GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 11.

6/29/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 11.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) – Tiếp theo.
1/ TƯ LIỆU.
2/ KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵).
Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất Tự Đức, tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ (萬年基), sau cuộc Loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung (謙宮). Sau khi Tự Đức băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng (謙陵). Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của hoàng gia nhà Nguyễn.

Vua Tự Đức (Ảnh: Sưu tầm).
Tự Đức đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh.
Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn nhẫn, là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.
Tương truyền, dân chúng ta thán:
Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân .
Ngày 8-9 âm lịch năm Bính Dần (1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm vũ khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại. Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.
Tuy nhiên, do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời.
Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi.
Ta hãy nghe ý đồ khi xây dựng Lăng của Vua Tự Đức được ghi tại Bia Khiêm Cung Ký - Khiêm Lăng (lăng Hoàng đế Tự Đức)
“Thực lòng ta sợ một mai kia bỗng đuối sức mà không được như loài cáo thì quả là hổ thẹn, nên bèn sai quan thái sứ chuẩn bị xem đất, được chỗ đất rộng ở làng Dương Xuân thượng, đình thần sau khi xem xét lại cũng cho là xứng đáng. Bởi vì theo các nhà thuật sĩ mà làm thế, chứ với ta ta đâu quan tâm đến. Lại cho rằng năm ấy là năm Giáp Tý, tháng ấy là tháng Bính Tý đều thích hợp với việc thi công, ta đã suy nghĩ rồi làm theo. Rồi mỗi người một việc, ai lo việc nấy, cố gắng hết sức, chỗ đáng cao đắp cho cao, nơi đáng thấp đào cho thấp, mở mang đo đạc, chặt phá tảng đá lùm cây, rồi thành trì, cung điện, lầu gác, đình viện, nhà mát, hành lang, hồ đảo… dần dần hiện ra đúng vị trí và xứng hợp với nhau. Chính giữa là ngôi nhà vĩnh viễn của ta, xây theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, không xây lăng đắp nấm, chỉ dành một đám đất bằng, làm tường thấp, ngày sau chắc bắt chước Bá Lăng (22) dùng ngói để lợp.
Những mạch núi chạy từ xa tới gần gọi là Dẫn khiêm, Lao khiêm, Đạo khiêm, Long khiêm, Cư khiêm, Lý khiêm. Gò bên phải có tường bao quanh, trổ một cái cửa có lầu gọi là Khiêm cung môn. Điện phía trường gọi là Hòa khiêm, là nơi thờ phụng hương khói về sau; điện phía sau gọi là Lương khiêm là nơi nghỉ ngơi vui chơi. Phía đông của điện ấy là Minh khiêm đường dùng làm nơi nghe tấu nhạc, phía tây là Ôn khiêm đường dùng làm nơi cất giữ đồ ngự phục. Trong và ngoài cửa cung dựng bốn ngôi nhà ngang gọi là Công khiêm, Cung khiêm, Lễ khiêm và Pháp khiêm, là chỗ dành cho các quan túc trực. Sau hai điện ấy, dựng bốn viện gọi là Tùng khiêm, Dung khiêm, Y khiêm và Trì khiêm, là nơi ở của các phi tần theo hầu. Tiếp phía sau điện có một cái gác nhỏ gọi là Ích khiêm, tuy thấp nhưng đủ để nhìn phong cảnh gần đó. Phía ngoài của cửa trước dựng một cái hành lang gọi là Chí khiêm, hẹp nhưng đủ để thờ cúng các hầu thiếp đã khuất. Chỗ nước ít gọi là ao Tiểu khiêm xây theo hình trăng non, thế hoành chinh cục (23), trước cạn khô, chỉ để chứa nước mưa theo phép ô thanh thuật (24). Chỗ nước lớn gọi là hồ Lưu khiêm quanh co uốn khúc từ phải sang trái sâu và trong, mùa hạ không cạn, mùa thu không tràn vì đây vốn là ruộng sâu mà đào nên, lại xây một cái cống thông ra ruộng bên ngoài để vừa giữ vừa tháo nước. Hồ khi mới làm được một nửa mà đàn cá chi chít không sao kể xiết, không đợi bắt bò vào nuôi bởi vì vị trí ấy rất tiện lợi để đàn cá từ ngoài vào. Phía đầu hồ, vèn bờ đá, có dòng nước từ dưới đất phun lên, xem ở bờ đá ấy không thấy có chỗ hở mà nước lạnh và trong róc rách cứ rót mãi vào hồ ngày đêm không dứt, thực do trời sinh, nghi có mạch nước ngầm nhưng khó thấy rõ được. Nhân vậy bèn dựng một ngôi nhà nửa trên khô nửa dưới nước ở đó, sườn tre lợp tranh đủ che mưa nắng làm chỗ đậu cho hai chiếc thuyền nhỏ cũng gọi là Thuận khiêm và Ôn khiêm. Vào những lúc trăng thanh gió mát, dong thuyền chơi trên mặt hồ, hái hoa quân tử, ca khúc ái liên (25), sảng khoái lâng lâng không còn thêm gì nữa, bởi vì đầy hồ chỉ trồng một thứ hoa ấy. Bên cạnh hồ dựng lên hai nhà mát, một cái hai tầng khá cao và thoáng gọi là Xung khiêm; một cái ba tầng, các tầng thấp và hẹp gọi là Du khiêm, những đêm tháng năm có gió có trăng cũng đủ thú buông câu. Giữa hồ, do tính toán để giảm bớt công việc nên giữ lại đất đá đắp thành một hòn đảo lớn, dựng trên ấy ba ngôi đình nhỏ lấy tên là Nhã khiêm, Tiêu khiêm và Lạc khiêm. Núi đá bao quanh, hoa cỏ râm mát, làm bậc đá, làm động, làm rừng, làm hang, nuôi đủ chim bay thú chạy, mọi vật đều thích nghi với chỗ ở của mình. Trên hồ bắc qua ba chiếc cầu gọi là Tuân khiêm, Tiễn khiêm và Do khiêm để tiện việc qua lại mà cũng để đất nước được nối liền với nhau. Dưới chân núi bên trái, ở đó là Thể khiêm đình, nơi dựng bia làm chỗ tập bắn. Ngang lưng núi là Khiêm trai có hành lang ăn thông với ngôi lầu trên đỉnh núi, ấy là Di khiêm lầu nằm chót vót, hơi cao và thoáng, có thể trông xa được. Chung quanh là la thành được xây chỗ cao chỗ thấp tùy theo hình thế của gò núi nhưng đó đều do tay người làm cả, nhưng chưa bằng nhìn dãy núi ôm quanh bốn mặt, chỗ như bức tường, chỗ như bình phong, không xiên không hở, đây mới là la thành của thiên nhiên vậy. Ngoài có ba cửa là Vu khiêm, Tư khiêm và Thương khiêm trong có sáu cửa là Tất khiêm. Nhu khiêm, Huy khiêm, Năng khiêm, Mục khiêm và Liêm khiêm. Lại tùy sở thích hợp từng nơi từng lại mà làm giàn đậu, luống hoa, hàng cây, luống rau, làm hang động cho nai, đào ao cho cá. Tuy đất núi có vẻ xấu nhưng gieo trồng cũng dễ tốt, chăn nuôi cũng dễ phát triển, cũng có thể do khí đất ở đây khiên ra thế chăng.
Tên chung của nơi ấy gọi là Khiêm cung, sau này ắt gọi là Khiêm lăng. Lại sai làm miếu thờ thần để thờ cúng và ban sắc gọi miếu là Khiêm sơn thần.
Phàm tên gắn liền với nghĩa, không phải chỉ cốt cái tên mà thôi. Tại sao lấy cái Khiêm của ta mà khiến cho núi kia, nước kia, nhà cửa kia đều phải khiêm theo? Chung có khiêm chăng. Vả lại chúng biết gì? Gom lại mà định tên cho như thế thực chúng có chịu chăng? Mà sao ta lại chôn lấy chữ khiêm? Và khiêm ấy quả thực lòng nhân nhượng chăng?
Ôi! Khiêm là kính là nhường, có chỗ mà không ở, uốn mình xuống ngang với một ai là mang chịu ô nhục và tội lỗi như thể còn gì mà không nhường, không uốn mình, lại năng công đức gì mà chẳng khiêm? Vả chăng ta vốn quen giản dị, địa vị tuy ở chốn nhà vàng mà lòng thường như người áo vải. Trừ những buổi thiết triều phải dùng y phục đẹp đẽ, ngoài ra không có gì là lộng lẫy, tức cũng có nghĩa là có địa vị mà chẳng ở. Thêm vào đó, từ ngày xây cát cung này có lần sét đánh điện Hòa khiêm, dân đấy loan làm mê hoặc lòng người, xâm phạm đến đế khuyết, trời trách người oán bỗng dưng xảy đến, lòng ta còn lẽ nào mà chẳng dám chẳng khiêm? Trước sau chỉ biết một điều là kinh sợ, hết lòng lo nghĩ may ra gìn giữ vãn hồi trong muôn một thì khiêm kia há dám chẳng thực lòng hay sao? Cho nên hết thảy đều lấy tên là Khiêm, ấy cũng là tùy theo cảm xúc, như là để tự cảnh tỉnh răn đe, tự chê trách vậy. Không phải như Ngu Khê (26), không ngu mà chịu tiếng là ngu thì hơi đâu mà hỏi nó có thuận với tên ấy không? Ta không dám mong thế nào là bớt là thêm, là hại là phúc để dùng hay để tránh cái chữ khiêm ấy.
Vả lại ta làm cung này vì nghĩ cứ theo lệ thường thì ta phải có miếu riêng, có lăng tẩm, nếu không chuẩn bị trước thì ngày sau tôi con cứ tuân theo phép cũ khó tránh khỏi việc chọn chỗ cách trở xa xôi, phiền hà mệt nhọc, nên thực tình cốt để tiết giảm và thuận lợi. Huống chi nơi này nguồn lại thấp, rất gần với các lăng đời trước, đất nước hiền lành, chẳng phải nơi núi cao cây tốt, rất dễ thi công. Điện vũ tuy nhiều nhưng đặc biệt chỉ có Hoa khiêm, Lương khiêm và Di khiêm là làm bằng gỗ mới, còn lại đều nhặt nhạnh từ những ngôi nhà cũ, đem chỗ nọ bỏ vào chỗ kia mà công việc cũng phải đến ba năm mới xong. Tất cả việc xây cất sửa sang chi dùng kể đến hàng vạn lao phí như thế ta biết làm sao được. Than ôi! Xem câu nói của Thành Tử Cao (27) mà then thay.
Lăng làm xong, ta thân rước mẹ ta đến thăm, bày đủ yến tiệc, múa hát, lại cho phép quan trong quan ngoài cùng thê thiếp đến dự lễ lạc thành. Đấy cũng là thể theo ý quần thần chứ ta đâu dám bày ra nhiều nghi lễ làm gì. Nhưng ta cũng sẽ bắt chước Tư Không Biểu Thanh (28) dùng đấy làm nơi uống rượu ngâm thơ, không chỉ để dùng làm nơi ăn ở hẩm hút mà thôi. Về sau nhân lễ Thanh minh theo xe lên cáo lăng, tiện đường dừng lại chọn hái lấy những món ngon vật lạ, thơm ngọt tươi béo dâng lên để mẹ ta được vui lòng. Hoặc lúc nóng nực, để trút bỏ nỗi ưu phiền ta cũng tạm đến đây thăm viếng, nhưng trong một năm vài ba bận chẳng còn rảnh thay. Hoặc đang lúc tế Nam giao mà chưa thể thân hành dự tế lễ được thì cũng đứng dậy mà lạy vọng đến, bắt chước chuyện cũ Trúc cung (29) mà tỏ bày chút lòng thành kính.” (Phan Hứa Thụy dịch  ).
Sơ đồ Khiêm Lăng.

Góc nhìn gần hơn về lăng Tự Đức năm 1932. Ảnh Aavh.org

Không ảnh lăng Tự Đức .
Tổng thể kiến trúc Lăng nằm trong một vòng La thành rộng khoảng 12ha, gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành từng cụm trên những thế đất cao, thấp hơn nhau chừng 10m. Bố cục khu lăng gồm hai phần chính, trên hai trục song song với nhau ( Chú thích của dienbatn : Hai trục này không song song mà trục khu Mộ Vua là 81 độ và khu Tẩm điện là 88 độ ), lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm Tiền án, núi Dương Xuân làm Hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố Minh Đường. Các công trình trong Lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm đặt tên gọi.
Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Qua cửa Vụ Khiêm, đến khu vực hồ Lưu Khiêm, trên hồ có Xung Khiêm tạ và Dũ Khiêm tạ, nơi nhà vua thường đến ngắm hoa, làm thơ và đọc sách.


KHU VỰC TẨM ĐIỆN.



Chí Khiêm Đường .
Đầu tiên chính là Chí Khiêm Dương nằm phía bên trái nơi đây thờ các bà vợ của vua Tự Đức. Tiếp đến là ba dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn – một công trình gồm hai tầng dạng vọng lâu nhìn vào như một vế đối hoàn chỉnh với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước.
Hồ Lưu Khiêm trước đây là một con suối nhỏ chảy trong khu vực lăng sau đó được đào rộng trở thành hồ. Với ý nghĩa phong thủy quân bình âm dương ngũ hành, là nơi “tích phúc” đồng thời được trưng dụng để thả hoa sen tạo cảnh đẹp cho lăng. Bước trên những bậc tam cấp làm bằng đá nhà Thanh, Khiêm Cung Môn hiện lên như một thế đối đẹp mắt với hồ Linh Khiêm ở trước mặt. Một tòa nhà hai tầng được xây dựng với dạng vọng lâu, nằm bên con hồ mang yếu tố “minh đường” để “tụ thủy”, “tích phúc”. Ở đây người ta hay thả thả hoa sen, những bông sen mộc mạc, giản dị, đậm chất của con người Việt Nam đã đi vào biết bao câu văn ý thơ của những người thi sĩ thật là không có loài hoa nào có thể thay thế được. Đúng như những câu thơ đã đi vào tâm niệm của biết bao những người con dân Việt Nam: “Trong đầm gì đẹp bằng sen – Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng”.




Đi tiếp ba bậc tam cấp bằng đá thanh dẫn vào Khiêm Cung môn, rồi đến điện Hòa Khiêm, đây vốn là nơi làm việc của vua nhưng nay dùng để thờ phụng vua và hoàng hậu. Sau điện Hòa Khiêm đến điện Lương Khiêm, trước là chỗ nghỉ của vua và sau này trở thành nơi thờ mẹ vua, bà Từ Dũ. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm đường, nơi cất đồ ngự dụng. Phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để vua xem hát, đây được coi là nhà hát cổ nhất Việt Nam hiện còn được bảo tồn. Đây là nơi mang đậm dấu ấn văn hóa của thời kì vua Tự Đức, khiến không ít du khách cảm thấy vô cùng thích thú. Để phục vụ cho du lịch của khách trong nước và nước ngoài, hiện nay người ta vẫn thường tổ chức những buổi trình diễn văn hóa, văn nghệ vô cùng hấp dẫn.
Nhà hát Minh Khiêm.
Trên hồ Lưu Khiêm còn có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua thường lui đến hưởng thú tao nhã như ngắm cảnh, thưởng hoa, đọc sách,… Cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm được vắt qua hồ và qua bên kia hồ là đồi thông bạt ngàn gió vi vu.
Những cây cầu dẫn ta đến rừng thông xanh biếc bạt ngàn.
Xung Khiêm Tạ .


Quang cảnh nên thơ của hồ nước chảy êm đềm, rừng thông xanh biếc, hòa cùng tiếng chim hót. Tất cả khiến toàn cảnh lăng Tự Đức tựa như chốn thần tiên ảo mộng giữa đời thường. Vẻ đẹp bồng lai của lăng Tự Đức đúng như áng thơ sau:
Tứ bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên.
HÌNH TƯỢNG ‘CÁ HÓA RỒNG’ TRÊN MÁNG XỐI Ở XUNG KHIÊM TẠ: Trong kiến trúc triều Nguyễn thường xuất hiện hình con cá đang há miệng làm máng xối. Nghệ nhân xưa đặt hai con cá trong bố cục đối xứng nhau qua góc mái chầu, bằng chất liệu nề vữa đắp nổi, khảm sành sứ bên ngoài. Cá mang những đặc điểm của đầu rồng cách điệu như hai mắt xoắn ốc lồi lên, miệng há to, mũi tròn nhẵn. Theo tư tưởng Nho giáo, cá gắn với biểu tượng của nguồn nước, mang sự may mắn, báo hiệu điềm lành và sự trường thọ.
Hình tượng chữ “thọ” với bố cục hình tròn mang ý nghĩa phúc thọ, xuất hiện khắp nơi trong lăng Tự Đức.
Bên trong Khiêm Cung Môn là nơi nghỉ ngơi của vua, Điện Hòa Khiêm nằm ở vị trí trung tâm, trước để vua lo việc nước nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng Hậu.
Bước vào trong Khiêm Cung Môn là không gian nghỉ ngơi của nhà vua nên cầu kì về kiến trúc cũng như không gian xung quanh. Chính giữa đó chính là điện Hòa Khiêm, là nơi vua ngồi làm việc. Hiện tại, đây chính là nơi đặt bài vị của vua và hoàng hậu để dân chúng có thể đến đây để thăm quan và thắp hương. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, là nơi nhà vua nghỉ ngơi, hiện là nơi thờ vong linh của mẹ vua Tự Đức.


KHIÊM CUNG MÔN (CỔNG TAM QUAN): Công trình hai tầng này được xây dạng vọng lâu. Kiến trúc mái ngói của Khiêm Cung Môn mang dáng “mũi hài” (dạng mái hình thuyền), đặc trưng của nhà Nguyễn.

Diềm mái ngói của Khiêm Cung Môn đắp tác hình hai con rồng trong tư thế “lưỡng long chầu nguyệt” (biểu tượng cho tâm linh thần phục thánh thần).














Điện Linh Khiêm.
Hai bên là Pháp Khiêm Vũ và Lễ Khiêm Vũ dành cho bá quan theo hầu.Là một người con mẫu mực hiếu thảo vua Tự Đức dành riêng điện Lương Khiêm để thờ vong linh mẫu thân là bà Từ Dũ.
KHU LĂNG MỘ.
Ra khỏi khu vực tẩm điện, đi theo con đường quanh co, khách vãn cảnh sẽ đến khu lăng mộ. Nguyên vật liệu xây dựng ở khu tẩm điện chủ yếu là gỗ. Còn khu mộ địa lại được xây bằng đá nhà Thanh.


Bái Đình (sân chầu) mở ra khung cảnh uy nghiêm bởi hai hàng tượng quan viên văn võ đứng oai vệ, hùng dũng.
Ngay sau hai hàng tượng quan văn võ uy nghi là Bi đình (nhà bia), tấm bia làm bằng đá thanh lớn có khắc bài Khiêm Cung ký của vua Tự Đức dài 4.935 chữ để nói về cuộc đời, vương nghiệp cùng những lỗi lầm và sai phạm của mình. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành xây bằng gạch, chính giữa có ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi vua yên nghỉ.



Bi Đình (nhà bia), nơi có tấm bia đá khắc bài “Khiêm Cung Ký”, do chính vua Tự Đức soạn chiếu.
Lăng Tự Đức là một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình.
Tiếp sau tấm bia kia, hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng quyền uy và tài đức của nhà vua cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội, thì đúng là Tự Đức thật chu toàn đối với việc đón nhận cái chết. Mới hay, Tự Đức là hiện thân sự thâm thúy siêu tuyệt của Nho gia! Giờ đây, yên nghỉ trong ngôi nhà bằng đá bên trong Bửu Thành, giữa một rừng thông vi vu gió lộng hẳn nhà vua hoàn toàn mãn nguyện với sự dàn xếp, lựa chọn cho cái chết của mình.


Phía sau Bi Đình là hồ Tiểu Khiêm. Hồ có hình bán nguyệt ,đựng nước mưa, mang hàm ý rửa tội cho linh hồn của bậc đế vương. Bửu Thành – nơi chôn cất thi hài vua Tự Đức, tọa lạc ngay sau hồ. Chính diện của Bửu Thành có cánh cổng hai tầng mái, được khảm sứ cầu kỳ. Mộ vua được xây bằng đá, có hình dáng như một ngôi nhà (thạch thất).














Phía trước – sau đều có tấm bình phong làm tiền án và hậu chẩm, lấy hồ Tiểu Khiêm là yếu tố minh đường và xung quanh là tường thành bao quanh, bốn bề thông reo. Chính giữa là bia mộ vua được xây bằng đá. Tuy nhiên, thi hài của vua đang ở vị trí nào thì không một ai biết.
Tương truyền rằng, khi vua chết, đoàn quân đưa tang vua đi thuyền xuôi hồ Lưu Khiêm rồi vào đến đây thì đào một đường hầm xuống thẳng huyệt đạo. Họ chôn cất thi hài vua ở một vị trí bí mật, xong thì lấp lại bằng đá thanh và công trình có được hình dáng bề ngoài như chúng ta thấy. Sau đó thì những người đưa tang này không bao giờ trở ra nữa. Và bí mật về vị trí chôn thi hài của vua đến nay vẫn còn là một ẩn số. Một số người cho rằng chỉ có hoàng tử thân tín của vua biết, nhưng thực hư thế nào đến nay vẫn chưa hề được hé mở.
Có một điều đặt biệt là không phải riêng gì vua Tự Đức mới chọn cách mộ táng bí mật như vậy. Trong hầu hết các lăng mộ của các vị vua khác trong triều Nguyễn, vị trí chôn thi hài của nhà vua cũng được giữ bí mật. Lí do thì có rất nhiều. Xuất phát từ niềm tin vua vẫn tiếp tục sống và hưởng thụ phú quý ở một thế giới khác, người ta thường chôn cùng thi hài của vua những tài sản vàng ngọc và châu báu quý giá. Vì thế mộ vua sẽ dễ trở thành mục tiêu của những tên đào trộm mộ.
Bên cạnh nguyên nhân này, mộ vua cần được giữ bí mật vì một căn nguyên sâu xa nữa, đó là tránh sự trả thù. Để hiểu thêm về điều này thì chúng ta phải quay ngược về quá khứ để tìm hiểu mối thâm thù giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn – tức vua Quang Trung (Nguyễn Huệ).
Lúc bấy giờ khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thành công, vua Quang Trung lên ngôi nhưng vẫn chưa hoàn toàn yên tâm về cơ đồ mới được gây dựng của mình. Ông muốn triệt tiêu tận gốc mầm mống phục hưng của dòng họ chúa Nguyễn, bèn cho người đi tìm các phần mộ của các vị chúa Nguyễn từ đời Nguyễn Hoàng trở đi và cho đào tung hài cốt lên, xử trảm hài cốt và mỗi phần cho vứt mỗi nơi. Ông cho rằng làm như vậy để từ nay sự hưng thịnh của con cháu của chúa Nguyễn không bao giờ khôi phục được nữa.
Sau này, khi Nguyễn Ánh đánh bại triều đình Tây Sơn và lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, ông cũng đã cho quân lính truy tìm và khai quật mộ vua Quang Trung và đã trả thù cho tổ tiên của mình bằng đúng cách đó. Gia Long nói rằng: ” Ta vì chín đời mà trả thù.” Và có lẽ, chính mối thù này đã là một kinh nghiệm đau thương mà các vua nhà Nguyễn không bao giờ muốn lập lại.
Vì thế, khi xây lăng mộ, vị trí thi hài của nhà vua luôn được giữ bí mật. Tất nhiên, đây chỉ là một câu chuyện bên lề lịch sử , còn thực hư như thế nào thì trước nay lịch sử luôn có những dị bản. Và nếu quý khách muốn tìm hiểu thêm, thì tôi chắc chắn rằng còn có rất nhiều điều thú vị chưa được hé mở đằng sau những lăng mộ như thế này. 
Viết theo TÀI LIỆU THUYẾT MINH VỀ PHONG THỦY KINH THÀNH HUẾ và tư liệu trên internet, ảnh dienbatn chụp khi đi điền dã.
Xin theo dõi tiếp BÀI 12. dienbatn.

Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 10.

6/28/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 10.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵).

1/ TƯ LIỆU LỊCH SỬ .
Tự Đức (chữ Hán: 嗣德 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì (阮福時), là vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883, ông được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Dực Tông (阮翼宗). Trong suốt thời gian trị vì của mình ông chỉ sử dụng duy nhất một niên hiệu là Tự Đức (嗣德) nên thường được gọi với tên này.
Triều đại của ông đánh dấu sự suy yếu của nhà Nguyễn và nhiều sự kiện xấu với vận mệnh Đại Nam. Quân đội nhà Nguyễn ngày càng suy yếu, kinh tế trì trệ, trong khi nhiều cuộc nội loạn diễn ra trong cả nước. Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng. Trước tình hình người Pháp xâm lấn trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách, liên tiếp các năm từ 1864 đến 1881, các quan là Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Định liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách toàn diện đất nước nhưng các đình thần lại không thống nhất, nhà vua cũng không đưa ra được quyết sách dứt khoát. Mãi đến năm 1878, triều đình mới bắt đầu cử người thực hiện các bước đầu tiên trong quá trình cải cách là cho học tiếng nước ngoài, nhưng đình thần vẫn bất đồng và nảy sinh hai phe chủ trương cải cách và bảo thủ, rồi đến khi nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa.
Triều đình nhà Nguyễn ngày càng bất lực trước sự tấn công của Pháp, chỉ mong cắt đất cầu hòa. Cuối cùng, tới năm 1883, Tự Đức qua đời, ngay sau đó Pháp tấn công vào kinh đô và ép buộc nhà Nguyễn phải công nhận sự "bảo hộ" của Pháp trên toàn Đại Nam. Nhà Nguyễn sau thời Tự Đức chỉ còn là danh nghĩa, vua Nguyễn chỉ còn là bù nhìn, thực tế thì đã mất nước vào tay Pháp.
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (tức 22 tháng 9 năm 1829) tại Huế, là con thứ của vua Thiệu Trị và Phạm Thị Hằng (bà Từ Dụ). Khi còn nhỏ Hồng Nhậm còn có tên khác là Nguyễn Phúc Thì. Ngoài ra, theo truyền thống hoàng tộc Nguyễn Phúc có từ thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, hoàng tử sinh ra để dễ nuôi sẽ được đặt thêm tên có chữ Mệ, vì vậy thuở nhỏ ông còn được gọi là Mệ Tríu
Vì anh trai của ông, Nguyễn Phúc Hồng Bảo, là một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành nên vua Thiệu Trị trước lúc qua đời đã để di chiếu truyền ngôi cho ông. Bấy giờ ông mới 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm 1847 ông chính thức lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, bắt đầu từ năm sau là 1848. Khi Tự Đức lên cầm quyền, triều đình vẫn cai trị tuân theo phong cách Nho giáo.
Giữa khi đó, ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi, tức ngày 19 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức qua đời, hưởng thọ 54 tuổi. Bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu; miếu hiệu là Dực Tông (翼宗) và thụy hiệu là Anh Hoàng đế (英皇帝). Lăng ông gọi là Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Một điều rất đáng chú ý ở Khiêm Lăng là tấm bia ở Bi đình nặng trên 20 tấn do Tự Đức tự dựng cho mình. Thông thường, con phải dựng văn bia cho cha nhưng vì Tự Đức không có con ruột nên ông tự dựng. Trong văn bia này Tự Đức tự trách mình về việc để mất nước vì "ngu mà mong yên ổn, mờ tối không lo phòng bị từ khi việc chưa phát, tôi hay tướng giỏi cũng đã rơi rụng quá nửa, không ai nhắc nhở lời dạy của vua cha về việc đề phòng mặt biển đến giúp ta tránh khỏi chỗ lỗi lầm". Ông trần thuật "Ai là người cũng gìn giữ bờ cõi ta, vỗ yên nhân dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh dẹp, nhưng càng đánh dẹp càng loạn, mỏi mệt". Ông cũng trăn trở tính chuyện giữ nước, nhưng những quan đại thần được sai đi bàn định điều ước lại "không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết...". Tự Đức nhận trách nhiệm "không sáng suốt trong việc biết người, ấy là của ta; dùng người không đúng chỗ, cũng là tội của ta; hàng trăm việc không làm được; đều là tội của ta cả...". Ông "nuốt nước mắt, đành chịu tội với tôn miếu và nhân dân" và hối hận vì đã dùng người không sáng suốt, không xứng đáng, tình hình trong nước lại rối ren, tin chiến trường tới tấp, việc quan bộn bề, vua thêm gầy ốm, mang bệnh, không chăm lo chính sự được. Ông hổ thẹn nói rằng "Ta thực sự một mai chết đi thì tự thẹn trí khôn không bằng con cáo".
Tự Đức được đánh giá là một vị vua có tư cách tốt, tính tình hiền lành. Ông chăm chỉ xem xét việc triều chính và không hề trễ nải, được các quan nể phục. Theo Việt Nam sử lược, ông thường hay chít khăn vàng và mặc áo vàng, khi có tuổi thì ông hay mặc quần vàng và đi giày hàng vàng do nội vụ đóng, không ưa dùng trang sức, cũng không cho các bà cung phi đeo đồ nữ trang, chỉ cốt lấy sự ăn mặc sạch sẽ làm đẹp. Ông thường dậy sớm thiết triều từ 6 giờ sáng, chăm chỉ phê duyệt tấu chương, là một vị vua cần cù chăm chỉ.
Nhưng Tự Đức cai trị đúng vào một thời đại khó khăn, trong nước lắm loạn, bên ngoài thì có Pháp xâm lấn. Bản thân ông chăm chỉ nhưng không đủ tài để đưa ra các chính sách cải cách nhằm xoay chuyển cục diện đất nước. Trong việc chiến sự với Pháp, ông tỏ ra là người nhu nhược, quân triều đình mới thất bại vài trận mà ông đã lo cắt đất Nam Kỳ lục tỉnh để cầu hòa với Pháp, dù nghĩa quân chống Pháp ở Nam bộ vẫn đang chiến đấu và đã thu được một số thắng lợi.
Vua thì ở trong cung điện, việc đời không biết rõ nên phải lấy các quan làm tai mắt, nhưng các quan lại phò tá Tự Đức đều là người học hành theo lối khoa cử thời cũ, không am hiểu thời đại mới, cho nên mọi việc đều hỏng cả. Trần Trọng Kim đánh giá: "Dù rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông cũng không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác lý, thì cái lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ vậy".
Nhìn chung, sự thất bại của Tự Đức rất giống như vua Đạo Quang nhà Thanh, người cai trị cùng thời với ông. Cả 2 đều là những ông vua cần cù chăm chỉ, đề cao tiết kiệm nhưng lại không đủ quyết đoán và mưu lược, không có kiến thức về tình hình thế giới nên không thể cứu vãn đất nước đang gặp nguy biến từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Tính cách và khả năng của họ chỉ thích hợp cho việc cai trị vào thời bình, còn vào thời loạn thì không đủ để lãnh đạo đất nước.
Sử sách chép lại, vua Tự Đức có tất cả 103 bà phi tần, ngự thiếp. Tuy hậu cung đông đảo như thế, nhưng do thể chất ốm yếu, ông hay đau bệnh liên miên, lại thêm di chứng của bệnh đậu mùa nên không thể có con. Ngoại trừ Lệ Thiên Anh Hoàng hậu Võ Thị Duyên được phối thờ với nhà vua ở điện Hoà Khiêm bên trong Khiêm Lăng, tất cả các bà còn lại đều được thờ tại Chí Khiêm đường.
Tự Đức là vị vua hay chữ nhất triều Nguyễn. Theo một số tài liệu, sinh thời, vua sáng tác tới hơn 4.000 bài thơ. Giỏi văn chương, làm việc siêng năng nhưng trái với giai đoạn trước, triều Nguyễn dưới thời Tự Đức ngày càng suy yếu. Chính trong thời kỳ trị vì của mình, Tự Đức đã để đất nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Do bị bệnh từ nhỏ, cơ thể ốm yếu, Tự Đức cũng chính là vị vua duy nhất của triều Nguyễn không có con nối dõi, dù ông có tới cả trăm vợ.
Mất nước và không có người nối dõi được xem là những tội lớn của vua Tự Đức. Chính ông đã thừa nhận điều này trong tấm bia do chính vua dựng trước lăng của mình.
Chế độ phong kiến ở nước ta đã tỏ ra quá thủ cựu và lạc hậu. Một số triều thần được cử đi sứ nước Pháp như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Đinh Văn Điển, Bùi Viện... trở về đã dâng sớ xin cải cách mở cửa. Đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ đã năm lần bảy lượt kiên trì gửi tới nhà vua những bản "điều trần" trình bày hơn thiệt làm sao cho nước ta được canh tân theo kịp các nước châu Âu.
Nhưng trong triều thế lực bảo thủ quá lớn, lấn át tất cả mọi tiếng nói thức thời. Lại thêm chính sách bế quan tỏa cảng càng làm cho nước ta như một ốc đảo lạc hậu với thế giới bên ngoài. Cũng đúng vào thời điểm này, Thiên hoàng Minh Trị nước Nhật đã mở cửa, áp dụng công nghệ, kỹ thuật phương Tây làm cho nước Nhật trở nên hùng mạnh.
Mãi sau này, vào năm 1878, nhân xem báo Hương Cảng Tân văn, nhà vua thấy nói, muốn đưa đất nước tiến lên phải mở mang giao thương, học hỏi công nghệ phương Tây, chế tạo tàu biển, đúc súng ống... Và để làm việc ấy thì phải cho học ngoại ngữ và cử người đi học ở nước ngoài.
Nhà vua đem việc ấy ra hỏi ý kiến Viện Cơ mật, nhưng các viên quan ở đây đều bàn lùi, cho rằng không thể làm được. Chính nhà vua lúc này đã thấy được sự trì trệ, bèn phê chuẩn phải làm ngay việc học tiếng nước ngoài. Một số thanh niên được cử theo sứ bộ sang Xiêm học tiếng Thái. Nhưng động thái này của Tự Đức đã quá muộn mất rồi!
Tự Đức ốm yếu, phải luôn sống tại cung điện Huế, trừ mỗi năm hai lần nghỉ hè và nghỉ đông ở cửa biển Thuận An. Suốt đời vua chỉ đi xa một chuyến, đó là dịp phò giá vua cha ra Bắc nhận lễ thụ phong của nhà Thanh ở Thăng Long năm 1842, khi đó mới 13 tuổi. Chính vì kém sức khỏe nên khi lên ngôi, sứ thần sang nhà Phú Xuân làm lễ phong vương cho Tự Đức. Có những lần đích thân vua phải đứng làm chủ tế nhưng mệt lại phải sai Xuân thọ công Miên Định hoặc An phong công Hồng Bảo làm thay. Cũng chính vì lý do trên mà vua ít sát dân tình, ngày càng trở nên quan liêu, mệnh lệnh. Bù lại sự yếu kém sức khỏe, Tự Đức lại rất thông minh và có tài văn học. Vua thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya. Có thể nói Tự Đức là một trong những người uyên bác nhất thời đó và là môn đồ tích cực của Khổng học.
Lẽ dễ hiểu Tự Đức là người con rất có hiếu. Cũng mới lên nối ngôi, Tự Đức đã làm tang vua cha cực kỳ cẩn thận, trang trọng, tốn kém. Vua từng truyền phán.
- Sửa sang tang nghi là việc lớn, dẫn hợp cả tài lực của bốn bể năm châu cũng chưa dám cho là xa xỉ.
Vua cũng rất có hiếu với mẹ là Từ Dụ. Vua tự quy định ngày lẻ thì thiết triều, ngày chẵn vào chầu thăm mẹ. Như vậy, mỗi tháng vua ngự triều 15 lần, thăm mẹ 15 lần! Khi đến với mẹ thì sửa mình, nén hơi, quỳ xuống hỏi thăm sức khỏe, rồi cùng mẹ bàn luận kinh sách và sự tích xưa nay, nhất là chính sự. Từ Dụ là người thuộc nhiều sử sách, biết nhiều chuyện cổ kim. Hễ mẹ nói gì là vua ghi ngay vào sổ nhỏ gọi là "Từ huấn lục". Trải 36 năm ở ngôi, vua duy trì đều đặn nề nếp ấy, chỉ trừ lúc đau yếu. Chuyện kể rằng Tự Đức không thích gì hơn là đi săn để giải trí ngoài việc chính sự. Một hôm rảnh việc, vua đi săn tại vườn Thuận Trực gặp mưa lũ, không về kịp giỗ Thiệu Trị. Từ Dụ nóng ruột sai người đi đón. Thuyền ngự về đến bến, trời còn mưa to mà nhà vua liền ngồi kiệu trần đi thẳng vào cung lạy xin chịu tội. Từ Dụ ngồi xoay mặt vào trong, không thèm nói nửa lời. Tự Đức lấy roi mây dâng lên trát kỷ rồi tự nằm xuống xin chịu đòn. Từ Dụ tha cho mới đứng dậy.
Hằng năm đến kỳ nghỉ ở Thuận An, Tự Đức hay đi cùng mẹ. Xem thế đủ biết bà mẹ có ảnh hưởng lớn đến chính sự của nhà vua!
Tự Đức có dáng vẻ một nho sĩ, không cao không thấp, trạc người bậc trung, hơi gầy, mặt hơi dài, cằm nhỏ, trán rộng mà thẳng, mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh và hiền. Vua thường mặc quần áo màu vàng, chít khăn vàng và đi giày cũng màu vàng, không ưa trang sức và cũng không muốn cung nữ đeo đồ nữ trang, chỉ lấy sự sạch sẽ làm đẹp. Nhà vua siêng năng việc chính sự, sáng 5 giờ đã tỉnh giấc, 6 giờ đã ra triều. Vì thế, những buổi thiết triều, các quan cũng phải dậy sớm, thắp đèn ăn cháo để vào triều cho kịp. Vua thường ngự triều tại điện Văn Minh, bên tả bên hữu vu. Khi vua ra, thái giám tuyên triệu triều quan, các quan đều mặc áo thụng xanh, đeo bài ngà, quan văn bên hữu, quan võ bên tả... Bái mạng xong, bộ nào có việc thì tâu quỳ tại chỗ. Cạnh quan tấu có quan Nội các ghi chép lời vua ban. Các buổi thiết triều kéo dài đến chín mười giờ.
Lúc không thiết triều, vua làm việc ở chái Đông điện Cần Chánh: Nhà vua ngồi làm việc một mình, có vài thị nữ đứng hầu, mài son, châm thuốc hoặc để truyền việc. Triều quan không được vào chỗ ngự tọa, mọi việc lớn, nhỏ, nhà vua phải tự xem. Phiếu sớ từ các nơi gởi về nội các, được xếp vào trát tấu sự, đưa cho giám, giám đưa cho nữ quan dâng vua. Vua xem xong, giao lại nội các, Nội các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, sao lục gửi các bộ, nha thi hành. Những phiếu tấu có chữ "châu phê" của Tự Đức còn lại cho thấy nhà vua đã tốt chữ mà văn lại hay. Có nhiều tờ tấu, vua phê dài hơn cả lời tâu. Xem như thế, rõ ràng vua rất chăm chỉ và cẩn thận việc chính sự.
Tự Đức trị vì đất nước trong bối cảnh gặp nhiều thử thách sống còn. Nhà vua thiếu tính quyết đoán, phải dựa vào triều thần bàn việc, mà triều thần tuy có người thanh liêm và có thực quyền như Trương Đăng Quế song lại bảo thủ. Trên thế giới, khoa học và công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, thế mà đình thần quanh vua chỉ chăm lo việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì lấy Nghiêu Thuấn, Hạ, Thương Chu xa xưa làm gương, tự vỗ ngực là văn minh, chê thiên hạ là ngoại dị. Vì thế, Tự Đức cấm buôn bán ngày càng gay gắt hơn. Đến khi Gia Định đã rơi vào tay Pháp, nhà vua hỏi đến việc Phú quốc cường binh thì triều thần không đưa ra được kế sách gì. Cũng có những người đã đi ra ngoài du học hoặc được tiếp xúc, có cách nhìn mới, muốn thay đổi, cải cách như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ (1864), Nguyễn Trường Tộ (1866), Đinh Văn Điền (1868), Nguyễn Hiệp (1867), Lê Đĩnh (1881)... dâng điều trần xin nhà vua cải cách mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự... theo gương Nhật Bản, Thái Lan, Hương Cảng và các nước phương Tây. Đình thần hoặc cho là nói càn, bàn nhảm hoặc cho là không hợp thời thế hoặc còn để hỏi xem các tỉnh và làm từ từ...
Năm Mậu Dần (1878), xem báo "Hương Cảng tân văn", thấy bàn đến việc chấn hưng đất nước phải thông thương và chống lại bảo thủ, đúc súng, đóng tàu, cử người học tiếng nước ngoài, nhà vua muốn cho thi hành, bảo viện cơ mật xem xét rồi tâu lên. Viện cơ mật cho rằng thông thương, học tiếng, đóng tàu... thật là cấp thiết nhưng người Tây dương quán tất phải dần dần, làm ngay một lúc, thực khó được như ý, rồi còn phải chờ kỳ tiến công nhà Thanh năm tới, xem sao rồi liệu sau... Tự Đức xem lời tâu, dụ rằng:
- Xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến là thoái vậy!
Vua phê chuẩn việc học tiếng nước ngoài, sức cho làm ngay. Tháng 11 năm Mậu Dần (1878), cùng với sứ bộ sang Xiêm có một số thanh niên do Hồ Khắc Hài dẫn đầu sang học tiếng Xiêm.
Nhận ra và làm đến lúc đó đã là quá chậm, thế nhưng quần thần vẫn chần chừ, ngại cải cách, nếu có làm, lại dè dặt, nửa chừng... Triều đình chia thành hai phe: chủ chiến và chủ hòa. Những người chủ chiến dù rất anh dũng nhưng chiến đấu trong điều kiện quá chênh lệch về lực lượng, vũ khí nên cuối cùng bị thất bại.
Năm Nhâm Ngọ (1882), triều đình cử Thượng thư bộ Hình Phạm Thận Duật đi sứ Thiên Tân (Trung Quốc) cầu viện nhà Thanh đánh Pháp. Trung Quốc đang bị các nước phương Tây xâu xé, chẳng những không cứu được mà còn muốn nhân dịp này chiếm các tỉnh phía Bắc nước ta. Ngày 16/6 năm Quí Mùi (1883), Tự Đức mất, trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi. Triều đình Huế phải ký hòa ước Quí Mùi (1883) rồi hòa ước Patơnốt (1885), đất nước bị chia làm 3 kỳ chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp.
Tự Đức lấy vợ từ năm 14-45 tuổi và sau đó còn lấy thêm 103 vợ nữa, nhưng đến năm 35 tuổi vẫn chưa có con, mặc dù đã chạy chữa bằng mọi giá, cầu tự khắp đền chùa có tiếng trong nước, thậm chí nhà vua còn hạ cố lấy một phụ nữ đã qua một đời chồng, có con mà vẫn "vô hậu". Nhà vua phải nuôi lấy 3 người con các anh mình làm con nuôi: Ưng Chân, Ưng Kỷ và Ưng Đường. Di chúc nhà vua viết: "Trẫm nuôi sẵn ba con, Ưng Chân cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu, nhưng mặt hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, sợ sau không sáng, tính lại hiếu dâm, cũng rất là không tốt, chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này không dùng hắn thì dùng ai? Sau khi Trẫm muôn tuổi, nên cho Quốc công Ưng Chân nối nghiệp..." Về sau, Trần Tiến Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết là các phụ chính đại thần mưu bỏ vua này lập vua khác gây ra thảm kịch trong triều Nguyễn sau khi Tự Đức mất.
Thơ văn bình luận về ông rất nhiều:
I. Thông minh nhưng chẳng biết tùy thời,
Nên nỗi giang sơn phút biến dời.
Tự đại thành ra lầm thế nước,
Quá thiên chẳng chịu xét tài người.
Trứng đem chọi đá khoe chi sức,
Máu chảy thành sông vạ khắp nơi,
Mang hận nghìn thu về chín suối.
So vua Minh Trị vực xa trời.
(Huyền Phố)
II. Tổng vịnh làm gương sử nước ta,
Thông minh nhưng chửa nghĩ cao xa.
Nghề văn ham chuộng quên nghề võ,
Thế chiến không xong dỡ thế hòa.
Trong nước chỉ vui thơ Lý, Đỗ,
Ngoài vòng nào biết chuyện Anh Nga.
Phú cường thẹn mấy năm châu nhỉ,
Để hận nghìn thu đất nước nhà.
(Đỗ Văn Bàn).
Bia Khiêm Cung Ký - Khiêm Lăng (lăng Hoàng đế Tự Đức).

Khu vực lăng mộ, nơi có mộ vua, có sân chầu và nhà bia ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ uy nghi. Đáng để ý nhất là bài Khiêm cung ký được khắc trên bia đá do chính Vua Tự Đức viết, đặt một nhà bia đồ sộ kiên cố.
    Chuẩn bị khởi công dựng tấm bia đá này, Bộ Công đã phúc trình vào ngày 12 tháng 6 năm Tự Đức 27 (1874), về kích thước và số lượng chữ khắc như sau: “Bia Khiêm cung trong lòng dài 6 thước 3 tấc, rộng 3 thước 6 tấc. Mặt trước chia làm 46 hàng, trước và sau để trống 2 hàng ngự chế. Bài kí trên bia Khiêm cung tổng cộng có 5.109 chữ” .
Châu bản triều Nguyễn còn cung cấp thông tin về việc nhà vua châu điểm trên bản tấu của Bộ Công vào ngày 20 tháng 6 năm Tự Đức 32 (1879) rằng: “Khâm thiên giám chọn ngày mùng 2 tháng 7 dựng chân bia; Ngày 20 tháng 7 dựng thân bia. Đổng lý đôn đốc 1.000 biền binh thực hiện công việc dựng bia kí ở Khiêm cung” .
Châu bản triều Nguyễn, tập Tự Đức 166, tờ 60.Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I.
Đây là tấm bia có số lượng văn tự nhiều nhất ở Việt Nam với khoảng 5.000 chữ Hán khắc trên cả hai mặt bia, cũng là tấm bia có kích thước đồ sộ, trọng lượng lớn nhất trong các bia cùng loại ở lăng hoàng đế thời Nguyễn . Đặc biệt, bia Khiêm cung kí được đặt trong một nhà bia khá cao, giới hạn xung quanh bởi 04 trụ biểu lớn, tạo sự tương xứng toàn diện trong tổng thể kì vĩ của Khiêm lăng.
    Tấm bia với bài Khiêm cung kí là một tấm bia đặc biệt nhất trong số văn bia các vua nhà Nguyễn, bởi khác với văn bia của vua cha là do vua con soạn, thường là ca ngợi tính tình, đức độ và công nghiệp của cha. Khiêm cung kí do Vua Tự Đức soạn bày tỏ cùng thiên hạ về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình. Trong phần cuối, nhà vua nhận tội bản thân: “Biết người không tinh, là tội ở trẫm, dùng người không xứng, cũng là tội ở trẫm, phàm mọi việc làm không nên, đều là tội trẫm”. Sách Đại Nam thực lục chép rằng: “Đinh Mão, Tự Đức năm thứ 20 (1867) mùa thu tháng 7, Khiêm cung làm xong, vua rước Thái hậu cùng ra chơi. Các thân phiên, hoàng thân và quan văn từ ngũ phẩm, quan võ từ tứ phẩm trở lên đều mặc áo có bổ tử lạy mừng, ban yến và cho vật hạng có thứ bậc, sau vua tự làm bài ký Khiêm cung nhưng đợi khắc vào đá, làm nhà bia rồi mới dựng”
Bia Khiêm Cung Ký là tấm bia khắc bài văn bia do chính hoàng đế Tự Đức (1848-1883) soạn thảo năm 1871.
Bia hình chữ nhật. Hai mặt bia trang trí giống nhau nhưng bản khắc văn tự khác nhau. Trán bia hình khánh, chạm nổi đồ án “long vân” với hình mặt rồng chính diện ở phía trên và chòm đuôi xoắn ở phía dưới, xung quanh là hình mây và các đao lửa. Bốn tai bia chạm bốn hình rồng, trong đó hai tai bia phía trên chạm nổi đồ án “long thăng”; bốn tai bia phía dưới chạm nổi đồ án “hồi long”. Đường viền bia chạm nổi các đồ án “lưỡng long triều nhật”, “long thăng”, “long giáng”. Bệ bia tạo dáng chân quỳ, chạm trổ công phu: mặt ngoài chạm nổi và chạm lộng các đồ án rồng, mây, mặt hổ phù và hồi văn chữ S gấp khúc. Toàn bộ bia và bệ bia được đặt trên một nền đá thanh hai tầng, bốn phía có hệ thống bậc cấp.
Bia Khiêm Cung Ký nơi có khắc lời của vua Tự Đức.
Tất cả bia tại các lăng hoàng đế thời Nguyễn đều do vị hoàng đế kế nghiệp sáng tác với nội dung đề cao công lao, đức hạnh của vị hoàng đế đã mất, thường gọi là Thánh đức thần công bi ký. Riêng bia Khiêm Cung Ký do hoàng đế Tự Đức soạn thảo và nội dung bia ghi lại quá trình xây dựng lăng, mô tả cảnh quan lăng, đồng thời bày tỏ nỗi lòng của ông đối với đất nước cùng những việc riêng tư. Chính vì vậy, bia Khiêm Cung Ký là tấm bia độc bản, không trùng với bất cứ nội dung bia nào khác.
Đây là tấm bia có số lượng văn tự nhiều nhất ở Việt Nam với 4.935 chữ Hán khắc trên cả hai mặt bia, cũng là tấm bia có kích thước đồ sộ, trọng lượng lớn nhất trong các bia cùng loại ở lăng hoàng đế thời Nguyễn.
Hội đủ các đặc trưng của phong cách bia ký thời Nguyễn (bia hình chữ nhật, trán bia hình khánh, bốn góc có tai bia…), nhưng bia Khiêm Cung Ký là một tấm bia có kích thước đồ sộ, trọng lượng lớn nhất trong các bia cùng loại ở lăng hoàng đế thời Nguyễn. Đặt biệt, bia Khiêm Cung Ký được đặt trong một nhà bia khá cao, giới hạn xung quanh bởi 04 trụ biểu lớn, tạo sự tương xứng toàn diện trong tổng thể kỳ vĩ của Khiêm lăng.
Với 4.935 chữ Hán khắc trên hai mặt bia, bia Khiêm Cung Ký là tấm bia có số lượng văn tự khắc trên đá nhiều nhất. Đặc biệt bia Khiêm Cung Ký cũng là tấm bia duy nhât lưu giữ nét bút của chính tác giả văn bia - hoàng đế Tự Đức. Vì vậy, xét cả về nghệ thuật tạo hình, trang trí mỹ thuật và kỹ thuật chạm khắc, bia Khiêm Cung Ký có hình thức độc đáo nhất trong các bia lăng hoàng đế thời Nguyễn.
Nội dung văn bia không chỉ ghi lại tâm tư của một vị hoàng đế đang trong tình trạng “lực bất tòng tâm” trước nhiều thử thách và sự đổi thay của vận mệnh đất nước, mà còn cung cấp những thông tin cụ thể về hình thế cảnh quan phong thủy xung quanh khu vực lăng mộ của nhà vua: “Những núi đưa mạch đất từ xa đến gần, gọi là Dẫn Khiêm, Lao Khiêm, Đạo Khiêm, Long Khiêm, Cư Khiêm, Lý Khiêm…”. Theo đó, vị trí của lăng hoàng đế Tự Đức được lựa chọn trong mối quan hệ chặt chẽ với các di tích khác theo nguyện vọng của chủ nhân: “Lên cao mà nhìn bốn phía thì trước mặt là đàn Nam Giao, sau lưng là chùa Linh Mụ đã đủ rõ chí hướng bình sinh của ta rồi. Lúc sống chưa thể bày tỏ hết lòng thành thì khi chết lại được mãi mãi chầu hầu. Bên phải gần Xương Lăng, bên trái đối diện Văn Miếu đủ để an ủi niềm yêu mến ngưỡng mộ thành thực của ta, để ngày kia hồn phách ta có nơi nương tựa dài lâu thủy chung như nhất” (Khiêm Cung Ký).
Xét cả về nghệ thuật tạo hình, trang trí mỹ thuật và nội dung bi ký, bia Khiêm Cung Ký có hình thức và nội dung độc đáo nhất trong các bia đá cùng loại ở Việt Nam.
Năm 2015, Bia Khiêm Cung Ký được công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam.
(Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế ).
Để hiểu thêm về Vua Tự Đức ta cần tham khảo thêm bản dịch Bia Khiêm Cung Ký .
Khiêm Cung Ký: Toàn văn lời “tâm sự” của Vua Tự Đức .
Lời người dịch: Bài Khiêm Cung Ký dài ngót năm nghìn chữ, được chép trên cả hai mặt của một tấm bia có chiều cao đến 4 mét. Có lẽ đây là tấm bia có kích thước đồ sộ nhất trong số bia hiện còn ở nước ta. Đặc biệt Khiêm Cung Ký do vua Tự Đức tự soạn, lý do đơn giản là nhà vua không có con, nghĩa là không có người soạn văn bia cho mình như các vị vua trước đó, nhưng sâu xa hơn là nhà vua muốn “tỏ bày cùng thiên hạ” tâm sự của mình, tâm sự của một ông vua ngồi trên ngai khá lâu trong một tình cảnh hết sức đặc biệt cho nên “không khỏi tiếng thị phi”. Do tầm quan trọng của Khiêm Cung Ký xét trên nhiều bình diện, chúng tôi xin cung cấp bản dịch dưới đây nhằm cùng bạn đọc có dịp hiểu thấu đáo về vua Tự Đức. Để có bản dịch này, chúng tôi có tham khảo thêm bản dịch của cụ Bửu Kế đăng trên tạp chí Đại Học.
“ Khí trời nhẹ và trong nên được bền lâu, còn gió mây mưa móc không có hình dáng ổn định nên chẳng cần nói đến. Nếu có hình dáng thì tuy lớn như trái đất cũng có khi nứt ra từng mảnh nhỏ, sáng như mặt trời mặt trăng cũng có lúc khuyết xế che khuất âm u… Lại như núi cao, biển sâu, vàng bền, đá cứng đều là những vật trác tuyệt nhưng cũng không thể không lo đến đổ nát, cạn khô, hao mòn tan vỡ, huống hồ con người? Sống chết đối với con người là việc lớn nhưng cũng là việc bình thường. Nhan Hồi (1) chết non, Bành Tổ (2) sống lâu, Bá Di (3) hiền lành, Đạo Chích (4) tàn ác, sống vốn chẳng giống nhau nhưng chết thì không thể không giống nhau được. Bởi vì cái không mất là danh mà cái không thể không mất ấy là thân, đó là lý do vì sao phải gấp lo việc chết! Chôn là cất giấu, nhưng khác với loài cầm thú là ở chỗ lễ nghi và tình cảm mà thôi. Lệ xưa vua lên ngôi liền làm quan tài, hằng năm đem ra sơn một lớp rồi cất, ta nay đâu dám làm trái phép tắc của các đấng tiên vương? Người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ yếu!
Ta vốn bẩm sinh thể chất yếu đuối, lúc mới sinh ta, mẹ ta ốm đau hằng mấy tháng mới khỏi, vú nuôi ta lại không được cẩn thận sạch sẽ, mẹ ta bảo ban mà chẳng nghe, vì sợ ta bị tối tăm nên mới lên ba đã vội ngăn không cho ta bú nữa, rồi một mình mẹ ta tự tay bồng ẵm lấy. Ta từ đó ốm đau cứ kéo dài và đã từng nguy cấp, mẹ ta sớm chiều ôm ấp hết sức khó nhọc.
Lúc mới biết nói biết đi, ta đã từng cầm than vẽ vào tường, có người lấy làm lạ hỏi, ta trả lời là viết chữ “Trạng”, bởi vì tiến sĩ cập đệ (4b) tục gọi là trạng nguyên (5), ngày nay biết được việc ấy là do mẹ ta kể lại cả.
Lúc bắt đầu chừa tóc (6), mẹ ta bảo ta hãy tìm thầy để học tập, ngay khi đang học vỡ lòng ta đã làm được chúc đối, nhưng ngâm vịnh thì nào đã biết gì đến thanh luật. Cha ta nghiêm nhưng rất hiền từ, kẻ tiểu tử này (7) từ thuở mới sinh đến thời niên thiếu, nhân chỉ một lần vì tính ham chơi bè bạn mà bị đánh roi, nhưng từ đó về sau ta rất kính sợ. Cha ta thường ít bảo ban, mà đã bảo ban ắt ta cố gắng, lúc xem thơ và câu đối ta làm thì người tỏ ra vui vẻ lắm. Một hôm cha ta hỏi đùa các con: Con tên là gì và ý nghĩa của nó ra sao? Mọi người tùy ý mà trả lời, chẳng biết đúng sai thế nào cả. Tiểu từ này cứ y theo những điều đã học mà lý giải, nói: Hồng là nặng nề, lớn lao; Nhậm là gánh vác. Đáp xong cha ta ngoảnh lại cười rồi nói đùa rằng: Gánh gì mà nặng, gánh củi à?
Vua Tự Đức. (Tranh: Wikipedia)
Thái hậu (8) hiền từ nhưng nghiêm, thường ngày người dạy ta cách đi đứng nói năng cho phải phép, chẳng cho chơi lêu lổng, mỗi sáng ra học ở nhà ngoài đến gần trưa mới được vào, nếu có lãng quên lười biếng hay uể oải thì cũng tùy từng tội mà quở mắng. Nếu chưa thuộc bài thì người bắt ngồi học cho đến thuộc mới thôi, bằng không thì tuy có múa hát ngay trước mắt cũng chưa cho xem.
Tiểu tử này may nhờ được đùm bọc nuôi nấng, thuở bé học khá sáng, các loại sách vỡ lòng cấp tiểu học thì chỉ cần nửa ngày đã thuộc cả quyển. Được vậy cũng vì quá kính sợ sự giáo huấn nghiêm túc, cho nên là cũng may là ít bị đánh roi. Khi có lỗi nặng tất cũng không tránh khỏi ngọn roi, nhưng đánh xong mẹ ta lại khóc.
Hoàng khảo (9) mỗi khi đi đâu đều dắt ta theo, vườn Thường Mậu vừa mới lập xong cũng cho ta theo cùng ở. Hoàng khảo duyệt xét án mùa thu (10) chẳng dám khinh suất giao cho ai, tự thân viết tấu đến thâu đêm nhưng vẫn sai ta hầu bên cạnh để người đọc cho mà chép.
Năm ấy sắp hết, cha ta mới nhận lãnh ấn ngọc (11) gặp lúc việc hệ trọng, sáng ra chưa kịp gọi ai chỉ riêng gọi ta vào điện Hoàng Phúc để hầu hạ. Năm sau bảo ta ra ở tiềm để (12), sau đổi tên là Thiện Khánh, để tiện việc học tập. Lại năm sau, gặp việc bang giao quan trọng, người lại sung ta vào chức lưu kinh (13), nhưng sau lại sai ta theo xa giá ra Bắc rồi cho cùng tham gia nhiều công việc. Trên đường đi và về, sớm tối ta đều được theo hầu ở ngự dinh. Lại năm sau nữa ta được phong tước Công rồi cho ra ở phủ riêng và cưới vợ, ấy là năm ta đang chí tâm với việc học.
Tuy đã có gia đình nhưng hoàng khảo vẫn cho đòi vào hầu ở hội điện, cho ngồi hầu trong các bữa ăn, ân tứ của người đối với ta rất hậu, có đêm đến khuya khoắt mới được lui ra. Hoặc khi có sắc dụ hay những văn kiện lớn lao người cũng đều sai ta kiểm lại bài của người. Còn như ứng chế phú thơ, ấy là việc thường. Có lần người cho ta hầu cơm, cho cùng ăn, giữa bữa ăn cũng sai buông đũa để ngâm vịnh, lại còn sai bọn cung tần bưng đồ tứ bửu (14) bày ngay chỗ ngồi cho ta lựa lấy mà dùng, ơn mưa móc đến như thế thật không còn nghi ngờ gì nữa, tiểu tử này đâu dám vượt ra ngoài khuôn phép. Làm thơ xong, người lấy chén ngọc sớt đồ ăn ban cho và nói: Con ăn cái này là thừa hưởng phần thưởng ta ban. Có khi đang giữa tiệc rượu có tấu nhạc ca múa như thế cũng bảo ra làm thơ tức sự. Ta vâng lệnh làm một bài dâng lên, người lấy chiếc nhẫn vàng mặt ngọc ban cho rồi nói: Vật này chưa đủ gọi là quý, nay ban cho con với một lời là đừng làm thẹn lây kẻ đã sinh ra con, con nên ghi nhớ! Ta lạy nhận và ghi tạc lời dạy vào tâm cốt. Thật ra lúc ấy ta mới bắt đầu học Tứ thư, kinh Thi kinh Thư hiểu còn chưa trọn, thơ nhiều khi làm chưa nên câu, trong số anh em ta hoặc vì lười biếng, hoặc đang nhỏ, duy ta có phần hiểu biết hơn, may thay ứng đối nhanh nhẹn nên được thương yêu quá đặc biệt. Thật ân đức của bậc cha mẹ không cùng. Thực lòng cái học của ta chưa đến đâu, ruột còn trống không, nhưng từ khi làm hoàng tôn rồi đến hoàng tử, phàm những người được sung vào chức sư phó (15) đều không phải là những bậc cự nho tăm tiếng xứng đáng với sự tuyển chọn mà phần lớn là những ông tú già chỉ kham nổi việc dạy trẻ con, nên có hỏi những câu khó khăn thì họ cũng không lý giải được. Mặt khác vì thấy ta sớm sáng trí, để khỏi liên lụy vì trách nhiệm nên họ cứ lần lữa yên thân với cái hư chức nhàn nhã ấy. Ta cũng khổ là không có nhiều sách, chưa có hiểu biết sâu sắc nên chưa biết lấy sách làm niềm vui mà lấy việc cưỡi ngựa bắn tên làm thú, ấy là do tính khi tuổi trai trẻ. Nhưng rồi sức học tự nhiên ngày càng tấn tới mà chính bản thân ta cũng chẳng nhìn ra được, còn như các việc khen thưởng khác thì khó mà kể hết được. Như việc đi hầu bắn, ta thường bắn trúng, các chú các em ta cùng bọn thị vệ đi theo hầu đều từng chứng kiến. Đến như việc hoàng khảo bảo: Phàm đồ cung tên ngự dụng, thích thứ nào con cứ việc chọn lấy mà tập luyện, những thứ khí giới ấy ngày sau còn biết để cho ai? Có người biết đã ngầm hiểu ý của cha ta.
Một ngày nọ ta theo hầu bắn ở Cấm viên, có thái hậu theo hầu, ta đã bắn bốn cái tên, còn giữ một cái, cha ta ngoảnh lại bảo: Con hãy bắn mũi tên kia đi sao cho trúng đích để an ủi lòng mẹ con. Ta vâng lệnh trương cung nhả tên và may sao được ứng như lời dạy. Lòng thánh nhân vốn rất sâu xa, kẻ hời hợt làm sao hiểu được, ta cũng xem đấy là việc tự nhiên, biết đâu đã có người ghen ghét. Nếu có ai khuyên hãy vào nội các tập tành việc chính, ta thường trả lời đã có anh ta đấy.
Tính ta lại ít nói, hay thẹn thùng, cho nên không phải bạn chí thân, dù là thân cận đại thần gặp nhau lúc vào triều thì cũng ít khi bàn việc quan hay lên mặt như kẻ khác, do đó hầu như ta có rất ít người để giao thiệp nhưng ta vẫn cứ yên vui sống trong lặng lẽ và vụng về ấy.
Khí huyết ta vốn yếu đuối, thân thể thường gầy gò, trong lúc tuổi trẻ đang yên ổn này mà việc nối dõi còn khó có thể an ủi được lòng mong chờ của cha mẹ, thật quá hổ thẹn, nhưng đang buổi đầu ta chưa quan tâm lắm.
Gần đến tuổi trưởng thành, vào tháng sáu bỗng mắc bệnh đậu mùa rất nguy kịch, nhờ cha mẹ hết sức thuốc thang cầu đảo, tháng tám mới khỏi. Thời hạn điều trị chưa xong, vảy trên mặt chưa rụng nhưng vì lòng quá mong nhớ nên gượng bệnh vào chầu, đi và quỳ còn run chân nên được cho miễn lạy, lại ban cho sách Chi Thiện Đường Hội Tập và cha ta còn dạy rằng Tâm pháp và Trị pháp đều ở cả trong đó, con hãy học lấy mà làm theo. Lại triệu vào nội điện cho gặp thái hậu, vừa gặp nước mắt bỗng chảy dài vì đã lâu ngày mới được gặp lại. Lúc rảnh rỗi cha ta thường cho ta đọc lại thơ ngự chế, phỏng theo bài Khánh Vân Ca của Ngu Thuấn (16), noi theo vần trong nguyên tác mà lục soát lại rồi tâu lên, ta được khen thưởng rất hậu, nhân vậy người liền quở các quan nội các về việc kiểm soát không kỹ lưỡng.
Chưa bao lâu, hoàng khảo không được khỏe từ hạ tuần tháng ấy đến hạ tuần tháng chín, ta cùng với anh em, đại thần chầu trực trong cung cấm để hầu thuốc thang và thăm hỏi. Bấy giờ đang là mùa mưa lụt, tuy sức ta chưa bình phục hẳn, ta vẫn lặn lội rét mướt, ngày đêm khăn áo chẳng dám cởi, việc ăn nghỉ đều tiết giảm, mỏi mệt quá thì tựa cột chợp mắt một tí. Bỗng nghe tuyên triệu mà hồn bất phụ thể rồi kíp theo sứ vào chầu, tất cả đều là phận sự, tất nhiên ta chẳng lưu ý gì, chỉ mong có ngày sức khỏe hoàng khảo chóng bình phục để được nghe dạy bảo dài lâu, nào ngờ ý trời chẳng thương đã vội giao cho đứa con mọn này công việc lớn lao và khó khăn. Than ôi đau đớn thay!
Tuổi đang trẻ lại mới tập làm việc chính, chưa hiểu thấu đáo hết việc xưa người nay, nên chi rất đỗi mông muội, rất đỗi run sợ, âu lo e không kham nổi. Lại nhân chị ta là công chúa Diên Phước chẳng may qua đời, sợ mẹ ta quá đỗi đau lòng nên ta hết sức an ủi và khuyên giải.
Thể chất vốn yếu đuối mà cùng một lúc bao nhiêu chuyện dồn dập khiến bệnh cũ tái phát dữ dội, đến nỗi đã mấy phen nguy khốn. Nhờ hoàng tổ hoàng khảo ta, đức trạch quá sâu dày với mọi người, trong có hoàng thái hậu sắp đặt cung vi, ngoài có các cựu đại thần đức độ sửa sang việc triều quận, đồng lòng giúp rập, kính vâng noi theo nếp cũ, trong mười năm may không có lỗi gì to tát.

Tuy có bao giờ mà không nghĩ việc nuôi con là khó nhọc, nhưng bất đắc dĩ phải theo công luận làm cho rõ nghĩa lớn và tất cả đều vì xã tắc, lại nhớ tới câu ca lúa vải (17) thật hết sức hổ thẹn và đau xót. Lỗi của Chu Công mà không có Mạnh Tử thì ai tha thứ cho (18)? Lòng ta có như thế không? Hay ta vì bọn nhỏ nhen mà ta bị mê hoặc? Sao ta vội vàng đến nỗi tự quyết đoán như vậy, nhất thời cũng khó giãi bày hết được, trăm năm còn có sử xanh, ta nỡ nào! Đại khái sau việc xảy ra mới bàn đến người, ta không thể không giận bọn hiếu sự về những việc ấy. Cứ xem ngày sau ta uốn mình để làm nên việc đối với bọn mồ côi (19) mà không thể được thì lòng ta cũng có thể tỏ rõ cùng thiên hạ rồi. Còn như việc giặc cướp trong ngoài có lúc làm mê loạn lòng người nhưng rồi cũng yên, ấy là nhờ vào sức mọi người chứ mình ta thì chẳng làm gì được.
Ôi! Dốt nát mà quen sống yên ổn, mông muội mà ở chốn nhà cao cửa rộng chẳng biết phòng bị, tôi tài tướng giỏi cũng đã tàn tạ hơn phân nửa, mấy ai có thể khôi phục lời di huấn về việc canh giữ biên cương của cha ta để giúp ta bước ra khỏi vòng tội lỗi? Trời cao lại trừng phạt nặng nề để răn dạy vua tôi ta. Người Châu Âu xa cách trùng dương ngoài vạn dặm, phong tục chẳng giống nhau, mà nước Pháp vốn là nơi quen biết cũ, bỗng đưa quân lính thuyền bè đến, bỏ tình hòa hiếu mà tìm cách xâm lấn bờ cõi, chúng cậy tàu bền súng tốt giày xéo để hòng nuốt chửng đất Quảng Nam, phá phách đất Gia Định. Đất bắc vốn ưa làm loạn nhân thể cũng nổi lên. Hưởng thái bình đã lâu ngày, dân không biết chiến đấu, canh thành giữ chốt nào được mấy người? khiến đất nước đầy trộm cướp, trong gian ngoài giặc, chúng lén lút câu kết với nhau ngày càng tràn lan, chúng đến đâu thì tàn hại như gió bão, thử hỏi biết cùng ai để bảo vệ bờ cõi của ta huống chi là việc bảo vệ dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh qua loa cho xong chuyện nhưng dân thì ngày càng quấy nhiễu. Để thôi mệt nhọc, nhân giặc cầu hòa ta đành phải sai sứ cùng chúng hội ước, những nhà nho lão thành, những đại thần uy vọng đều lấy làm bùi ngùi và xin đi, rồi chẳng hiểu sao lại quá dễ dãi trong việc thương thuyết mà trở về. Các triều đã dày công khó nhọc mở mang đất đai tụ họp dân chúng, bỗng nhiên một sớm thảy giao cho địch, họ đã chọn lấy cái họa nhỏ nên đã dùng cái chết để khỏi nhục mạng vua (20), quả như thế chăng? Khiến ta cùng với một bề tôi thân cận (21) chẳng làm sao hơn, chỉ còn biết nhìn nhau mà nuốt nước mắt, đành đắc tội với tông miếu và thiên hạ Kẻ mất chẳng hoàn thành được ý chí và sự nghiệp; người còn thì đằng đẵng xót thương lo lắng không sao khuây được. Đó là cái dẫn đến chỗ thảm khốc. Nếu cho rằng đành bỏ cái đã mất để lo xoay xở cái nguy mới hiện ra, thật không làm như thế thì làm sao giữ được việc đã qua? Than ôi, nếu bỏ là có công tất mất là có tội, nếu mất mà chưa cho là tội thì sao bỏ lại gọi là công? Hai điều ấy chắc có thể phân biệt được. Kẻ kia làm mất nay ta thu lại được mới nên gọi là công, huống hồ kẻ kia làm mất, ta lại hùa theo mà bỏ luôn, ôi công sao? Sao có thể lo lường trái đến vậy mà cho là trí, dối trá như vậy mà cho là công? Những kẻ bàn luận riêng tư còn cho như thế, nên họ chối bỏ chẳng đoái nghĩ gì đến nước nhà, thế nên chẳng lạ gì họ ngày càng uể oải, trốn tránh, do đó chính sự ngày càng phiền phức, không biết lòng người có từng thổn thức đau đớn hay không? Nhưng không sáng suốt trong việc biết người ấy là tội của ta, dùng người không đúng chỗ cũng là tội của ta, hằng trăm việc không làm được đều là tội của ta cả, bất đắc dĩ phải thuận theo quyền mà hành động, những mong được một phút nghỉ ngơi nhưng thiên hạ từ đó bắt đầu sinh ra lắm chuyện…
Nhớ lại thời ấy, tin từ chiến trường gửi về vội vàng, tới tấp, công việc trọng yếu lại cần kíp, ngày đêm ăn nghỉ mất cả điều hòa, như điên cuồng, như mê loạn, đến nay nỗi kinh hoàng ấy còn chưa định tính, nên tật bệnh ngày một tăng, rồi chẳng may có một phen quá nặng đã chết đi sống lại, từ đó đầu choáng, mắt hoa, chân yếu, bụng ứ, những hư chứng thảy đều xuất hiện, nên việc tế tự không thể thân hành, việc triều chính không thể cần mẫn được. Vì vậy càng về sau ta càng bị chê bai phỉ báng. Thực lòng ta sợ một mai kia bỗng đuối sức mà không được như loài cáo thì quả là hổ thẹn, nên bèn sai quan thái sứ chuẩn bị xem đất, được chỗ đất rộng ở làng Dương Xuân thượng, đình thần sau khi xem xét lại cũng cho là xứng đáng. Bởi vì theo các nhà thuật sĩ mà làm thế, chứ với ta ta đâu quan tâm đến. Lại cho rằng năm ấy là năm Giáp Tý, tháng ấy là tháng Bính Tý đều thích hợp với việc thi công, ta đã suy nghĩ rồi làm theo. Rồi mỗi người một việc, ai lo việc nấy, cố gắng hết sức, chỗ đáng cao đắp cho cao, nơi đáng thấp đào cho thấp, mở mang đo đạc, chặt phá tảng đá lùm cây, rồi thành trì, cung điện, lầu gác, đình viện, nhà mát, hành lang, hồ đảo… dần dần hiện ra đúng vị trí và xứng hợp với nhau. Chính giữa là ngôi nhà vĩnh viễn của ta, xây theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, không xây lăng đắp nấm, chỉ dành một đám đất bằng, làm tường thấp, ngày sau chắc bắt chước Bá Lăng (22) dùng ngói để lợp.
Những mạch núi chạy từ xa tới gần gọi là Dẫn khiêm, Lao khiêm, Đạo khiêm, Long khiêm, Cư khiêm, Lý khiêm. Gò bên phải có tường bao quanh, trổ một cái cửa có lầu gọi là Khiêm cung môn. Điện phía trường gọi là Hòa khiêm, là nơi thờ phụng hương khói về sau; điện phía sau gọi là Lương khiêm là nơi nghỉ ngơi vui chơi. Phía đông của điện ấy là Minh khiêm đường dùng làm nơi nghe tấu nhạc, phía tây là Ôn khiêm đường dùng làm nơi cất giữ đồ ngự phục. Trong và ngoài cửa cung dựng bốn ngôi nhà ngang gọi là Công khiêm, Cung khiêm, Lễ khiêm và Pháp khiêm, là chỗ dành cho các quan túc trực. Sau hai điện ấy, dựng bốn viện gọi là Tùng khiêm, Dung khiêm, Y khiêm và Trì khiêm, là nơi ở của các phi tần theo hầu. Tiếp phía sau điện có một cái gác nhỏ gọi là Ích khiêm, tuy thấp nhưng đủ để nhìn phong cảnh gần đó. Phía ngoài của cửa trước dựng một cái hành lang gọi là Chí khiêm, hẹp nhưng đủ để thờ cúng các hầu thiếp đã khuất. Chỗ nước ít gọi là ao Tiểu khiêm xây theo hình trăng non, thế hoành chinh cục (23), trước cạn khô, chỉ để chứa nước mưa theo phép ô thanh thuật (24). Chỗ nước lớn gọi là hồ Lưu khiêm quanh co uốn khúc từ phải sang trái sâu và trong, mùa hạ không cạn, mùa thu không tràn vì đây vốn là ruộng sâu mà đào nên, lại xây một cái cống thông ra ruộng bên ngoài để vừa giữ vừa tháo nước. Hồ khi mới làm được một nửa mà đàn cá chi chít không sao kể xiết, không đợi bắt bò vào nuôi bởi vì vị trí ấy rất tiện lợi để đàn cá từ ngoài vào. Phía đầu hồ, vèn bờ đá, có dòng nước từ dưới đất phun lên, xem ở bờ đá ấy không thấy có chỗ hở mà nước lạnh và trong róc rách cứ rót mãi vào hồ ngày đêm không dứt, thực do trời sinh, nghi có mạch nước ngầm nhưng khó thấy rõ được. Nhân vậy bèn dựng một ngôi nhà nửa trên khô nửa dưới nước ở đó, sườn tre lợp tranh đủ che mưa nắng làm chỗ đậu cho hai chiếc thuyền nhỏ cũng gọi là Thuận khiêm và Ôn khiêm. Vào những lúc trăng thanh gió mát, dong thuyền chơi trên mặt hồ, hái hoa quân tử, ca khúc ái liên (25), sảng khoái lâng lâng không còn thêm gì nữa, bởi vì đầy hồ chỉ trồng một thứ hoa ấy. Bên cạnh hồ dựng lên hai nhà mát, một cái hai tầng khá cao và thoáng gọi là Xung khiêm; một cái ba tầng, các tầng thấp và hẹp gọi là Du khiêm, những đêm tháng năm có gió có trăng cũng đủ thú buông câu. Giữa hồ, do tính toán để giảm bớt công việc nên giữ lại đất đá đắp thành một hòn đảo lớn, dựng trên ấy ba ngôi đình nhỏ lấy tên là Nhã khiêm, Tiêu khiêm và Lạc khiêm. Núi đá bao quanh, hoa cỏ râm mát, làm bậc đá, làm động, làm rừng, làm hang, nuôi đủ chim bay thú chạy, mọi vật đều thích nghi với chỗ ở của mình. Trên hồ bắc qua ba chiếc cầu gọi là Tuân khiêm, Tiễn khiêm và Do khiêm để tiện việc qua lại mà cũng để đất nước được nối liền với nhau. Dưới chân núi bên trái, ở đó là Thể khiêm đình, nơi dựng bia làm chỗ tập bắn. Ngang lưng núi là Khiêm trai có hành lang ăn thông với ngôi lầu trên đỉnh núi, ấy là Di khiêm lầu nằm chót vót, hơi cao và thoáng, có thể trông xa được. Chung quanh là la thành được xây chỗ cao chỗ thấp tùy theo hình thế của gò núi nhưng đó đều do tay người làm cả, nhưng chưa bằng nhìn dãy núi ôm quanh bốn mặt, chỗ như bức tường, chỗ như bình phong, không xiên không hở, đây mới là la thành của thiên nhiên vậy. Ngoài có ba cửa là Vu khiêm, Tư khiêm và Thương khiêm trong có sáu cửa là Tất khiêm. Nhu khiêm, Huy khiêm, Năng khiêm, Mục khiêm và Liêm khiêm. Lại tùy sở thích hợp từng nơi từng lại mà làm giàn đậu, luống hoa, hàng cây, luống rau, làm hang động cho nai, đào ao cho cá. Tuy đất núi có vẻ xấu nhưng gieo trồng cũng dễ tốt, chăn nuôi cũng dễ phát triển, cũng có thể do khí đất ở đây khiên ra thế chăng.
Tên chung của nơi ấy gọi là Khiêm cung, sau này ắt gọi là Khiêm lăng. Lại sai làm miếu thờ thần để thờ cúng và ban sắc gọi miếu là Khiêm sơn thần.
Phàm tên gắn liền với nghĩa, không phải chỉ cốt cái tên mà thôi. Tại sao lấy cái Khiêm của ta mà khiến cho núi kia, nước kia, nhà cửa kia đều phải khiêm theo? Chung có khiêm chăng. Vả lại chúng biết gì? Gom lại mà định tên cho như thế thực chúng có chịu chăng? Mà sao ta lại chôn lấy chữ khiêm? Và khiêm ấy quả thực lòng nhân nhượng chăng?
Ôi! Khiêm là kính là nhường, có chỗ mà không ở, uốn mình xuống ngang với một ai là mang chịu ô nhục và tội lỗi như thể còn gì mà không nhường, không uốn mình, lại năng công đức gì mà chẳng khiêm? Vả chăng ta vốn quen giản dị, địa vị tuy ở chốn nhà vàng mà lòng thường như người áo vải. Trừ những buổi thiết triều phải dùng y phục đẹp đẽ, ngoài ra không có gì là lộng lẫy, tức cũng có nghĩa là có địa vị mà chẳng ở. Thêm vào đó, từ ngày xây cát cung này có lần sét đánh điện Hòa khiêm, dân đấy loan làm mê hoặc lòng người, xâm phạm đến đế khuyết, trời trách người oán bỗng dưng xảy đến, lòng ta còn lẽ nào mà chẳng dám chẳng khiêm? Trước sau chỉ biết một điều là kinh sợ, hết lòng lo nghĩ may ra gìn giữ vãn hồi trong muôn một thì khiêm kia há dám chẳng thực lòng hay sao? Cho nên hết thảy đều lấy tên là Khiêm, ấy cũng là tùy theo cảm xúc, như là để tự cảnh tỉnh răn đe, tự chê trách vậy. Không phải như Ngu Khê (26), không ngu mà chịu tiếng là ngu thì hơi đâu mà hỏi nó có thuận với tên ấy không? Ta không dám mong thế nào là bớt là thêm, là hại là phúc để dùng hay để tránh cái chữ khiêm ấy.
Vả lại ta làm cung này vì nghĩ cứ theo lệ thường thì ta phải có miếu riêng, có lăng tẩm, nếu không chuẩn bị trước thì ngày sau tôi con cứ tuân theo phép cũ khó tránh khỏi việc chọn chỗ cách trở xa xôi, phiền hà mệt nhọc, nên thực tình cốt để tiết giảm và thuận lợi. Huống chi nơi này nguồn lại thấp, rất gần với các lăng đời trước, đất nước hiền lành, chẳng phải nơi núi cao cây tốt, rất dễ thi công. Điện vũ tuy nhiều nhưng đặc biệt chỉ có Hoa khiêm, Lương khiêm và Di khiêm là làm bằng gỗ mới, còn lại đều nhặt nhạnh từ những ngôi nhà cũ, đem chỗ nọ bỏ vào chỗ kia mà công việc cũng phải đến ba năm mới xong. Tất cả việc xây cất sửa sang chi dùng kể đến hàng vạn lao phí như thế ta biết làm sao được. Than ôi! Xem câu nói của Thành Tử Cao (27) mà then thay.
Lăng làm xong, ta thân rước mẹ ta đến thăm, bày đủ yến tiệc, múa hát, lại cho phép quan trong quan ngoài cùng thê thiếp đến dự lễ lạc thành. Đấy cũng là thể theo ý quần thần chứ ta đâu dám bày ra nhiều nghi lễ làm gì. Nhưng ta cũng sẽ bắt chước Tư Không Biểu Thanh (28) dùng đấy làm nơi uống rượu ngâm thơ, không chỉ để dùng làm nơi ăn ở hẩm hút mà thôi. Về sau nhân lễ Thanh minh theo xe lên cáo lăng, tiện đường dừng lại chọn hái lấy những món ngon vật lạ, thơm ngọt tươi béo dâng lên để mẹ ta được vui lòng. Hoặc lúc nóng nực, để trút bỏ nỗi ưu phiền ta cũng tạm đến đây thăm viếng, nhưng trong một năm vài ba bận chẳng còn rảnh thay. Hoặc đang lúc tế Nam giao mà chưa thể thân hành dự tế lễ được thì cũng đứng dậy mà lạy vọng đến, bắt chước chuyện cũ Trúc cung (29) mà tỏ bày chút lòng thành kính.
Lên cao mà nhìn bốn phía thì trước mặt là đàn Nam giao, sau lưng là chùa Linh Mụ đã đủ rõ chí hướng bình sinh của ta rồi. Lúc sống chưa thể bày tỏ hết lòng thành thì khi chết lại được mãi mãi chầu hầu. Bên phải gần Xương lăng (30), bên trái đối diện Văn Miếu đủ để an ủi niềm yêu mến ngưỡng mộ thành thực của ta, để ngày kia hồn phách ta có nơi nương tựa dài lâu thủy chung như nhất. Chung quanh bao nhiêu là mồ mả, cũ mới ngổn ngang, một nửa cố nhân đã mất, lại có những ngôi mộ mà chẳng biết là của bậc công thần danh tướng hay thường dân nằm la liệt như thế. Trèo lên Bắc nam mà trông Hao lý (31), gió hàng dương réo rắt bi thảm suốt đời không thôi, thế thì đời người hấp tấp lo toan để làm gì? Thì cần chi phải chỉ con đường Tân Phong (32) mà những ngậm ngùi!
Điều ta vẫn mãi bùi ngùi là việc học chưa thành, chỉ chưa thỏa, hư danh chẳng xứng với thực tội, thể chất lại yếu đuối không đủ sức đảm đương nhiều việc. Như nay, ngoài thì bờ cõi bị mất chưa giành lại được, trong thì giặc giã hoạn nạn chưa yên, việc nối dõi lại chậm chạp khó khăn, chưa tìm được người kế tục thì biết nương nhờ vào ai để trông coi công việc? Những may trời sinh tinh tốt, lương tri lương năng chưa phải tối tăm, tuy bệnh tật quá nhiều, phẫn uất quá lớn, không khỏi có lúc nóng nảy giận dữ nhưng tất nhiên đều có nguyên nhân cả; nhưng bất cứ việc gì ta cũng khoan hậu, không dám làm càn. Do đó, nắm quyền sinh sát lâu ngày nhưng chưa hề tự chuyên giết lấy một người khi án chưa rõ, cho đến việc vui buốn cũng không bao giờ để lộ ra mặt.
Từ trước đến nay có lẽ ta đau buồn nhất là vào một ngày mùa thu ta hầu bệnh hoàng khảo, bệnh nặng đến mấy lần bị hôn mê, tả hữu hầu hạ đều xa lánh, chỉ mình ta lên giường bệnh thân hành tự đổ thuốc, nước mắt giàn giụa, kêu gào như kẻ cuồng điên, cũng may mà khí dương dần dần hồi phục cho ta kịp hầu hỏi han được một đôi điều. Đến ngày ninh lăng, cầm đầu các hoàng thân đại thần đưa tử cung đến yên nghỉ ở huyền cung, ta gục đầu rất đỗi thương xót, bịn rịn một bên hầu như không còn biết đến thân mình nữa. Các đại thần mời ta ra, ta cũng chẳng biết, đông các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn phải cầm tay dắt ta ra. Thực mà nói cả đời ta chưa bao giờ đau buồn như lần ấy. Mặt khác, hoặc nghe thấy chuyện của các trung thần hiếu tử thì ta bỗng buồn bã nghẹn ngào đến rơi nước mắt khiến đọc sách cũng không thành tiếng. Ngoài ra, cái mà người đời cho là buồn ta cũng chẳng buồn lắm, cái người đời cho là vui ta cũng chẳng vui lắm. Nay ta ưa đọc sách, khổ nỗi là không được rảnh rang, cho dù chưa thể hiểu rõ, chưa thể nhớ lâu ta cũng chẳng dám lấy lời của người làm lời của mình, không giả dối, không lục lọi đẽo gọt. Nhớ xưa cần chánh điện đại học sĩ Trương Đăng Quế thường nói: Hãy thuận theo số trời. Tuy lời nói chỉ mới hiểu được một nửa nhưng cũng đủ để gọi đó là người tri kỷ bậc nhất trong đời, lời nói của người bạn cũ dễ gì quên được!
Ta thường nói: trải qua các đời vua chẳng thiếu gì người hay kẻ dở, nhưng nếu lấy công danh mà nói thì Hán Văn chẳng bằng Đường Thái (33), nhưng lấy đức độ mà nói thì Đường Thái kém xa Hán Văn, đấy cũng là trời phú cho cả, bản thân ta không sao tự định lấy được. Ta không dám coi nhẹ Đường Thái nhưng ………… mong được như Hán Văn, cho nên việc gì cũng cốt điều thật, chăm chút nuôi răn, vun đắp gốc rễ, ấy là điều ta hằng tâm niệm. Ngày đêm phán quyết mọi việc, mắt đọc tay phê còn sức đâu để làm gì nữa, tuy chẳng tránh khỏi thú vui chơi thanh sắc, săn bắn, bài bạc nhưng chẳng qua cũng chỉ là những món tiêu khiển tầm thường chẳng kể làm gì, thực đâu dám làm sâu dân mọt nước, điều ta hằng mong vẫn chưa thực hiện được vì đức ta chưa đủ để cảm hóa thói tục, tài ta chưa đủ để giáo hóa con người. chí lớn mà hiểu biết ít ỏi, muốn nặng nhưng chỉ được nhẹ. Nhìn xem phong tục thế giới ngày nay như thế nào? Phong tục thế giới không chỉ ở các nước xa xôi chỉ lo giành giật công lợi một cách dối trá, mà đến cả công khanh sĩ thứ của các nước văn minh cũng lắm kẻ tham tàn gian dối, lâu ngày trở thành thói quen, phô bày công mỏng, che giấu tội dày, cam lòng vì lợi bỏ quên nguy lớn, nếu có người nào nước nào cho là lạ thì chúng đều bảo là ngu và dùng lời mỉa mai đáp lại. Thật còn hơn cả thời Xuân thu chiến quốc, dẫu Khổng Mạnh có sống lại cũng chưa chắc đã làm gì được! Ôi cứ xem nước Đại Thanh (34) mà cũng không thể giữ được mình còn nói gì đến các nước khác. Ta nay, trong thì không có niềm vui về đường nối dõi, ngoài thì nhiều việc chưa yên, một mình với biết bao lo âu tội lỗi xảy đến, người sức khỏe bình thường còn chưa kham nổi huống gì ta. Ta chỉ lấy một chữ THÀNH để chế ngự mọi xấu xa, ngoài ra ta còn biết tin vào đâu nữa, chỉ có trời mà thôi. Nhưng cái tin của ta chẳng phải tin vào vận số của trời mà chỉ riêng tin vào đạo lý của trời thì thực ta cũng đã hết lòng rồi vậy, mà khi đã hết lòng thì Khiêm có thể bảo vệ được thái bình. Cho nên ta chẳng dám chẳng khiêm để thực hiện trọn đạo làm người, có được thái hòa chính là do sự thể hiện của Khiêm vậy, ta đâu dám không gắng sức để có thái hòa, để đạo trời thêm sáng?
Thế mới biết Nhu thắng mà Cương cũng thắng mới cân bằng và tồn tại, nhún nhường và chịu nhún nhường, hai điều ấy có mối quan hệ với nhau, không những chúng không trái nhau mà còn thúc đẩy nhau để thành tựu.
Thế nên nói Đạo trời cứu giúp xuống kẻ dưới, người quân tử hãy giữ cho trọn đạo (35), do đó nếu không phải là người từng trải nhiều về sự lo âu đau đớn thì làm sao hiểu ta để cùng ta tâm sự và không cùng một cách nghĩ với ta thì sau này khi xem công việc của ta chớ nên bực dọc. Tâm trí đau khổ dằng dặc suốt cả sớm chiều, rồi bỗng dưng như cuồng loạn, nếu không có ân đức thánh nhân thì ai vực ta dậy, nên ta cứ chờ đợi mãi. Chỉ có trời và thánh nhân mới hoàn tất được chí của ta, ta chẳng dám vì không thể làm được mà không làm, không thể giáo hóa được mà không giáo hóa, một ngày cũng hết lòng vì trách nhiệm một ngày.
Nay chép vào đây đều là sự thực cả, chỉ có mình ta chứ nào ai thấu được, ngõ hầu thổ lộ phần nào cái chí của ta cùng thiên hạ. Còn như công việc của ta hay dở thế nào thì đã có ngọn bút của các nhà viết sử, đến như văn vẻ chữ nghĩa thế nào cũng chẳng cần bàn nữa. Ngày sau, may mà gặp người có thế gửi gắm được chí của ta thì ta ắt cho nối dõi, bằng không thì biết lấy ai kế tục, cũng nên lượng thứ cho lòng ta, đừng nên lấy bề ngoài làm trọng.
Nhân đây làm bài minh để tự răn. Minh rằng:
Trên làng Dương Xuân chừ, coi có ngôi nhà ta đấy,
Núi thấp đất hoang vu chừ, biểu lộ sự nhún nhường của ta để tự trách vậy.
Ai đồng lòng với ta để hoàn thành chí ta chừ, ôi mong mà chưa thấy.
Chỉ có trời chứng minh chừ, lòng ta đã có bia đá ấy.
Ngự chế vào tháng 6 niên hiệu Tự Đức thứ 24 (1871), ngự bút vào tháng 4 niên hiệu Tự Đức thứ 28 (1875).”
Phan Hứa Thụy dịch . Đăng lại từ trang của Hội nhà văn Việt Nam (hoinhavanvietnam.vn)
Chú thích:
(1) Nhan hồi tự Tử Uyên, còn gọi là Nhân Uyên, là một học trò xuất sắc của Khổng Tử, ông chết năm mới 31 tuổi.
(2) Bành Tổ là một nhân vật thời thượng cổ Trung Quốc, tương truyền ông sống trên 800 tuổi.
(3) Bá Di: con vua Cô Trúc, ông từng khuyên Võ Vương đừng đi đánh vua Trụ, Võ Vương không nghe, đánh thắng dựng nên nhà Chu, Bá Di cùng Thúc Tể giận bỏ lên núi Thú Dương rồi không về nữa.
(4) Đạo Chích: tên một kẻ trộm nổi tiếng đời vua Hoàng đế, ăn trộm rất tinh vi, nghe tiếng ai cũng sợ.(4b) Tiến sĩ cập đệ, tục gọi là trạng nguyên chúng tôi ngờ rằng chữ bị sai, xin cứ để theo bản dịch mong bạn đọc chỉ giáo
(5) Trạng nguyên: từ gọi người đứng đàu trong bực tam khôi theo chế độ thi cử thời phong kiến.
(6) Chỉ độ tuổi bắt đầu đi học, vì từ đó mới chừa tóc.
(7) Tiểu tử: tiếng tự vựng của Tự Đức đối với cha mẹ ông.
(8) Thái hậu: đây chỉ mẹ của Tự Đức, tức bà Từ Dũ.
(9) Hoàng khảo: chỉ ca của Tự Đức, tức vua Thiệu Trị.
(10) Án mùa thu: nguyên văn là thu thẩm. Thời nhà Nguyễn, án tử hình từ các tỉnh gửi về thì cứ đến mùa thu bộ Hình mới mang ra xét lại rồi trình lên vua. Do đó án mùa thu ở đây chỉ những án nặng.
(11) Chỉ việc bàn giao ấn ngọc (Ngọc tỉ) của vua Minh Mạng truyền lại.
(12) Tiềm để: Ngôi nhà dành cho Thái Tử ở trước khi lên làm vua.
(13) Lưu kinh: giữ kinh đô. Khi nhà vua đi xa thường cử một người thân tín ở lại kinh thay vua giải quyết mọi việc và giữ gìn kinh đô, đó là chức lưu kinh.
(14) Tử bửu: bốn thứ đồ dùng quý dành cho nhà vua: giấy, bút, mực, nghiên.
(15) Sư phó: từ gọi người dạy cho vua hoặc hoàng tử học.
(16) Khánh vân ca: tên một khúc ca mà quân thần dùng ca ngợi ân đức của vua Thuấn.
(17) Lúa Vải: do chữ đẩu tốc xích bố nghĩa là thúng lúa thước vải. Đây lấy ý từ một bài dân ca đại ý chê Hán Văn Đế và Hoài Nam Vương đều là con của Hán Cao Tổ, hai anh em vì quyền lợi nhỏ nhen mà hại nhau. Đây vua Tự Đức muốn nêu ý anh em bất hòa gây cảnh nồi da xáo thịt.
(18) Tức Chu Công Đản, chú của Thành Vương, Thành Vương lên ngôi nhưng tuổi nhỏ, Chu Công làm nhiếp chính, bọn hoàng thân như Quảng, Thái ghen tị vu cho Chu Công muốn tiếm vị, Chu Công nghe lấy làm sợ nên phải bỏ trốn. ThànhVuwowng biết chuyện cho triệu về, bọn Quản, Thái sợ nên xúi Võ Canh chống lại, Chu Công cầm quân đánh bại được chúng, vè sau Mạnh Tử đã hết lời ca tụng Chu Công trong tác phẩm của ông.
(19) Đây chỉ con của Hồng Bảo, người anh cả Tự Đức, vì không được truyền ngôi nên nổi lên chống lại, sau có thể phải xin đầu thú nhưng cũng bị hạ ngục rồi chết trong ngục, con cái ông phải bị đổi qua họ mẹ là họ Đinh.
(20) Chỉ Phan Thanh Giản.
(21) Chỉ Trương Đăng Quế.
(22) Bá lăng: tức lăng của Hán Văn đế ở huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.
(23) Thuật ngữ của ngành địa lý phong thủy.
(24) Nt
(25) Ái liên: tên một khúc hát diễn tả việc hái hoa sen trên hồ Hoa quân tử đây là hoa sen.
(26) Ngu khê: tên một cái khe ở huyện Linh Lăng tỉnh Hô Nam Trung Quốc.
(27) Thành Tử Cao: một nhân vật thời Xuân Thu, người rất hiền, không bao giờ chặt cây giết vật khi cha mẹ mất ông khóc đến chảy máu mắt, suốt kỳ thọ tang ông sống rấ giản dị.
(28) Tư Không Biểu Thánh: Tư Không, tự Biểu Thánh, người đời Đường đỗ tiến sĩ vào niên hiệu Hàm Thông nhưng gặp thời loạn ông trốn lên núi Trung Điều, ở đây ông dựng ngôi đình lấy tên là Hưu Hưu để cùng bạn bè ngâm thơ uống rượu.
(29) Trúc cung: tên một cung điện bằng tre lá, nơi trai giới của vua đời Hán trong kỳ tế Giao. Tại đây vào ngày tế Giao, buổi sáng nhà vua hướng về phía Đông lạy mặt trời, buổi chiều hướng về phía Tây lạy mặt trăng.
(30) Xương lăng: lăng của vua Thiệu Trị.
(31) Bắc Man: tên núi, còn gọi là Bắc Sơn thuộc địa phận tỉnh Hà Nam, nơi chôn các vương hậu công khanh thời Đông Hán. Đây chỉ mộ vua. Hao Lý: địa danh ở về phía Nam núi Thái Sơn, tương truyền là nơi tụ họp hồn phách của người đã chết.
(32) Tân Phong: Hán Cao Tổ muốn dựng đô ở Trường An, thái thượng hoàng lại ưa về đất Phong, Hán Cao Tổ bèn cho xây dựng Trường An giống hệt như đất Phong và đặt tên là Tân Phong.
(33) Hán Văn Đế: con Hán Cao Tổ được Chu Bột dẹp loạn họ Lữ rồi lập lên ngôi. Hán Văn hiền từ cần kiệm. Đường Thái tức Đường Thái Tông, tên Lý Thế Dân, ông giỏi cả văn chương lẫn võ nghệ, có công đánh đông dẹp bắc mở mang bờ cõi khiến nhà Đường thêm mạnh.
(34) Đại Thanh: từ gọi nước Trung Quốc thời Mãn Thanh.
(35) Chữ lấy trong kinh dịch.
Xin theo dõi tiếp BÀI 11. dienbatn giới thiệu.
Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 9.

6/27/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 9.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II..LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.( Tiếp theo ).
Lăng Thiệu Trị  : Có tên chữ là Xương Lăng(昌陵) là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11 tháng 12 năm 1993.
Lăng Thiệu Trị nằm dựa lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành Huế chừng 8 km. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Cách lăng 8 km về phía trước, ngọn núi Chằm sừng sững được chọn làm tiền án. Dòng sông Hương chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường. Ngay cách chọn "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ" cũng có những nét khác thường: đồi Vọng Cảnh ở bên này sông được chọn làm "rồng chầu", nhưng "hổ phục" lại là ngọn Ngọc Trản ở bên kia sông. Đằng sau, núi Kim Ngọc xa mờ trong mây được chọn làm hậu chẩm; đồng thời, những người kiến trúc lăng còn đắp thêm một mô đất cao lớn ở ngay sau lăng để làm hậu chẩm thứ hai. Một nét riêng khác là lăng không có La thành bao quanh. Nếu ở lăng Gia Long, La thành bằng gạch được thay thế bởi vô số núi đồi bao quanh như một vành đai tự nhiên, hùng tráng bảo vệ giấc ngủ cho vị tiên đế triều Nguyễn thì ở lăng Thiệu Trị, những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh rờn ở chung quanh được xem là La thành. Chính vòng La thành thiên nhiên đó tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình.
….. Lăng Thiệu Trị khác lăng Minh Mạng là không xây La thành, nhưng giống lăng Gia Long là lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm nên một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Trong vòng La thành hùng vĩ đó, lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo, gần trước mặt lăng là một vùng đất bằng phẳng cỏ cây xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim. Xét về phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế "sơn chỉ thủy giao". Lăng quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng khoảng 1 km có đồi Vọng Cảnh, bên trái có núi Ngọc Trản chầu về trước lăng theo vị thế "tả long hữu hổ". Ngọn núi Chằm cách đó khoảng 8 km đứng làm "tiền án" cho khu vực lăng, động Bàu Hồ ở gần hơn làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi Kim Ngọc ở xa, người xưa đã đắp một mô đất cao lớn làm "hậu chẩm" cho lăng. Trong phạm vi lăng có ba hồ bán nguyệt là hồ điện, hồ Nhuận Trạch, và hồ Ngưng Thúy cùng dòng khe từ hồ Thủy Tiên chảy ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây ngầm dưới các lối đi.
2. KHẢO SÁT PHÂN KIM CỦA LĂNG MỘ.
TRỤC THẦN ĐẠO 303 -306 độ.
TẢ THỦY ĐẢO HỮU RA NHÂM TÝ.


Cung Càn (Tây Bắc) có các sơn: 
a.     Tuất: nằm trong giới hạn từ 292.5 đến 307.4 độ. Chính Tuất 300 độ.
b.     Càn: nằm trong giới hạn từ 307.5 đến 322.4 độ. Chính Càn 315 độ .
c.     Hợi: nằm trong giới hạn từ 322.5 đến 337.4 độ. Chính Hợi 330 độ.
HỎA CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Tân – Tuất, Càn – Hợi, Nhâm – Tý. Thì các phương Ất – Thìn , Tốn – Tị, Bính – Ngọ cao nên là Hỏa cục. Khởi Trường sinh tại Dần để luận Thủy.
THỦY RA NHÂM – TÝ.
Là Hỏa cục. Thủy ra Thai phương. Lập được 4 Hướng : Mộc dục – Suy – Tuyệt – Thai.
Tả Thủy đảo Hữu. Thủy Ra Nhâm không phạm Tý.
Lập Hướng Tuyệt.
Tọa Tị - Hướng Hợi.
Tọa Tốn – Hướng Càn.
Phú quý đinh tài đều phát.
Ngoài ra còn lập được 2 Hướng bán hung bán cát.
Lập Hướng Suy .
Tọa Quý – Hướng Đinh.
Tọa Sửu – Hướng Mùi.
Phát phú quý , phúc thọ cao.
Lập Hướng Thai.
Tọa Bính – Hướng Nhâm.
Tọa Ngọ - Hướng Tý.
Phát lớn cả đinh lẫn tài.
Tọa Tốn – Hướng Càn. Tả Thủy đảo Hữu ra Nhâm Tý.
TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG .Thủy ra Nhâm Tý. Hỏa cục.
Thủy ra Thai – lập Hướng Tuyệt. Tả Thủy đảo Hữu qua Minh đường ra Thai, hợp Văn khố tiêu thủy, Dương công cứu bần, Tiến thần Thủy pháp. Thư nói : Lộc tồn lưu tận bội kim ngưu. Chủ phát phú quý , phúc thọ song toàn.
1/GIÁP LONG NHẬP THỦ.
Long này được 2 hướng Thôi Quan:
1/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
2/ Tốn Sơn – Càn Hướng.
Lấy Kỷ Mão làm chính Khí.
Tốn Sơn – Càn Hướng.
Giáp Long nhập thủ , lạc mạch ở Tả, lập Huyệt tọa Càn – Hướng Tốn, nên nhích về bên hữu. Lấy Kỷ Mão làm chính Khí , mạch xuyên vào lưng hữu.
Thôi quan Thiên có thơ .
Âm cơ Huyệt Tốn hướng Cơ phong.
Khí tòng hữu yêu, gia hưng long.
Tả hữu bất giao long thất độ.
Quan quả , phong bì, động ôn hoàng.
Nghĩa : Long Giáp Huyệt Tọa Tốn – Hướng Càn. Khí theo vào lưng hữu, nhà hưng thịnh. Nếu như tả hữu chẳng giao , Long sai độ số thì sinh cô quả , phong tật và  bệnh ôn hoàng.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất. ( 312,5 độ )
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. ( 317,5 độ )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. 
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
2/THÌN LONG NHẬP THỦ.
Thìn Long có 2 Hướng.
1/ Tọa Tốn – Hướng Càn.
2/ Tọa Cấn – Hướng Khôn .
Lấy Giáp Thìn làm chính Khí.
Tọa Tốn – Hướng Càn.
Thìn Long nhập thủ, lạc mạch bên hữu. Huyệt lập Tọa Tốn – Hướng Càn, nhích về bê tả, gia chút ít Ất. Lấy Giáp Thìn làm chính Khí , mạch xuyên vào tai hữu.
Thôi quan Thiên có thơ .
Cang kim Huyệt Tốn hướng Dương kị.
Khí tòng hữu nhĩ vi hợp củ.
Thiên quan vi gia Huyệt niên tả.
Cự phú , đản khủng vô kì di.
Nghĩa : Thìn Long Huyệt Tốn, hướng phương Càn. Khí mạch theo tai hữu vào là hợp khuôn phép. Gia chút ít vào Ất, Huyệt nên dán sát vào tả. Xuất giầu to , chỉ sợ không thọ.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất. ( 312,5 độ )
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất. ( 317,5 độ )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Thìn Tuất : Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất.
- Kiêm Tị Hợi : Tọa Đinh Tị - Hướng Đinh Hợi.
Theo Tả Ao trong cuốn “ Bích ngọc Thần thơ ” thì Thủy chảy đến không nên khắc Long nhập thủ , Thủy chảy đi không nên khắc Hướng. Đây là bí quyết ít người biết.
TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG.
Tốn Sơn – Càn Hướng , gia Thìn.
Dùng Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất phân kim. Tọa sao Chẩn 13-14 độ, ấy là Tân Tị Mộc độ , bình phân Bính Thìn – Kỷ Tị . Chủ phú quý đời đời bất tuyệt. nếu tọa sao Chẩn 15-16 độ , phạm Kim Mộc quan sát , mọi sự chẳng lành .
Tốn Sơn – Càn Hướng , gia Tị .
Dùng Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất phân kim . Tọa sao Chẩn 6-7 độ, ấy là Quý Tị Thổ độ , bình phân Tân Tị , Kỷ Tị. Chủ ngành 2,4,5 phát đinh tài . Qua sao Chẩn 8,5 độ , phạm Mộc Thổ quan sát , mọi sự chẳng lành .
Tốn Sơn – Càn Hướng , chính châm.
Dùng Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất  phân kim. Tọa sao Chẩn 10 độ - Hướng sao Khuê 1,5 độ , làm Mộc cục . Cục này nếu Thân sơn cao lớn , là Lộc sơn , chủ ngành trưởng nhân đinh hưng vượng, các ngành khác thứ cát . Nếu phương Tân sơn cao lớn , đinh tài đều vượng , các ngành tốt đều như nhau . 
Nếu Tân phương sơn cao lớn, có Càn Thủy triều về , chủ nam được vợ quý , nữ được hiền phu. Nếu phương Ất sơn cao lớn , chủ ngành 3 đinh tài đều vượng . Nếu Hữu Thủy đảo Tả ra Đinh Mùi , chính là Sinh hướng – Vượng khứ nghinh Sinh , phú quý song toàn , vợ hiền con hiếu . Nếu Thủy xuất ra Tân Tuất ( Hỏa cục ) là Tuyệt xứ phùng Sinh , chủ phú quý , thọ cao , nhân đinh đại vượng . Nếu tả Thủy đảo Hữu ra Nhâm Tý là Thai phương Tuyệt Hướng là Cứu bần Thủy pháp , công cao , hiển đạt , đinh tài đều vượng , phú quý tề lai , thật đại cát đại lợi .
Phản cục : Nếu phương Thìn có núi cao lớn , các phòng đinh tài đại bại, không có ngày hưng phát . Tuất ,Sửu phương có núi cao lớn , chẳng lợi trưởng nam, quan phi khẩu thiệt . Mùi sơn có núi cao lớn , ngành trưởng hoán thê đổi thiếp , tuyệt tự . Bính Ngọ sơn có núi cao lớn, cha hưng con bại . Nhâm Tý có núi cao lớn , chẳng lợi cho ngành 3. Canh Dậu sơn có núi cao lớn, ngành trưởng và 4 chẳng lợi . Giáp Mão có núi cao lớn , ngành 6 chẳng lợi . 
 Nếu Thủy xuất Canh dậu phương , là Sinh Hướng Thủy xung phá Thai thần , lúc đầu có vượng đinh tài sau này tuyệt tự , bần hàn . Dần phương có núi cao lớn, ngành 3 sớm tuyệt tự . Nếu Thủy xuất Quý Sửu ( Là Bệnh Hướng Kim cục ) tất hại người thiếu niên thông minh.
Tốn sơn – Càn Hướng , kiêm Thìn Tuất.
Dùng Tọa Bính Thìn – Hướng Bính Tuất phân kim  ( 312,5 độ )  . Tọa sao Chẩn 13 độ - Hướng sao Khuê 5 độ , làm Mộc cục để luận . Mộc trường sinh tại Càn Hợi. Cục này Tiên Thiên phối Hậu Thiên ( Vì Tuất nạp Ly ) , mọi ngành đều đăng quang vinh hoa phồn thịnh. Nếu được phương Càn Trường sinh Thủy đáo Minh đường , tất xuất người công danh hiển đạt . Càn Thủy ứng Càn Hướng là Long tú Thiên mông đại cát , là tứ trụ mà Âm Dương đắc phối, tọa Lộc , nghinh Lộc – Lộc Mã triều nguyên chi cách . Ấy cũng là Âm Mộc Âm luận, phía sau bên hữu Lạc sơn thấp ,Dương Thủy hành Mộc Long, lại được trước mặt có sơn phong nhọn đẹp , chủ xuất trung lương về tướng. Đế vượng Thủy lai triều , chú phú quý vinh hoa , tốc phát nhân đinh , tăng tuổi thọ phát quan phát quý .
Tốn Sơn – Càn Hướng , kiêm Tị Hợi.
Dùng Tọa Canh Thìn – Hướng Canh Tuất phân kim ( 317,5 độ ) . Tọa sao Chẩn 6,5 độ - Hướng sao Bích 8,5 độ , làm Mộc cục . Tốn và Thìn Thổ làm chồng , Tị cùng Bính Hỏa làm vợ. Chẳng hay phối hiệp ,Âm Dương sai phối , mất đi chủ quyền. nếu là chân Cục thì hậu Thác Lạc sơn chẳng hợp cao, trước mặt Tuất Càn phương cần nhọn đẹp . Sửu , Cấn , Dần phương có phong loan cao chiếu , nhà có kẻ đọc sách Thánh hiền . Chính phối Tham Lang tinh hiển đạt , văn chương thành danh .
Tuất càn Thủy nghịch triều tuổi thọ cao . Hợi Nhâm Thủy lai triều tài vượng . Sửu, Cấn , Dần , Giáp , Mão, Ất có Thủy chảy về , thực lộc vạn chung.
Nếu Thuỷ chảy về quy tụ tại Khôn thân xuất khứ có tên Lộc Tồn khứ tận – Áo gấm về làng , chỉ hiềm kiếp luận 48 năm mà thôi. Sau đó tu tạo lại cũng hưng thịnh lại . Cục này nên phóng Thủy  Khôn là cát nhất.
Phản cục : Canh phương là Hoàng tuyền , Quý Tý có Thủy đến xuất dâm loạn phong tật . Thân Canh Thủy đến chủ phụ nữ trụy thai , con nuôi nối dõi . Tốn , Tị Bính phương có núi cao lớn , xuất nhiều bệnh tật đa đoan. Ngọ Đinh phương có núi cao lớn làm cướp phá nhà . Mùi Khôn phương có núi cao lớn , chủ có thủy hỏa tai , nếu có Thủy chảy lại là Thủy Hỏa chẳng giúp nhau , xuất huyết , vô hậu. Nếu tả Thủy đảo hữu xuất tại Tuất , Càn , Hợi , chủ tổn nhân đinh , xuất điên cuồng. Nếu càn Hợi song Thủy lai triều , lo về việc yểu tử chết non.
TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG.
1/Kiêm Thìn Tuất 3 phân ( Theo Mộc cục ).
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa  Bính Thìn  – Hướng Bính Tuất.( 312,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Canh Thìn  – Hướng Canh Tuất.
Tú độ : Tọa sao Chẩn 13  độ - Hướng sao Khuê 6 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Bính Thìn  – Hướng Nhâm Tuất.
Thấu địa 60 Long : Tọa Kỷ Tị - Hướng Ất Hợi ,nạp âm thuộc Mộc.
Độ tọa Huyệt : Bình phân Tân , Mộc  độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Trạch Phong đại quá .
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Hướng sát.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : bình.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , cát .
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tọa Tam sát hung.
2/Kiêm Tị Hợi 3 phân ( Theo Hỏa cục ).
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa  Canh Thìn  – Hướng Canh Tuất.( 317,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa  Bính Thìn  – Hướng Bính Tuất.
Tú độ : Tọa sao Chẩn 7  độ - Hướng sao Bích 8 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Kỷ Tị  – Hướng Ất  Hợi.
Thấu địa 60 Long : Tọa Tân Tị - Hướng Đinh  Hợi ,nạp âm thuộc Kim.
Độ tọa Huyệt : Bình phân Quý , Thổ  độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Bát thuần Tốn .
Dùng Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Cát.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , Tọa Tam sát hung.
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Bình.
3/ Chân lịch số .
Tiết Thu phân , Thái Dương đến Tốn . Hội 2 phương Canh , Quý  đều cát .
Tiết Xuân phân , Thái Dương đáo Hướng chiếu Tốn tốt.
Tiết Lập Hạ : Thiên Đế đến Tốn tốt.
Khai môn : Nên Tuất hợp chất khố tốt.Trên Tý có hoạnh tài, trên Càn chính môn cát.
Phóng Thủy : Nên dùng Quý phương  tốt. Hữu Thủy có Thủy đến là cát , Thủy đi là hung.
Hoàng Tuyền : Sát tại Tân , Nhâm phương , Trên Nhâm không nên khai môn , phóng Thủy.
Tạo táng : Tốn sơn – Càn Hướng, Không nên dùng năm tháng ngày giờ Tị - Dậu – Sửu , Kim cục là phạm Tam sát hung.
3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục .
A /Tọa Tốn – Hướng Càn , kiêm Thìn Tuất 3 phân.
Tháng Giêng ( Dần ) : Nhâm Ngọ bình, Đinh , Quý Mão ngoại hướng sát. 
Tháng 2 ( Mão ) : Ngày Bính, Canh, Nhâm – Thân tốt. 
Tháng 3 ( Thìn ) : Phạm Kiếm phong sát .
 Tháng 4 ( Tị ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 5 ( Ngọ ) : Ngày Bính , Canh, Nhâm – Thân tốt. Ngày Bính, Mậu , Canh, Nhâm – Dần thứ cát.
Tháng 6 ( Mùi ) : Ngày Bính , Canh, Nhâm – Thân tốt. Ngày Bính , Nhâm – Dần , cát.
Tháng 7 ( Thân ) : Bính , Nhâm – Thân , Bính , Nhâm – Tý, Thìn tốt. Các ngày Tuất cát.
Tháng 8 ( Dậu ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 9 ( Tuất ) : Phạm Kiếm phong sát .
Tháng 10 ( Hợi ) : Ngày Mậu , Canh – Ngọ thứ cát. Ngày Ất , Đinh , Tân – Mùi thứ cát. Ngày Quý mão hướng sát
Tháng 11 : Bính ,Mậu , Nhâm – Thìn tốt. Ngày Bính, Mậu , Canh, Nhâm – Thân tốt. Ngày Bính, Mậu , Canh, Nhâm – Dần thứ.
Tháng 12 ( Sửu ) : Tọa Tam sát an táng bất lợi.
4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Tốt , Sửu – Hung , Dần –Bình , Mão – Bình . Thìn – Tốt , Tị - Hung, Ngọ - Bình. Mùi – Bình . Thân – Tốt , Dậu – Hung . Tuất – Bình, Hợi – Bình.
b/ Tọa Tốn – Hướng Càn , kiêm Tị Hợi 3 phân.
Nếu dùng năm tháng ngày giờ Thân – Tý – Thìn là phạm tam sát nên tránh.
Tháng Giêng ( Dần ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Dậu tốt, Mão thứ.
Tháng 2 ( Mão ) : Ngày Quý Mùi , Đinh Mùi bình. Bính , Canh , Nhâm – Dần hướng sát.
Tháng 3 ( Thìn ) : Phạm Kiếm phong sát .
 Tháng 4 ( Tị ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Dậu tốt, Ất , Đinh, Quý – Sửu thứ,
Tháng 5 ( Ngọ ) : Không có ngày tốt . Ngày Bính, Mậu , Canh, Nhâm – Dần Bình.
Tháng 6 ( Mùi ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Dậu tốt, Mão bình .
Tháng 7 ( Thân ) : phạm tam sát nên tránh.
Tháng 8 ( Dậu ) : Đinh , Quý – Sửu, Dậu tốt.
Tháng 9 ( Tuất ) : Phạm Kiếm phong sát .
Tháng 10 ( Hợi ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Mùi tốt. các ngày Mão bình.
Tháng 11 : Tọa Tam sát an táng bất lợi.
Tháng 12 ( Sửu ) : Ất , Đinh,Tân , Quý – Dậu tốt, Mão thứ.
4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Hung , Sửu – Bình , Dần –Tốt , Mão – Thứ . Thìn –Hung , Tị - Bình , Ngọ - Tốt . Mùi – THứ . Thân –Hung , Dậu – Bình . Tuất – Tốt , Hợi – Thứ .
TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG.
1/Tốn Sơn – Càn Hướng . Kiêm Thìn Tuất 3 phân – Tên là Phục Khí Long.
 Phục Khí Long có khác lạ , việc khác lạ này ít người biết , có lúc quyền quý ngang triều đình , chẳng lâu thì đã bại . Long này được Cửu tinh nhập Miếu thì võ chức lừng danh . Nếu gặp Sơn , Thủy hung thì có bệnh ôn hoàng , tổn thương các loại .
Như hạ Huyệt 7 phân Tốn sơn – Tọa Nhâm Thìn – Hướng Nhâm Tuất – Là Thủy Long , Thủy Hướng . Nên có Thủy tụ giữa Minh đường mới cát , Minh đường mà Thủy đi thẳng tất hung.
Thủy xuất ra Đinh Mùi ( Mộ ) là đại cát , Mộc cục , Sinh hướng đa tử tôn , lộc tài đều vượng , tuổi thọ cao. Thủy ra Tân Tuất là Tuyệt xứ phùng Sinh cũng cát .
Nếu Thủy ra Khôn Thân là Tuyệt phương phá Sinh , xung Vượng lắm bệnh tật , con cháu sớm bại tuyệt , ứng hung vào các năm Thân – Tý – Thìn , Thủy ra nơi này không thể xem nhẹ mà dùng.
Nếu Thủy xuất ra Dần Giáp là Kim cục , Bệnh Hướng là bại tuyệt đa hung , cách này không nên dùng.
2/Tốn Sơn – Càn Hướng.Chính Hướng – Tên là Tử Thụ Long .
Tử Thụ Long cung phúc quý vẹn toàn .Đinh xuất công khanh , bái tướng phong hầu. Long này mừng giận thất thường , lắm tài năng nhưng hung ác , nên có phú quý mà chẳng lâu dài , ngành trưởng và giữa được vượng ; người mạng Thủy , Thổ phát phú.
Bốn vị :  Quý nhân tại Dậu , Mã tại Ngọ, Lộc tại Càn Hợi , Lộc Mã tại Giáp tức là cùng chánh Lộc tương chiếu , uy nghi quan tinh , tại Tuất làm quan tinh , thừa Mã tại Tân , lại càn , cấn có phong sơn đẹp . Phối an Thủy lưu Tân Canh Khôn xuất Khố ra Đinh , làm Sinh Hướng , chủ anh em cập đệ đăng khoa , thiếu niên phát vinh hoa lỗi lạc , cách này ứng nghiệm rất nhanh.
Như hạ chính Tốn sơn – Đầu Tọa Tử Thụ- Hướng hiệp phước tinh , Kim hướng không biến . Theo sơn đầu Thủy Càn Hợi đến Nhâm xuất là Hỏa cục , Tuyệt Hướng , Thai phương , là Lộc Tồn tiêu Thủy phú quý , tuổi thọ cao , nhân đinh vượng.
Nếu Càn Hợi Nhâm Thủy lưu xuất ra Canh Dậu – Sinh Hướng , Thủy ra Thai , nếu có phú quý cũng không lâu , 24 năm thoái bại , nam nữ mê hoa đắm sắc , điên đảo thất thường , mọi việc khó đương . Năm Thân – Tý – Thìn thấy thoái bại.
3/Tốn Sơn – Càn Hướng. Kiêm Hợi Tị 3 phân – Tên là Quan Dưỡng Long.
Còn gọi là Quan Khố Long , Long cư nơi quan lộc , có điền viên , sản nghiệp xung túc, nhân đinh hưng vượng, đất này gồm cả phú và công khanh . Long này được Cửu tinh nhập Miếu xuất võ chức , 2 đời vạn sự như ý , ngành trưởng và giữa vượng tướng.
Như hạ Huyệt 7 phân Tốn sơn – Tọa Ất Tị - Hướng Ất Hợi - Hỏa Long , Hỏa Hướng , Dương lai cùng thọ , Thủy lưu Tân Canh Khôn ra ở Mộ là Mộ cục , Sinh Hướng , Mộ Thủy lưu là thượng cát . con cháu quý hiển , đại vượng nhân đinh, 3-9 năm điền trang hưng vượng , kho lẫm xung túc . Năm Dần – Ngọ - Tuất sinh quý tử , con cháu 9 đời lương thiện , ấm no hạnh phúc .
Nếu Thủy lưu Nhâm Quý  xuất ra Càn – Là Tuyệt Hướng Tuyệt Thủy cũng được trung cát . vì xuất Lộc vị , khoa bảng trung bình , giỏi văn chương , chỉ xuất thày giáo, ngành y lý , bốc dịch giỏi . Nếu xuất ra Tân Tuất là hướng Tuyệt xứ phùng Sinh cũng đại cát lợi.
TỐN SƠN – CÀN HƯỚNG : Đây là hướng từ năm 2004 khí bắt đầu vượng , hướng này có tên là cung quý nhân , hướng về văn chương , thi cử có vận thế rất mạnh . Trung quốc cổ đại gọi là sơn hướng Khoa cử . Do vậy người ta thường mời các nhà Địa lý phong thủy chọn cho để đặt hướng nhà , hướng mộ . Vào các năm từ 2024- 2043 vận khí vào hợp thập , song tinh đáo hướng đắc khí rất tốt .
TỐN SƠN KHAI MÔN PHÓNG THỦY.
Hoàng tuyền tại Tân , không nên có đường nước từ hướng đó chẩy đến chủ về sát nhân. 
Kiếp sát tại Quý , hướng đó không nên có gò núi , cây cối , lâu đài cao chiếu đến chủ bệnh tật triền miên .
Khôn – Canh –Giáp  hướng có nước chảy về chủ đem tài lộc đến cát lợi.
Nhâm – Quý - Tân hướng phóng nước đi đại cát .
Tấn Lộc tại Thìn , Tấn tài tại Tuất .
Khai môn hướng Canh – Càn – Khôn – Cấn – Nhâm  đại cát.
Hợp người tuổi mạng Hỏa .
Thiên Nguyên Long : Sơn Tốn - Hướng Càn .
Địa vận : 20 năm .
Các vận 2, 8 vượng Sơn , vượng Hướng .
Các vận 1, 9 toàn cục hợp Thập .
Các vận 6, 9 cung Ly đả kiếp .
Vận 6 Thành môn không dùng .
Vận 5, 7 Tý - Dậu cát . Vận 1,3,8 Dậu cát .
Các vận 2, 4, 9 Tý cát .

Vận 4, 6 phạm Phản phục ngâm . Hung .
Xin theo dõi tiếp BÀI 10. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *