích Nặc, Sắc Phịch Phổ Nặc, Ô Mạc Ten Ka Bơ Ra, Quýt Sơn Manh Manh
Lơn.
Dưới
đây là 1 bài chú Hội Phép Khác mà theo như sách gốc chép là bài chú này được
truyền từ Thái Lan ( Gốc của Trà Kha ) bài chú này dùng cho rất nhiều việc, khi
niệm bài chú này tà ma sợ thấy rõ không cần phải tụng các bản kinh khác, niệm 3-5-7
lần.
Chú Hội Phép Trà Kha
Ô Bờ Ri Tíc Ta Na Nặc, Bờ Ri Tíc Tic Nặc,
Fách Cu Lơ Tic Nặc, Sắc Fích Lịch Phổ Nặc, Mặc Mặc Uộc Mặc, Dắc Mặc Tê Uốc, Ton
Ton Tanh Tanh, Ton Qui Hưa Coc Mitl, Ta Răn Ton Căng, Mặc Uôc Uôc Mặc.
Phép Luyện Cành Khế.
Chọn
bất cứ 1 cành khế nào, khế chua hoặc ngọt đều được, chọn lấy 1 cành thẳng
khoảng 50 phân, dóc hết vỏ ngoài chỉ để lõi, vẽ đạo bùa sau đây.
Bùa
này vẽ bằng giấy vàng chữ đỏ, giấy vẽ Bùa dài đúng bằng cành khế, trước tiên
cầu Tổ, sau đó vẽ bùa, rồi quấn chung quanh cành khế, sau đó
để thờ trên ban thờ Tổ, luyện tập trong 100 ngày, ngày nào cũng
cầu Tổ, khoán bùa vào cành khế,( Khoán Bùa chứ không phải vẽ )
vừa khoán Bùa vừa đọc kinh cầu Tổ, xong liền tưởng tổ thổi
mạnh vào chỗ vừa Khoán, nhất định không được dùng dao trong khi chặt cành dóc
vỏ, khi luyện thành chỉ đánh lướt 1 cái là đối phương té nhào.Chớ nên đánh
thẳng vào người sẽ gây nên sự nguy hiểm khó lường.
Các Chữ Bùa Xin Sức Mạnh Hàng Đêm.
Các
chữ Buà họa đốt uống để vô sức mạnh câu chú khi vẽ và khoán Bùa như sau :
San Sá Cam Ên Chênh Bên Canh Sanh, Ề Ế Bi Mal
Xa Buôc.
Bùa trừ trộm .
Nếu
như trong nhà ta bị trộm vào nhà lấy mất đồ và để lại dấu chân thì chớ có để
mất dấu chân đó mà nên giữ kĩ lại, sau đó khoán chữ Bùa này lên chỗ dấu chân
của nó rồi dùng 5 cái đinh đóng lên, sau đó lấy cái thúng úp lên chỗ dấu chân
đó, 3 ngày sau tên trộm bàn chân sẽ bị sưng vù lên, nếu như nó ở cạnh nhà của
mình thì nhìn thấy chân nó xưng lên là biết.
Khi
đóng đinh vẽ bùa niệm chú sau.
Trục Người Về.
Nếu
như có người nào bỏ đi không quá 3 ngày thì dùng Bùa chú sau để trục về, trước
tiên lấy giấy vàng viết lá Bùa này.
Chép
tên họ người cần trục về vào trong lá Bùa. Lấy 1 cái hột gà sống chôn xuống
dưới đất, để lá bùa lên trên hột gà, vỗ tay 7 cái
(
Nam ) Vỗ 9 cái ( Nữ ) kêu tên họ bảo là về gấp. Hoặc để cái Bùa này trong gối
người đó, vỗ 7 cái ( Nam ) 9 cái ( Nữ ) kêu tên họ bảo họ về gấp.
Chú
: Ề Hế Nha Ăn Sên Mặt Mặt .
Phép Yêu Thương.
Phép
này dành cho những người có vợ hoặc chồng bất hòa ý kiến hoặc là đôi tình yêu
nào hay giận hờn nhau mà đâm ra xa cách, phù phép này có tính thông cảm với
nhau và sẽ yêu thương nhau hơn, tuy nhiên phải có thực tế là 2 người yêu nhau
như vì 1 lý do nhỏ nào đó mà xa cách còn Bùa này không thể giúp cho tình cảm từ
1 phía mà có thể kết hợp được.
(
Tình yêu đơn phương )
Cách
Làm
Lấy
giấy vàng viết tên tuổi của ta và người ấy vào giấy rồi sau đó, sau đó lấy son
đỏ hoặc mực đỏ ( tốt nhất là mài son đỏ, chu sa ) vẽ chữ Bùa số 1 chồng lên tên
tuổi đó ( khi vẽ nín thở, vẽ càng ít nét càng tốt ) tập trung thần khí lên đó,
sau đó thắp lấy 12 cây nhang đứng trước ban thờ phật họa lại bóng lá phù đó 3
lần, mỗi lần họa hoặc khoán bùa đều phải đọc chú sau :
Thiên linh linh, địa linh
linh, cầu phật tổ, phật thầy, chư vị binh gia của đức Thiên Thủ Thiên Nhãn, xin
gia hộ cho cặp ( Vợ Chồng ) ( Đôi bạn trẻ ) tên .........tuổi...........địa
chỉ.......được đoàn tụ cho ôn hòa, án thần phù, tuc ba la, tuc ba la, tuc đắc
sắc.
Niệm
xong, khoán bóng bùa xong thì lập tức hít sâu 1 hơi rồi thổi lên lá phù, khoán
bóng 3 lần thì thổi lên 3 lần.
Lưu Ý : Trong Huyền Môn có quy
tắc khi niệm chú hành pháp chớ nên ăn các thứ Hành, Tỏi, Ngò , Khế và các thứ
kiêng cữ khác, nếu không hơi thở ô uế thần chú không linh, Thánh Thần xa lánh.
Sau
khi làm xong liền gấp lá bùa đó làm 4 lần, để dưới lư hương ban thờ Phật, mỗi
ngày 4 lần, Sáng, Trưa, Chiều, Tối, thắp nhang vái bài chú trên 3 lần, riêng
khóa tối khoảng 6,7 giờ thắp 3 cây nhang và 1 đĩa gạo muối, 3 li nước sạch, ra
bàn thờ thiên vái bài chú ấy 3 lần, rồi rải gạo ra 4 hướng thực hiện liên tục
trong 1 tuần sẽ có kết quả.
***
Theo thầy TPL có dặn các phép đều phải có sự tin tưởng tuyệt đối mới linh diệu,
nếu làm thử làm chơi thì e sẽ không thành, trong Huyền Môn quan trọng nhất là
sự tin tưởng.
Trường
hợp xấu khi sử dụng Bùa số 1 nếu trong 1 tuần đầu làm phép mà vẫn không có kết
quả tốt, thì ta nên vái xin làm tiếp trong 3 hôm nữa, sau 3 hôm mà vẫn không
được nữa thì ta nên vái xin rồi đem lá Bùa đó đi đốt vì Duyên Nợ chỉ có vậy,
cưỡng cầu e rằng không tốt cho cả 2 bên.
Dưới Đây Là Hình Thức
Bùa .
2
lá Bùa “ Nam và Nữ ” ở trên dùng trong trường hợp khi 2 người cãi nhau, sau khi
đã làm như ở trên, muốn đến gặp người Nam hoặc Nữ để nói chuyện hòa giải.
Cách
Làm
Người
làm phép là Nam cần giảng hòa với Nữ thì ta vẽ cái “ Bùa Nam ” vẽ và họa bóng,
đọc chú Bùa 7 lần, thổi bùa 7 lần, kêu tên người Nữ, sau đó để Bùa trong túi
áo, và đi đến chỗ hẹn gặp để nói chuyện hòa giải.
Người
làm phép là Nữ cần giảng hòa với Nam thì ta vẽ cái “ Bùa Nữ ” vẽ và họa bóng,
đọc chú Bùa 9 lần, thổi bùa 9 lần, kêu tên người Nam, sau đó để Bùa trong túi
áo, và đi đến chỗ hẹn gặp để nói chuyện hòa giải.
Bài
chú cũng y hệt như Bùa Số 1.Riêng 2 đạo Bùa Nam và Nữ phải nín hơi vẽ 1 nét là
phải xong, khi vẽ niệm chú, khi họa cũng vậy luôn.
Một số nghi quỹ chung khi tác pháp.
1/Pháp danh hội .
Nam mô Tây
phương Phật tổ thích ca như lai, Bồ đề tổ sư , 36 vị lục tổ lục cụ, Chuẩn đề bồ
tát, Quan âm , Già lam quan đế , 9 phương Trời 10 phương Phật , tả quan Châu
hửu quan Bình , đấu chiến thắng Phật , bạch hổ sơn động .
Nam mô
Ngọc hoàng Thượng đế , chư vị Phật tổ , Linh sơn Thánh mẩu , Cửu thiên huyền nử
, Nguyên nhung chúa tướng ,cửu vị Tiên nuơng, 3 ông Quốc vương đại thần , vong
hồn sư ông sống cứu thế trợ dân , vảng về chầu Phật tổ cảm ứng chứng minh cho
đệ tử ...(xưng tên họ tuổi mình ra) hội cầu tổ ........(chửa bịnh , xuất quyền,
luyện phép v.v...đọc 3 lần như trên )
ề hế no
thăn ngăn
xá xây cà
ra mây chư vị nhập xác cho đệ tử .
Còn một phiên bản khác như sau :
Nam mô con
nguyện ơn trên Cha Trời mẹ Đất , Dưới có Phật Tổ, Phật Thày, Phật bà, Phật mẹ.
9 phương Trời, 10 phương Phật , con nguyện trên 36 Thánh , dưới 72 hiền Thần,
Thần hoàng lục bộ đài quan , Thần hoàng bổn cảnh, đêm 5 du Thánh , ngày có 6
khắc có 6 Thánh tuần giảng Đông, Tây, Nam, Bắc, con nguyện vong hồn sư ống sống
cứu Thế , trợ dân , xin ông giáng về chầu Phật Tổ , hộ độ cho đệ tử (
tên...tuổi...) cứu dân , độ thế.
2/ Xin luyện phép tắc.
Sắc lệnh
Thiên hoàng, Địa hòang, Nhơn hoàng-án Thiên linh linh-Địa linh linh-kim mộc
thuỷ hoả thổ linh linh-Phật linh-Tiên linh-Thánh linh-Thần linh-Phù linh-Pháp
linh-chơn linh-tâm linh-đức trọng quỷ thần kinh-khẩu xuất niệm thần chú-thọ
lảnh sắc Trời-cấp cấp như luật lịnh-sắc sắc lịnh-Nam mô a di đà Phật (3 lần ) .
Xin ông Giảng về chầu Phật tổ hộ độ đệ tử tên ... tuổi ...làm gì ...
3/ Kinh xin luyện phép .
Nam mô các
chư Tổ chánh-Nam mô 36 chư Tổ trang-Nam mô các chư vị Thánh tổ về giúp đệ tử
luyện phép-Nam mô adi đà Phật.
4/ Cầu 36 vị trang Tổ chứng:
-1-bili
2-núsê -3-no tho ngan -4-tế sa -5bề mắc -6-săn
khê -7-da tô -8-a sa thá -9-a quê săn -10-bạch hổ
-11-lục cham -12-lục chi -13-lục nha rây -14-lục cà
chui -15-a sà lam -16-ngủ hổ -17-nha thô -18-nha bênh
-19-ba lưu -20-ná ba nặc -21-but no má -22-no nặc hăn
-23-bi sa tha -24-tăc đà bà -25-lưu quan chơn -26-cám
rừng -27-thần hưu thánh -28-thần hoàng -29- a chàm
-30-bửu da đà bửu -31-buôl thá -32-á sa ngăn -33-ná cà
xa dá -34-nha rây -35-bí sa tha -36-bi nha rây.
5/ Cầu chứng luyện mau thành:
Trời
trên,Trời dưới,Phật tổ,Phật thầy, mẹ Quan thế âm ,5 sư ,6 tổ,lục Tổ-lục Mun-lục
Xiêm hiệp-lục Lèo-ông 5, ông 6, ông 7-Trời Phật Thánh Thần-ông Trạng mình-cho
con luyện phép siêu xuất giúp đời-xin thỉnh ông ca sa-ông mel ha bal ta-ông a
sa ca li.
6/ Xin Phật tổ phép chứng :
-Nam mô
cam mô ranh-buôl thô a ra hăn – nec mec ă ú.
Nhập
môn luyện câu chú Phật nầy 7 đêm liên tục :
sôc rô mit
thô –et thăng ăc crê-nam mô bửu ni đà dá –đa dạ dà ta.
(Từ nay không có tà Thần nào xên vô
xác hành giả ) .
Tất cả bài cơ bản như đả nêu trên xong
,sau đó niệm kinh Đại bi tâm đà la ni hay luyện phép nào theo ý hành giả (bất
kì phép của Lổ bang hay Xiêm Miên Lèo Lục Ấn Chà Hồi đều được)
Khi ngưng luyện hành giả vuốt mặt 3 lần nói :
-ta săc
…và cúng 3 chung nước mới , đọc thần chú :-put đằng put sế ní-đà nằng put sế
ní-tằng giằng put sế ní-á hàng quan đà mí tăc đà bà .
(mai ngày thay nước thì uống 3 chung
nước cũ,không được đổ bỏ) .
Người luyện phép Trà Kha thường hay
triệu thỉnh Đại mãng xà vương - Ma hô la ga đê va .
Hội phép Chà Kha-Tam sao thất bổn.
Sau đây là các phù lục tam sao thất
bổn từ phái Chà Kha:
Ba chữ phù đầu tiên : Trị đau
nhức - Trị đau cuống họng - Họa vào trứng gà lăn mở ngãi.
Sư Phụ dạy rằng : Môn này phãi có Kinh
Tam Giáo Trấn Môn rồi Hội Tỗ , hội Phép như đã trình bày , sau đó Chú
Triệu Binh đễ sai khiễn và sau cùng là Chú cầu nguyện cho mọi việc thành tựu
(Dù làm cho mình hay cho người cũng được) .
Xin theo dõi tiếp BÀI 33. DIENBATN.