GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 12.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) – Tiếp theo.
1/ TƯ LIỆU LỊCH SỬ .
2/ KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵).
3/ THỬ TÌM LẠI PHÂN KIM MỘ VUA TỰ ĐỨC.
Như đã viết tại phần trước : “Tương truyền rằng, khi vua chết, đoàn quân đưa tang vua đi thuyền xuôi hồ Lưu Khiêm rồi vào đến đây thì đào một đường hầm xuống thẳng huyệt đạo. Họ chôn cất thi hài vua ở một vị trí bí mật, xong thì lấp lại bằng đá thanh và công trình có được hình dáng bề ngoài như chúng ta thấy. Sau đó thì những người đưa tang này không bao giờ trở ra nữa. Và bí mật về vị trí chôn thi hài của vua đến nay vẫn còn là một ẩn số. Một số người cho rằng chỉ có hoàng tử thân tín của vua biết, nhưng thực hư thế nào đến nay vẫn chưa hề được hé mở.
Có một điều đặt biệt là không phải riêng gì vua Tự Đức mới chọn cách mộ táng bí mật như vậy. Trong hầu hết các lăng mộ của các vị vua khác trong triều Nguyễn, vị trí chôn thi hài của nhà vua cũng được giữ bí mật. Lí do thì có rất nhiều. Xuất phát từ niềm tin vua vẫn tiếp tục sống và hưởng thụ phú quý ở một thế giới khác, người ta thường chôn cùng thi hài của vua những tài sản vàng ngọc và châu báu quý giá. Vì thế mộ vua sẽ dễ trở thành mục tiêu của những tên đào trộm mộ.
Bên cạnh nguyên nhân này, mộ vua cần được giữ bí mật vì một căn nguyên sâu xa nữa, đó là tránh sự trả thù. Để hiểu thêm về điều này thì chúng ta phải quay ngược về quá khứ để tìm hiểu mối thâm thù giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn – tức vua Quang Trung (Nguyễn Huệ).
Lúc bấy giờ khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thành công, vua Quang Trung lên ngôi nhưng vẫn chưa hoàn toàn yên tâm về cơ đồ mới được gây dựng của mình. Ông muốn triệt tiêu tận gốc mầm mống phục hưng của dòng họ chúa Nguyễn, bèn cho người đi tìm các phần mộ của các vị chúa Nguyễn từ đời Nguyễn Hoàng trở đi và cho đào tung hài cốt lên, xử trảm hài cốt và mỗi phần cho vứt mỗi nơi. Ông cho rằng làm như vậy để từ nay sự hưng thịnh của con cháu của chúa Nguyễn không bao giờ khôi phục được nữa.
Sau này, khi Nguyễn Ánh đánh bại triều đình Tây Sơn và lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, ông cũng đã cho quân lính truy tìm và khai quật mộ vua Quang Trung và đã trả thù cho tổ tiên của mình bằng đúng cách đó. Gia Long nói rằng: ” Ta vì chín đời mà trả thù.” Và có lẽ, chính mối thù này đã là một kinh nghiệm đau thương mà các vua nhà Nguyễn không bao giờ muốn lập lại.
Vì thế, khi xây lăng mộ, vị trí thi hài của nhà vua luôn được giữ bí mật. Tất nhiên, đây chỉ là một câu chuyện bên lề lịch sử , còn thực hư như thế nào thì trước nay lịch sử luôn có những dị bản. Và nếu quý khách muốn tìm hiểu thêm, thì tôi chắc chắn rằng còn có rất nhiều điều thú vị chưa được hé mở đằng sau những lăng mộ như thế này.”
Tuy nhiên bằng những mẩu tư liệu mà sử sách còn để lại , kết hợp với những kiến thức về Phong Thủy , dienbatn thử tìm lại những tính toán về phân kim mộ của Vua Tự Đức của các nhà Địa Lý Phong thủy ngày trước. Dù sao đây cũng chỉ là những giả thuyết , mong rằng sau này sẽ tìm được những tư liệu chính xác , ngõ hầu giúp cho việc nghiên cứu những kiến thức về Phong thủy Âm trạch được rõ hơn.
Trước hết ta căn cứ vào những dòng chữ của chính Vua Tự Đức viết về khu mộ của mình được ghi tại Bia Khiêm Cung Ký - Khiêm Lăng (lăng Hoàng đế Tự Đức). Nội dung văn bia không chỉ ghi lại tâm tư của một vị hoàng đế đang trong tình trạng “lực bất tòng tâm” trước nhiều thử thách và sự đổi thay của vận mệnh đất nước, mà còn cung cấp những thông tin cụ thể về hình thế cảnh quan phong thủy xung quanh khu vực lăng mộ của nhà vua :
“Thực lòng ta sợ một mai kia bỗng đuối sức mà không được như loài cáo thì quả là hổ thẹn, nên bèn sai quan thái sứ chuẩn bị xem đất, được chỗ đất rộng ở làng Dương Xuân thượng, đình thần sau khi xem xét lại cũng cho là xứng đáng. Bởi vì theo các nhà thuật sĩ mà làm thế, chứ với ta ta đâu quan tâm đến. Lại cho rằng năm ấy là năm Giáp Tý, tháng ấy là tháng Bính Tý đều thích hợp với việc thi công, ta đã suy nghĩ rồi làm theo. Rồi mỗi người một việc, ai lo việc nấy, cố gắng hết sức, chỗ đáng cao đắp cho cao, nơi đáng thấp đào cho thấp, mở mang đo đạc, chặt phá tảng đá lùm cây, rồi thành trì, cung điện, lầu gác, đình viện, nhà mát, hành lang, hồ đảo… dần dần hiện ra đúng vị trí và xứng hợp với nhau. Chính giữa là ngôi nhà vĩnh viễn của ta, xây theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, không xây lăng đắp nấm, chỉ dành một đám đất bằng, làm tường thấp, ngày sau chắc bắt chước Bá Lăng (22) dùng ngói để lợp.
Những mạch núi chạy từ xa tới gần gọi là Dẫn khiêm, Lao khiêm, Đạo khiêm, Long khiêm, Cư khiêm, Lý khiêm. Gò bên phải có tường bao quanh, trổ một cái cửa có lầu gọi là Khiêm cung môn. Điện phía trường gọi là Hòa khiêm, là nơi thờ phụng hương khói về sau; điện phía sau gọi là Lương khiêm là nơi nghỉ ngơi vui chơi. Phía đông của điện ấy là Minh khiêm đường dùng làm nơi nghe tấu nhạc, phía tây là Ôn khiêm đường dùng làm nơi cất giữ đồ ngự phục. Trong và ngoài cửa cung dựng bốn ngôi nhà ngang gọi là Công khiêm, Cung khiêm, Lễ khiêm và Pháp khiêm, là chỗ dành cho các quan túc trực. Sau hai điện ấy, dựng bốn viện gọi là Tùng khiêm, Dung khiêm, Y khiêm và Trì khiêm, là nơi ở của các phi tần theo hầu. Tiếp phía sau điện có một cái gác nhỏ gọi là Ích khiêm, tuy thấp nhưng đủ để nhìn phong cảnh gần đó. Phía ngoài của cửa trước dựng một cái hành lang gọi là Chí khiêm, hẹp nhưng đủ để thờ cúng các hầu thiếp đã khuất. Chỗ nước ít gọi là ao Tiểu khiêm xây theo hình trăng non, thế hoành chinh cục (23), trước cạn khô, chỉ để chứa nước mưa theo phép ô thanh thuật (24). Chỗ nước lớn gọi là hồ Lưu khiêm quanh co uốn khúc từ phải sang trái sâu và trong, mùa hạ không cạn, mùa thu không tràn vì đây vốn là ruộng sâu mà đào nên, lại xây một cái cống thông ra ruộng bên ngoài để vừa giữ vừa tháo nước. Hồ khi mới làm được một nửa mà đàn cá chi chít không sao kể xiết, không đợi bắt bò vào nuôi bởi vì vị trí ấy rất tiện lợi để đàn cá từ ngoài vào. Phía đầu hồ, vèn bờ đá, có dòng nước từ dưới đất phun lên, xem ở bờ đá ấy không thấy có chỗ hở mà nước lạnh và trong róc rách cứ rót mãi vào hồ ngày đêm không dứt, thực do trời sinh, nghi có mạch nước ngầm nhưng khó thấy rõ được. Nhân vậy bèn dựng một ngôi nhà nửa trên khô nửa dưới nước ở đó, sườn tre lợp tranh đủ che mưa nắng làm chỗ đậu cho hai chiếc thuyền nhỏ cũng gọi là Thuận khiêm và Ôn khiêm. Vào những lúc trăng thanh gió mát, dong thuyền chơi trên mặt hồ, hái hoa quân tử, ca khúc ái liên (25), sảng khoái lâng lâng không còn thêm gì nữa, bởi vì đầy hồ chỉ trồng một thứ hoa ấy. Bên cạnh hồ dựng lên hai nhà mát, một cái hai tầng khá cao và thoáng gọi là Xung khiêm; một cái ba tầng, các tầng thấp và hẹp gọi là Du khiêm, những đêm tháng năm có gió có trăng cũng đủ thú buông câu. Giữa hồ, do tính toán để giảm bớt công việc nên giữ lại đất đá đắp thành một hòn đảo lớn, dựng trên ấy ba ngôi đình nhỏ lấy tên là Nhã khiêm, Tiêu khiêm và Lạc khiêm. Núi đá bao quanh, hoa cỏ râm mát, làm bậc đá, làm động, làm rừng, làm hang, nuôi đủ chim bay thú chạy, mọi vật đều thích nghi với chỗ ở của mình. Trên hồ bắc qua ba chiếc cầu gọi là Tuân khiêm, Tiễn khiêm và Do khiêm để tiện việc qua lại mà cũng để đất nước được nối liền với nhau. Dưới chân núi bên trái, ở đó là Thể khiêm đình, nơi dựng bia làm chỗ tập bắn. Ngang lưng núi là Khiêm trai có hành lang ăn thông với ngôi lầu trên đỉnh núi, ấy là Di khiêm lầu nằm chót vót, hơi cao và thoáng, có thể trông xa được. Chung quanh là la thành được xây chỗ cao chỗ thấp tùy theo hình thế của gò núi nhưng đó đều do tay người làm cả, nhưng chưa bằng nhìn dãy núi ôm quanh bốn mặt, chỗ như bức tường, chỗ như bình phong, không xiên không hở, đây mới là la thành của thiên nhiên vậy. Ngoài có ba cửa là Vu khiêm, Tư khiêm và Thương khiêm trong có sáu cửa là Tất khiêm. Nhu khiêm, Huy khiêm, Năng khiêm, Mục khiêm và Liêm khiêm. Lại tùy sở thích hợp từng nơi từng lại mà làm giàn đậu, luống hoa, hàng cây, luống rau, làm hang động cho nai, đào ao cho cá. Tuy đất núi có vẻ xấu nhưng gieo trồng cũng dễ tốt, chăn nuôi cũng dễ phát triển, cũng có thể do khí đất ở đây khiên ra thế chăng.
Tên chung của nơi ấy gọi là Khiêm cung, sau này ắt gọi là Khiêm lăng. Lại sai làm miếu thờ thần để thờ cúng và ban sắc gọi miếu là Khiêm sơn thần.
Phàm tên gắn liền với nghĩa, không phải chỉ cốt cái tên mà thôi. Tại sao lấy cái Khiêm của ta mà khiến cho núi kia, nước kia, nhà cửa kia đều phải khiêm theo? Chung có khiêm chăng. Vả lại chúng biết gì? Gom lại mà định tên cho như thế thực chúng có chịu chăng? Mà sao ta lại chôn lấy chữ khiêm? Và khiêm ấy quả thực lòng nhân nhượng chăng?...
… Lên cao mà nhìn bốn phía thì trước mặt là đàn Nam giao, sau lưng là chùa Linh Mụ đã đủ rõ chí hướng bình sinh của ta rồi. Lúc sống chưa thể bày tỏ hết lòng thành thì khi chết lại được mãi mãi chầu hầu. Bên phải gần Xương lăng (30), bên trái đối diện Văn Miếu đủ để an ủi niềm yêu mến ngưỡng mộ thành thực của ta, để ngày kia hồn phách ta có nơi nương tựa dài lâu thủy chung như nhất. Chung quanh bao nhiêu là mồ mả, cũ mới ngổn ngang, một nửa cố nhân đã mất, lại có những ngôi mộ mà chẳng biết là của bậc công thần danh tướng hay thường dân nằm la liệt như thế. Trèo lên Bắc nam mà trông Hao lý (31), gió hàng dương réo rắt bi thảm suốt đời không thôi, thế thì đời người hấp tấp lo toan để làm gì? Thì cần chi phải chỉ con đường Tân Phong (32) mà những ngậm ngùi! ”.
Còn trong những đoạn tư liệu vụn vặt mà dienbatn sưu tập được viết : “Vua Tự Đức cũng không ngoại lệ. Ông chọn cho mình mảnh đất thơ mộng trong một thung lũng hẹp. Thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh, nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế.
Điều đáng nói, thuật phong thủy được xem như yếu tố phải tuân thủ triệt để trong kiến trúc lăng tẩm xưa. Thế nên, lăng Tự Đức cũng hội tụ các yếu tố đại cát. Gồm có: minh đường huyền thủy, tiền án hậu chấm, sơn triều thủy tụ. Phía trước lăng có núi Giáng Khiêm làm tiền án. Phía sau là núi Dương Xuân làm hậu chẩm. Minh đường chính là hồ Lưu Khiêm.Hồ Lưu Khiêm vốn là một con suối nhỏ chảy trong khu vực lăng, được đào rộng thành hồ.
Trong vòng là Thành 12 ha, gồm 50 công trình lớn nhỏ được phân bố dàn trải trên những thế đất phức tạp. Toàn bộ lăng được phân bố trên 2 trục song song cùng lấy núi Giáng Khiêm làm tiền án, lấy núi Dương Xuân làm hậu chuẩn, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố minh đường . Nếu như khu lăng mộ được xây bằng những vật liệu bằng đá thì khu tẩm điện là những vật liệu bằng gỗ.
Trước hết chúng ta tìm hiểu khu vực quanh hồ Lưu Khiêm. Hồ được các nhà thiết kế lợi dụng nguồn nước của con suối tự nhiên, đào sâu, nới rộng, nằm các thế đất mà thành.
Đây là khu vực bia mộ của nhà vua. Phía trước – sau đều có tấm bình phong làm tiền án và hậu chẩm, lấy hồ Tiểu Khiêm là yếu tố minh đường và xung quanh là tường thành bao quanh, bốn bề thông reo. Chính giữa là bia mộ vua được xây bằng đá. Tuy nhiên, thi hài của vua đang ở vị trí nào thì không một ai biết.
Tương truyền rằng, khi vua chết, đoàn quân đưa tang vua đi thuyền xuôi hồ Lưu Khiêm rồi vào đến đây thì đào một đường hầm xuống thẳng huyệt đạo. Họ chôn cất thi hài vua ở một vị trí bí mật, xong thì lấp lại bằng đá thanh và công trình có được hình dáng bề ngoài như chúng ta thấy. Sau đó thì những người đưa tang này không bao giờ trở ra nữa. Và bí mật về vị trí chôn thi hài của vua đến nay vẫn còn là một ẩn số. Một số người cho rằng chỉ có hoàng tử thân tín của vua biết, nhưng thực hư thế nào đến nay vẫn chưa hề được hé mở.”.
“Tổng thể kiến trúc Lăng nằm trong một vòng La thành rộng khoảng 12ha, gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành từng cụm trên những thế đất cao, thấp hơn nhau chừng 10m. Bố cục khu lăng gồm hai phần chính, trên hai trục song song với nhau ( Chú thích của dienbatn : Hai trục này không song song mà trục khu Mộ Vua là 81 độ và khu Tẩm điện là 88 độ ), lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm Tiền án, núi Dương Xuân làm Hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố Minh Đường. Các công trình trong Lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm đặt tên gọi.”
Nhìn trên bản đồ Google Map ta thấy :
Ngoài ra , căn cứ vào trích lục địa bạ ngày nay ta thấy :
Chú thích của dienbatn : Hai trục này không song song mà trục khu Mộ Vua là 81 độ và khu Tẩm điện là 88 độ.
Ta cũng chưa rõ là tại sao các nhà Địa lý ngày xưa khi thiết kế lại để như vậy. Trước hết nhìn về tổng thể : Nhìn trên bản đồ Google Map ta thấy Mộ Vua quay lưng ra sông Hướng , nhìn về phía các rặng núi phía Tây . Như vậy , các nhà Địa lý ngày xưa không sử dụng Đại cục của cuộc đất mà chỉ sử dụng Tiểu cục của Nội Minh Đường trước mặt là Hồ Lưu Khiêm . Về Thủy thì chỉ dựa vào dòng nước ngầm : “Phía đầu hồ, vèn bờ đá, có dòng nước từ dưới đất phun lên, xem ở bờ đá ấy không thấy có chỗ hở mà nước lạnh và trong róc rách cứ rót mãi vào hồ ngày đêm không dứt, thực do trời sinh, nghi có mạch nước ngầm nhưng khó thấy rõ được. “
“Phía trước lăng có núi Giáng Khiêm làm tiền án. Phía sau là núi Dương Xuân làm hậu chẩm. Minh đường chính là hồ Lưu Khiêm.Hồ Lưu Khiêm vốn là một con suối nhỏ chảy trong khu vực lăng, được đào rộng thành hồ.”
Ta sẽ khảo sát phân kim mộ Vua Tự Đức theo 2 phương án.
1/ Phân kim theo ý của Vua Tự Đức : “Chính giữa là ngôi nhà vĩnh viễn của ta, xây theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, không xây lăng đắp nấm, chỉ dành một đám đất bằng, làm tường thấp, ngày sau chắc bắt chước Bá Lăng (22) dùng ngói để lợp.
Những mạch núi chạy từ xa tới gần gọi là Dẫn khiêm, Lao khiêm, Đạo khiêm, Long khiêm, Cư khiêm, Lý khiêm. Gò bên phải có tường bao quanh, trổ một cái cửa có lầu gọi là Khiêm cung môn. “.
2/ Phân kim theo địa hình thực tế : dienbatn đo tại mộ và trên bản đồ địa chính cũng vậy : 81 độ.
1/ Phân kim theo ý của Vua Tự Đức :
Cung Tốn (Ðông- Nam) có các sơn:
a. Thìn: nằm trong giới hạn từ 112.5 đến 127.4 độ. Chính Thìn 120 độ ,
b. Tốn: nằm trong giới hạn từ 127.5 đến 142.4 độ. Chính Tốn 135 độ .
c. Tỵ: nằm trong giới hạn từ 142.5 đến 157.4 độ. Chính Tỵ 150 độ .
Vì : “ Toàn bộ lăng được phân bố trên 2 trục song song cùng lấy núi Giáng Khiêm làm tiền án, lấy núi Dương Xuân làm hậu chuẩn, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố minh đường .”. Cho nên trong 3 cung Thìn – Tốn – Tị , chỉ có 1 cung Thìn là có hồ Lưu Khiêm trước mặt làm Minh Đường . KHU VỰC CÓ HỒ LƯU KHIÊM LÀM MINH ĐƯỜNG - Từ 112 – 122 độ. Như vậy chỉ còn hướng duy nhất là Tọa Tuất – Hướng Thìn. Hữu Thủy đảo Tả.
KIM CỤC : Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân , Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Khởi trường sinh tại Tị đi thuận.
THỦY RA CẤN DẦN.
Là Kim cục , Thủy ra tuyệt phương, lập được 3 Hướng : Mộ - Dưỡng – Tuyệt .
• Hữu Thủy đảo Tả.
1/ Lập hướng dưỡng.
Tọa Tân – Hướng Ất.
Tọa Tuất – Hướng Thìn.
Là Quý nhân Lộc mã thượng ngự giai, chính dưỡng hướng. Đinh tài lưỡng vượng , phúc thọ toàn lai, mọi ngành đều phát.
TÂN SƠN - ẤT HƯỚNG; TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG.
1/ Thủy ra Tốn Tị. Thủy cục.
Thủy ra Tuyệt – lập hướng Mộ. Tả Thủy đảo hữu ra Tuyệt phương. Thư nói : Ất hướng Tốn lưu thanh phú quý là đây. Phát phú quý , nhân đinh đại vượng, phúc thọ toàn hai.
2/Thủy ra Bính Ngọ. Thủy cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Mộ. là tình qua nhi cang, phạm thoái thần Thủy pháp. Ta nghiệm ở các mộ cũ cũng có cái buổi đầu phát phú quý, có thọ cao hoặc thọ ngắn, nhưng không con. Cát hung đều có, chẳng được vẹn toàn.
3/ Thủy ra Đinh Mùi . Mộc cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Suy. Phạm vào Suy thì không nên lập hướng, đi tài đều không lợi.
4/ Thủy ra Khôn Thân . Mộc cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Suy. Hướng này nhân đinh , tiền tài mỗi ngày một suy, lâu dài tuyệt tự.
5/ Thủy ra Canh Dậu. Mộc cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Suy. Ất Thủy triều đường , tả Thủy đảo hữu, theo sau Huyệt ra trên chữ Canh , không phạm vào chữ Dậu địa chi. Gọi là cách Lộc tồn lưu tận bội kim ngư , đại phú đại quý, phúc thọ toàn hai. Hướng này ở đất bình dương thì phát phúc, đất sơn cước thì bại tuyệt vì trước cao sau thấp.
6/ Thủy ra Tân Tuất . Hỏa cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Quan đới. Phạm thoái thần Quan đới, không nên lập hướng này , chủ chết non , tuyệt tự, nhất là đất vùng sơn cước đại hung.
7/ Thủy ra Càn Hợi. Hỏa cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Quan đới, chủ thối tài không phát phúc, con nhỏ khó nuôi, trai gái yểu tử không con. Trước bại ngành trưởng sau đến các ngành khác .
8/ Thủy ra Nhâm Tý . Hỏa cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Quan đới. Như Thủy ra chữ Nhâm , buổi đầu cũng có phát nhân đinh , về sau thọ ngắn đẻ non, chết không con nối dõi, bại sản nghiệp , không lành.
9/ Thủy ra Quý Sửu. Kim cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Dưỡng. Phạm thủy pháp thoái thần, buổi đầu có nhân đinh , có thọ, nhưng không phát tiền tài , cũng không phát hung.
10/ Thủy ra Cấn Dần. Kim cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Dưỡng. Hữu Thủy đảo Tả ra phương Tuyệt , chính là Dưỡng hướng , gọi là cách : Quý nhân Lộc Mã thượng giai. Đinh tài đại vượng, công danh hiển đạt, phát phúc lâu dài, con cháu trung hiếu hiền lương, nam nữ thọ cao, các ngành phát đạt , thường sinh con gái tú lệ.
11/ Thủy ra Giáp Mão. Kim cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Dưỡng. Xung phá trên hướng Lộc vị, gọi là xung Lộc tiểu Hoàng tuyền. Chủ cùng khổ , chết yểu, nhiều người cô quả. Ta nghiệm thấy rất nhiêu mộ phần cũ , cũng có cái thọ cao , có nhân đinh, có chết không con , có ăn mày. Tóm lại nhiều cùng khốn , ít phúc lộc. Nếu trên chữ Thìn có đá nhọn sắc như dao thì sinh người ngang ngược , hung tàn , bất lương.
12/ Thủy ra Ất Thìn . Thủy cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Mộ. Tả Thủy đảo hữu theo trên chữ Ất mà không phạm vào chữ Thìn, ngoài 100 bộ có Sa ngăn Thủy đón. Chủ phát phú quý . Nếu Long Huyệt sai thì tuyệt.
Biện về đồ hình 12 : Tân sơn Ất hướng ; Tuất sơn Thìn hướng. Nếu hữu Thủy đảo tả , đem Tuyệt Thai vào Minh đường trên chữ Ất chảy đi là đảo xung mộ khố, hoặc đi thẳng trước mặt là cách Khiên động Thổ ngưu. Sách nói : Ất Bính nên phòng Tốn thủy tiên là cách này. Là phạm Hoàng tuyền đại sát bại tuyệt ngay chớ dùng.
TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG.
• Tuất Sơn – Thìn Hướng , Gia Tốn.
Dùng Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn phân kim. Tọa sao Khuê 14 độ, ấy là Nhâm Tuất Hỏa độ , bình phân Canh Tuất. Chủ người mạng Kim , mạng Thổ quý, người mạng Mộc , mạng Thổ phú , ba đời vinh hoa , mọi ngành đều phát .
• Tuất Sơn – Thìn Hướng , Gia Ất .
Dùng Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn phân kim. Tọa sao Lâu 2 độ , ấy là Bính Tuất Kim độ , bình phân Canh Tuất , chủ ngành trưởng đại phú quý , đinh tài đều vượng , ngành 3 hơi kém, ngành trưởng và giữa phát trước . Người mạng Mộc , Hỏa vượng nhất , nuôi con cũng tốt . Phân kim qua Nhâm Thìn vượng ngành út , nhưng bị hỏa ôn , bệnh tật .
• Tuất Sơn – Thìn Hướng , chính châm.
Dùng Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn phân kim . Tọa sao Khuê 17 độ - Hướng sao Giác 6 độ làm Thổ cục ( Thủy Thổ Trường sinh tại Thân ). Cục này hậu đầu Thác lạc sơn cao dày . Tân sơn ( Văn Xương ) phương có núi cao lớncác ngành đinh tài đại vượng. Cục này ít xuất quan cao , lộc hậu . Nếu Hợi phương có núi cao lớn , trưởng phòng nhiều nam ít nữ . Ất phương có núi cao lớn lai triều các phòng đều hưng vượng phát đại phú đại quý . Quý phương có núi cao lớn chủ ngành trưởng nhân đinh hưng vượng , các ngành khác tốt thứ hạng . Hữu Thủy đảo tả ra Cấn là Kim Cục Dưỡng Hướng Thủy quy Tuyệt , hay phát nhanh chóng , đinh tài đại vượng . tả Thủy đảo hữu ra Tốn Tị là Thủy cục , chính Mộ Hướng , Tuyệt Thủy lưu khứ , chủ đại phát phú quý .
Phản cục : Giáp Mão ( Tử ) phương có núi cao lớn tất phạm quan phi khẩu thiệt , con trai bệnh về mắt . Bính Ngọ ( Thai ) phương có núi cao lớn ngành 3 tổn đinh , tuyệt tự cô quả. Tốn Tị phương ( Tuyệt ) có núi cao lớn ngành 3,6 gia tài thối bại . Giáp phương có núi cao lớn cũng bất lợi cho ngành 3,6, chủ có nhân đinh không tiền của , bần cùng khổ sở . Sửu ( phương Suy ) có Thủy lai là Tứ Khố tương phá , tên là phá Âm Thủy , chủ tổn đinh thối tài . Mão phương Thủy lai là Lục hại Thủy chủ thối tài . Hữu Thủy đảo tả ra Giáp Mão phương , xung phá hướng thượng , tên là Xung Lộc tiểu Hoàng tuyền , chủ bần cùng yểu vong , xuất quả phụ .
• Tuất Sơn – Thìn Hướng , kiêm Càn Tốn.
Dùng Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn phân kim. Tọa sao Khuê 13 độ - Hướng sao Giác 3 độ làm Kim cục .
Càn , Khôn , Cấn , Tốn vốn không có Lộc , lấy Thìn , Tuất , Sửu , Mùi phối là đắc Lộc , nghinh Lộc , tọa Lộc . Lộc Mã triều nguyên quý cách . Nếu Cục – Hướng chân đích , Kim – Thủy hành Long , Quán châu khiên liên , hậu có Thác lạc , có Tam Thai tên là Lưu hoa Tam đảo , xuất Trạng Nguyên chi cục . Lại được Tham lang ( phương Sinh và Dưỡng ) có Văn bút nhọn đẹp , chủ xuất người trung lương , xuất quan đầu bảng .
Canh dậu là Vượng phương có núi cao lớn là Võ Khúc chiếu ứng , đại lợi cho khoa giáp . nếu như núi không nhọn đẹp cũng được học hành giỏi giang , tiểu quý hiển . Thìn , Tốn , Tị là cung Dưỡng Sinh có Thủy lai triều , đinh tài đều vượng . Canh , Dậu , tân phương là phương Vượng có Thủy lai thực lộc vạn chung . Kim cục thì Hướng Ất Thìn là Dưỡng Hướng , nước nên phóng Cấn dần là Thủy quy Tuyệt , phát lớn về tài lộc , đại phú quý .
Phản cục : Bính , Ngọ , Đinh là Mộc dục Thủy chảy lại , xuất người dâm loạn . Hợi , Nhâm , Tý là Bệnh Tử có Thủy chảy lại là phụ nữ trụy thai , nuôi con nuôi nối dõi . Nếu Sửu , Cấn , Dần , Giáp cung Tuyệt phương có núi cao lớn sinh người trộm cắp tù đày . Nếu Mão Ất phương có núi cao lớn bệnh tật chẳng dời thân . Càn , Hợi , Nhâm , Tý ( Bệnh , Tử ) có Thủy chảy lại quy Quý Sửu xuất khứ , đinh tài đều bại .
Nếu Đinh Mùi , Khôn Thân xuất khứ là Mộc cục Suy hướng đại hung , giáng quan giáng chức , đinh tài suy bại , tuyệt tự . nếu Thủy chảy ra Tân Tuất là Hỏa cục, phạm Thoái thần quan sát, nếu có phú quý vinh hoa cũng không được lâu dài .
TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG. ( Thổ sơn tá Kim cục )
1/Kiêm Ất Tân 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn.( 117,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa Tân Dậu – Hướng Tân Mão.
Tú độ : Tọa sao Lâu 3 độ - Hướng sao Giác 10 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa Bính Tuất – Hướng Canh Thìn.
Thấu địa 60 Long : Tọa Canh Tuất – Hướng Giáp Thìn, nạp âm thuộc Kim.
Độ tọa Huyệt : Canh Tuất Bình phân , Kim độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Hỏa Thiên đại hữu.
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Tọa Tam sát hung.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tài cục thứ cát .
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tiết cục bình.
2/Kiêm Càn Tốn 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn.( 122,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn.
Tú độ : Tọa sao Khuê 14 độ - Hướng sao Giác 2 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa Canh Tuất – Hướng Giáp Thìn.
Thấu địa 60 Long : Tọa Nhâm Tuất – Hướng Bính Thìn , nạp âm thuộc Thủy.
Độ tọa Huyệt : Ất Bình phân , Mộc độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Thủy Thiên Nhu.
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Tọa Tam sát hung.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tài cục thứ cát .
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tiết cục bình.
3/ Chân lịch số .
• Tiết Thanh Minh , Thái Dương đến Tuất. Hội 2 phương Dần , Ngọ đều cát .
• Tiết Hàn Lộ : Thái Dương đến Hướng Hướng, chiếu Tuất tốt.
• Tiết Sương Giáng: Thiên Đế đến Tuất tốt.
Khai môn : Nên Thìn hợp chất khố tốt.
Phóng Thủy : Nên dùng Giáp ,Ất phương tốt. Tả Thủy đảo hữu hung , Hữu Thủy đảo tả tốt.
Hoàng Tuyền : Sát tại Tốn , Tị , Bính phương .Không nên khai môn phóng Thủy.
Tạo táng : Tuất Sơn – Thìn Hướng, Không nên dùng năm tháng ngày giờ Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục là phạm Tam sát hung.
3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục Tọa Tân – Hướng Ất.
Tháng Giêng ( Dần ) : Ất , Đinh , Tân , Kỷ, Quý – Dậu bình. Bính Ngọ tốt.
Tháng 2 ( Mão ) : Tọa Tam sát hung không dùng.
Tháng 3 ( Thìn ) : Thìn , Tuất xung phá sơn không dùng.
Tháng 4 ( Tị ) : Giáp ,Mậu , Canh – Ngọ tốt. Ất , Kỷ , Quý – Sửu , Ất , Kỷ , Tân, Quý - Dậu thứ.
Tháng 5 ( Ngọ ) : Giáp ,Bính,Mậu , Canh– Dần tốt, Giáp ,Bính,Mậu , Canh– Thân thứ cát.
Tháng 6 ( Mùi ) : Tọa Tam sát hung không dùng.
Tháng 7 ( Thân ) : Không có ngày tốt . Bính , Mậu – Thân. Ất , Kỷ , Tân, Quý - Dậu , Bính Tý bình.
Tháng 8 ( Dậu ) : Giáp , Mậu , Canh– Dần tốt . Giáp ,Bính,Mậu , Canh– Thân thứ cát.
Tháng 9 ( Tuất ) : Bính, Canh - Dần tốt . Bính , Canh – Ngọ, Giáp Mão , Giáp dần tốt.
Tháng 10 ( Hợi ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 11 : Giáp,Bính,Mậu , Canh – Dần tốt . Giáp,Bính,Mậu , Canh, – Thân thứ cát .
Tháng 12 ( Sửu ) : Giáp , Bính, Canh –, Dần, Thân tốt . Giáp ,Bính, Canh– Ngọ thứ cát.
4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Bình, Sửu – Bình , Dần –Cát , Mão – Hung. Thìn – Phá , Tị - Bình, Ngọ - cát. Mùi – Hung . Thân – Bình, Dậu – Bình . Tuất – cát , Hợi – Hung.
TUẤT SƠN – THÌN HƯỚNG.
1 / Tuất Sơn – Thìn Hướng.
Kiêm Tân Ất 3 phân – Tên là Thiên Đình Long.
Thiên Đình Long cung rất hữu tình,
Điền trang lục súc đầy thôn trang.
Tăng địa tấn tài nhiều điềm cát ,
Theo gió gia thanh gần Đế kinh.
Long ấy đa phú quý , ứng đắc của hoạnh tài .
Như hạ Huyệt 7 phân Tuất sơn – Tọa Bính Tuất – Hướng Bính Thìn – Thổ Long , Thổ Hướng , Dương lai Dương cấu.
Thủy lưu xuất khứ tại Tốn Tị - Là Thủy cục , Mộ Hướng , Tuyệt Thủy lưu , thượng cát . Nếu như có Lộc , Mã ứng làm Thiên thê , như Nhâm Quý Thủy triều lai ( Vượng Thủy ) , cùng được Đinh Mùi ( Dưỡng ) , Khôn Thân ( Sinh ) lai triều tương hợp , 3 năm đã phát , 12 năm hưng vượng , năm Thân – Tý – Thìn sinh quý tử , 18 năm song song khoa cử, cháu con phú quý lâu dài .
Nếu gặp Giáp Mão ( Tử ) Thủy lai triều , Phạm Liêm Trinh Hoàng tuyền , chủ ly hương bệnh tật , đại bại . nếu đảo ra Đinh Mùi , Khôn Thân là Bệnh Hướng phá Tham lang , cũng có phú chứ không quý , phần nhiều chết trẻ bại tuyệt . An táng hướng này sai Thủy pháp rất hung , phải thận trọng.
2 / Tuất Sơn – Thìn Hướng.
Chính Hướng – Tên là Du Đãng Long.
Long tên Du Đãng phá gia thanh,
Nam thì trộm cắp , nữ điếm đàng.
Dẫu có tư tài dư trăm vạn,
Đáo đầu chẳng khỏi thọ nạn tai.
Long này chủ du đãng , phá gia chi tử , tù đày hình thương, trưởng phòng tuyệt trước , trung và út bình bình.
Như hạ Huyệt Tuất sơn – Tọa Mậu Tuất – Hướng Mậu Thìn – Mộc Long , Mộc Hướng , Dương giáng , Dương thăng, Thủy xuất khứ Giáp mão là Kim cục – Là xung phá Thai thần , chủ bần tiện . Bính Ngọ xuất khứ phạm quan phù Thủy cục , chủ lưu đày , kiện tụng , chết trẻ.
Như Kim cục lập hướng Dưỡng Thủy ra Cấn Dần là Thủy quy Tuyệt , Quý nhân , Lộc , Mã thượng ngự giai , cũng được phú quý nhưng không lâu dài.
3 / Tuất Sơn – Thìn Hướng.
Kiêm Càn Tốn 3 phân – tên là Kim Long.
Kim Long cung quan quý có dư,
Lại thêm con cháu giỏi thi thư.
Đăng khoa , cập đệ tên kim bảng.
Phú quý song toàn rạng gia môn.
Long này phú quý đời đời , cập đệ khoa cao , nhiều điền trang ruộng đất trâu ngựa, trưởng nam đại vượng trước.
Như hạ Huyệt 7 phân Tuất sơn – Tọa Canh Tuất – Hướng Canh Thìn – Kim Long , Kim Hướng , Thủy lưu xuất Cấn Dần là thượng cát .Vì Kim cục , Dưỡng Hướng, Thủy quy Tuyệt – Là Quý nhân Lộc , Mã thượng giai , thượng cát .
Ất làm truy , Giáp làm lộc , Cấn ngự vệ . Sách rằng :
Tứ cá Lộc Tồn loan loan khứ.
Nhi tôn văn võ bái đan bình.
Nếu được thêm nước Tốn Tị Tham Lang Thủy dài lai triều là thượng cách . Ngọc kho vàng đống , tiền bạc đầy kho . Nữ nhân cũng đắc tài lộc , xuất quan cưỡi ngựa. Năm Hợi – Mão – Mùi phát đạt , năm Tị - Dậu – Sửu sinh quý tử , 18 năm đại vượng tài lộc , 24-36 năm con cháu nhập Triều đường, 7 đời vinh hoa.
Nếu Thủy từ Tốn Tị là bệnh của Mộc cục , lưu xuất ra Khôn Thân là Suy Hướng , Tuyệt Thủy lưu thì nhân suy , tài tán , khó đương nổi, phạm nghịch Long , khi an táng nên xem xét cẩn thận Thủy pháp này.
2/ Phân kim theo địa hình thực tế : dienbatn đo tại mộ vàtrên bản đồ địa chính cũng vậy : 81 độ.
Trước hết ta đã biết : Chú thích của dienbatn : Hai trục này không song song mà trục khu Mộ Vua là 81 độ và khu Tẩm điện là 88 độ.
Cung Chấn (Ðông) có các sơn:
a. Giáp: nằm trong giới hạn từ 67.5 đến 82.4 độ. Chính Giáp 75 độ .
b. Mảo: nằm trong giới hạn từ 82.5 đến 97.4 độ. Chính Mão 90 độ .
c. Ất: nằm trong giới hạn từ 97.5 đến 112.4 độ. Chính Ất 105 độ .
Tạm coi như hướng Mộ là Tọa Canh – Hướng Giáp. Hữu Thủy đảo Tả.
Nếu coi như phần trước : KIM CỤC : Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân , Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Khởi trường sinh tại Tị đi thuận.
Ta kiểm tra tất cả các đường Thủy Khứ ( Vì có thể trong quá trình xây dựng , chuyển hướng dòng chảy theo cách tính của các nhà Phong Thủy xưa :
KIM CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Quý – Sửu, Cấn – Dần, Giáp – Mão. Tức các phương Đinh – Mùi , Khôn – Thân , Canh – Dậu đất cao. Nên là Kim cục . Khởi trường sinh tại Tị đi thuận.
1/ THỦY RA QUÝ – SỬU.
Là Kim cục , Thủy ra Mộ phương. Lập được 4 Hướng : Trường sinh – Đế vượng – Tử - Tuyệt.
• Hữu Thủy đảo Tả.
1/ Lập hướng Trường sinh :
Tọa Càn – Hướng Tốn.
Tọa Hợi – Hướng Tị.
2/ Lập hướng Tuyệt:
Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
• Tả Thủy đảo Hữu.
1/ Lập hướng Đế vượng.
Tọa Giáp – Hướng Canh.
Tọa Mão – Hướng Dậu.
Ấy là Sinh lai hội Vượng, chính Vượng hướng. Công danh hiển đạt , nam thanh nữ tú , phú quý toàn lai.
2/ Lập hướng Tử.
Tọa Bính – Hướng Nhâm.
Tọa Ngọ - Hướng Tý.
Ấy là tá khố tiêu thủy, hóa tử vi Vượng, Hiệp Dương công cứu bần, tiến Thần Thủy pháp. Nam thanh nữ tú , đinh tài phú quý, lộc vị đắc vượng.
2/ THỦY RA CẤN DẦN.
Là Kim cục , Thủy ra tuyệt phương, lập được 3 Hướng : Mộ - Dưỡng – Tuyệt .
• Hữu Thủy đảo Tả.
1/ Lập hướng dưỡng.
Tọa Tân – Hướng Ất.
Tọa Tuất – Hướng Thìn.
Là Quý nhân Lộc mã thượng ngự giai, chính dưỡng hướng. Đinh tài lưỡng vượng , phúc thọ toàn lai, mọi ngành đều phát.
• Tả Thủy đảo Hữu.
1/ Lập hướng Mộ.
Tọa Đinh – Hướng Quý.
Tọa Mùi – Hướng Sửu.
Là lưỡng Thủy hiệp xuất, ra Tuyệt phương là chính Mộ hướng. Đinh tài lưỡng vượng, phú quý toàn lai. Thơ rằng “ Quý vi Cấn vị quý văn chương là đây.
2/ Lập hướng Tuyệt.
Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
Là dương diện xuất Thủy chi pháp. Hướng này cũng phát đại phú quý.
3/ THỦY RA GIÁP MÃO.
Là Kim cục , Thủy ra Thai phương , lập được 4 Hướng.
• Hữu Thủy đảo Tả. ( Thủy ra Giáp chẳng phạm vào Dần )
1/ Lập hướng Mộc dục.
Tọa Nhâm – Hướng Bính.
Tọa Tý – Hướng Ngọ.
Là Mộc dục tiêu thủy, Lộc tồn lưu tận bội kim ngư. Phát phú quý , đại vượng nhân đinh.
• Tả Thủy đảo Hữu. ( Thủy ra Giáp , chẳng phạm vào dần ).
2/ Lập hướng Tuyệt.
Tọa Khôn hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
Hiệp Dương công cứu bần thủy pháp, Lộc tồn tiêu thủy. Phát nam thanh nữ tú , phú quý lại thọ cao.
3/ Lập hướng Suy.
Tọa Ất – Hướng Tân.
Tọa Thìn – Hướng Tuất.
Là Lộc tồn tiêu thủy cát cục.
4/ Lập hướng Thai.
Tọa Canh – Hướng Giáp.
Tọa Dậu – Hướng Mão.
Là Thai hướng Thai thủy.
Vậy là không có hướng Tọa Canh – Hướng Giáp. Hữu Thủy đảo Tả như dự định.
Bây giờ ta lại tính theo HỎA CỤC. Vì khi xây dựng người ta có thể thay đổi hướng Thủy Khứ nên theo cách này ta tính :
Thủy ra 6 chữ : Tân – Tuất, Càn – Hợi, Nhâm – Tý. Thì các phương Ất – Thìn , Tốn – Tị, Bính – Ngọ cao nên là Hỏa cục. Khởi Trường sinh tại Dần để luận Thủy.
1/ THỦY RA TÂN – TUẤT.
Là Hỏa cục. Thủy ra Mộ phương. Lập được 4 Hướng : Sinh – Vượng – Tử - Tuyệt.
Hữu Thủy đảo tả.
Lập Hướng Trường sinh.
Tọa Khôn – Hướng Cấn.
Tọa Thân – Hướng Dần.
Phú quý song toàn , mọi ngành đều phát.
Lập Hướng Tuyệt.
Tọa Tốn – Hướng Càn.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Bỗng nhiên phát lớn.
Tả Thủy đảo hữu.
Lập Hướng Đế vượng.
Tọa Nhâm – Hướng Bính.
Tọa Tý – Hướng Ngọ.
Đinh tài đều vượng, mọi ngành đều phát.
Lập Hướng Tử.
Tọa Giáp – Hướng Canh.
Tọa Mão – Hướng Dậu.
Phú quý , thọ cao, đinh tài lưỡng vượng, nam thanh nữ tú.
2/ THỦY RA CÀN – HỢI.
Là Hỏa cục. Thủy ra Tuyệt phương. Lập được 3 Hướng : Mộ - Dưỡng – Tuyệt.
Hữu Thủy đảo tả.
Lập Hướng Dưỡng.
Tọa Đinh – Hướng Quý.
Tọa Mùi – Hướng Sửu.
Phú quý , đinh tài đều vượng.
Tả Thủy đảo hữu.
Lập Hướng Mộ.
Tọa Ất – Hướng Tân.
Tọa Thìn – Hướng Tuất.
Phú quý , đinh tài đại vượng.
Lập Hướng Tuyệt.
Tọa Tốn – Hướng Càn.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Đại phát phú quý.
3/ THỦY RA NHÂM – TÝ.
Là Hỏa cục. Thủy ra Thai phương. Lập được 4 Hướng : Mộc dục – Suy – Tuyệt – Thai.
Hữu Thủy đảoTả. Thủy Ra Nhâm không phạm Tý.
Lập Hướng Mộc dục.
Tọa Canh – Hướng Giáp.
Tọa Dậu – Hướng Mão.
Phú quý , đinh tài đều vượng.
Tả Thủy đảo Hữu. Thủy Ra Nhâm không phạm Tý.
Lập Hướng Tuyệt.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Tọa Tốn – Hướng Càn.
Phú quý đinh tài đều phát.
Ngoài ra còn lập được 2 Hướng bán hung bán cát.
Lập Hướng Suy .
Tọa Quý – Hướng Đinh.
Tọa Sửu – Hướng Mùi.
Phát phú quý , phúc thọ cao.
Lập Hướng Thai.
Tọa Bính – Hướng Nhâm.
Tọa Ngọ - Hướng Tý.
Phát lớn cả đinh lẫn tài.
Ta xét trường hợp : THỦY RA NHÂM – TÝ.
Là Hỏa cục. Thủy ra Thai phương. Lập được 4 Hướng : Mộc dục – Suy – Tuyệt – Thai.
Hữu Thủy đảoTả. Thủy Ra Nhâm không phạm Tý.
Lập Hướng Mộc dục.
Tọa Canh – Hướng Giáp.
Tọa Dậu – Hướng Mão.
Phú quý , đinh tài đều vượng.
THÂN LONG NHẬP THỦ.
Gồm 2 Hướng .
1/ Tọa Đinh – Hướng Quý.
2/ Tọa Canh – Hướng Giáp.
Lấy Mậu Thân làm chính Khí.
Tọa Canh – Hướng Giáp.
Thân long nhập thủ , lạc mạch ở Tả. Lập Huyệt Tọa Canh – Hướng Giáp, hợp dịch về Tả, gia Khôn chút ít. Lấy Mậu Thân làm chính Khí , mạch xuyên qua tai Hữu.
Thôi quan Thiên có thơ .
Thiên quan Long, tõa Thiên hán cung.
Khí tòng Hữu nhĩ thừa chính Long.
Vi gia Thiên việt phụ long hành.
Thủy triều, huyệt tỏa, nhân tài long.
Nghĩa : Long Thân ( Thiên quan ) , tọa vào cung Canh sơn ( Thiên hán ), hướng về Giáp ( Thiên Uyển ). Khí theo tai Hữu mà thừa khí của Thân long, gia chút ít Khôn ( Thiên việt ) giúp hành long tốt hơn. Được Thủy triều tụ lại , Huyệt khóa kìn Thủy khẩu , sinh nhiều nhân tài.
• Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Thân Dần : Tọa Bính Thân – Hướng Bính Dần. ( 72,5 độ )
- Kiêm Dậu Mão : Tọa Canh Thân – Hướng Canh Dần. ( 77,5 độ )
• Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Thân Dần : Tọa Canh Thân – Hướng Canh Dần.
- Kiêm Dậu Mão : Tọa Đinh Dậu – Hướng Đinh Mão.
CANH SƠN GIÁP HƯỚNG; DẬU SƠN – MÃO HƯỚNG.
1/ Thủy ra Ất Thìn . Thủy cục.
Thủy ra Mộ - lập hướng Tử. Tả Thủy đảo hữu ra chính Mộ khố là Hóa Tử vi Vượng, Tự Vượng hướng, hợp cách Dương công tiến thần , Cứu bần Thủy pháp. Sách rằng : Duy hữu Suy khương khả khứ lưu , nghĩa đây , chủ phát phú quý, thọ cao , nhân đinh hưng vượng. Nếu có Cấn thủy triều về là hợp Tam cát , Lục Tú Thủy pháp rất cát tường.
2/ Thủy ra Tốn Tị. Thủy cục.
Thủy ra Tuyệt – lập hướng Tử. Phạm Đoản mạng quả tú Thủy .Người nam tuổi thọ ngắn, nhiều người cô quả, bại sản không con, nhiều bệnh tật hiểm nghèo, trước bại ngành 3 rồi đến các ngành khác.
3/ Thủy ra Bính Ngọ. Thủy cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Tử. Là Giao nhi bất cập. Phạm Nhan Hồi đoản mạng . Thường chết yểu , không con, thoái bại sản nghiệp, nhiều người cô quả. Trước bại ngành 3 rồi đến các ngành khác. Hướng này có đinh thì không tài, có tài không đinh, có công danh thì chết yểu, phúc lộc thọ không vẹn toàn, lâu dài bại tuyệt.
4/ Thủy ra Đinh Mùi. Mộc cục.
Thủy ra Mộ - lập hướng Vượng. Tả Thủy đảo hữu ra Mộ khố chính là Vượng hướng, hợp Thủy pháp Sinh lai hội Vượng, Tam hợp liên châu quý giá vộ cùng. Hợp Dương công tiến thần , Cứu bần Thủy pháp. Chủ đại phú đại quý, con cháu trung hiếu hiền lương, nam nữ thọ cao, ngành nào cũng phát, phát phúc lâu dài. Thư nói : Hợi, Mão , Mùi, Càn , Giáp , Đinh Tham lang nhất lộ hành là cách này.
5/ Thủy ra Khôn Thân . Mộc cục.
Thủy ra Tuyệt – Lập hướng Vượng. Là cách quá nhi cang, không lợi cho công danh, có nhiều người thọ , nhưng có nhân đinh thì không có tài lộc vì Thủy không về Khố.
6/ Thủy ra Canh Dậu. Mộc cục.
Thủy ra Thai – Lập hướng Vượng. Là cách trước cao sau thấp, bị xung phá Thai thần , chủ trụy Thai chết người, buổi đầu cũng hơi vượng về đinh tài, lâu dài bại tuyệt, đó là do quá cung Thủy. Có Thọ không tài , ngành út không lợi.
7/ Thủy ra Tân Tuất. Hỏa cục.
Thủy ra Mộ - Lập hướng Mộc dục là xung phá trên hướng Dưỡng, chủ bại sản tuyệt tự vì phạm thoái thần Mộc dục, không nên lập hướng này khi gặp Thủy này.
8/ Thủy ra Càn Hợi. Hỏa cục.
Thủy ra Tuyệt – lập hướng Mộc dục. Là cách Vượng khứ xung Sinh, Có tiền không có người tiêu. Trẻ con khó nuôi, giàu mà không có nhân đinh, 10 cái thì 9 cái tuyệt, trước bại ngành trưởng sau đến các ngành khác.
9/ Thủy ra Nhâm Tý . Hỏa cục.
Thủy ra Thai - lập hướng Mộc dục.Hữu Thủy đảo tả ra trên chữ Nhâm gọi là Mộc dục phương hợp tiêu Thủy, hợp cách Lộc tồn lưu tận bội kim ngư , phú quý toàn hai , nhân đinh hưng vượng. Như Long Huyệt sai , Thủy ra phạm vào chữ Tý thì sinh hung, không nên loạn dùng bất lợi.
10/ Thủy ra Quý Sửu . Kim cục.
Thủy ra Mộ - lập hướng Thai. Là xung phá trên hướng Quan đới,phạm Thủy pháp thoái thần, chủ tổn thương trẻ nhỏ thông minh yểu tử, các thiếu phụ trẻ trung trong khuê phòng, thoái bại sản nghiệp . Lâu dần tuyệt tự.
11/ Thủy ra Cấn Dần. Kim cục.
Thủy ra Tuyệt – lập hướng Thai. Là xung phá trên hướng Lâm quan, phạm sát nhân đại Hoàng tuyền , tất chôn các con thành tài , quan tư khẩu thiệt , bại tuyệt ngay, bán hết sản nghiệp lại sinh nhiều chứng bệnh hiểm nghèo, trước bại ngành 3 sau đến các ngành khác. Cách này hung nhất trong 12 cách Thủy pháp.
12/ Thủy ra Giáp Mão . Kim cục.
Thủy ra Thai – lập hướng Thai. Hữu Thủy lớn dài đảo tả theo trên chính chữ Giáp mà ra, không phạm chữ Mão . Ngoài 100 bộ có Sa ngăn Thủy đón , hợp cách Kim cục Thai hướng Thai phương, gọi là xuất sát , không luận là xung Thai. Chủ đại phú quý, nhân đinh hưng vượng nhưng thọ ngắn, có cô quả. Nếu không phải chân Long đích Huyệt thì không bại cũng tuyệt, chớ nên kinh dùng.
Biện về đồ hình 12 : Canh sơn Giáp hướng , Dậu sơn Mão hướng . Nếu tả Thủy đảo hữu mà ra trên chính chữ Giáp , hoặc nước đi ra thẳng , tức biến cách : Sinh lai phá Vượng còn gọi là Khiên động Thổ ngưu , không nên luận Thai Hướng Thai phương như trên, có đinh không tài , gia đạo nghèo khổ.
CANH SƠN – GIÁP HƯỚNG.
• Canh Sơn – Giáp Hướng , Gia Dần.
Dùng Tọa Bính Thân – Hướng Bính Dần phân kim. Tọa sao Tất 9 độ, ấy là Ất Dậu Thủy độ , bình phân Quý Dậu . Chủ các ngành đều phát . Giáp Dần phân kim trước cát sau hung .
• Canh Sơn – Giáp Hướng , Gia Mão.
Dùng Tọa Canh Thân – Hướng Canh Dần phân kim. Tọa sao Tất 3 độ , ấy là Đinh Dậu Hỏa độ , bình phân Ất Dậu . Chủ ngành 2 và giữa tốt . Nếu phạm vài độ , ảnh hưởng ngành trưởng tổn nhân đinh . Chính Giáp là phạm Không vong.
• Canh Sơn – Giáp Hướng , chính châm.
Dùng Tọa Canh Thân – Hướng Canh Dần phân kim. Tọa sao Sâm 5,5 độ - Hướng sao Vỹ 1 độ , là Mộc cục . Cấn phương có núi cao lớn, chủ ngành trưởng phú quý . Tuất Càn phương có núi cao lớn ngành trưởng và 4 đinh tài đều vượng . Mão phương có núi cao lớn có tài ngoại giao rộng. Dậu phương có núi cao lớn, ngành trưởng và ngành 4 gia nghiệp hưng vượng .
Nếu tả Thủy đảo hữu ra Đinh Mùi , chính Khố của Mộc cục , chính Vượng hướng chủ phú quý , thọ cao. Nếu Thủy ra Ất Thìn phương , chính Khố Thủy cục , là Hướng hóa Tử vi Vượng – Tự vượng Hướng , cũng đại vượng phú quý , nhân đinh đa thọ. Nếu cấn Thủy triều lai cũng cát .
Nếu hữu Thủy đảo tả ra Nhâm phương là Hướng Mộc dục , Thủy ra Thai cũng phú quý thọ cao , nếu Thủy tiêu phạm vào chữ Tý là đại hung.
Phản cục : Nhâm Tý ( Mộc dục ) phương có núi cao lớn ngành trưởng nghèo khổ . Bính ( Tử ) phương có núi cao lớn ngành 3 bần hàn . Thân sơn ( Tuyệt ) phương có núi cao lớn phá bại gia nghiệp. Tị sơn ( Bệnh ) phương có núi cao lớnngành 3 phạm pháp , phá gia .Ất sơn ( Suy ) phương có núi cao lớn ngành 2 tuyệt tự . Đinh phương có núi cao lớn xuất con phá gia . Tân phương có núi cao lớn ngành trưởng và 4 gia nghiệp hao tán . Hợi phương có núi cao lớn ngành trưởng chẳng vượng . Dần phương có núi cao lớn xuất tù đày tuyệt tự . Phương Mão Thủy lai triều là Âm phá Dương Thủy có họa vong thân . Hữu Thủy đảo tả xuất ra Cấn Dần là sát nhân đại Hoàng tuyền , lãng tử , phá gia , tuyệt tự ( luận Kim cục ) . Lưu xuất ra Quý Sửu là Thai phương – Hướng Mộ là phạm thoái thần tổn đinh , bại tài , đa hung .
• Canh Sơn – Giáp Hướng , kiêm Thân Dần .
Dùng Tọa Bính Thân – Hướng Bính Dần phân kim. Tọa sao Tất 8,5 độ - Hướng sao Vỹ 4,5 độ làm Mộc chục . Cục này Hướng Lộc phân kim , vào các năm Dần – Ngọ - Tuất đinh tài đều lợi , công danh trăm việc hanh thông . Nếu Dần phương Thủy lai triều đặng cát . Lại được phu thê chính phối , nghinh Lộc chi cách , nếu hậu Thác lạc sơn cao đầy như bình phong , Tân Tuất làm Cự môn học đường , cao phong , văn bút cùng có Thủy lai triều , chủ nam thanh nữ tú lại thông minh , tham công hiếu học , người của đại vượng , phát quan chức rất nhanh, đại phát phú quý chi địa . Ấn tài lai sanh , công danh hiển đạt , khoa giáp mãi mãi . nếu được tả Thủy đảo hữu xuất ra Ất Thìn , áo gấm về làng ( Hướng hóa Tử vi Vượng , chính Mộ Thủy cục ) .
Phản cục : Nếu Quý Sửu , Cấn Dần Thủy đến chảy về Tốn Tị mà ra ( Thủy cục ) , vị chi Mộ Tuyệt xung Trường sinh , giáng quan giáng chức , tổn hại tuổi trẻ thành danh, tài đinh đều bại .Nhâm Tý phương ( Mộc dục – Mộc cục ) phương có núi cao lớn xuất bệnh huyết chứng . Tý phương có núi cao lớn cùng có Thủy lai triều sinh trộm cướp phá gia , quan phi khẩu thiệt .Sửu, Cấn , Dần , Giáp , Mão ( Thủy cục ) phương có núi cao lớn tất phụ nữ dâm loạn , nam nhân phong lưu , bệnh tật đa đoan , thày thuốc chẳng dời nhà .
• Canh Sơn – Giáp Hướng , kiêm Dậu Mão.
Dùng Tọa Canh Thân – Hướng Canh Dần phân kim. Tọa sao tất 2,5 độ - Hướng sao tâm 5,5 độ , làm Thủy cục . Giáp nạp Càn Lão phụ , Mão trưởng nam . Cha phối con trai là Âm Dương thác loạn , tất sinh quan quả , trai gái du đãng vô nghì , lại phạm Lộc khắc là hung , tất người sau không lường được hung họa , lâu dài bại tuyệt . Vì Âm Dương sai thác , phu phụ thất ngẫu luân , nếu có phước lộc khó giữ lâu dài .
Nếu Cục – Hướng chân đích , cần có Lâm quan và Đế vượng hai Thủy hợp lưu về Mộ khố mà ra là hóa Tử vi Vượng đinh tài mới đại lợi .
CANH SƠN – GIÁP HƯỚNG.
1/Kiêm Dần Thân 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Bính Thân – Hướng Bính Dần.( 72,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa Canh Thân – Hướng Canh Dần.
Tú độ : Tọa sao Tất 10 độ - Hướng sao Vỹ 5 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa Canh Thân – Hướng Giáp Dần.
Thấu địa 60 Long : Tọa Quý Dậu – Hướng Đinh Mão , nạp âm thuộc Kim.
Độ tọa Huyệt : Ất Bình phân , Thủy độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Lôi Trạch quy muội.
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Tọa Tam sát hung.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Sát hung.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tiết cục kém.
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Vượng cục tốt.
2/ Kiêm Mão Dậu 3 phân.
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Canh Thân – Hướng Canh Dần.( 77,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa Bính Thân – Hướng Bính Dần.
Tú độ : Tọa sao Tất 3 độ - Hướng sao Tâm 5 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa Quý Dậu – Hướng Đinh Mão.
Thấu địa 60 Long : Tọa Ất Dậu – Hướng Kỷ Mão, nạp âm thuộc Thủy.
Độ tọa Huyệt : Đinh Bình phân , Hỏa độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Phong Trạch Trung phù.
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Tọa Tam sát hung.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Khắc Long hung.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tiết cục kém.
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Vượng cục tốt.
3/ Chân lịch số .
• Tiết Tiểu Mãn , Thái Dương đến Canh. Hội 2 phương Tốn , Quý đều cát .
• Tiết Tiểu Tuyết , Thái Dương đến Hướng Giáp, chiếu Canh tốt.
• Tiết Bạch Lộ : Thiên Đế đến Canh tốt.
Khai môn : Nên Dần, Giáp hợp chất khố tốt.
Phóng Thủy : Nên dùng Nhâm phương tốt. Tả Thủy đảo hữu hung , Hữu Thủy đảo tả tốt.
Hoàng Tuyền : Sát tại Cấn, Tốn phương .Không nên khai môn phóng Thủy.
Tạo táng : Canh Sơn – Giáp Hướng, Không nên dùng năm tháng ngày giờ Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục là phạm Tam sát hung. Nên dùng năm tháng ngày giờ Canh , Tân , Mậu , Kỷ - Thân , Dậu , Tị.
3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục Tọa Thân – Hướng Dần.
Tháng Giêng ( Dần ) : Kiếm Phong sát , an táng bất lợi .
Tháng 2 ( Mão ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 3 ( Thìn ) : Ất , Tân- Dậu, Bính , Canh – Tý tốt. Giáp, Bính , Canh , Nhâm – Thân tốt . Giáp, Bính , Canh , Nhâm – Ngọ thứ.
Tháng 4 ( Tị ) : Ất , Kỷ , Tân – Dậu , Ất Sửu tốt .Ất , Đinh , Kỷ - Sửu, Canh , Nhâm – Dần – Bình.
Tháng 5 ( Ngọ ) : Giáp, Bính, Canh , Nhâm - Thân tốt , Dần bình.
Tháng 6 ( Mùi ) : Tọa Tam sát hung không dùng.
Tháng 7 ( Thân ) : Kiếm Phong sát , an táng bất lợi .
Tháng 8 ( Dậu ) : Giáp,Bính , Canh , Nhâm - Thân tốt . Giáp,Bính , Canh , Nhâm –
Dần, Kỷ Dậu tốt.
Tháng 9 ( Tuất ) : Đinh , Tân – Dậu, Giáp,Bính , Nhâm – Dần , Giáp,Bính , Canh , Nhâm – Ngọ tốt.
Tháng 10 ( Hợi ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 11 : Giáp,Bính , Canh , Nhâm – Thân, Dần tốt .
Tháng 12 ( Sửu ) : Giáp,Bính , Canh , Nhâm – Thân, Ngọ, Dần tốt . Ất Dậu , Tân Dậu tốt.
CANH SƠN – GIÁP HƯỚNG.
1 / Canh Sơn – Giáp Hướng.
Kiêm Thân Dần 3 phân – Tên là Thiên Quý Long.
Thiên Quý Long cung rất cát tường,
Tinh này phúc lộc rất phi thường.
Nhi tôn cập đệ song toàn cả ,
Kế thế làm quan phước thọ trường.
Gặp hướng này phú quý song toàn , 10 đời y lộc không nhỏ , đại vượng nhân đinh.
Như hạ Huyệt 7 phân Canh sơn – Tọa Nhâm Thân – Hướng Nhâm Dần – Kim Long , Kim Hướng . Nếu Thủy ra Cấn Dần, Quý Sửu là Tham Lang chảy ra Nhâm Tý là Thai của Hỏa cục – Tức Mộc dục Hướng – Lộc Tồn lưu tận bội kim ngư là thượng cát .
Thủy từ Nhâm Tý , Càn Hợi là Đế vượng , đảo hữu ra Ất Thìn là Mộ khố của Thủy cục , Tử hướng tức là Hóa Tử vi Vượng cũng đại cát . Sách rằng : Lộc Mã Quý nhân trước sau chiếu , tử tôn vinh hoa ,6 năm đại phát . năm Tị - Dậu – Sửu sinh quý tử , 12-24 năm làm quan đến ngũ phẩm , 5 đời vinh quang , sang giầu.
Thủy ra Tốn Tị, Bính Ngọ là hung , 3 đời tuyệt .
2 / Canh Sơn – Giáp Hướng.
Chính Hướng – Tên là Tử Bại Long.
Long tinh Tử Bại khó trông mong,
Thối bại nhân đinh cùng lục súc .
Chẳng vượng con cháu lại khốn cùng.
Long này đại bại quan chức sản nghiệp, 4 sơn Canh tức Lộc ở Thân, Mã ở Hợi , sách rằng : Giáp Hướng Thủy lưu xuất Mão , gia trung thường ầm ĩ, trong 24 năm còn có tiền tài , về sau thối điền viên . Năm Thân – Tý – Thìn ứng điềm hung.
3 / Canh Sơn – Giáp Hướng.
Kiêm Dậu Mão 3 phân – Tên là Thiên Thành Long.
Long này phú quý song toàn , đời đời vinh hoa, trưởng út đồng phát.
Như hạ Huyệt 7 phân Canh sơn – Tọa Ất Dậu – Hướng Ất Mão – Thủy Long , Thủy Hướng , Dương lai Dương thọ.
Nếu thấy Càn Hợi, Nhâm Tý Thủy lai triều , tức Vũ Khúc Thủy xuất quan quý. Như Khôn Thân , Đinh Mùi là Tham lang Thủy lai triều xuất Khố tại Ất – là Hướng Hóa Tử vi Vượng , đại phát phú quý.
Ất làm mã, Giáp làm thực lộc , Cấn làm Cự Môn ngự vệ , Quý làm trống, Sửu làm cờ . 9 năm đắc phước , 11 năm đại phát , năm Thân – Tý – Thìn sinh quý tử, 18 năm xuất quý , 24 năm quý cực phẩm , 7 đời con cháu phát đạt .
Như Thủy xuất tại Tốn Tị , Bính Ngọ là Tuyệt , Thai cũng được phú quý, về sau gia sự điều linh , chủ xuất người dâm bôn, cờ bạc , rượu chè.
Xin theo dõi tiếp BÀI 13. dienbatn.
( dienbatn có việc phải đi xa ít ngày - Lúc về sẽ viết hầu các ACE tiếp nhé ).
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét