HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH . BÀI 1

7/28/2021 |

 HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH .BÀI 1.

( Bài này dienbatn viết năm 2002 trên Tuvilyso.com và yahoo.com. Nay đem lại về Blog lưu trữ)

Ngày 21/9/2002,báo KINH TẾ VÀ XÃ HỘI? đã đăng một bài về sự phát hiện trên sông Tô lịch,phía cửa Tây của La thành,một hiện tượng chấn yểm của người xưa.Hiện tượng này đã gây xôn xao dư luận của Hà nội và cả nước về những kỳ bí đang xẩy ra vào đầu thế kỷ 21 -Khi mà KHKT đang phát triển như vũ bão.Tóm lược sự việc như sau :Vào ngày 27/9/2001,Ðội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC ,trong khi nạo vét sông Tô lịch,thuộc địa phận làng An phú -Phường Nghĩa đô -Quận Cầu giấy -HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí.Ðó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông,tạo thành một đa giác đều,tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai,táng giữa các cọc gỗ đó.Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái,một số đồ Gốm,xương Voi,Ngựa,dao,tiền đồng. 
Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên,lấy các bộ hài cốt đem lên Bát bạt -Hà tây (là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP.Hà nội.),thì có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra.Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên,máy xúc KOMASU tự nhiên lao xuống sông;Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất,chân tay co rúm,cứng đờ,lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất ý thức trong nhiều giờ;Ðịa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi,không giống như khảo sát ban đầu;Thử đưa La bàn vào khu vực đó thì kim La bàn quay tít.Một năm sau sự việc trên,có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên xẩy ra ,gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12,là đội đã trực tiếp thi công khu vực trên.Bản thân,gia đình,anh em của những người Công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt,nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết,bệnh tật,tai nạn.Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dámtiếp tục làm việc tại Công trường nữa.Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do,cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến gỉai thich,theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để chấn yểm Long mạch của khu vực này.Sau đó các Công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới .Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng ,làm lễ Hàn lại Long mạch.Theo một số người nói lại (tôi không có điều kiện kiểm tra ):Chỉ hơn 1 tháng sau ,Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết. 
Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ,song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên. 

Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây,cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng long tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến sinh .Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành.Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ Gốm: Bát,hòn kê.cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14,thuộc vào thời Lý -Trần Việt nam hay thời Tống của Trung quốc.. 
.Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau ,đã tạo ra một lễ trấn yểm,trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng.(Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam -Người viết ). 
Ðó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo.Gần đây,một người bạn của dienbatn có cho biết :Ðài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu. 
Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn,mong các Cao thủ trên Diễn đàn TUVILYSO cùng trao đổi :Theo thiển ý của người viết,đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long mạch,chận đường của Khí (Khí đây là Khí trong bộ môn Phong thủy -Hoàn toàn không phải là Không khí ).Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?Theo thiển ý của người viết :Ðây là tác phẩm của Cao biền,Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm. 
Người viết xin được chứng minh như sau :Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng;người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch,song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ Gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý Trần.Nếu theo Truyền thuyết "Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ",tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý,nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu,thì không có sự việc sông Tô lịch và Thiên phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu,làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà nội.Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng,trên bến,dưới thuyền,là trục Giao thông chính thủa ấy.Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong thủy Việt nam tài giỏi như :Thiền sư Ðịnh không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tý 808 ),Sư La chân Nhân (852 -936 ),Sư Vạn Hạnh.. 
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô lịch và Thiên phù,để đến nỗi sông Tô lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần.Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi. 
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các Thuyền thuyết còn lưu lại trong dân gian. 
Theo Việt sử lược :Thành Ðại la được xây dựng vào Thế kỷ 7 có tên là Tống bình .Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ),Vua Mục Tông nhà Ðường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ.Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch,liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ.Thầy bói nói rằng :Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn,50 năm sau,có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ . 
Tới đời vua Ðường Y Tôn (841 -873 ),Cao biên được cử sang đất Việt làm Tiết Ðộ sứ.Cao biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy,một Ðạo sĩ,cũng là một nhà Phong thủy có tài.La thành được Cao biền sửa chữa,chỉnh đốn lại cho hợp Phong thủy vào các năm :866,867,868.Theo truyền thuyết,khi Cao biền xây dựng lại Thành Ðại la,thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất.Cao biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã,núi Tảng viên.Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất. 
Tới đây ta nhớ lại một truyền thuyết khác của Dân tộc Việt nam.Ðó là " Truyền thuyết Thành Cổ loa ".Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa,An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ.Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân ,lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong. 
Về mặt địa lý,La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo đường chim bay chỉ vài chục km ). 
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có gì trùng hợp giữa hiện? tượng sụp đất của Thành Cổ loa,sự sụp đất của thành Ðại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trìng nạo vét sông Tô lịch 
Qua hai Truyền thuyết trên,bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan,chúng ta phải chấp nhận một sự thực là :Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô lịch kéo dài đến Cổ loa -Đông anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định.Ta cũng cần phải nhớ rằng :Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà nội.Mặt khác phía Tây và Tây bắc của La thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH,SƠN LA,LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong thủy Long mạch xuất phát từ những dặng núi cao.Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn.Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn.Ta cũng biết rằng Thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống ,các đỉnh núi cao là những Antena tiếp thu sinh khí.Từ những sự việc trên,ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản viên và các rặng núi phía Tây,Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại la theo dọc sông Tô lịch (khí thường đi theo nước ),chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ),sau đó sang tới tận địa phận Cổ loa -Đông anh -HÀ NỘI và còn theo hướng Đông,Đông bắc đi tiếp ... 
Chính vì có Long mạch này mà Cao biền phải vô cùng bận tâm,khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm.Có rất nhiều Truyền thuyết về Cao biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này.Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này :Đầu tiên là truyền thuyết Cao biền chấn yển núi Tản viên,hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên.Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội.Tiếp theo là Truyền thuyết Cao biến dùng hơn 4 tấn sắt,đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch mã là nơi vị thần sông Tô lịch trú ngụ.Cao bìền còn nhiều lần dựng đàn tràng,dùng 4 thứ kim loại :Sắt,đồng,vàng,bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô lịch.Theo sử sách,Cao biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô lịch. 
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị Đại sư tài ba lỗi lạc,hiểu biết rất giỏi về Nho,Y,Lý số và thuật Phong thủy đã hóa giải sự chấn yềm của Cao biền bằng phép Huyền môn.Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì,hay ở Đền BẠCH MÃ ,dùng nhửng hiểu biết về Phong thủy để chấn áp Bùa phép của Cao biền. 
Trở lại,đạo Bùa tìm thấy trên lòng sông Tô lich,có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng :Đó là tác phẩm của Cao biền ,chứ không phải là của các nhà vua Lý.Tác phẩm đó là của Cao biền đời nhà Đường,thuộc về Cao biền thế kỷ 9,tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ).Nếu xét về niên đại của cổ vât tìm thấy,thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều.Cũng không loại trừ trường hợp,các cổ vật trên rớt xuống lòng sông thời gian sau, khi Cao biền chấn yểm. 
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao biên khi chấn yềm sông Tô lịch.Cho tới tận giờ phút này,khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy Vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật :Châm,cứu,diện chẩn,xoa bóp,bấm huyệt...để chữa bệnh.Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống Kinh mạch,huyệt,lạc trong cơ thể con người.Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người.Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu,người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau,với thời gian và độ nông sâu khác nhau.Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm,điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động,hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được.Ta vẫn biết rằng :THIÊN -ĐỊA NHÂN là hợp nhất.Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ.Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng,trên Trái đất này,cũng phải có những đường Kinh mạch,huyệt,lạc như trong cơ thể con người.Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ.Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó,người ta có thể dùng một thủ thủ thuật nào đó,có thể ngăn,bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao biền đã làm.Thủ thuật này người xưa gọi là Chấn yểm. 
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau : 
1/Đạo Bùa chấn yểm trên dòng sông Tô lịch là của Cao biền -Tiết độ sứ của nhà Đường,dùng để chấn yểm Long mạch,khi tiến hành xây dựng thành Đại la vào thế kỷ 9.Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao biền đã thực hiện chấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu,bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao biền thực hiện chấn yểm. 
2/Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại la (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa bình,Sơn la,Lai châu,và gần nhất là dãy núi Tản viên );Long mạch này đi qua thành Đại la,cụ thể theo dọc sông Tô lịch,qua khu vực Hồ Tây,kéo dài sang Cổ loa -Đông anh - HÀ NỘI;Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng ninh.Đây chỉ là nhánh Thanh long của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ khi có điều kiên tôi xin chứng minh tiếp. 
3/Cao biền đã thực hiện biện pháp chấn yểm Long mạch,nhằm bế dòng khí của Long mạch này.Thủ thuật chấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học. 
Đến đây,ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi : 
1/Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12.Bản chất hiện tượng đó như thế nào ? 
2/Tại sao sau khi Cao biền chấn yểm sông Tô lịch,kể từ đó tới tận ngày hôm nay,trong Lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc chấn yểm lên. 
3/Hậu quả của việc rút Bùa chấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả khu vực HÀ NỘI,các vùng phụ cận nói chung.Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la ? 
4/Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào ?Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không ?Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt ? 
Với khả năng rất hạn chế,người viết bài này xin mạo muội lý giải các câu hỏi trên.Vì tình yêu đối với HÀ NỘI,quê hương của người viết,vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương.Rất mong được cùng các bạn trên diễn đàn trao đổi,hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể trên.Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng ai. 
Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau : 
1/Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12 -Bản chất của hiện tượng đó như thế nào ? 
Trong thuật Phong thủy,Khí là một hiện tượng rất khó giải thích ,nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong thủy.Nhận định đúng về khí là chỉa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong thủy.Theo quan niệm Á đông,Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật.Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh của Vũ trụ.Người xưa có câu :Tụ là hình tán là Khí .Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí,gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo,đếm được.Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh ,Mạch,Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa.Người ta phát hiện rằng :Khí vận hành trong Kinh,Lạc như một dòng nước,chỗ đi ra gọi là Tĩnh,trôi chẩy gọi là Huỳnh,dồn lại gọi là Du,đi qua gọi là Kinh,,nhập lại gọi là Hợp.Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó.Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan,bộ phận của một Tạc tượng.Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí,có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp.Đó là trên cơ thể con người,còn trong Phong thủy ,người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất,tương tự như hệ thống mạch,Huyệt trong Đông Y.Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước,nước giúp Khí di chuyển,nước đi thì Nguyên Khí cũng đi,nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng.Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước (nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn ).Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí ,dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình,còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng ,vô tận.Mặt khác ,có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương :Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống,nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào.Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống ,dòng họ.Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều,nên trong lý thuyết về Nhạc,loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia ).Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống. 
Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô lịch :Người viết cho rằng :Long mạch đã nói ở phần trên ,bị Cao biền chấn yểm đúng Huyệt vị,đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm.Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó,làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn,ổn định hơn.Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa.Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu,bị cột lại một đầu ,không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa.Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô,teo đi.Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây,hồ Gươm,hồ bảy mẫu,hồ Ha le ...Mặt khác sông Tô lịch và Thiên phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ NỘI.Ở đây có một câu hỏi thú vị là :Nếu như Cao biền (Vốn được coi là tổ sư của Phong thủy )đã quyết tâm chấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô lịch vẫn còn tồn tại (Mặc dù chỉ là con mương nhỏ ).Theo người viết,nếu Cao biền chấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua Lịch sử.Đến đây người viết khẳng định :Cao biền có sự sai lầm trong việc chấn yểm .Nguyên nhân sự sai lầm của Cao biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng -Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong thủy nói riêng và trong Thuyết Âm dương ,Ngũ hành nói chung.Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra,sau khi mất nước,các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm dương Ngũ hành.Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau. 
Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12 .Theo người viết như sau :Tại chỗ có đạo Bùa,Nguyên Khí bị bế lại lâu năm,khi tháo gỡ đạo Bùa,giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu,Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh.Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người.Chỉ biết một điều rằng :Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng.Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu.Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh.Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải.Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật "Đồng thanh tương ứng -Đồng Khí tương cầu " hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân,dòng họ của những người Công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải ,mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường.Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu. 
Có điều nguy cơ tiềm ấn ở đây là :Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP.HÀ NỘI ? Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.

2/Trả lời cho câu hỏi :Tại sao sau khi có sự chấn yểm của Cao biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị Trấm yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô lịch ,khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên? 
Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên :Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại,Nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ Trấn yểm được nữa,và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi.Kết quả là vùng đất sau chỗ bị Trấn yểm cứng lên,và kết cấu của Địa tầng Địa chất cũng trở nên ổn định hơn.Khi một vùng đất đã có địa tầng Địa chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi.Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay.Tại công trình nạo vét sông Tô lịch,khi đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên,lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn,làm cho đất ,đá của cả khu vực nhão ra như bùn,trở nên mất ổn định cục bộ.Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng :Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất,cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão,bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước.Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở nên khô cằn,cây cối không thể phát triển được.Đó là trường hợp của các Sa mạc,hoang mạc trên trái đất.Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự.Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại. 
Như vậy ,ta có thể kết luận rằng :Trong quá trình xây dựng Thành Đại la ,Cao biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước.Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật Châm cứu,điểm huyệt trong đông Y.Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là chấn yểm các Long mạch ,các huyệt phát Đế vương của đất Việt.Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn.Bằng chứng là Sông Tô lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước việt dã giành được độc lập.Một dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng ,những vùng đất Địa linh nhân kiệt như chùa Dâu,núi Yên tử,Đền Kiếp bạc...Một nguyên nhân nữa sau này,đã phá hoại sự Linh thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.Không biết vô tình hay hữu ý,khi xây dựng TP.HÀ NỘI,người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô lịch,nơi đổ ra sông Hồng -Nay là các phố Hàng Buồm,Hàng Bạc,Cầu Gỗ...Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của Tháp Báo Ân ngày xưa... 
Một dân tộc đã được Thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh Tâm sinh lý đó.Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng ,hào kiệt,những bậc hiền tài cho Đất nước,những Vĩ nhân cho thế hệ mai sau.Ngày trước các bậc Thánh Đế ,Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với Non sông,Đất nước. 
Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3 :Hậu quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung.Số phận của Long mạch sẽ như thế nào ?Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức tạp của nó.Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn góp ý,bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của Lịch sử.Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta . 
Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận.Hiện nay,tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy.Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện ( Trụ đồng Mã viện );các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;các biện pháp dùng Bia đá để trấn yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái ếm ở Bài Bài ,thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc ,cây ếm ở núi Nước )... 
Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm,ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của nó.Từ xưa,việc trấn yểm được coi là Thuật bí truyền của các thày Địa lý ,không được tiết lộ ra ngoài,sợ lộ Thiên cơ.Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí,ma thuật,không có tài liệu nào được truyền ra.Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một,ta có thể dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này.Mặt khác,Thuyết Âm Dương,Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ,Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô,nó là Công thức Tổng quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước ,tìm kiếm.Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp.Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt,Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của Thuyết Âm Dương,Ngũ hành.Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời,cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn Hoàng đế nội kinh,có thời điểm khoảng 5000 năm.Tôi chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình. 
HỆ THỐNG KINH,MẠCH,HUYỆT, LẠC. 
1/HUYỆT : Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ.Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ.Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh,Mạch,Lạc nằm ở những nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt.Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt.Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong,từ dưới lên trên,từ trong ra ngoài,trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm,một mạch Đốc,12 đường Kinh chính,cộng thành 14 Huyệt Kinh.có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt.Hệ thống Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc tiếp nhận Thiên khí,Địa khí,Thời khí,có tính chất Âm Dương Ngũ hành.Nhờ hệ thống trên,ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận.Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh. 
2/Kinh :Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia.Các đường đó đi lắt léo,chồng chất qua rất nhiều chỗ;liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương ,Ngũ hành,liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống,tinh thần con người,vì vậy mà gọi là Kinh. 
3/Mạch :Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra.Nó đi khắp nơi,phân chia ra nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc. 
4/Lạc :Nó là các đường của Kỳ huyệt ,nhiều hơn Kinh,Mạch,nhỏ hơn nhiều.Nó đi ngang,tắt ,chằng chịt,chi chít,khó tìm hơn.Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt,nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ,dùng để định Tâm,an Lạc.Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chử An lạc? 
Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại. 
*Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh,Mạch chính,quan hệ với Tạng phủ,chuyển dần sang các chi nhánh,Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh liên quan đến các tương quan,phản xạ,phát sinh Ngoại giao cảm,giữa Linh hồn,Vía,Phách và thể xác. 
* Ngoại Kinh :Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp.Ví dụ cụ thể như :có người đã bị chết lâm sàng,tiêm,chích thuốc theo Tây Y không được,nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm,day,châm,cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được.Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết ,trở về nhập vào cơ thể.Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể.Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén,rất công hiệu,có thể cứu mệnh con người,trong nhiều trường hợp nguy cấp .Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này,song họ vẫn cho đó là Thần bí. 
Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm,Đốc ;12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc,và vô số Huyệt. 
Xin nói thêm về Huyệt :Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội,đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm.Có các loại Huyệt là Du huyệt,Mộ huyệt,Nguyên huyệt,Lạc huyệt,Khích huyệt... 
Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật.Theo người viết được biết :Có 36 Huyệt đạo Kinh,nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người .Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ.Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế ,tật nguyền,rất khó chữa trị.Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh.Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người.Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh ,Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người.Các hệ thống khác như Kinh,Mạch,Huyệt,Lạc,gắn kết lục phủ ,ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn,mạnh thì dẫn đến tử vong ,nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền,rất kho chữa trị.Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.
Theo nguyên lý "Con người là tiểu Vũ trụ "thì Âm Dương ,Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt.Các đường Kinh thứ nhất :Can -Đởm,Tâm -Tiểu trường,Tỳ -Vị,Phế -Đại trường,Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu.Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính.Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình. 
Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương,còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm. 
Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm. 
Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa.Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu,Trung tiêu,Hạ tiêu. 
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với Bán cầu não Phải ),nhánh phải thuộc Âm ( đối ứng với Bán cầu não trái ). 
Từ đó các Huyệt được chia ra :Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm. 
Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long ,mạch như sau : 
Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời ,Đất,cả khi sống và cả sau khi chết(Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này ). 
1/Về Thiên :Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng ) trên các đỉnh núi cao.Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người.Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian,với con người khác nhau.Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời,được đại diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này).Phải chăng 9 Sao và Hạn (La hầu,Thổ tú,Thủy diệu,Thái bạch,Thái dương,Vân hớn,Kế đô,Thái âm,Mộc đức và Tam kheo,Ngũ hộ,Thiên tinh,Toán tận,Thiên la,Địa võng,Diêm vương,Huỳnh tuyền )ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời đối với con người.Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất. 
Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất. 
2/Về Địa :Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long )chảy theo các mạch nước,tụ lại,và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng,Dương giáng ).Ta thử suy luận một chút về danh từ THĂNG LONG :Đó là khí Âm thăng lên -THĂNG LONG.ĐÂY MớI THỰC LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG ).Ta cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm -Địa khí . 
3/Về Nhân :Có thể xác định được Âm phần,Dương phần,Họa,Phúc,Mệnh,Thân của từng cong người. 
Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ. 
Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau :Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình,tới dãy Tam đảo ,dọc theo sông Tô lịch ngày xưa,đi tiếp tới Cổ loa,kéo dài đến sông Đuống,sông Thái bình,ra tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long.Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường.Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ.Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương.Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương .Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương. 
Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau :Xuất phát cũng từ những dặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình ,đi tới dẵy núi Ba vì,qua cầu Hàm Rồng,theo sông Lam và dẵy núi Hồng lĩnh đổ ra biển.Nối các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ thuộc Âm,do vậy Long mạch này có hành khí Âm.Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm .
Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhành Thanh long,Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao biền và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều.Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện.Theo các cổ thư chữ Hán ,cung Đoài có độ số là 7 -ứng với phương Tây .Đây là độ số của Lạc thư.Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc,theo đúng độ số của phương Tây.Tuy nhiên ,theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú thọ -Kinh đô của các Thời đại Hùng vương ) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy.Theo người viết,trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thịên Bát quái mới chính xác.Khi đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ .Theo chiều từ phương Bắc,Đông Bắc,Đông,Đông nam,...tới Tây,tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau :1-8-3-2-7-4-9-6. 
Ta vẩn biết rằng :1 -là hành Dương Thủy. 
6 -Là hành Âm Thủy. 
8 -Là hành Âm Mộc. 
3 -là hành Dương Mộc. 
2 -là hành âm Hỏa. 
7 -là hành Dương Hỏa. 
5 - là hành Dương Thổ. 
10 -là hành Âm Thổ. 
4 -là hành Âm Kim. 
9 -là hành Dương Kim. 
Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau :Thủy (6-1 )sinh Mộc (8-3 )sinh Hỏa (2-7 )sinh Thổ (10-5 )sinh Kim (4-9 ) và lại trở về hành Thủy.


Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay.Điều quan trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này,thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử. 
Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch,sau khi Cao biền Trấn,yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại,kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này,dòng sông Tô,trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu,nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng.Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại.Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI,theo thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy ) chẩy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng.Như vậy hiện nay,dòng chẩy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa ).Nhánh Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn,bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.Ngược lại ,nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện,ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh hóa,Nghệ an có một con rồng (Long mạch )nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn,nay nhánh Thanh long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ.Theo nhận xét của người viết,kể từ đó về sau này,Thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ.Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng :Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền,các vị Vua,tướng tài giỏi,các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra.Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử. 
Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này,người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân,tiền bối trong và ngoài nước,ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.Các câu hỏi đó là :Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên,Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung ???Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không ?Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo ?Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không ? 
Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này.Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu Quê hương xứ sở,thương yêu Đất THĂNG LONG ngàn năm văn vật,là món quà có ý nghĩa mừng Sinh nhật 1000 năm THĂNG LONG -HÀ NỘI. 
Trong bài viết,tôi có sử dụng một số Tài liệu của Gíáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG,ĐOÀN VĂN THÔNG,Ẩn sĩ PHƯỢNG -Nghệ an ,Ẩn sĩ Lý Thiên Hương -Đức thọ Hà tĩnh và một số tài liệu của các Ẩn sĩ tỉnh PHÚ THỌ -Xin trân trọng cảm ơn.
Tôi đã xác minh lại nguồn tin này;Theo Thượng tọa Thích HUỆ Xướng -Chùa Giác Lâm _Quận Tân bình -TP.HCM :Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã viên tịch khoảng hơn một tháng sau khi làm lễ cúng HÀN LONG MẠCH tại sông Tô lịch,nguyên nhân chết theo Y học là xuất huyết não.Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH là chủ trì chùa Hương.

Giải thích thêm: Mỗi một Huyệt vị có thời gian đóng và mở riêng của nó -Tức là thời gian ứng nghiệm.Khi muốn tác động vào một Huyệt vị nào đó cần phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác dụng.Khi dùng thủ thuật Trấn (đè lên )Yểm (Chôn xuống )cho thay đổi kết cấu của cả một vùng đất để có thể xây dựng cả một Kinh thành thì sự hiểu biết phải vô cùng chính xác.Tiếc rằng kinh nghiệm này không được phổ biến rộng rãi nên thất truyền lần lần . Mà đó cũng là một điều may mắn cho Nhân loại vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái đất chúng ta sẽ đi về đâu?Tuy nhiên trong Lịch sử cũng chỉ ra rằng có rất nhiều ngưởi có khả năng đó.Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết Lịch sử -Tất nhiên vì chỉ có những người Trấn yểm mới biết,những sự việc được ghi nhận là do kể lại nên mất tính chất trung thực .Tuy nhiên ,không thiếu dẫn chứng trong lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó.

Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn hoặc yểm sau này.Đó là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó.Theo nhận xét của riêng người viết,khu vực đó thuộc phía Tây của La thành nên có hành Khí là Dương kim và độ số của nó là 9.Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn yểm,Cao biền cũng biết rất rõ điều đó ,chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây .Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay,phương Tây thuộc Kim và có độ số theo Lạc thư là 7.Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao biền sẽ sai theo.Theo người viết được biết,tại một số vùng của đất Phong châu ngày xưa,các nhà Phong thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái.Như vậy theo người viết,phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác.Lạc thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà,Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ.Để có thể trấn được khu vực bị hở của Long mạch,theo thiển ý của người viết,nên dùng hình thức Trấn -Tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm dương Ngũ hành.Ta có thể dựng một cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt,hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút đạo Bùa .Theo những tin tức gần đây nhất,sự phát sinh các việc kỳ lạ như đã nêu ở trên,cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra.Như vây ta thấy rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa.Nguyên nhân là Khu vực đó qua thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm ),luồng Nguyên khí đã có sự thay đổi,cũng không loại trừ đã có sự trấn,yểm lại của một số nhà Phong thủy tài ba giấu mặt.Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những Huyệt đạo bị Trấn yểm của các nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh.Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không ):Kể từ ngày đạo Bùa được Khai mở,vùng dọc theo nhánh Thanh long đã phát triển rất mạnh mẽ.Từ rất lâu đời,các vùng này là khu vực Nông thôn lạc hậu,nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.
ĐOẠN CUỐI CỦA MỘT TRẬN ĐỒ TRẤN YỂM 

PHẦN THỨ NHẤT : MỘT SỐ HÌNH CẦN THAM KHẢO : 


HÌNH 1 : LONG MẠCH TỔ :
Trong hình là một tổ Rồng (Long mạch ).Long mạch lớn nhất có hình được tô mầu chính là Tổ Long -Dãy Hymalaya (Còn gọi là Hy Mã Lạp sơn ).Dãy Hymalaya tạo nên một vòng cung dài trên 2400 Km qua các nước :Pakistan,Kashmir,Ấn độ,Tây tạng,Nepal,Sickim,Bhutan bao bọc một vùng rộng gần 600.000 Km vuông.Đây chính là Tổ Sơn của cả Thế giới.Nước Việt nam ta chỉ nằm ở phía đuôi con Rồng này.Con Rồng tôi đề cập đến trong bài viết chỉ là một con rồng nhỏ,nằm trong Tổ Rồng đó. 


HÌNH BẢN ĐỒ THÀNH ĐẠI LA THẾ KỶ 19 .

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRÊN CÔNG TRÌNH CẢI TẠO SÔNG TÔ LỊCH NĂM 2001 .

HIỆN VẬT TỪ LÒNG SÔNG . 


MÁY XÚC KOMASU TRÊN SÔNG : 
NHỮNG HÀI CỐT CHUẨN BỊ ĐEM VỀ BÁT BẠT 

Trong phần cuối này , người viết xin đưa ra một Đề cương tạm thời để khỏi trùng với những phần viết trước . Đề cương đó như sau : 
1/ TẠI SAO LẠI GỌI LÀ TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH ?
2/ AI ĐÃ THỰC HIỆN VIỆC TRẤN YỂM NÀY VÀ NHẰM MỤC ĐÍCH GÌ ?
3/ NGUỒN NĂNG LƯỢNG NÀO ĐÃ KHIẾN TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI VẬN HÀNH LIÊN TỤC SUỐT HƠN 1.000 NĂM QUA .
4/ MỘT VÀI Ý KIẾN VỀ CÁCH HÓA GIẢI TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI .
5/ ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI KHI BỊ PHÁ VỚI HÀ NỘI VÀ CẢ NƯỚC .

Trong phần này , người viết đã cập nhật thông tin và có sử dụng một số ý kiến của các Thầy , các nhà nghiên cứu , các bạn gần xa trong và ngoài nước . Xin cảm ơn những ý kiến quý báu của mọi người .
Xin theo dõi tiếp BÀI 2. dienbatn.
Xem chi tiết…

CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 34.

7/27/2021 |

 CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM DƯƠNG. BÀI 34.

NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN.
Từ phần này trở đi có tên gọi là NHỮNG NĂM THÁNG HỌC HUYỀN MÔN. Đó là những tháng ngày vô cùng vất vả, trải nghiêm đủ Hỉ- Nộ- Ái - Ố của dienbatn . Cũng đã qua từ lâu rồi , xin kể lại để các bạn cùng chiêm nghiệm . Thân ái. dienbatn. 
Nay nhân lúc rảnh rỗi vì Covis 19, dienbatn giở tư liệu ra biên tập lại.
Link BÀI 33:
https://dienbatnblog.blogspot.com/2017/11/cuoc-chien-giua-cac-phap-su-va-hai-coi_19.html

PHẦN IV.MÔN HỌC ĐẦU TIÊN VỚI THÀY BẢY TÂY NINH. ( Tiếp )

PHẦN V. NHỮNG CUỘC HÀNH HÓA KHAI THÔNG HUYỆT ĐẠO THỜI NAY.
(Bài nay dienbatn đã đăng trên TUVILYSO.COM. Chép lại tặng các bạn. Thân ái.dienbatn.)

Các bạn hẳn còn nhớ phần 2 ông Thày Bảy và Thày Chàm trong hang núi Bà ở trước. Nay vâng mệnh của Quái nhân ngày trước, 2 ông đi theo đoàn hành hóa khai thông Huyệt đạo Thừa Điệp sắc Kim cung,phóng tỏa Hào quang vạn trùng Xá lợi Kim thân,Siêu Thiên Đài truyền điệp chỉ.Thánh -Thần -Tiên Phật đại hỉ lâm cơ,truyền THIÊN ĐỒ THƠ trong thời Long hoa mạt hạ ,cùng rất nhiều những các nhân các Môn phái. Dịp này 2 Thày cho phép dienbatn đi theo để trợ Duyên đồng thời thực tập những gì đã học.Đó là một ân sửng lớn, đồng thời là một kỷ niệm khó quên trong cuộc đời dienbatn.

 Chắc các bạn đã một lần từng nghe những câu chuyện Huyền thoại,hay những câu chuyện về các Thày Địa lý trên đường đi tìm LONG MẠCH -HUYỆT VỊ.Những câu chuyện rất thú vị của cô ANN NGUYEN trong Diễn đàn Thần bí.Ngoài ra ,các bạn nếu đi nhiều nơi cũng thấy nhiều sự kỳ lạ của môn Phong thủy,nhất là Âm trạch.Trong Lịch sử cũng còn ghi lại rất nhiều câu chuyện như sự tích CỘT TRỤ ĐỒNG của PHỤC BA TƯỚNG QUÂN với câu chú :TRỤ ĐỒNG CHIẾT -GIAO CHỈ DIỆT.Hoặc như những cái ẾM ở BÀI BÀI,mà một đệ tử của Phật Thầy TÂY AN là PHẠM THÁI CHUNG tục gọi là ông Đạo Lập,đã phát hiện ra được một hòn đá dùng làm Bùa ếm ở BÀI BÀI.Tấm đá đó bằng đá xanh,trên mặt có khắc dòng chữ Hán :HOÀNG THANH CÀN LONG NGŨ THẤT NIÊN,TRUNG THU ,CỐC ĐÁN.Câu trên tạm dịch nghĩa là :Triều Thanh -Càn long -Năm thứ 57 -Chôn vào tháng 8 âm lịch.Theo cuốn BÍ ẨN PHONG THỦY của ĐOÀN VĂN THÔNG -Từ thẻ đá ,người ta truy nguyên trong quá khứ Lịch sử,cho biết rằng :MẠC CỬU,và về sau là MẠC THIÊN TÍCH (dienbatn đã có dịp đi khảo sát Lăng mộ của dòng họ này và hiện nay con cháu đời thứ 8,9, đang sống tại TP.HỒ CHÍ MINH ),là những người Trung quốc rất rành về khoa Địa lý Phong thủy.Dòng họ này trấn nhậm tại vùng HÀ TIÊN .Hiện còn đền thờ rất đồ sộ gọi là Đền MẠC CỬU.Theo ĐOÀN VĂN THÔNG viết trong cuốn sách đã dẩn :"Người ta cho rằng Mạc Cửu sang miền Nam nước Việt,có mục đích để ếm trù Long mạch tại vùng núi Cấm,mà tấm đá phát hiện vừa nêu là bằng chứng ".Thực hư còn chưa biết nên dienbatn chưa dám khẳng định điều đó,nhưng tấm đá Ếm đó là có thực.Gần đây nhất,khi nạo vét sông TÔ LỊCH,người ta phát hiện ra được một đạo Bùa trấn yểm dưới dòng sông.Về việc này ,dienbatn có viết trong bài :PHONG THỦY,với tên :HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH -PHÍA CỬA TÂY LA THÀNH.Ngoài ra còn rất nhiều ví dụ khác mà còn đang loan truyền trong dân gian.

Những hiện tượng đó thực chất như thế nào trong khoa Phong Thủy ?Hiện nay,thông thường người ta gán cho những hiện tượng đó là mê tín,dị đoan,là phản Khoa học.
Gần đây dienbatn có diễm phúc được tham dự một cuộc HÀNH HÓA GIẢI KHAI HUYỆT ĐẠO như vậy cùng với Thày Bảy Tây Ninh và Thày Chàm .dienbatn xin viết lại để các bạn có một cái nhìn khác hơn những gì các bạn đã nghĩ về hiện tượng này. Những gì mà dienbatn mắt thấy tai nghe là sự thực,các bạn có quyền tin hay không tin.Những công việc Hành hoá đó,có tác dụng thực tế hay không,xin để thời gian trả lời.dienbatn xin thay đổi tên của những người tham gia,xin các bạn thông cảm,những tên dùng trong bài chỉ là những tên trong Đạo.LINH TẠI NGÃ -BẤT LINH TẠI NGÃ.dienbatn không có trách nhiệm của việc tin hay không tin của các bạn và xin cũng được xếp vào những câu chuyện Huyền thoại.
"Trăm năm trong cõi người ta,
Mua vui cũng được một và trống canh
"

PHẦN THỨ NHẤT :CẢO THƠM LẦN GIỞ TRƯỚC ĐÈN :
Ngày 16 tháng Giêng năm Ất hợi (Tức ngày 19/02/1935 ),trong lễ TAM NHẬT ĐÀN tại Tòa Thánh Cao đài -Tây ninh,có xuất hiện một cơ bút còn giữ được cho đến ngày hôm nay.dienbatn xin phép được trích đăng như sau :
"Cơ Trời thay đổi máy CÀN -KHÔN.
Đất dậy,đất tung xác thay hồn,
Tam Giáo giáng Trần quy Ngũ phái.
BÁT MÔN -ĐỒ TRẬN cõi thần hồn
".
Ngày kia tại xứ Việt nam,Trời lập BÁT ĐỒ TRẬN,có tám hướng :CÀN -KHẢM-CẤN -CHẤN -TỐN -LY -KHÔN -ĐOÀI.Hào quang chói giữa lừng Trời,thì Bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo đến phá trận,cho tiêu tan,giành làm Bá chủ.Trận BÁT MÔN của Thầy lập chính là :THIÊN MÔN TRẬN,Bá đạo vào bảng.Phong Thánh kỳ Ba đó con,thì Bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo vào phá trận đều bị tiêu diệt,hồn lên bảng Phong Thần tất cả.Như vậy thì Bá đạo không phá nổi trận của Thầy,thì mới tùng lịnh Thầy.
Ngày 17 tháng 1 năm Bính Ngọ -1966,các chưởng Giáo,chức sắc lại nhận được Cơ bút (Từ nay chúng ta gọi là Điển ),về BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN như sau :
"SƠ DẪN :Bát quái là gì ?Là bộ máy CÀN -KHÔN gồm có Ngũ hành ,phân ra tám hướng ,tạo thành tám cung :CÀN-KHẢM -CẤN-CHẤN-TỐN-LY-KHÔN-ĐOÀI,phối hợp với nhau,chế hóa lẫn nhau để vận chuyển CÀN -KHÔN,hóa sinh muôn loài vạn vật.Tất cả trong Vũ trụ,từ vô vi đến hữu hình,từ Tam Thiên Đại Thiên Thế giới,đến những vật nhỏ bé nhất Trần gian như một Nguyên tử,một lân hư,đều ở trong vòm Bát quái và chịu luật của Bát quái.Cho nên biết được Bát quái,dụng được Ngũ hành là điều động được Thiên cơ,thoát khỏi Luân hồi sanh tử.
Bộ máy ấy năng lực vô biên,mấu nhiệm vô tận,gọi trọn chữ là BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ.
Mạt hạ,tàn ngươn,Long hoa Khai điển,cuộc Thế điêu tàn,nên Thượng Đế truyền lập BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ tại Trần để cứu cánh những Nguyên căn,những kẻ hiền lành Phước đức.BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ tại Thế ,tuy hữu hình,nhưng vận chuyển theo pháp Vô vi,dùng Đạo pháp Siêu nhiên:"QUY TAM BỬU -THỐNG TAM TÀI ",tụ Ngũ Khí để chế biến,sử dụng.Ngũ hành tuân theo luật tương sinh,tương khắc,không chỉ vận chuyển với sức phàm mà đủ,mà còn có các vị Thiên Tiên hỗ trợ,nên rất chi là diệu diệu,huyền huyền,Tam Ngươn mới có một lần vậy.
Chính nhờ đó mới nhiếp thọ được Điển Tiên Thiên,chế ngự được Ngũ hành trược giả,để trước bảo vệ mình,sau cứu chúng sinh trong buổi Long hoa tận diệt.
Sau đó các vị Thánh ,Tiên,lần lượt từng vị giáng Cơ bút (Điển ),xuống cho biết như sau : "

BÁT bộ Kim cang ứng nhập đàn,
TIÊN ,Thần,Thánh,Phật hiện hào quang,
ỨNG từ Pháp giới hòa Siêu điện,
TRIỆU thỉnh Tiên Thiên hội Đạo vàng.
VẠN chỉ như truyền phong sắc thượng,
THÁNH đề điệp hội tại Nam bang.
LÂM cơ phò trận THIÊN ĐỒ TRẬN,
NGỰ tứ siêu linh chuyển chánh tràng ".
(Các bạn chú ý mấy chữ đầu các câu thơ ).
Bát Tiên phó triệu,Vạn Thánh lâm đàn.Mừng chưởng Giáo cùng Trung tôn Huỳnh Đạo.Thừa Điệp sắc Kim cung,phóng tỏa Hào quang vạn trùng Xá lợi Kim thân,Siêu Thiên Đài truyền điệp chỉ.Thánh -Thần -Tiên Phật đại hỉ lâm cơ,truyền THIÊN ĐỒ THƠ trong thời Long hoa mạt hạ.Vậy trong hàng Trung tôn định tọa tâm hầu ngheThiên Thư chánh giáo của THƯỢNG TỔ ban truyền.Tiên Thiên đồng tá trợ,có VÂN TRUNG TỬ lâm đàn điều động Thiên Đồ.
(Phần này là Điển giáng của BÁT TIÊN,VẠN THÁNH lâm đàn chủ tọa THIÊN ĐỒ TRẬN giải khai Huyệt đạo ).Vị thứ hai lâm đàn giáng Điển là VÂN TRUNG TỬ.

VÂN tựu hào quang chiếu sắc hồng,
TRUNG đài võ lộ định Kim long.
TỬ linh Vương đế khai môn lập.
NHẬP diệu huyền linh trước bệ rồng.
Bệ rồng thừa lệnh Thượng Quân lai ,
Triệu thỉnh Thần tiên ngự Bửu đài,

Cấp cấp thời hư linh vô lộ,

Kim triều điệp sắc nhập Thiên khai.
Bần đạo thừa điệp sắc Thượng Tổ lâm đàn,cùng Tiên Thiên khán ngự nhập dự THIÊN ĐỒ.Vậy toàn tất Trung tôn định tịnh,hầu nghe phát lạc Thiên thơ.Trên có Thượng huyền chiếu diệu,Thượng Tổ ban ân,dưới có toàn tất Kim cang đồng lại hộ giá.
Truyền sắc lệnh :Như lai triệu thỉnh Thần Tiên,bên ngoài 50 dặm chẵn.Thừa điệp sắc Thượng quân,Kim cang chi vị,Yết Đế Thần minh tám muôn đồng thọ Điệp sắc.Địa võng,Thiên la Thần minh ứng triệu,thượng ngũ chuyển đại quang,hạ Lục huyền thông dẫn địa,cấp cấp như luật lệnh.
Vị thứ 3 giáng Đàn ban Điển như sau :
QUẢNG pháp truyền khai Chánh Đạo Thiên,
THÀNH tâm đắc lệnh hội nhân hiền,
TỬ thứa điệp chỉ lâm lai khán,
GIÁNG hộ ĐỒ THƠ ý Đạo truyền.
Bần đạo QUẢNG THÀNH TỬ mừng chung.Được câu Tiên bàisắc điệp,thứa lệnh Thượng Tổ LIỄU NHẤT CHƠN NHÂN truyền ,triệu hồi khai đàn lâm thế.
LÂM thế Thiên đồ chuyển Đạo minh,
TRUNG tôn thọ pháp đại huyền linh.
THỜI lai cứu thế Trung ương nhập,
CHUYỂN tứ thông quang hộ Đạo Huỳnh.
Vậy Bần đạo vâng truyền THIÊN ĐỒ định lập,trấn vị CÀN Bát quái Tiên Thiên,triều phong hộ vệ.
Một vị khác lâm đàn,giáng Điển :
NGỌC điệp Thiên ân chiếu triệu hồi,
ĐẢNH lòa pháp giới thượng cao ngôi,
CHƠN như hiện lập Phong Thần mạng,
NHƠN đức triều thăng Đế vị hồi.
Bần đạo NGỌC ĐẢNH CHƠN NHƠN chào mừng chung hàng Trung Tôn Huỳnh đạo.Vui thay,cuộc thế vần xoay,Cơ Trời hiển lộ.Từ độ Tiểu phong Thần đến nay cũng gần Lục vạn niên dư.Thiên thư truyền tái lập.Bần Đạo còn phải khai đàn chuyển tứ huyền thông,vì nhận điệp sắc Kim Long câu Tiên Liễu nhất triệu đàn minh.Giờ linh ,cho nên bần đạo chuyển tứ nơi đây trấn KHẢM cung chi vị.

CÙ dậy Nam phương đúng hạn kỳ.
LƯU truyền pháp định sắc Kim Quy,
TÔN hành Trung Đạo phong đài thọ,
GIÁNG triệu Câu Tiên chí huấn thùy.
Bần đạo CÙ LƯU TÔN chào mừng chung Trung Tôn Huỳnh đạo.Thừa Điệp sắc ân phong Thượng Tổ truyền ban cho,nên hiện hào quang tái nhập Trần gian.Từ khi Tiểu Phong Thần định vị,ngày nay đă qua cuộc Tuần hườn xây chuyển Bách tuế vi kỳ,nhưng cũng chẳng tránh được luật Huyền vi của Thiên công hoạch định.Vậy Bần đạo trấn CẤN cung chi vị .

THÁI bình định lập hội Minh châu,
ẤT giáp thảm thương họa Địa cầu,
CHƠN Đạo Tam Thiên bình tục lụy,
NHƠN thừa lập vị hội chư hầu.

THÁI ẤT CHƠN NHƠN,Bần Đạo mừng chung.Thừa Điệp sắc Câu Tiên Liễu Nhất Chơn nhơn.Bần đạo lâm đàn giờ này có đôi lời chung trong hàng Trung Tôn Huỳnh đạo,ráng rèn công lập quả,tạo lấy THIÊN ĐỒ cứu vớt Kỳ ba,trong thời Long hoa mạt hạ.Vậy Bần đạo trấn CHẤN cung chi vị.
HUỲNH sắc Nam bang chiếu ánh hồng,
LONG môn khởi lập hiện Hoa Long,
CHƠN đài Thánh Chúa qui Tam Ngũ,
NHƠN đức hiền lương hội thọ phong.


CHƠN NHƠN mừng chung hàng Trung Tôn Huỳnh đạo.Vừa thọ sắc Câu Tiễn Liễu Nhứt,cho nên Bần đạo lâm đàn hôm nay để có đôi lời chung cho hàng Trung Tôn Huỳnh đạo.
Bần đạo hiện giờ ngán ngẩm thay cuộc Trần ai trong cơn sóng gió,thương Nhân loại,không nỡ nhìn ngó cảnh tàn hại của Ma Vương,nên Bần đạo chuyển tứ đường Trần trấn TỐN cung chi vị.
LỤC Giáp,Lục Đinh Đạo khởi truyền,
YỂM hòa mạt Trụ chỉ ân Thiên,
CHƠN thường Tam Ngũ phong lai triệu,
NHƠN hiện hào quang điểm vi cương.
LỤC YỂM CHƠN NHƠN ,Bần đạo mừng chung hàng Trung Tôn Huỳnh đạo.Hiện nay cơ Trời đã báo hiệu,Vạn Quốc,Ngũ Châu sắp lâm vào cơn đại Khảo của Tiên Thiên.Lửa Trời sắp thiêu rụi,cảnh đất nọ chuyển lay,quay cuồng vì dục vọng của Nhân Tâm nên Nhân loài phải chịu họa tai điên đảo.Thiên đồ Thơ sắp truyền trong cơ Đạo,một ngày,một bữa,một khắc,một giây,nếu trọn lòng tinh tấn thường hành,sẽ là cơ cứu nguy cho Nhân loại.Vậy Bần đạo trấn LY cung chi vị.

TỪ bi đạo đức hội Nam phương,
HÀNG phục yêu ma sắc chỉ thường,
ĐẠO thị huyền thâm vô chỉ giới,
NHƠN hành điểm hóa hội phong Vương.

Bần đạo thừa sắc điệp Thượng Quân lai ngự.Giờ lành chuyển tứ huyền thông cỡi Rồng hạ giới.Này các Nguyên căn Huỳnh đạo trong hàng Trung Tôn chi vị,phải suy nghĩ tận tường,đây là một con đường cứu an cho sanh chúng trong thời loạn lạc điêu nguy,chớ màng chi vì cảnh tục.Trên Tiên Thiên đã chỉ điều trong đục,mượn xác Thế của hiền nhân hầu chuyển tứ Đại Phong Thần định lập đời Long Hoa Thượng Thánh.Vậy tất cả Nguyên căn nên nghĩ,hầu đại lãnh lấy Lịnh văn,thọ kỳ Pháp gíới.Thiên Thơ định tới buổi Long Hoa phải kiềm Tâm,kiên chí mới đắc được Đạo pháp siêu thâm.THIÊN ĐỒ THƠ chẳng phải tầm thường mà là siêu mầu tuyệt giới.Vậy cố gắng trì Tâm,đừng mong đợi,dầu cho năm tháng cũng ráng luện rèn,cho đến ngày thành Đạo pháp.Bần đạo trấn KHÔN cung chi vị.
Cung cuối ĐOÀI giang rất nhiệm mầu,
VÂN TRUNG TỬ sắc lệnh tay thâu,
Bình Linh Đại yến tuân Thiên mạng,
Trấn vị ĐOÀI cung ý nhiệm mầu.
LIỄU NHẤT CHƠN NHƠN chào mừng chung Trung Tôn Huỳnh đạo.
LIỄU hiện kim quang hội sắc truyền,
HÒA thông pháp giới định Tâm yên,
BỔN như giác thệ quang như thọ,
ĐỊNH lập ĐỒ THƠ lý hóa huyền .
Huyền diệu LIỄU khai Đạo đức kinh,
Thọ đài NHỨT bổn thị huyền linh,
Bất như CHƠN thể vô tâm định,
Hữu đáo NHƠN hành bổn vị minh.
Hiện Thế KHAI quang hòa hội Thánh,
Lâm đàn PHÁP định ý Thiên sinh.
Chuyển như THIÊN Địa Phong Thần ký,
Bổn vị ĐỒ THƠ hội Đạo Huỳnh.

Bần đạo giờ lành thọ Điệp sắc ân ban của Thượng Tổ lâm đàn truyền cho Thần Tiên Thánh Phật hai hàng đồng triều nghinh nghe Điệp sắc:
BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ đã định đặt kỳ Đại biến nhân gian.....
....Hễ là người,phải lấy trí nuôi mầm yên tĩnh,chớ đừng yên tĩnh mà nuôi trí tục phàm nhân,đó là sai lầm vào Luân hồi ác trược.Còn thế Thiên đồ đại lược,lấy Đạo pháp siêu thâm cũng vậy.Lấy tĩnh chế động,lấy nên chế hư,lấy chơn chế huyển.Hể người được lựa tuyển vào Đại lược Thiên Đồ,phải hết sức điểm tô,đừng quên con đường mật Pháp vậy.Luôn Tâm cho tịnh,đừng xao xuyến điều chi,dầu phải gặp cảnh biến nguy cần kề bên thể xác,cũng đừng để cho Tâm linh rời rạc mà Thần Thánh khó hộ trì,Ma Vương ,ác quỷ cụng Pháp lực vô biên,Thần thông quảng đại,nhưng trí chẳng hiền,tâm chẳng tịnh,cho nên không nhập vào Chánh Đạo siêu quang..... ............

PHẦN HAI :MỘT VỊ SƯ TRÊN 40 NĂM GIỮ GÌN HUYỆT ĐẠO.
Vào khoảng giữa mùa khô năm 19..,nghĩa là cách đây 44 năm,có một nhà sư ,lúc đó mới có 36 tuổi,đang tu hành tại quê nhà An giang của mình,trong lúc đang Thiền định thì nhận được Ân Điển của Thượng Tổ giáng truyền,cử đi trông coi ,bảo vệ một Đại Huyệt của miền Nam.Nhà sư vội vàng từ giã Sư cụ và các Tăng ni trong Chùa,khăn gói quả mướp lên đường.Lúc đó hành trang của nhà sư chỉ có vài bộ đồ với một con rựa sắc như nước.Trực chỉ Đông phương thẳng tới,chỉ ít ngày sau,vị Sư này đã đến chân một quả núi cao chất ngất,thuộc tỉnh Bà rịa -Vũng tầu ngày nay.Ngày ấy,khu vực này còn hoang sơ lắm,trên đỉnh núi mờ mịt mây bay,cây cối xanh rờn thành vệt,chim kêu,vượn hú,vẻ hoang sơ buồn đến nẫu lòng người.Nhà Sư lần mò từ sáng sớm đến tối mới tạm mở được con đường xuyên qua lau lách tới được lưng chừng núi.Ngồi trên phiến đá,nhà sư lần mở tay nải ra lấy nắm cơm muối mè đã khô cứng ra trệu trạo nhai và thỉnh thoảng đưa cơm bằng ngụm nước lấy dưới chân núi hồi sáng.Đốt một đống lửa,nhà sư giăng võng nằm và suy nghĩ mông lung.Vậy là kết thúc những ngày đi đường vất vả và giờ đây khởi đầu một cuộc sống mới đầy gian khổ ,khắc nghiệt.Là một con người,nhà Sư cũng rất ngán ngẩm trước khung cảnh Thiên nhiên quá hoang dã và khắc nghiệt nơi đây,chỉ có đức tin vào sứ mệnh thiêng liêng ,cao cả của mình trước Thượng Tổ,mới gạt bỏ ý định của mình là trèo ngay xuống núi,trở lại Chùa quê nhà.
Sáng hôm sau và những ngày tiếp theo,nhà Sư băng rừng,trèo khắp dẫy núi đó để xác định vị trí mình cần tìm.Gần một tháng trời dòng rã,đói ăn cây ,củ rừng,khát xuống tận chân núi lấy nước,nhà Sư đã tìm được vị trí mình cần tìm ở lưng chừng dẫy núi.Và cũng từ ngày đó ,nhà Sư dựng tạm một túp lều đơn sơ gần đó và thực sự bắt đầu cuộc sống của mình.Hàng ngày ngoài tứ thời Tý-Ngọ-Mão -Dậu phải ở trong lều tụng Kinh,niệm Phật,Trì,chú,nhà Sư vác dao vào rừng đốn củi ,đem xuống chợ chân núi đổi lấy Gạo,muối và những thứ cần dùng khác.Mỗi khi xuống núi,nhà sư lại đem theo cái can mủ loại 20 lít để thồ nước từ dưới chân núi lên để tắm giặt ăn uống.Chúng tôi được nghe đích thân Sư kể lại rằng :Lúc đó đang mùa khô,nước khan hiếm lắm,mang dược can nước lên,ngoài nấu cơm và uống,phải hạn chế sử dụng hết mức.Nước sau khi tắm,phải hứng lại để giặt quần áo.Rồi dần dần tháng năm cứ trôi đi,từ một chàng trai khỏe mạnh,đầy nhiệt huyết,nhà sư giờ đây đã trở thành một vị sư già trên 80 tuổi.Trong hơn bốn mươi năm qua,nhà sư có thể tự hào là không nhận tiền của cúng dường của các Phật tử hay khách hành hương mang tới cúng.dienbatn cũng được dân địa phương gần đó kể cho biết rằng :Mấy năm trước ,Sư còn cho dựng một cái bảng ngay đường đi lên Chùa và ghi trên đo câu :KHÔNG TIẾP KHÁCH VÀ NHẬN ĐỒ CÚNG LỄ.Trong hơn bốn mươi năm đó,bằng những gánh củi,những thứ trái cây hoa lợi thu được nhà Sư đã tự cất cho mình được một ngôi Chùa tuy rất đơn sơ,nhưng sạch sẽ,khang trang.Những năm gần đây Sư còn lập được hai đàn thờ Phật Tổ ,quanh năm hương khói .Con đường ngày xưa chông gai hiểm hóc,đến nay xe 4 chỗ đã có thể đi được gần tới (Chỉ cách khoảng 1 Km ).

CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG.

CHÁNH PHÁP TOÀN CHƠN HƯNG TRUYỀN.

TÔNG TRUYỀN THÁI NHỨT HƯ VÔ.

ĐỆ TỨ THẬP NIÊN.

ĐẠI MẪU HUYỆT LONG ĐỒ MỒ KỶ TRUNG ƯƠNG.

THUẦN DƯƠNG CHUYỂN THẾ HỆ THƯƠNG NGƯƠN THÁNH ĐỨC.

CÔNG BÌNH – BÁC ÁI – TỪ BI – TAM CÔNG – TỨ VÔ LƯỢNG TÂM.

ĐỨC CAO NHIÊN ĐĂNG QUÂN TÔNG TRƯỞNG TÔNG TRUYỀN “ THÁI NHỨT HƯ VÔ “.

NHÂN DANH : NGÔ ĐẠI HÙNG.

Vốn xuất thân từ gia đình truyền thống Đạo .

Ngày 10/19/….: Tiếp Điển của Đức HỒNG QUÂN LÃO TỔ : Ngài dậy lên Núi Lớn – Huỳnh Long Sơn ( Tương Kỳ Sơn – VŨNG TÀU ) , lập THIÊN ĐỒ THÁNH CUỘC , giữ hạnh tiều phu , Sĩ , Liêm chơn chính , bần Đạo chơn tu.

Năm 19… : Thày xuống Điển lập TÔNG TRUYỀN THÁI NHỨT HƯ VÔ – THIÊN ĐIỀU ĐẠI ĐẠO VẠN PHÁP QUY TÔNG.

Giờ lành, nay được Sắc tứ hồng ân , Công Tào Đại Phán , Thầy mẹ châu phê đại ân lành , phước báu . Minh chứng ra đây cho thân tộc , thân hữu , môn đồ , đồ đệ , Tông đồ tâm phúc , nam nữ tiểu đẳng , tất cả lương sanh , quảng đại quần chúng  , hãn tường chơn giả trong quan niệm ý chí lập trường . Trong mọi sự hiểu biết Chánh lý , chơn tâm thâm thâm vi diệu , trong một kiếp số làm người kiến thức quang minh tác chơn tâm , tầm phân tròn trong chơn lý . Chánh nghĩa hợp cùng THIÊN – ĐỊA – NHÂN , hòa đồng Vũ trụ hiệp lý Vũ hoàn trên con đường giải thoát.

THI:

Bạch thủ thành gia gương mới đáng.

Cho hay quân tử chí bền gan.

Rèn lăng kim thạch anh hùng chí,

Oanh liệt trong lòng khí hiên ngang.

Không sờn tấc dạ người quân tử.

Chí dũng oai hùng chẳng thở than.

Trọn đời tu luyện trao truyền Pháp.

Mãn kiếp quy hồi rất nhẹ nhàng.

THI :

NGÔ trang oanh liệt sĩ hùng anh,

ĐẠI chí kiên gan đúc luyện thành.

HÙNG khí oai danh toàn thế giới.

THUYẾT lời chơn Giáo Đạo toàn thanh.

PHẬT Giác giác tha chơn diệu lý.

PHÁP tròn chơn Đạo mãi lưu danh.

QUY nguyên toàn thể hồi nhất bổn.

TÔNG pháp Đồ thơ trọn kiếp lành.

(Ngô Thuần Dương chơn như  )


Di ảnh 
ĐỨC CAO NHIÊN ĐĂNG QUÂN TÔNG TRƯỞNG TÔNG TRUYỀN “ THÁI NHỨT HƯ VÔ “.- Sư Tông.

Dienbatn về thăm Thái Nhứt hư vô.

Di ảnh Sư Tông - ĐỨC CAO NHIÊN ĐĂNG QUÂN TÔNG TRƯỞNG TÔNG TRUYỀN “ THÁI NHỨT HƯ VÔ.

Dienbatn cùng với Sư Tỷ ngày xưa trên Thái Nhứt hư vô.

 Cách đây 9 năm,một vị Trưởng lão cũng theo Điển giáng ,tới gặp Sư Tông .Sau một  ngày trò chuyện,căn dặn,nhà Sư trao cho vị Trưởng lão đó một Sắc lệnh của THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN,và một lần nữa,vị Trưởng lão đó lại lên đường thực hiện nhiệm vụ của Thiên lệnh.

Đến đây chắc các bạn sẽ muốn hỏi dienbatn :Vị sư đó là ai và lên núi ở đâu ? Làm gì ?
Giờ này Sư đã ngoài 80 tuổi và nhiệm vụ thiêng liêng đã hoàn tất,người chuẩn bị về với Tổ tiên ,ông bà.Gần đây khi gặp dienbatn,sư đã già và yếu lắm rồi,nhưng sư rất vui và mãn nguyện vì đã hoàn tất nhiệm vụ.Sư nói :Thầy sắp đi xa rồi.Sư trao tặng cho dienbatn cuốn KINH NHẬT TỤNG với nhan đề :THIÊN ĐIỀU ĐẠI PHÁP -THIÊN ĐẠO ĐẠI PHÁP QUY TÔNG.Nhìn dienbatn sư nói :Các con cố Tâm thực hiện Thánh Điển-Thầy sắp đi rồi.Nhìn nhà sư già dáng Hạc xương mai,nhưng hào khí tinh anh ngất Trời,trong lòng dienbatn tự như thấy hổ thẹn với bản thân mình. Những gì cần làm Sư đã làm xong,dienbatn xin phép tiết lộ cơ Thiên cho bạn đọc trả lời câu hỏi của mình từ đầu tới nay.NHÀ SƯ ĐÓ CÓ TÊN ĐẠO LÀ SƯ TÔNG -TRONG 44 NĂM QUA CÓ CÔNG GÌN GIỮ,BẢO VỆ ĐỈNH NÚI THÁI NHẤT HƯ VÔ TRÊN ĐÓ CÓ MỘT ĐẠI HUYỆT CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM TÊN LÀ KỲ PHONG HUYỆT HAY THÁI HƯ HUYỆT.
dienbatn xin mạo muội giải thích thêm để các bạn hiểu về Cơ bút hay thường gọi là ĐIỂN.Đó là những mệnh lệnh ,bài Kinh hay những việc cần truyền đạt của các đấng Chư Thiên truyền xuống ,những người có Thiên căn hoặc do tập luyện đều có thể tiếp nhận dễ dàng.Trong một số Chi Đạo,người ta có chỉ cách tập luyện để có thể tiếp Điển.Những người tiếp được Điển thường gọi là Đổng tử.Cách tập luyện để có thể tiếp Điển là thường tự ngồi Thiền và điều khiển cho vòng Nhị Thiên,Tam Thiên di chuyển.Cụ thể,ví như vòng Nhị Thiên,đầu tiên quán tưởng cho hơi thở (gọi là Minh châu )nơi Huyệt Huê quang.Bắt đầu hít vô chuyển cho Minh châu lên Thượng đài,chạy vòng xuống Huyệt Ngọc chẩm rồi xuống Huyệt Giáp tích.Ngưng lại nơi đây,nuốt tân dịch từ từ cho rơi xuống Hạ điền (Rốn ),nằm nơi đó,rồi bắt đầu chuyển từ Huyệt Giáp tích xuống Huyệt Vĩ lư,tới Huyệt Trường cường,sau đó tách ra làm hai bên và đi vòng xuống hai chân,ngưng nơi hai ngón chân cái rồi thở nhẹ ra(Quán tưởng đưa tất cả trược trần xuất ra ngoài 2 ngón chân cái.).Tiếp tục hít hơi vô,cảm thấy 2 làn Điển quang từ ngoài chạy vào 2 ngón chân cái(Cảm thấy mát lạnh ),chạy trở lên Huyệt Trường cường rồi đến Vĩ lư,lên nữa cho đến Giáp tích và ngưng lại đó,nuốt Tân dịch lần nữa đưa về Hạ điền,nằm lại đó.Bắt đầu chuyển tiếp từ Giáp tích ra hai tay ,chạy đến 2 ngón tay cái thì ngưng lại và thở nhẹ ra (Ý tưởng đưa tất cả trần trược xuất ra ngoài ngón tay cái ).Sau đó lại bắt đầu hít vô,cảm thấy có hai lằn Điển chạy vào từ 2 ngón tay đến Giáp tích rồi lên Huyệt Ngọc chẩm,đến Thượng đài rồi trở lại Huê quang.Như vậy là đã đi hết một vòng Châu thiên -Hành như vậy mỗi lần 36 vòng.
Việc tiếp Điển ngoài sự tập luyện chuyên cần ra còn phải có cơ Duyên vì có nhiều người tu luyện cả đời cũng không tiếp Điển được vì trong người còn nhiều trần trược.Khi đã tiếp được Điển rồi,thường khi ngồi Thiền sẽ tiếp được Điển của chư Thiên ban truyền.Có điều lạ là có những người chỉ tiếp Điển được bằng lời văn,lại có những người tiếp được Điển toàn bằng thơ hay những điệu Tân cổ...Mặc dù có người cả đời chưa làm được một câu Lục bát cho đúng Niêm luật,nhưng khi tiếp điển,có khi viết ra một lúc hàng trăm câu thơ rất đúng vần điệu (Như các bạn đã có dịp đọc ở phần trên ).Giáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG cũng đã lý giải vấn đề này trong cuốn "TÍCH HỢP ĐA VĂN HÓA ĐÔNG TÂY -CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC )-Các bạn có thể tham khảo thêm để hiểu rõ điều này.

PHẦN THỨ BA :NHỮNG ĐẠI HUYỆT CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG MẮT NHỮNG NHÀ PHONG THỦY.
Tài liệu này theo ĐOÀN VĂN THÔNG chép lại theo cuốn HUYỀN DIỆU THIÊN THƯ của một dị nhân ẩn danh vùng Thất sơn.
"Khoa Địa lý dạy rằng :Hễ một dòng sông bắt nguồn từ nơi đất địa hiển linh,núi cao ngàn năm không người tới ở,rừng rậm ngàn năm không ai tới lui,phóng lượn sóng nghêng ngang ngàn thu không cạn,thì con sông ấy sẽ kết tụ nơi Huyệt "Long đảnh ",một địa linh rất Linh hiển,phì nhiêu về vật chất,cao siêu bội phần về tinh thần.Ngọn CỬU LONG giang là một dòng Bảo giang oanh liệt,oai nghiêm,vừa tạo thành nên vóc vạc hoàn toàn lối 100 năm nay.Liên kết với các núi,Cửu long giang xuất hiện ra 12 HUYỆT huyền diệu,chấm đậm néthùng vĩ trên quả Địa cầu này.
"Bắt đầu khởi kết tụ ngươn khí âm dương xây nên Địa Huyệt thứ nhất tại THẤT SƠN (Châu đốc ).Chỗ ấy ba Huyệt Tiên thiên hiệp lại làm Nê hườn cung ,xuất hiện đúng ngày linh hiển TAM HUÊ TỤ ĐẢNH mùi hương lạ kỳ- bí mật bay ra từ núi Sam đến núi Tượng.Chỗ ấy là cân não,cốt tủy của Cửu long.Tên nó được hưởng ứng theo luồng điện Thiên nhiên,oai nghiêm,từ bi,hùng vĩ,đời sau gọi là KIM THÀNH HUYỆT.Đó là Huyệt dương đã xuất hiện ,Cửu long kết lần với hai dãy núi âm phong cô độc ,liên hiệp thành cặp mắt HÀ TIÊN và PHÚ QUỐC là THỦY TRUNG HUYỆT.TÂY NINH ,núi ĐIỆN BÀ là HUỲNH MÔN HUYỆT,hai đảnh núi ấy thuộc về Âm kết tụ ngươn khí tại Trung ương tạo nên ẤN ĐƯỜNG HUYỆT (Dương )để khai mở luồng điển quang cho các Huyệt kia vừa ngưng tại lối miệt Long xuyên,Bình mỹ (Một dãy cù lao lớn chạy dài từ Bình mỹ xuống gần đến Cần thơ ).
Từ Kim thành Huyệt phóng thẳng xuống mũi Cà mau và núi KỲ VÂN ,hai Huyệt dương nữa ,một bên thì thành sống mũi Cửu long chấm đến Cà mau (Tức là LÂM HUYỀN HUYỆT ),một bên thì Hàm Rồng tại KỲ VÂN (Tức BÍCH NGỌC HUYỆT ).Đồng cân với hai Huyệt âm(THỦY TRUNG HUYỆT VÀ HUỲNH MÔN HUYỆT ),hiện ra một Huyệt thứ sáu (BÌNH NAM HUYỆT ),tại núi Côn nôn là chót lưỡi của Cửu long.
Sáu Huyệt âm dương vừa kết tụ ,thì tại Trung ương Huyệt,yết hầu Cửu long ,vừa khai mở gần Cần thơ bây giờ ,gọi là TRUNG ƯƠNG CỬU LONG HUYỆT.Lần lần ba cửa mở ra :cửa Đại,Tiểu...v v vừa thành tựu(Năm Nhâm Thìn 1892 ),khiến cho ba nguồn Thủy dựng tại Bình Nam châu chuyển động (Lưỡi Cửu long ),làm cho các miền ở chánh cửa khẩu phải bị nạn lụt(Vàm cỏ,Gò công,Bến tre và các cù lao nhỏ...) ba ngày ba đêm.Đó là bảy Huyệt LINH THIÊNG ,CHÁNH GỐC của xứ VIỆT NAM mới ngưng kết được lối 100 năm nay.Đứng giữa Hoàn cầu,sự Linh thiêng tân tạo là đầu Cửu long giang,một nguồn Bảo giang Thiên cơ đã định phải chói rạng sự Huyền diệu,nhứt hạng khắp bốn bể,năm Châu.Vì Địa linh ấy mới sanh Nhơn kiệt,các vị Thánh tổ kim thời hễ thuộc mạng âm thì phải xuất hiện (Chứ không phải Giáng sanh ),dạy đời trong ba Huyệt âm (THỦY TRUNG HUYỆT,HUỲNH MÔN HUYỆT và BÌNH NAM HUYỆT ).,còn thuộc Dương thì phải xuất hiện ở Thất sơn,KỲ VÂN và CÀ MAU (KIM THÀNH HUYỆT,BÍCH NGỌC HUYỆT và LÂM HUYỀN HUYỆT ).
(Dật sĩ và NGUYỄN VĂN HẦU -THẤT SƠN MẦU NHIỆM ).
Cũng theo cuốn Thất sơn mầu nhiệm của Nguyễn Văn Hầu thì :"Thất sơn nằm trên địa phận tỉnh Châu đốc và sông Cửu long cũng chảy qua tỉnh này.
Mà Thất sơn tức là Bửu sơn hay Bảo sơn,thì quý báu vô ngần,hiển linh tột bậc :Nơi đây đã có nhiều vị tu hành chứng quả PHẬT ,TIÊN,THẦN,THÁNH.Chính phái BỬU SƠN KỲ HƯƠNG đã phát hiện tại vùng này.
Còn Cửu long còn gọi là Bửu giang hay Bảo giang.Con sông này được coi là con sông quý báu,vì đó là con sông lớn nhất và dài nhất trên toàn cầu (hơn 4.500 cây số ngàn ).Phát nguyên từ bên Tây tạng ,nơi mọc lên dãy núi Hy Mã Lạp sơn cao nhất toàn cầu (8.840 th );Và là nơi đức Phật Thích ca đã đắc quả chánh đẳng - chánh giác.Con sông này chảy qua Việt nam,qua Nam Việt (Nhất là tỉnh Châu đốc ),rồi tuôn ra biển Đại thanh với chín cửa biển (Cửa Tiểu,cửa Đại,cửa Bà Lai,cửa Hàm luông,cửa Cổ chiên,cửa Cung hầu,cửa Định an,cửa Bách Xắc,cửa Tranh đề ),vừa kết tụ ngươn khí,vừa phát hiện đủ thứ Địa hình.
Dòm kỹ bản đồ Việt nam,thì ta thấy cù lao Kết (Từ Vàm nao đến Nam vang),giống hình một con Quy,mỏ day về Vàm nao.Mà con Quy đó đã nằm giữa Tiền giang và Hậu giang ,lại ở vào khoảng giữa (Tức Trung ương )Thất sơn và Cửu long.Theo nguyên lý NAM THẤT NỮ CỬU thì Thất sơn thuộc dương,cửu long thuộc âm.Địa cuộc có âm dương tương hội thế ấy tất nhiên là Địa linh.Mà Địa linh tất sinh Nhơn kiệt.Sông thế ấy,núi thế kia phải đào tạo được những trang hào kiệt phi thường.
...Cụ Trạng Trình ( Nguyễn Bỉnh Khiêm ) lại nói rõ về nơi xuất hiện vị anh hùng dân tộc trong tương lai -Một vị Thánh nhơn trong câu sấm :
"Bảo giang Thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành."
Dường như muốn cho người đời sau có thể tìm hiểu đâu là :"Thánh nhơn hương " (quê hương của vị Thánh nhơn ),nên cụ Trạng lại nói thêm :
"Bắc hữu KIM THÀNH TRÁNG.
Nam tọa NGỌC BÍCH THÀNH
Hòa thôn đa khuyển phệ,
Mục giả,giục nhơn canh ".
Theo các tín đồ của đạo Hòa hảo,thì cho rằng người ứng vào câu nói đó là Đức Huỳnh giáo chủ,nhưng theo thiển ý của dienbatn thì không phải ,mặc dù địa điểm đúng ở khu vực đó ,lại thêm chữ HUỲNH là màu vàng.Xin được miễn bàn thêm về vấn đề này.
Như vậy chúng ta đã biết được 12 Huyệt vị lớn của miền Nam -Việt nam như sau :
* Các Huyệt 1,2,3nằm ở Thất sơn có tên là KIM THÀNH HUYỆT.
*Huyệt vị số 4 tại ĐIỆN BÀ TÂY NINH gọi là HUỲNH MÔN HUYỆT (Là Huyệt vị Trung ương của miền Nam .Vị trí cụ thể dienbatn sẽ nói rõ ở phần sau .
*Huyệt vị số 5 tại HÀ TIÊN -PHÚ QUỐC có tên là THỦY CHUNG HUYỆT.Huyệt vị này còn có tên khác là THỦY MÔN HUYỆT.
*Huyệt vị số 6 năm tại khu vực LONG XUYÊN -BÌNH MỸ (Một dãy Cù lao lớn chạy dài từ BÌNH MỸ xuống gần đến CẦN THƠ ).
*Huyệt vị số 7 nằm tại CÀ MAU tên là LÂM HUYỀN HUYỆT.
*Huyệt vị số 8 nằm tại dãy núi KỲ VÂN (gần lONG HẢI -Thuộc tỉnh BÀ RỊA ).Huyệt vị này có tên là BÍCH NGỌC HUYỆT hay KỲ VÂN HUYỆT.
*Huyệt vị thứ 9 nằm tại CÔN LÔN có tên là BÌNH NAM HUYỆT.
*Huyệt vị số 10,11,12 là TRUNG ƯƠNG CỬU LONG HUYỆT nằm gần CẦN THƠ.
Ngoài những Huyệt vị lớn đã nêu trên thì theo hiểu biết của dienbatn miền Nam còn mới hình thành rất nhiều Địa Huyệt trẻ có sức mạnh rất lớn.Xin điểm sơ qua những Huyệt vị quan trọng như sau :
*THÁI HƯ HUYỆT là cực âm Huyệt nằm tại núi gần THÍCH CA PHẬT ĐÀI -Tỉnh VŨNG TẦU.
*Một Huyệt vị lớn nữa được kết lại ở Đồng nai do Long mạch Bửu long kết tụ.Xin được phác thảo đôi nét như sau :
Bửu long là một trong những danh lam thắng cảnh ở Đồng nai.Một khu sơn thủy thơ mộng,hữu tình ,nằm trên Quốc lộ 24.Cách đây trên 400 năm,một nhà Sư đến nơi hoang vu ,thanh vắng này,đã phát hiện ra một Long mạch rất lớn,chạy dọc theo sông Đồng nai.Nhà Sư dựng lên ở khu vực này một ngôi Chùa nhỏ và đặt tên cho địa danh này là BỬU LONG (Bửu là quý -Long là Rồng -Ở đây ý muốn chỉ :Đây là một trái Châu quý của Rồng ).dienbatn đã đi khảo sát khu vực này thấy quả thật rất đẹp,sinh khí bốc lên ngùn ngụt ,khí thế ngất Trời.Trong khu vực này có một cái hồ gọi là hồ LONG ẨN (Rồng nằm ẩn ),là một hồ rộng đến 18.500 m2,mặt nước luôn trong vắt ,xanh thảm.Trên mặt hồ có những hòn đảo,vách đá thẳng đứng,nếu ngắm kỹ ta tưởng như có con Rồng ẩn hiện trong làn nước biếc.Tại núi BÌNH ĐIỆN và núi LONG ẨN gần đó,người ta xác định rằng những ngọn núi đá này đã có cách đây 100 -150 Triệu năm.Bước lên 99 bậc đá,chúng ta bắt gặp một ngôi Chùa cổ :BỬU PHONG CỔ TỰ.Đây là một ngôi Chùa cổ kính nằm dưới tán cây Bồ đề lớn.Từ trên tảng đá rất lớn nằm dựng đứng cạnh Chùa (Khi lên phải có thang ),ta phóng tầm mắt ra xa ,thấy sông Đồng nai uốn lượn như Rồng,ôm lấy những xóm làng trù phú.
Sau núi LONG ẨN còn có LONG SƠN THẠCH ĐỘNG ,một hang động có nhiều nhữ đá lung linh mầu sắc.Tại đây còn có CHÙA HANG ,có rất nhiều tượng Phật lớn nhỏ đủ loại.
Theo đánh giá của dienbatn thì đây là một Long mạch khá trẻ (Tuy đã có tuổi hàng trăm triệu năm ).Đuôi của Long mạch này kéo dài ra tới vùng BẾN GỖ,trên đường đi VŨNG TÀU.dienbatn tin tưởng khu vực này về sau khí đến vận sẽ phát triển rất mạnh mẽ.
*Một khu vực nữa của miền Nam Việt nam cũng rất đáng để ý cho các nhà nghiên cứu Phong thủy ,đó là CÙ LAO GIENG tại AN GIANG.Nếu nhìn vào bản đồ ta có cảm tưởng như CÙ LAO GIENG như một con tầu đang thả neo trên sông Tiền.Nếu tính theo địa giới hành chính thì Chợ Mới trải dài trên 3 Cù lao :CÙ LAO GIENG,CÙ LAO ÔNG CHƯỞNG,CÙ LAO SÔNG TIỀN.Cù Lao Gieng được gọi là ĐỆ NHẤT CÙ LAO,có ba xã TÂN MỸ,TÂN HIỆP,BÌNH PHƯỚC XUÂN.Chiều dài của Cù lao khoảng 15 Km,bế ngang chỗ rộng nhất khoảng 8 Km,có diện tích khoảng 70 Km2.Dân số theo thống kê gần đây trên 60.000 người.Tại vùng này hoàn toàn không có núi non hùng vĩ,mà bao quanh là sông ,rạch chằng chịt.Tại vùng này,dienbatn thường được nghe kể về sự tích ÔNG CÙ,là một con giống như Giao Long khổng lồ.Ông Cù nằm ngủ dưới đáy sông Tiền,lâu ngày đất cát,phù sa bồi đắp lên lưng tạo nên một dãy Cù lao.Cũng theo Truyền thuyết,khi mà ÔNG CÙ thức dậy sẽ có những trận động đất kinh hồn,nước dâng cao vút,tràn ngập cả một vùng rộng lớn.Theo khảo sát của dienbatn thì vùng này có kết Huyệt ở dạng THỦY HUYỆT (Tức là được sinh ra bởi THỦY LONG ).Tại vùng này còn có rất nhiều điều đáng nghiên cứu cho những nhà Phong thủy thích tìm tòi.
*Một số vùng khác nữa cũng có những Long mạch lớn và đã kết Huyệt trong vài trăm năm gần đây như ĐÀ LẠT,gần hồ TUYỀN LÂM (Người Đài loan cũng đã có những hiện tượng Trấn yểm đáng ngờ tại khu vực này ).Báo LAO ĐỘNG ngày 3/3/1994 cũng có đăng tải.
*Ngoài ra còn có rất nhiều Long mạch có Huyệt kết rất lớn và trẻ như tại HÒN CHỒNG (ĐỊNH QUÁN -ĐỒNG NAI );Tại núi BÀ NÀ,ĐÈO HẢI VÂN,ĐẦM Ô LOAN (PHÚ YÊN )....
Bây giờ dienbatn xin đi vào phần chính của bài viết,khi có điều kiện lại xin kể cho các bạn nghe về những Long mạch lớn đang kết Huyệt tại miền Nam -Việt nam.

PHẦN THỨ TƯ : PHONG THỦY -QUẦN LONG HỘI.

Trong những ngày sau Tết năm Giáp Thân,một mật điển được truyền đi trong các bậc Trưởng lăo của các Đạo,cho các Phong thủy sư riêng rẽ không thuộc vào Môn phái nào cả,cùng tụ lại tại ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH.Trên 50 vị Trưởng lăo cao thủ của các chi phái Đạo Phật,Cao đài:Tân Chiếu Minh,Thiên Khai Huỳnh đạo,Tổ Tiên Chính Giáo,Vô Vi pháp,Ayasanta,Bửu Sơn Kỳ Hương,Tứ Ân Hiếu Nghĩa,các Thánh Thất,Chùa chiền,các Đại Phong thủy sư riêng rẽ....tất cả cùng tụ lại theo Mật Điển để tham dự khóa huấn luyện đặc biệt về Giải khai Huyệt đạo theo BÁT MÔN THIÊN ĐỒ TRẬN đă được chuẩn bị gần 70 năm trước.Đây thực sự là một sự quy tụ các Đạo sĩ,các nhà Phong thủy lớn chưa từng có tại Việt nam.Đa phần các vị Trưởng lăo có tuổi từ 70 trở lên,mày râu tóc bạc,Tiên phong Đạo cốt.Những vị này đều có trong ḿnh vài chục năm tu luyện theo nhiều Trường phái,nhiều nhất là Mật tông và tu Thiền.
Đây là một sự tập hợp lớn nhất trong Lịch sử môn Phong thủy nhằm Khai thông một số Huyệt mạch quan trọng,dùng năng lượng của Huyệt mạch hóa giải những xung Huyệt,an bang,tế Thế,hóa giải những Thiên tai,Địa kiếp đang hoành hành.Khẩu hiệu cho Trận đồ là :CẦU CHO THIÊN HẠ THÁI B̀NH -QUỐC THÁI DÂN AN -CHÚNG SINH THOÁT KHỎI THIÊN TAI ĐỊA HỌA.
Sự vận chuyển kỳ diệu,siêu thường được được lập thành như một guồng máy tinh tuyệt do các đấng Chư Thiên điều chuyển.Các Nguyên căn Duyên giác trong sứ mệnh Đại đồng,thừa hành Thiên lệnh đang tập trung vào một khóa học đặc biệt để chuẩn trang cho cuộc HÀNH HÓA KHAI THÔNG HUYỆT MẠCH.Ở mỗi ĐỒ TRẬN ,nhằm tương quan ,ứng nhiệm nơi tự nhiên Địa linh,kịp tạo nguồn Linh trọng đại cho tất cả muôn nơi.
Cũng từ sự vận chuyển này chư Thiên đã báo tin trước tại ĐIỆN CHUẨN MẪU do một đồng tử tiếp Điển.Đức HỒNG QUÂN THƯỢNG TỔ ban truyền Thánh sắc mở khóa học chuẩn bị các Trận đồ giải khai Huyệt mạch THÁI HƯ và KỲ VÂN.Danh sách những người được chọn cũng được ban truyền.Đây là một cơ tuyển nên trong hơn 50 người đến dự học TRẬN ĐỒ ,sau khi dùng công lực của mình truyền giúp cho những người dự trận (Thực ra trận đồ chỉ sử dụng 20 người ),những người còn lại đã hoàn tất công việc của mình và trở về nhà.
Cùng lúc với sự truyền ban Thánh lệnh trên,một đồng tử cũng tiếp được Điển của đức HỒNG QUÂN LÃO TỔ ,giáng bút pháp ,vẽ các ĐỒ TRẬN.Một đồng tử khác tại ĐIỆN THÁI BẠCH cũng tiếp được chữ THIÊN và được biết đức LINH QUANG giảng LÝ ĐỒ TRẬN,cũng như dậy lập Trận và phá Trận.Cũng tại ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH hai đồng tử khác tiếp Điển giảng giải LÝ ĐỒ HÌNH THẾ TRẬN.Như vậy,ngoài 17 vị Linh căn trấn giữ 17 vị trí của Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát quái,một vị Trưởng lão có nội lực cao thâm nhất trấn giữ Trung cung.Vòng ngoài có thêm hai vị có nội công cực kỳ thâm hậu phụ trợ,tiếp sức bên ngoài.Tổng cộng có tất cả 20 vị Nguyên căn được chư Thiên tuyển chọn.
Trong những ngày tiếp theo vào tứ thời TÝ -NGỌ -MÃO -DẬU.các nguyên căn triển khai học các trận đồ :BẠCH KỲ BÁT MÔN,THIÊN CẤU TRẬN,HỒNG CẤU TRẬN,CHÂU TIỄN HỎA TRẬN,NGŨ HÀNH TRẬN,BÁT ĐỒ TRẬN,CỜ TAM TRẬN...và cuối cùng học thế trận Kỳ vĩ nhất là THIÊN ĐỒ TRẬN PHÁP.
Sự hiển hóa trên tinh thần Đại đồng càng rạng ngời trong tâm thức của mỗi Nguyên căn,ai nấy đều hăng say nghiên cứu ĐỒ TRẬN ,mà sự hội ngộ Nhân hiền lúc nào cũng ứng hợp trong cơ duyên và hiển lộ những phương diệu tinh tường do Cơ Thiên điểm chuyển.Mỗi Nguyên căn tuy ở những nơi khác nhau của Đất nước,nhiệm hành cũng khác nhau,nhưng chung sứ mệnh Đại đồng,nên trong sự vận hành lúc nào cũng mang đậm tình thương Nguyên lý.Ai cũng được tầm nhìn sâu sắc,cũng đạt Phẩm,đạt Duyên,đạt phần lý pháp có tầm cỡ đáng phục.Trên ý thức nhiệm hành,ai cũng tự quán thông và luôn luôn hòa chan Điển lực,thông cảm,thông tâm,không ngừng cho nhau như một gạch nối liền và luôn chuyển vận tạo thành từng vòng Linh Điển tinh thuần sáng diệu.
Cũng tại ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH ,một đồng tử chấp bút đức cha LINH QUANG hướng dẫn và điều chỉnh Trận đồ.Một đồng tử khác tiếp cơ bút đức KIM MẪU dạy kiểm điểm hành trang trên đường giác ngộ.ĐỨC THÁI THƯỢNG kiểm tra ĐỒ TRẬN theo lý đối thuận và nghịch của bản tứ CHÁNH VỊ VÀ TỨ PHỤ GIAI NGẪU.
Mỗi thế trận được các Linh căn tập dượt rất kỹ,từ hình thức đến phần lý pháp,ĐỒ TRẬN biến hóa khôn cùng của nguyên lý vận hành TIÊN THIÊN CHÁNH VỊ;Cũng như sự cực kỳ hiển hách ứng cảm trong mỗi nhân Duyên do vòng Hâu Thiên chiếu tỏa.
Càng về những ngày cuối kỳ luyện tập,mức độ áp lực càng tăng lên đối với từng người cụ thể.Có một số người do không chịu nổi sự tăng cường áp lực của Điển do chư Thiên vận hành tới phải hộc ra máu miệng.Tới những ngày cuối,khi thực hiện bày BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ có nhiều sự việc đáng ngạc nhiên xảy.dienbatn xin tường thuật chi tiết Trận pháp này để các bạn cung tham khảo.
Chắc các bạn chưa quên vị Trưởng lão mà 9 năm trước nhận lệnh của Cơ Thiên từ tay sư Tông,đi làm nhiệm vụ tối mật.Nay người đó đã về làm chủ Trận BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ này.Người đó đã trải qua không biết bao nhiêu chặng đường cực kỳ khó khăn,vượt HY MÃ LẠP SƠN,sang TÂY TẠNG (TRUNG QUÔC),Lào,đặt chân đến những vùng đất của biển Hồ TÔNG LÊ SÁP,vịnh Hạ long...Cùng về theo người đó có thêm một nhà sư rất trẻ nhưng thật dầy dạn Phong trần.
Tại ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH ,20 con người chúng tôi từ khắp nơi tụ lại,cùng thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng ,cao cả của chư Thiên giao phó.BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN bao gồm hai vòng trận Bát môn (Tiên Thiên và Hậu Thiên ).Mỗi một người ,tuỳ theo cung Mạng của mình mà Trấn giữ những cung nhất định.Vòng Bát quái ngoài cùng là Bát quái Tiên Thiên,chuyển vận thuận,vòng trong là Bát quái Hậu thiên chuyển vận nghịch chiều.Người đứng trấn Trung cung là một cụ già râu tóc bạc phơ,nhưng vô cùng tinh anh quắc thước.Ông cụ này vốn là chi phái TÂN CHIẾU MINH (Một chi phái có nguồn gốc từ Nhật bản ).Các Nguyên căn sau khi hành lễ ,bái Bàn thờ chư Thiên,bắt đầu về trấn giữ những cung mà mình đã nhận lãnh.Sau đó tất cả ngồi xuống tọa Thiền và cho vòng Châu Thiên luân chuyển.Mặc dù mỗi người có một Trường phái tu luyện khác nhau ,nhưng trong BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN yêu cầu tất cả phải vận công theo vòng ĐẠI ,TIỂU CHU THIÊN.Ngồi trong trận,bốn phía nhang đèn,trầm hương nghi ngút,ánh sáng rực rỡ người ta mới cảm thấy sự hào hùng của BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN.
Theo Điển chữ THIÊN dạy rằng
hần Vô vi tá trợ cho Trận đồ ,có hồng ân Linh điển của Đức HỒNG QUÂN THƯỢNG TỔ,đức LẠC LONG QUÂN PHỤ,đức HỒNG BÀNG TIÊN MẪU,đức QUAN ÂM NHƯ LAI,Chư vị BÁT BỘ THIÊN LONG,đức CHA LINH QUANG và CHƯ THỔ ĐỊA,THÀNH HOÀNG ÂN chuyển.Những vị này đứng ở ngoài Trận để tiếp sức và điều chuyển phần HỮU VI của trận pháp.
Khi bắt đầu ba hồi chuông ngân lên,một sự im lặng thật khó tả.Các nguyên căn cùng ngồi quay mặt vào trong Trung cung vận công và đồng loạt phát khí.Những ánh sáng lóe lên rực rỡ muôn sắc,cùng phóng vào Trung tâm BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN.Phản lực từ trung tâm của Trận pháp dội lại như những cơn cuồng phong,muốn xô bắn các nguyên căn văng đi.Nhưng chỉ một giây sau,BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN bắt đầu vận chuyển.Một chiếc bánh xe có vô vàn nan hoa ánh sáng từ tâm chuyển động quay tít.Khói của Trầm,nhang bị cuốn theo thành một cơn lốc xoáy ,bốc lên cao vút,tốc lên tận đỉnh của Điện thờ.Bên ngoài,những nguyên căn còn lại và người Chủ Trận vẫn tận lực phát công tiếp sức cho vòng trong.Lúc Trận đồ chưa chuyển động,người ta có cảm giác như toàn bộ khí bị dồn hết lên Huyệt Bách hội,cực kỳ ngột ngạt,máu như muốn trào ra họng,ra mũi.Nhưng khi BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN bắt đầu vận hành,một cảm giác lâng lâng,nhẹ bỗng ,xuất hiện,cả cơ thể như được nhẹ nhàng bốc lên và xoay tít theo Trận đồ.Trong vòng cuồng phong của Trận pháp đang vận chuyển,tất cả các Luân xa đều được Khai mở thông suốt,Thiên khí,Địa khí,Nhân khí ào ạt chẩy qua,trục tất cả những ô trọc của từng con người,như một dòng sông lớn rửa trôi tất cả những rác rưởi,cuốn đi.Một mùi hương thơm thật kỳ lạ,bỗng tỏa ra thơm phức từ Trung cung BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN.Từng đoàn các chư Phật,đem theo những tấm biển sơn son ,thếp vàng có hình thù và những dòng chữ rất lạ,những mâm ngũ quả đầy ắp đón chào.Tiếng nhạc lạ tai rất du dương thánh thót vang lên.BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN bắt đầu vận hành thông suốt.

XUẤT TRẬN.

1:30 ngày ../2/Giáp Thân,Thánh lệnh được ban truyền.Thánh lệnh được ban xuống theo Điển là khoảng 20 Linh phù có ký hiệu rất lạ mắt.Có một vài ký hiệu tương tự như Linh phù trong cuốn VẠN PHÁP QUY TÔNG (Mặc dù không hoàn tòan giống hẳn ).Tất cả các nguyên căn lục tục đem đồ đạc ra ba chiếc LAND CRURSER đã chờ sẵn trước ĐIỆN ĐÀI THÁI BẠCH.Đêm Thành phố hơi se se lạnh,đường phố vẫn lác đác có những chiếc xe sớm chở hàng vào Thành phố.Ba chiếc xe lướt êm ru chực chỉ Thành phố Vũng tầu.Khoảng 4 giờ sáng ,những chiếc xe bắt đầu leo núi.Con đường mà Sư Tông làm bao nhiêu năm nay,tuy lớn nhưng là với khách bộ hành,còn với những chiếc xe Việt dã này,tuy máy rất khỏe,nhưng vẫn cứ nhẩy lên như ngựa phi.Đi khoảng hơn 2Km đường núi thì hết đường,xuống xe bộ hành.Nơi này còn cách Chùa của Sư Tông gần 1 Km nữa.
Tới một hòn đá lớn ven đường,mọi người sắp xếp vào đội hình quanh tảng đá và bắt đầu làm lễ bái Sơn thần -Thổ địa.Mọi người lúc này đều đã đọc CHÚ HỘ THÂN tự bảo vệ mình.Sau đó cả Đoàn tiến lên,theo chân của vị Trưởng Trận,vừa đi vừa vẽ Linh phù trên mặt đất.Một người trong Đoàn cũng vừa đi vừa rải TRO LINH PHÙ và BẠCH THỦY LINH PHÙ xuống đất dọc theo đường đi.Lên tới chùa,Sư Tông đang mệt nặng vẫn cố ra tiếp Đoàn của chúng tôi.Đoàn theo sự chỉ dẫn của Sư Tông,bước vào chính Điện làm lễ và sau đó nghỉ ngơi chờ đến giờ G.
GIỜ G ĐÃ ĐIỂM.
Đúng 5 giờ,cả Đoàn lại tiếp tục lên núi.Từ chùa của Sư Tông lên tới vị trí Huyệt còn khoảng 500 m.Khi cả đoàn lên tới nơi ,không khí xung quanh vị trí Huyệt tỏa ra thật ấm và như xua đi tất cả những mệt mỏi của cuộc hành trình.Khu vực Huyệt là khoảng lưng chừng trái núi,ngày xưa sư Tông đã khảo sát và đánh dấu.Và như dienbatn đã viết một lần,tại đây cũng có cột Mốc của bên Địa chính xây kiên cố bằng Xi măng, chỉ cách vị trí Huyệt chừng hơn chục mét.Cả đoàn lập tức bày BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN như đã được tập dượt.Mọi người lần lượt cắm cờ Thất tinh tại những vị trí đã xác định.Trầm,nhang,đèn đã được đốt lên,mùi Trầm bốc lên ngào ngạt như xua đi cái u tĩnh của ngọn núi lúc vừa sáng.
Khi BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN vừa được bày xong ,mọi người vừa ngồi xuống Thiền tịnh ,thì một việc lạ xẩy ra.Một Nguyên căn,đang tập trung Thiền tịnh bỗng dứng bật dậy,ngửa người ra sau,mắt trợn ngược lên.Nếu không có sự cứu giúp kịp thời của những người bên cạnh thì người này sẽ lăn khoảng vài trăm mét xuống dưới biển ngay sau chỗ ngồi.Đầu tiên chúng tôi tưởng người này bị trúng gió, nhưng không phải.Chỉ khoảng ít phút sau,người đó bỗng mở miệng nói một tràng thứ tiếng nói lạ tai.Mọi người giật mình và biết rằng đó là một Vị nào đó tá xác để truyền lệnh.Người này nói khoảng 20 phút bằng một thứ tiếng rất dịu dàng,có cách phát âm hao hao giống người Chàm,nhưng từ thì lại có vẻ giống như tiếng Pháp.Trong khi nói,hai tay người đó liên tục bắt Quyết (Ấn) và chuyển qua loại Quyết khác thật nhanh.Là một người đã từng học qua nhiều môn phái cần sử dụng Quyết,dienbatn không khỏi ngạc nhiên khâm phục vì cách ra Quyết nhanh và đẹp như vậy.Sau khi chuyển qua khoảng trên 30 loại Quyết, người đó bất thần nói tiếng Việt bằng chất giọng như người ngoại Quốc nói tiếng Việt và dùng danh từ của miền Bắc.Đại ý người đó nói rằng :Muốn giải khai Huyệt đạo này ,phải có Thánh chỉ của Ngọc Hoàng Thượng Đế,và Huyệt này là Huyệt cực âm nên cần phải tiến hành vào giờ cực Dương,giờ này chưa đúng.
Vị Chủ Trận lập tức mang Sắc lệnh đã nhận được qua tiếp Điển ra ,người đó lập tức cầm lấy,dò xem từng nét Linh phù trong Sắc lệnh,mãi rồi mới thấy vị đó từ từ gật đầu và mỉm cười.Sau đó người đó thăng,vị Nguyên căn lại trở về trạng thái bình thường ,nhưng cái mặt ngơ ngơ ,hỏi có biết gì vừa xẩy ra không,người đó nói là không biết gì cả.dienbatn có lẽ suốt đời không quên được giọng nói dịu dàng và cách nói hấp dẫn đến như vậy.Cứ tưởng tượng lại cách bắt Ấn của người đó thì kể cả những người Thầy rất giỏi của dienbatn cũng không thể làm được.
BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN tạm thời dừng lại đợi cho đúng Ngọ mới lại tiếp tục.Trong thời gian nghỉ chờ đợi này,một nguyên căn lại tiếp được Điển.Theo như Điển cho biết,vị vừa hạ Phàm đó chính là BÀ CHÚA XỨ.Vâng,người đó chính là BÀ CHÚA XỨ có nhiệm vụ kiểm tra và nhắc nhở những Thiên tinh Nguyên căn làm cho đúng với pháp của THIÊN ĐỒ TRẬN.
NGỌ THỜI :Đúng giờ Ngọ,tất cả chúng tôi lại sẵn sàng xung quanh vị trí Huyệt.Nhờ có sự chuẩn bị từ trước nên lần này mọi việc được tiến hành khá suông sẻ.Những lá cờ Thất tinh bay phần phật trong gió,đèn,nhang,trầm hương được đốt lên thơm ngào ngạt.Lần này,vị Trưởng đoàn cho đốt thêm một số loại Linh phù và cả Sắc lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế đã tiếp nhận được qua Điển.
Sau một hồi chuông,Vị tưởng Đoàn, tay cầm bó nhang,chắp tay theo Hiệp Chưởng Ấn, khấn lậy các chư thiên như sau :
"NAM MÔ PHẬT- NAM MÔ PHÁP- NAM MÔ TĂNG.
NAM MÔ HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ- NGỌC HOÀNG TỨ PHƯỚC HỰU TỘI ĐẠI THIÊN TÔN.
NAM MÔ DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC ĐẠI TỪ TÔN.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

NAM MÔ Đức HỒNG QUÂN LÃO TỔ.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG CẢM ỨNG CHỨNG MINH.
NAM MÔ DI LẶC THIÊN TÔN KHAI MÔN CHUYỂN PHÁP.
NAM MÔ LẠC LONG QUÂN PHỤ- HỒNG BÀNG TIÊN MẪU- QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG- TRĂM QUAN THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN CẢM ỨNG CHỨNG MINH....".
Tất cả đều quỳ xuống lạy tạ và theo thứ tự của từng người về các vị trí đã được phân công trong quá trình luyện tập.
Một hồi chuông nữa lại dóng giả vang lên,tất cả đều bước vào Thiền định và khởi động vòng Đại Châu Thiên. Lúc này không gian như ngừng chuyển động, mọi âm thanh như tắt hẳn, chỉ có khói của nhang cuồn cuộn bốc lên.Một hồi chuông nữa vang lên,tất cả các Thiên tinh đồng loạt phát công vào Trung cung,các trận cuồng phong lập tức nổi lên.Áp lực như những quả núi đè xuống muốn ngạt thở, máu huyết như ngừng chảy trong thân thể.Khi vòng Đại Châu Thiên bắt đầu chuyển động nhịp nhàng, các Thiên tinh đã liên kết trong một vùng hào quang rực rỡ hình bánh xe ánh sáng. Tất cả chìm vào hư vô,tất cả chỉ còn thấy sự quay cuồng lúc thuận,lúc nghịch theo sự điều khiển của các đấng Chư Thiên.
Thời gian cứ chầm chậm trôi đi, trong vòng Trận pháp hầu như chúng tôi không biết mình đã làm những gì,chỉ biết qua những cảm giác khi đưa tay kiết ấn một cách vô thức, như có sự điều khiển từ xa một cách huyền huyền,ảo ảo.Dòng năng lượng trong người lúc này không chuyển động theo vòng Đại Châu Thiên của từng người nữa mà liên kết tất cả mọi người và năng lương do vòng quay của bánh xe ánh sáng phát ra.Mơ ảo, mơ ảo....Tất cả như chìm sâu vào một chiều không gian thứ tư, không có quá khứ,hiện tại,tương lại...Tất cả chỉ còn lại một điểm duy nhất đang xoay theo BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN....
Tỉnh dậy,chúng tôi cùng nhau xả Thiền bằng cách chà sát hai bàn tay vào nhau cho nóng lên rồi chà vào các vùng có Huyệt trên đầu,tay,chân và khắp thân thể.Theo sự hướng dẫn của Trưởng đoàn, từng người dùng mu bàn tay dập tắt lò lửa Tam muội ở sau lưng, ngang vùng thắt lưng.
Ngước nhìn lên bầu Trời xanh thăm thẳm ở phía trên đầu, chúng tôi chỉ thấy một cụm mây màu xám đang tụ lại ở phía trên không trung của Huyệt vị.Một mùi thơm rất lạ đang lan tỏa dần dần khắp nơi,thân thể cảm thấy như nhẹ bỗng, tưởng có thể bay lên được.
Hoàng hôn đã dần dần đổ xuống đỉnh núi,xa xa những dãy núi đã tím dần.Đoàn chúng tôi lục tục thu dọn đồ đạc xuống núi.
Ngồi trong xe xuống núi,dienbatn chợt nhớ một câu thơ,xin cùng chia xẻ với các bạn.
"Hữu hình lai hạ chủng,
Nhân Địa Hỏa hoàng sanh,
Vô tình diệt vô chủng,
Vô tình diệt vô sanh ".

PHẦN THỨ HAI : TRÊN NGỌN KỲ VÂN.

" Việt nam xuất hiện hạ Ngươn kỳ,
Thánh Tổ lâm phàm hiệp ngũ chi.
Ba tiếng sấm vang khai Địa Huyệt,
Bảy nguồn Thủy vận tạo sơn kỳ.
Rồng- Mây- Phật hội phong Thần mạng,
Sen nở Long hoa Thánh thể quy .
Ơi hỡi Lạc Hồng nền bích ngọc,
Vững lòng Chúa ẩn hạnh duyên kỳ."


(Đây là bài Điển nhận được khi xây CAO ĐÀI TỰ trên Cấm sơn cách đây trên 70 năm ).
Chắc các bạn còn nhớ núi Kỳ vân đã nêu ở phần trên.Đây là một dải núi cao vút nằm ngay sát bờ biển Long hải.Khi đoàn xe chúng tôi đi qua,hai bên đường hoa anh đào đang mùa nở rộ.Những nhánh anh đào trắng,tím như những bàn tay vẫy chào kéo dài tới hơn 5 Km.Mùa xuân nên những dẫy núi xanh ngắt,cây cối vô cùng xanh tốt.Đường lên núi quanh quanh uốn lượn,phong cảnh thực là đẹp đến say lòng.
Đoàn xe chạy theo những triền núi ngoằn nghèo với độ dốc tương đối lớn.Xung quanh, những rừng cây xanh rì trải dài tít tắp.Tới chân của ngọn núi KY VÂN, chúng tôi gửi xe và bắt đầu chặng leo núi khá vất vả.Từ con đường dưới chân núi, sau khi đi được một chặng dài ,con đường được chia ra làm hai phía: Một đường dẫn lên KỲ VÂN ĐỘNG, một đường đi lên KỲ VÂN ĐIỆN. Chúng tôi rẽ vào ngả đường lên KỲ VÂN ĐIỆN trước. Một con đường mòn xuyên qua những rừng cây um tùm,rậm rạp,chạy quanh co đi lên phía đỉnh núi. Khí hậu ở bên này có vẻ tốt hơn bên đỉnh Thái hư. Tại khu vực núi này có nước chảy róc rách theo các con suối nhỏ.Rừng cây như có vẻ ẩm ướt và xanh tốt hơn. Không khí bên này xem chừng có vẻ mát mẻ hơn. Chúng tôi đi bộ khoảng chừng 3 Km theo lối đường mòn thì tới khu vực của KỲ VÂN ĐỘNG. Trước khi tới Động, có một khu vực bao gồm nhiều khối đá cực lớn, nằm theo những hình dáng rất kỳ lạ,tạo thành một cái mái che khổng lồ,ở phía dưới thấy có bàn thờ những vị Thần Tà (đá). Đoàn chúng tôi dừng lại nghỉ chân và làm lễ thỉnh Long thần -Thổ Địa. Chúng tôi đốt nhang,cẩn cáo với Long thần -Thổ Địa nhiệm vụ của Đoàn.Sau đó vị Trưởng Đoàn dùng Bạch thủy Linh phù rửa chân trái cho nam và chân phải cho nữ. dienbatn cũng chẳng hiểu điều đó có nghĩa gì,nhưng không tiện hỏi.
Sau đó chúng tôi lại leo tiếp tục lên tới Điện.Nói là Điện cho có vẻ quy mô,thực ra KỲ VÂN ĐIỆN chỉ là vài căn nhà lá do Đạo Cao đài lập nên. Cơ sở vật chất còn khá đơn sơ nhưng thái độ của vị Sư Trụ trì khi thấy Đoàn chúng tôi vô cùng niềm nở.Tại nơi đây cũng có Đoàn hành hương của một Thánh thất dưới miền Tây mới lên.
Nét nổi bật nhất của KỲ VÂN ĐIỆN là một Kỳ đài được xây dựng khá công phu,nằm trên một hòn đá khổng lồ,từ xa trông có dáng như một con tầu đang lướt sóng trên Đại dương xanh.Đứng từ đỉnh Kỳ đài, ta có thể quan sát cả một vùng rộng lớn.Phía xa tít ngoài kia là biển Long hải đang tung bọt trắng xóa.Trên Kỳ đài,gió lồng lộng thổi, như xua đi bao sự mệt mỏi của cả buổi leo núi.Đó đây thấp thoáng những bày Khỉ vô cùng bạo dạn,chạy ra khỏi chỗ núp,giật bánh mì của khách rồi ù té chạy.
Cũng đứng ở Kỳ đài,dienbatn phát hiện ra một điều hết sức lý thú :Tất cả các hòn đá đều có dáng như những cây bút chĩa thẳng lên trời xanh. Phía bên này ngọn núi,theo đánh giá của dienbatn thì chắc không có sự kết Huyệt,bởi nơi kết Huyệt phải là nơi tàng phong -Thủy tụ .Phía bên này ngọn núi trông ra biển nhưng Minh đường rất chật hẹp,mặt khác lại khộng đủ tay Long,tay Hổ,gió lại lồng lộng thổi.Tính hỏi vị Trưởng Đoàn, nhưng thấy ảnh đang đăm chiêu nên đành thôi.
Cả Đoàn nghỉ ăn cơm trưa tại KỲ VÂN ĐIỆN. Khoảng đầu giờ Mùi,cả Đoàn lại cất bước đổi hướng sang phía KỲ VÂN ĐỘNG.Khoảng cách giữa hai điểm khoảng 2 Km

Cả Đoàn nghỉ ăn cơm trưa tại KỲ VÂN ĐIỆN. Khoảng đầu giờ Mùi,cả Đoàn lại cất bước đổi hướng sang phía KỲ VÂN ĐỘNG.Khoảng cách giữa hai điểm khoảng 2 Km đường rừng và đi lên cao hơn nữa.KỲ VÂN ĐỘNG là một loạt hang động rất lớn và có những động có hình thù thật là kỳ lạ. Trong một hang động có hình thù kỳ lạ nhất,bao gồm rất nhiều cấp, người ta đã tu tạo lại và lập thành những bàn thờ bằng đá Thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ.Một phiến đá cực lớn nằm nghiêng nghiêng tạo thành một chiếc mái che cho toàn bộ hang động này.Tại hang này người ta thờ các bà Chúa Ngũ hành,các bà chúa Tiên,Chúa Ngàn...Những người trông coi khu vực này là những người thuộc hàng Cư sĩ và thường là có tới vài ba Đời trông coi hang động.Vào trong những hang như thế này người ta cảm nhận được hơi lạnh của đá,độ ẩm của núi và không khí hư ảo của Thiên nhiên kỳ vĩ.

Tuy nhiên theo nhận xét của dienbatn,cả KỲ VÂN ĐIỆN và KỲ VÂN ĐỘNG đều nằm cùng phía nhìn ra biển và như đã phân tích ở trên, phía này không thể có Huyệt kết được.

Trong dặng núi này,nếu có Huyệt kết phải nằm ở phía bên kia của dãy núi.Khi đứng từ đỉnh của KỲ VÂN ĐIỆN nhìn kỹ hình thể của toàn bộ dẫy núi chạy dài theo trục Tây Bắc - Đông Nam, nhìn qua phía bên kia của sườn núi,người ta thông thấy rõ rệt hình dáng của tay Long Tay hổ,và trước mặt là một Minh đường vô cùng rộng rãi trải dài hết cả một vùng đồng bằng xa tít ngoài kia. Một thung lũng đẹp đẽ nằm lặng lẽ giữa hai triền núi, thấp thoáng những căn nhà ẩn hiện sau những tàn cây xanh um.Tại vùng trung tâm của Thung lũng, tự nhiên nổi lên một gò đất cao hơn xung quanh chừng hơn một thước,cây cối mọc xanh um.Bốn xung quanh cuộc đất đó có nhiều đường gân nổi cao lên và chạy uốn lượn xung quanh. Một con suối nhỏ, nước trong vắt lặng lẽ chẩy như muốm lưu luyến ôm lấy cuộc đất đó.Đây chính là một kiểu đất LA THÀNH VIÊN CỤC kiểu mẫu theo thuật PHONG THỦY.
Táng kinh viết: " Cát Địa thường là nơi bằng phẳng ,rộng rãi,cát Địa thường là nơi có chi Long bắt đầu duỗi thân,cát Địa cũng tùy theo Linh khí của chi Long mà dàn trải,nơi Chi Long đến,cũng là chỗ cát Địa kết tụ nhiều Tinh khí. Phép quan sát Chi Long là xem Long mạch có nhấp nhô uyển chuyển,lộ rõ sự huyền diệu hay không. Nếu có cát khí, thì cát Địa sẽ nổi lên theo nó. Chi Long chứa đựng Tinh khí sung mãn, sông nước cũng đi theo bên cạnh nó. Khí thế của nó rất thuận đạt, Sơn thế rất linh động."
Dương công viết: "Địa thế xung quanh Chi Long giống như một vùng nước mênh mông cuồn cuộn, nối liền Trời với Đất, chi Long uốn mình ngoằn ngoèo, có lúc chỉ nổi lên như một sợi chỉ mảnh có lúc chìm đi đứt đoạn, rồi lại nổi lên.Ở phía trước sẽ gặp sự hội lưu của Thủy thành, nhất định phải có cách định địa Huyệt phân minh.Chi Long từ chỗ cao hội tụ đến chỗ bằng phẳng ,phân chi của Sa và Thủy cũng tưưng nghênh ở hai bên, từ phía trước mà tới.".
Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM đã nói về KỲ VÂN huyệt như sau :
"Bắc hữu Kim Thành tráng
Nam tọa Ngọc Bích thành".

Ngọc bích Thành chính là dãy núi Kỳ vân tại Bà rịa .Đây là một cực Dương Huyệt.
Đoàn chúng tôi di chuyển xuống Thung lũng ở phía bên kia dẫy núi, nơi có sự kết Huyệt của dãy núi KỲ VÂN. Đây là một thung lũng có diện tích khoảng vài chục Km2. Tay long tay hổ rất cân phân và chụm đầu vào nhau rất đẹp.Sau một hồi thảo luận về tính chất Ngũ hành của KỲ VÂN HUYỆT, vị Trưởng Đoàn quyết định thời gian và phương thức lập trận tại Địa Huyệt này.Bởi đây là một cực Dương Huyệt nên thời gian lập trận phải là giờ âm ,do vậy vị Trưởng Đoàn quyết định tới giờ Tý mới thực hiện trận pháp.Mặt khác , cũng vì là Dương Huyệt nên thế trận trong trường hợp này không sử dụng BÁT QUÁI THIÊN ĐỒ TRẬN như bên đỉnh Thái hư nữa mà thực hiện BẠCH KỲ BÁT MÔN TRẬN.
Cũng theo Điển chữ Thiên dạy,trận pháp này phần Vô vi tá trợ cho Trận đồ có phần Hồng ân Linh điển của ĐỨC HỒNG QUÂN THƯỢNG TỔ,ĐỨC LẠC LONG QUÂN PHỤ,ĐỨC HỒNG BÀNG TIÊN MẪU,ĐỨC QUAN ÂM NHƯ LAI,chư vị BÁT BỘ THIÊN LONG, đức cha LINH QUANG VÀ CHƯ VỊ thổ địa- thành hoàng BỔN CẢNH ân chuyển.
BÁT BẠCH KỲ TRẬN sử dụng nơi đây hầu thông sanh KỲ VÂN HUYỆT ,sử dụng năng lượng được giải phóng của Địa Huyệt để giải khai các chướng ngại đã tạo nên Thiên tai - Địa họa đang hoành hành khắp nơi trên Địa cầu này.
Trận đồ này chỉ sử dụng tám vị nguyên căn có công lực cao nhất, chia ra trấn giữ tám cung CÀN,KHẢM,CẤN, CHẤN, TỐN, LY, KHÔN ,ĐOÀI. Tất cả những người còn lại,đứng ở vòng ngoài của Trận phát công trợ giúp cho những người bên trong trận. Trận đồ này được xây dựng trên nguyên lý BẠCH KỲ CHÁNH VỊ,biến khắc thành sanh, biến sanh thành thuần. BẠCH KỲ BÁT MÔN THIÊN TIÊN CHÁNH VỊ điều chuyển hoà khí anh lành ,đượm nhuần khắp nhân gian,còn có tác dụng khai tâm ,điểm ngộ cho các Âm binh,hồn oan,phách lạc đều được hồng ân mà chuyển kiếp.
Tý thời :BẠCH KỲ BÁT MÔN TIÊN THIÊN CHÁNH VỊ được lập tại vùng có Địa Huyệt của Kỳ vân.Vì đây là cực Dương Huyệt nên giờ khai mở trận là giờ âm. Ta cũng cần chú ý đến một điều khác lạ so với cách mở Huyệt của phép Tý- Ngọ lưu trú hay Linh quy Bát pháp.Theo cách khai mở Huyệt của những phương pháp này thi Huyệt Dương phải mở vào giờ Dương,Huyệt âm mở vào giờ âm.Như vậy tại đây có sự đảo ngược giữa thời gian mở Địa Huyệt và Nhân Huyệt.
BẠCH KỲ BÁT MÔN THIÊN TIÊN CHÁNH VỊ được thành lập trên cơ sở đồ hình Thiên tiên bát quái cùng các trực phù,trực sử ứng với các phương .Tại mỗi vị trí ứng với các cung có cắm những Bạch kỳ trên có vẽ những Linh phù theo sự ban truyền của Điển đã tiếp nhận được.Người Trưởng Đoàn tay cầm đăng quang và Kỳ ân triển khai lệnh chỉ định thế trận, trong tức khắc trận đồ được định hình và mở cửa trận theo hướng Đông Nam. Linh kỳ bay phấp phới theo nguồn Phong cấu từ hướng Đông Nam thổi về Tây Bắc.Bấy giờ phần chơn giác của tám nguyên căn đồng tụ phàm họa Phù,thỉnh Ấn đồng lập trận.
Sau đó BÁT BỘ THIÊN LONG giáng hạ.Sau khi chư vị BÁT BỘ THIÊN LONG hành lễ Thánh ca Quốc Đạo được ứng nơi Liên hoàn thì ĐỨC LẠC LONG QUÂN điển ân cho khắp nơi được thọ phần Hồng ân Thiên phúc.
Khi BẠCH KỲ BÁT MÔN THIÊN TIÊN CHÁNH VỊ bắt đầu được khởi động ,các nguyên căn thấy ánh Hồng quang chiếu sáng rực cả một vùng Trời,các Đấng Thiêng liêng ngự và các Chư BÁT BỘ THIÊN LONG đang chuyển vận,xoay vần Khí Điển phóng các xung Khí vào trung cung Huyệt vị.ĐỨC MẸ HỒNG BÀNG hiện về tán thán công đức cuộc hoằng hóa độ Sinh của Đoàn.ĐỨC LẠC LONG QUÂN PHỤ đang hiện ra trên không.Tất cả các nguyên căn đều thấy rất rõ ràng ĐỨC LẠC LONG QUÂN PHỤ đang hiện ra trên không,Y phục ,Triều nghi rất phi phong trong vầng hồng quang và điểm mật chỉ cho riêng mình.ĐỨC LẠC LONG QUÂN PHỤ đang ngự trên Kim Long, mặc áo Hoàng bào mầu vàng, đầu đội Mão Triều nghi,sắc diện phương phi,râu trắng dài quá rốn,Kim quang tỏa chiếu sáng ngời.Vầng Kim quang hiện trên đầu Kim Long,các vẩy Rồng lấp lánh.Kim Long đang cất đầu trên biển,mặt quay về phía Đông Bắc.Cùng lúc đó các Nguyên căn lại thấy có ánh hào quang chiếu lấp lánh trên cao.ĐỨC QUAN ÂM NAM HẢI ngự trên mây.Cả Đoàn nhất tâm đảnh lễ các Đấng.
5 giờ BẠCH KỲ BÁT MÔN THIÊN TIÊN CHÁNH VỊ đã thực hiện xong.Huyền môn khai mở,chơn Điển toà ngời,Huyệt đạo đều thông,Khí Điển chuyển cùng khắp Trời.
Có thơ rằng :
"Từ việc lý siêu điểm khắp nơi,
Cơ Thiên vận ứng hiệp kỳ thời,
Vồ hư - Tông ẩn do Cơ cuộc,
Đảo khỉ đồ sinh mặc sự đời.
Nhược Thủy - Môn quan bình giải thoát,
Nhành dương Thiên lộ chuyển hành khơi.
Mở đường, thông hướng nhiều Duyên mới,
Ánh Pháp huyền vi chiếu rạng ngời. "

Qua đàn Siêu Thiên trên, ĐỨC MẸ còn điển hồng ân cho tất cả các Nhiệm hành đã được hoàn thành trong chuyến Hành hóa Khai thông Đồ trận, và báo tin sẽ lập nhiều Cơ mật nhiệm cho các Liên chi Hòa phái để kịp vận chuyển Đại đồng.
Đoàn Hành hóa Khai thông Đồ trận do sự điều chuyển của Cơ Thiên được ứng trong các nguồn Điển của nhiều Đồng tử ở nhiều nơi,nhiều cơ Đạo khác nhau đang cùng trên bước đường vận hành.Điều đó cũng nói lên các Lý Điển được đồng thông với nhau qua ý thức tình thương Đại đồng Nguyên Lý đang thời khai triển rạng rỡ khắp muôn nơi.
Kết quả cuộc vận hành khai thông Trận đồ là mở cửa sự Liên giao rộng cùng Ngũ chi Tam giáo toàn khắp Ngũ châu Thế giới.Lấy HOA- SEN- THÀNH làm Huyệt mở từ Nam ra Bắc đã được khai thông từ những cuộc Hành hóa trước để kết hợp chuyến đi Hành hóa này khai thông những Huyệt mạch từ Đông sang Tây mà Trung điểm là KIM THÀNH HUYỆT càng thêm sáng rực hào quang Địa linh- Nhân kiệt.
Vậy có thơ rằng :
"Đại đồng khai triển hội quần Tiên,
Chơn lý bừng soi ánh diệu huyền.
Hòa Phái trong cơ thông trí Pháp,
Liên chi các Giáo ứng Tâm nguyền.
Căn Duyên điểm hóa gương lưu để,
Sứ mạng Hoằng dương Sử chép biên.
Hiệp thể Linh quy đồng tiến hóa,
HOA- SEN- THÀNH rạng Pháp tâm truyền"
Sắc - Sắc -Không- không- Thực hư - Hư thực cảnh Trần tuỳ Duyên."PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN ".dienbatn xin kết thúc bài viết tại nơi đây. Xin tặng các bạn những câu tụng sau thay cho lời chào :
"Xin gọi thức người mê muội khổ,
Nhớ cội nguồn Thủy Tổ Ông Cha.
Trùng trùng ,điệp điệp bao la,
Trời Nam cẩm tú nguy nga tạo thành.
Trải nhiều đoạn tương tranh thống khổ
Bốn ngàn năm Quốc Tổ lưu truyền,
Thạnh suy bĩ thái,loạn yên,
Cũng còn giữ vẹn mối giềng Lạc Long.
Nòi giống của Ông Cha tuấn kiệt,
Nhân nghĩa cao Khí tiết đại hùng.
Nhiệt thành hiền hiếu bao dung,
Nên chi Sắc điệp Kim cung đứng đầu.
Ngày quả Đất thọ câu hủy Thế.
Luật tự nhiên Thượng Đế định rồi,
Tuy là nhược tiểu con tôi,
Ngày sau Vạn Quốc vị ngôi Chủ quyền.
Trước Long Án hương nguyền,khói tỏa,
Quyện nên hình cao cả Thần thông.
Tử sanh cũng lớp bụi hồng
Xa vòng ác trược giữ lòng thanh cao.
Xin các đấng Kiệt hào Thần Thánh,
Thức tỉnh Đời nẻo chánh lần qua.
Chẳng còn Nam - Bắc cách xa,
Đồng bào chủng tộc hiệp hòa thương nhau.
Dứt khổ nghiệp binh đao chia rẽ.
Cùng nhìn nhau một MẸ HỒNG BÀNG..."


Ngày Sư Tông Nhập diệt.
Xin theo dõi tiếp BÀI 35. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *