GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 16.

7/13/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 16.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) 
5. LĂNG VUA KHẢI ĐỊNH.
6.CUỘC CHIẾN TÂM LINH RÙNG RỢN GIỮA NHÀ NGUYỄN GIA LONG VÀ NGUYỄN HUỆ - TÂY SƠN.
Tây Sơn, cụ thể là vua Quang Trung đã cho người đào lăng mộ 8 đời chúa Nguyễn và đời thứ 9 là mộ cha Nguyễn Ánh cho vứt xuống sông vào năm 1792, chính sử nhà Nguyễn từ Đại Nam Thực Lục lẫn Đại Nam Liệt Truyện đều ghi lại:
''Sau Huệ đánh trận hay thua (tướng lĩnh không diệt được Nguyễn Ánh ở Gia Định), người ta đều nói các lăng liệt thánh (lăng các chúa Nguyễn) khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy. Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực.''
Tuy nhiên, đến bây giờ vẫn còn rất nhiều người không tin Tây Sơn là thủ phạm đã phá hủy các lăng chúa Nguyễn, thậm chí có người còn nói ''Nếu Quang Trung cho phá lăng các chúa Nguyễn thì sao bây giờ ở Huế vẫn còn các lăng chúa Nguyễn?'' hoặc ''Chuyện phá lăng không tin được lời chính sử nhà Nguyễn ghi lại, biết đâu là do Nguyễn Ánh bịa để bôi nhọ Tây Sơn''. 
“Hình như có một nhà tư tưởng nào đó đã nói: “Làm thầy thuốc lầm thì chết một người; làm thầy địa lý lầm thì giết một họ; làm chính trị lầm thì giết một nước, làm làm văn hóa lầm giết cả một đời”.
Dưới ảnh hưởng của môn phong thủy Trung Hoa, người Việt từ vua cho chí dân đều tin rằng âm phần tổ tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh và tương lai của con cháu. Bởi vậy ai cũng mong muốn tìm cho được một huyệt mả tốt để được kết phát, để con cháu được hưởng phước vinh hoa phú quí dài lâu. Bởi vậy, để tận diệt kẻ thù không gì bằng triệt long mạch, phá huyệt mộ, đào mả cha ông nhà người ta lên.
Làm thế thì chắc chắn con cháu không thể nào ngóc đầu lên được, lấy gì mà chống trả. Quang Trung Nguyễn Huệ, ngoài việc sử dụng binh lực đánh Nguyễn Vương chạy dài ra biển, trốn qua đến Xiêm La hai lần, vẫn không quên sử dụng chiêu thức này để hỗ trợ. Và để cho chắc ăn, thà phá lầm hơn bỏ sót, đã không những quật mồ thân sinh vua Gia Long là huyết thống trực hệ mà còn quật mồ cả 8 đời chúa Nguyễn xa lắc. Thật là một sự tính toán chu đáo.
Tuy toan tính chu đáo như vậy nhưng Nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ chỉ tồn tại có 14 năm (1788-1802 ). Năm  1788 là năm vua Quang Trung đăng quang trước khi ra Bắc phá quân Thanh), trong khi Nguyễn Vương, mặc dầu bị đánh trúng tử huyệt (theo quan niệm phong thủy) nhưng sau 25 năm bền bĩ chiến đấu nhọc nhằn, đã thống nhất đất nước, phục hưng được cơ nghiệp tổ tiên, lập ra triều đại mới, tồn tại 143 năm (1802-1945).
Vậy là thế nào? Chẳng lẽ phong thủy hoàn tòan là một thứ tin mê tín dị đoan? Không, không thể vì vậy mà kết luận phong thủy một cách hồ đổ như thế được. Cái nước Mỹ của khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất thế giới này cũng đang chạy theo Feng Shui (Phong thủy) của nền văn minh cổ Trung Hoa, có thua chi Việt Nam xưa và nay đâu, có điều họ chú trọng đến dương cơ hơn âm phần. Như vậy phải có một yếu tố gì khác làm cho độc chiêu do vua Quang Trung phát ra đã không có hiệu quả. Tôi chợt nhớ đến chữ Đức trong câu ca dao: Người trồng cây hạnh người chơi/ Ta trồng cây đức để đời về sau.
Trong 8 đời chúa Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng lo làm cho dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu Đốc chứng minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ sự nghiệp Nam tiến đó!
Có 3 ông chúa mang danh hiệu khác người: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn thì làm chi có những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như thế?
Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt.
Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên Lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền Lập chùa Túy Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa Minh).
Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số bất cập đức nên tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ chính xác và minh triết hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo. Theo thiển ý, có lẽ hiểu theo cách này mới giải thích được chỗ bất cập của phong thuỷ.”( Nhà nghiên cứu lịch sử Võ Hương An ).
Dienbatn xin chép lại lịch sử để chúng ta có cái nhìn chính xác hơn.
1.SỬ SÁCH GHI LẠI VIỆC QUANG TRUNG – NGUYỄN HUỆ NHÀ TÂY SƠN PHÁ LĂNG MỘ CÁC CHÚA NGUYỄN.
TƯ LIỆU :
1/Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của Thực lục sau đây, có thể thấy được lý do thúc đẩy (những chữ in đậm là do người viết, chữ ghi giữa hai ngoặc đứng [x] là chú giải của người viết):
“Tháng 9, ngày Ất hợi [ 9/8/1801], sửa lại Sơn lăng.
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.
Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] , Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên.
Vua thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại. Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Ngày Kỷ hợi [1/11/1801], vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều khóc cả. Sai đổi xã Cư Hóa làm xã Cư Chính, cho dân miễn dao dịch làm hộ lăng. Cho Huyên làm Cai đội (năm Minh Mệnh thứ 11[1830] phong An Ninh bá, lập đền thờ ở núi Cư Chính) con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài tòng quân ở Bình Định cũng được gọi về hậu thưởng cho” (Thực lục I, tr.466).
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì ba việc chính: thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790” (Việt Sử Đại Cương, Tập 2, tr.445).
Gạt ra ngoài những chi tiết hoa lá cành như hai con cọp trong bụi rậm nhảy ra, đang đào mả thì nhà cháy, v.v., đoạn sử ngắn ngủi do Thực lục ghi lại tiết lộ hai điều quan trọng mà ít người biết đến hoặc biết mà vì một lý do nào đó đã lơ đi hoặc chỉ phớt nhẹ nói qua:
– Thứ nhất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy hài cốt ném xuống sông. Việc này cộng với việc giết chết vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên năm 1777 thì quả nhiên vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chậy chút nào. Vì vậy có thể nói được rằng chữ 9 đời có một ý nghĩa rất cụ thể.
Đây là 8 đời chúa Nguyễn:
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613);
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635);
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691);
Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725);
Chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738);
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765);
Về ông tổ Nguyễn Kim, có lẽ vì không biết đích xác mộ phần nẳm ở đâu trong cái bát ngát của núi Triệu Tường ở Thanh Hóa, nên vua Quang Trung đành phải cho qua mà không tính sổ.
Tám đời chúa Nguyễn này không có hận thù gì với anh em Tây Sơn, đã có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước khi kế tục nhau mở nước về phương Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, cống hiến cho tổ quốc non một nửa nước, trài dài từ Phú Yên trở vào Nam, với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn lãnh thổ nam tiến của các triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cộng lại.
Thứ hai: Phần mộ của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long cũng bị quật lên và hài cốt ném xuống sông.
Ông Nguyễn Phúc Côn là con thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm 1765, khi con là Nguyễn Phúc Ánh đang còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế (1806) mới truy tôn cha làm Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ cho đến khi chết dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan, ông chẳng làm vua làm chúa gì. Chỉ vì con ông là Nguyễn Phúc Ánh dám chống lại Tây Sơn mà ông đã không được ngủ yên, lâm vào cảnh con làm cha chịu!
Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết thêm một chi tiết khác:
“Theo truyền thuyết, khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức Hưng Tổ ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người)” (tr.193).
Thực lục có nói khi Nguyễn Ngọc Huyên chết thì được lập đền thờ và phong làm An Ninh bá. Ở thượng lưu sông Hương có một ngôi miếu, tục gọi là miếu Ông Chài, chính là miếu ông Huyên vậy.
Trong lịch sử Việt Nam, việc tranh giành quyền lực dẫn đến những hành động giết hại nhau tàn nhẫn không phải là hiếm. Điển hình, để cướp ngôi nhà Lý, Trần Thủ Độ không ngần ngại dồn Lý Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ nhổ cỏ tận gốc, mặc dù Huệ Tông đã biết thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở chùa Chân Giáo. Đã thế, Trần Thủ Độ còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý chôn sống trọn gói (may mà Hoàng tử Lý Long Tường nhanh chân thoát qua tị nạn ở Cao Ly, trở thành thuỷ tổ họ Lý của xứ Đại Hàn ngày nay).
Nhưng có lẽ trong cuộc tranh chấp quyền lực chưa có ai trong lịch sử phải trả cái giá 5 mạng người ruột thịt và 9 ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh với xương cốt không biết đâu tìm như trường hợp vua Gia Long trong khi đối đầu với Tây Sơn để phục hồi cơ nghiệp của ông cha đã tốn công xây dựng.
Việc cải táng mộ ông Nguyễn Phúc Côn có thể hiểu được, vì tìm được hài cốt và hài cốt này đã được vua Gia Long xác tín rằng đó là di cốt của người đã sinh thành ra ông. Nhưng với 8 Chúa thì sao? Sử nói Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Đồng ý là xây lên cao, làm cho to lớn đẹp đẽ hơn xưa, nhưng hài cốt không tìm thấy thì chôn cái gì trong đó? Chẳng lẽ chỉ là một ngôi mộ trống không? Một cái mả gió?
Chi tiết đó là, bọn kẻ trộm, khi đào đến quan tài của một ông chúa nào đó đã không thấy hài cốt mà chỉ thấy hình người ta bằng gỗ! Điều này xác nhận giả thiết mà tôi đã nghĩ trong đầu nhưng không biết cách nào để kiểm chứng, ấy là tục chiêu hồn nạp táng.
“Chiêu hồn nạp táng” là gì?
“Trong gia phả các họ rất chú trọng mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục này có một số trường hợp ghi chú: “Chiêu hồn nạp táng”. Đó là những ngôi mộ không có tử thi, hài cốt, mộ người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ… không tìm được tử thi. Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an táng theo như lễ an táng thông thường.
Được nghe các cụ kể lại rằng: chất liệu làm hình nhân, có địa phương dùng cây núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoàng bá, bạch ngọc nhi). Núc nác là loại gỗ mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu hoai, lại dễ kiếm vì mọc ở nhiều nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa dòng sông, có địa phương dùng mùn đào ở giữa ngã tư đường cái.
Hình nhân được đẽo gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được (vì đa số không phải là nghệ nhân). Kích thước của hình nhân khoảng 30-40 cm chiều dài. Thi hài tượng trưng đó cũng được khâm liệm, đưa vào áo quan làm bằng gỗ vàng tâm, kích thước nhỏ bé, hoặc đưa vào tiểu sành.
Trên hình nhân có phủ lên linh vị viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bàn thờ. Trước khi làm lễ an táng có mời thầy cúng làm bùa ấn phù phép để vong hồn nhập vào hình nhân. Lễ an táng và các lễ các lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thông thường.
Dienbatn bổ xung : Tại miền Bắc Việt Nam , khi các ngôi mộ bị thất lạc không tìm thấy hài cốt , người ta lập những ngôi mả gió để thờ phụng như khi có hài cốt. Mộ gió hay mả gió là những ngôi mộ mà hài cốt được thay thế bằng gáo dừa và cây dâu tằm ăn. Người ta thường gọi là gáo dừa xương dâu là vậy. Khi cải táng người ta làm hình nhân có xương cốt là những đoạn thân cây dâu, còn hộp sọ làm bằng gáo dừa có khoét các hốc mắt , mũi , miệng . Người ta để gáo dừa xương dâu vào tiểu rồi choàng một cái mền Quang Minh ( Còn gọi là Khăn Vãn sanh ) lên trên. Sau đó người ta đổ hoa nhài khô hay trà bồm ở xung quanh để cố định gáo dừa xương dâu. Trên hình nhân có phủ lên linh vị của người chết viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống như linh vị đặt ở bàn thờ. Trước khi làm lễ an táng có mời thầy cúng làm bùa ấn phù phép để vong hồn nhập vào hình nhân. Lễ an táng và các lễ các lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thông thường. Trích một đoạn sám văn chiêu hồn :
Hỡi! Hồn .................. bấy lâu xa vắng,
Mau về đây nhập cốt , lễ Phật nghe Kinh.
Về với xóm, làng  yêu dấu, cùng gia đình con cháu.
Độ trì phù hộ con cháu Cụ!
Về đây, đất này con cháu ngắm nhìn.
Cuộc đất quê hương đẹp sao phất bút.
Có sông xưa lượn khúc nhiều vòng
Thủy sinh khí tụ triều nơi minh đường.
Đất lành bao năm vẫn còn không đó
Đón Cụ về nơi huyệt trời Ban .
Nhờ ơn phúc khí tổ tiên truyền đời.
Dẫu cho vật đổi sao dời.
Vẫn được cuộc vận muôn đời cháu con.
Học hành thi cử hoạch tài.
Bảng vàng kia đó muôn thời đứng tên.
Dẫu có thể chẳng giàu như thiên hạ.
Sống thanh nhàn khá giả một phương.
Hưởng danh vang khắp cả mọi miền.
Tỏa đi khắp trời năm châu bốn biển.
Hỡi! Linh hồn ........................ ơi!
Chắc  linh hồn đã về đây nhập cốt,
Dưới suối vàng đang hoan hỷ đàn ca.
Nam mô Đức Phật Thế Tôn
Tiếp dẫn linh hồn về tới Tây Phương.”

Trong 8 đời chúa Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng lo làm cho dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc Nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau- Châu Đốc chứng minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ sự nghiệp Nam tiến đó!
Có 3 ông chúa mang danh hiệu khác người: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn thì làm chi có những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như thế?
Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt.
Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền lập chùa Túy Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa Minh).
Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số bất cập đức nên tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ chính xác và minh triết hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo. Theo thiển ý, có lẽ hiểu theo cách này mới giải thích được chỗ bất cập của phong thuỷ.
Nguồn: Nhà nghiên cứu lịch sử Võ Hương An (Khamphahue.com.vn).
2/ Theo Đại Nam thực lục, sau khi nhiều lần đưa quân vào Nam đánh mà vẫn không diệt được Nguyễn Ánh, người ta đều nói do các lăng liệt thánh (tổ tiên các chúa Nguyễn) khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy. Vua Quang Trung cho người đào toàn bộ lăng tám mộ đời nhà Nguyễn, từ chúa Nguyễn Hoàng cho đến Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ném xuống vực, cộng thêm hài cốt cha Nguyễn Ánh là Nguyễn Phúc Luân bị vứt xuống sông. Đấy là lý do sau này khi lên ngôi, Nguyễn Ánh cho quật mồ nhà Tây Sơn trả thù và nói trong lễ hiến phù: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù…”.
Là cháu của vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong, sau khi gần như toàn bộ gia tộc bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, Nguyễn ánh phải trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục lại cơ nghiệp của dòng tộc.
Theo Việt sử đại cương, không kể cá nhân Nguyễn Ánh bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì: năm 1777, Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (chú ruột vua Gia Long), Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương (em chú bác ruột) và Nguyễn Phúc Đồng (anh ruột) bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Tiếp đó, vào năm 1783, hai người em ruột của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn. Và thêm nữa, hoàng đế Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790".Một số tài liệu cũng ghi rằng, hoàng đế Quang Trung đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, gồm: chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613); chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635); chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648); chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687); chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691); chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725); chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738); và Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765); sau đó, lấy hài cốt ném xuống sông. Trong đó, phụ thân của vua Gia Long là con của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết: Theo truyền thuyết, khi Tây Sơn khai quật hài cốt Nguyễn Phúc Côn ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người).Như vậy, từ mối thâm tù cá nhân, vua Gia Long đã tận pháp trừng trị nhà Tây Sơn, mà không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình, khi tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù".
Hình như có một nhà tư tưởng nào đó đã nói: “Làm thầy thuốc lầm thì chết một người; làm thầy địa lý lầm thì giết một họ; làm chính trị lầm thì giết một nước, làm làm văn hóa lầm giết cả một đời”.
Dưới ảnh hưởng của môn phong thủy Trung Hoa, người Việt từ vua cho chí dân đều tin rằng âm phần tổ tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh và tương lai của con cháu. Bởi vậy ai cũng mong muốn tìm cho được một huyệt mả tốt để được kết phát, để con cháu được hưởng phước vinh hoa phú quí dài lâu. Bởi vậy, để tận diệt kẻ thù không gì bằng triệt long mạch, phá huyệt mộ, đào mả cha ông nhà người ta lên.
Làm thế thì chắc chắn con cháu không thể nào ngóc đầu lên được, lấy gì mà chống trả. Quang Trung Nguyễn Huệ, ngoài việc sử dụng binh lực đánh Nguyễn Vương chạy dài ra biển, trốn qua đến Xiêm La hai lần, vẫn không quên sử dụng chiêu thức này để hỗ trợ. Và để cho chắc ăn, thà phá lầm hơn bỏ sót, đã không những quật mồ thân sinh vua Gia Long là huyết thống trực hệ mà còn quật mồ cả 8 đời chúa Nguyễn xa lắc. Thật là một sự tính toán chu đáo.
Tuy toan tính chu đáo như vậy nhưng Nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ chỉ tồn tại có 14 năm (1788-1802 ),  1788 là  năm vua Quang Trung đăng quang trước khi ra Bắc phá quân Thanh), trong khi Nguyễn Vương, mặc dầu bị đánh trúng tử huyệt (theo quan niệm phong thủy) nhưng sau 25 năm bền bỉ chiến đấu nhọc nhằn, đã thống nhất đất nước, phục hưng được cơ nghiệp tổ tiên, lập ra triều đại mới, tồn tại 143 năm (1802-1945).
2. SỰ TRẢ THÙ NHÀ TÂY SƠN CỦA CÁC VUA NGUYỄN.
Nói tới Nguyễn Ánh, không thể không nhắc đến vụ trả thù tàn khốc mà ông đã làm đối với gia đình vua Quang Trung và những người theo Tây Sơn.
Ngay sau khi chiếm lại Phú Xuân và trong khi vua Cảnh Thịnh của Tây Sơn đang còn làm chủ ở miền Bắc thì Nguyễn Vương đã cho “Phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ” (Thực lục I, tr.473).
Sau khi chiếm được Bắc Hà, bắt được trọn gói vua tôi, anh em vua Cảnh Thịnh, hoàn thành cuộc thống nhất đất nước từ Nam chí Bắc, vua Gia Long khải hoàn về kinh. Ngày Giáp Tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) vua đem tù binh ra làm lễ hiến phù ở Thái Miếu. Hiến phù là lễ trình diện tù binh trước bàn thờ tổ tiên, và Thái Miếu là nơi thờ 9 đời chúa Nguyễn.
Sau lễ, “Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản [vua Cảnh Thịnh] và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại [Ngoại Đồ Gia, cơ quan chế tạo của triều đình, sau gọi là Võ Khố] (năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài” (Thực lục I, tr.531).
Trong chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 Tháng 11 Nhâm tuất, có câu mở đầu: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” và kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân” (Thực lục I, tr.532,533).
Theo tài liệu của Bissachère, trước khi nhận lãnh cái chết thảm khốc, anh em vua Cảnh Thịnh còn bị bắt phải chứng kiến cảnh lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của cha (Nguyễn Huệ) và bác (Nguyễn Nhạc) (theo hồi ký của Bissachère) trước khi hài cốt bị đem “giã nát rồi vất đi”.
Nguyễn ánh đã xử gia đình Quang Toản và những người theo Tây Sơn vô cùng tàn bạo:
"Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt, 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì”.
"Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục”.
"Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, chồng bà là Trần Quang Diệu do trước đó đã có lần tỏ ra khoan thứ cho quân Nguyễn nên xin được Nguyễn ánh tha cho mẹ già 80 tuổi trước khi bị xử chết...”.
Lăng mộ nhà Tây Sơn như các lăng của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã nát quăng đi đầu ba vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh) và bài vị vợ chồng Nguyễn Huệ thì bị giam trong ngục tối.
Các quan văn khác của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về (riêng Ngô Thì Nhậm thì bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết).
Thực lục ghi rõ vụ hành hình vua tôi anh em Cảnh Thịnh diễn ra ngày giáp tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 tức ngày 7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802.
Quốc sử quán triều Nguyễn còn ghi rõ: “Tháng 11 năm Canh Thân (tháng 12-1801), phá hủy mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị lăng trì cắt nát thây”.
Ngày Giáp Tuất tháng 11 năm Nhâm Tuất (ngày 6-12-1802), làm lễ hiến phù (lễ dâng tù binh): Đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc và Huệ đều giam ở Nhà đồ ngoại.
Như vậy, theo sử sách, thi hài của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc và vua Quang Toản đều không còn, chỉ có xương sọ được đặt trong ba cái vò đậy nắp kỹ, niêm khằng, quấn xích sắt, chú bùa để giam vĩnh viễn trong Nhà đồ ngoại (sau đổi thành Vũ khố), mỗi tháng đều có người đến kiểm tra. Chỉ cho đến năm 1885, khi Pháp đánh vào kinh thành Huế, vua Hàm Nghi phải xa giá, trong lúc hỗn loạn có người đã đem ba chiếc vò đó đi đâu mất không rõ.
Hai mươi bốn năm nằm gai nếm mật chống phong trào Tây Sơn, khi Nguyễn Ánh khôi phục được Phú Xuân, ông trả thù Phong trào Tây Sơn một cách nghiệt ngã.
Ông Trần Đại Vinh, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế cho biết trong bài chiếu làm lễ hiến phù, vua Gia Long đã tuyên bố “Trẫm vì 9 đời mà trả thù”. Chính sử triều Nguyễn đã ghi về việc quật phá lăng mộ vua Quang Trung của Gia Long. Bên cạnh đó các lăng mộ của gia tộc Tây Sơn ở Nghệ An và Quy Nhơn đều bị khai quật, hủy phá đến mức chỉ trơ hố huyệt sâu, khiến người sau phải gọi là “giếng huyệt”.
Ông Nguyễn Đắc Xuân cho hay, Sách Đại Nam Thực Lục Chính biên của Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đệ nhất kỷ, Quyển XV, trang 26a cho biết: “Tháng 11 Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh đã cho phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng (hòm), phơi thây, bêu đầu ở chợ”. Điều đó chứng tỏ lăng mộ vua Quang Trung chỉ còn dấu tích chôn sâu dưới đất, không còn hòm, không còn xương cốt, đầu lâu.
Quốc sử quán Triều Nguyễn, Quyển XV, trang 26a (Ảnh tư liệu của Nguyễn Đắc Xuân trình bày tại Hội thảo “Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn tại Huế” tháng 10/2015)
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn dành trọn Quyển 30 trong Đại Nam Liệt Truyện, Sơ tập, viết về Phong trào Tây Sơn. Sách đã ghi lại việc các lãnh tụ Phong trào Tây Sơn đã bị trả thù như thế nào. Cuối Quyển 30, sách tóm lược những việc vua Thế Tổ (Gia Long) đã “tận pháp trừng trị” nhà Tây Sơn như thế nào. Trang 55b, Quyển viết:
“Thị đông xa giá hoàn Kinh, cáo miếu Hiến Phù, tận pháp trừng trị, quật phá Nhạc Huệ mộ, đào khí hài cốt, u kỳ đầu vu ngục thất, cải Tây Sơn ấp viết An Tây ấp”, Dịch: “Mùa đông ấy (1801) xa giá [của Thế tổ] trở về Kinh (Đô Phú Xuân) , báo cáo ở Tông miếu và dâng hiến tù binh, tội phạm Tây Sơn đều bị giết để trừng trị, đào phá mộ (của Nguyễn) Nhạc, (Nguyễn) Huệ, giã nát và đổ bỏ, nhốt sọ đầu vào nhà ngục, đổi tên ấp Tây Sơn gọi là ấp An Tây”.
Đoạn bôi vàng dịch nghĩa ra: “Mùa đông ấy (1801) xa giá [của Thế tổ] trở về Kinh (Đô Phú Xuân), báo cáo ở Tông miếu và dâng hiến tù binh, tội phạm Tây Sơn đều bị giết để trừng trị, đào phá mộ (của Nguyễn) Nhạc, (Nguyễn) Huệ, giã nát và đổ bỏ, nhốt sọ đầu vào nhà ngục, đổi tên ấp Tây Sơn gọi là ấp An Tây” (Ảnh tư liệu của Nguyễn Đắc Xuân trình bày tại Hội thảo “Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn tại Huế” tháng 10/2015)
Đoạn sử cho biết con người liên quan với Phong trào Tây Sơn đều bị giết, lăng mộ bị quật phá đổ bỏ và cái tên quê  hương Tây Sơn cũng bị đổi thành An Tây. Việc đổi tên địa danh liên quan đến Phong trào Tây Sơn cũng bị đổi, ví dụ Phủ Qui Nhơn đổi thành Phủ Bình Định. Ngoài ra, toàn bộ sách vở, tài liệu của thời Tây Sơn bị hủy bỏ, các đồ tự khí bằng đồng bị nấu chảy để đúc thành đồ đồng thời Nguyễn; dời đổi những trị sở mà Tây Sơn đã từng đi qua… Chính vua Quang Trung mất trong thời kỳ độ tuổi sung mãn nhất 40 đã làm cho triều đại của ông xuống dốc và đi đến chỗ cáo chung, phong trào Tây Sơn đã bị trả thù một cách nghiệt ngã.
Theo Việt sử đại cương, không kể cá nhân Nguyễn Ánh bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì: năm 1777, Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (chú ruột vua Gia Long), Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương (em chú bác ruột) và Nguyễn Phúc Đồng (anh ruột) bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Tiếp đó, vào năm 1783, hai người em ruột của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn. Và thêm nữa, hoàng đế Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790".Một số tài liệu cũng ghi rằng, hoàng đế Quang Trung đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, gồm: chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613); chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635); chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648); chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687); chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691); chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725); chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738); và Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765); sau đó, lấy hài cốt ném xuống sông. Trong đó, phụ thân của vua Gia Long là con của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết: Theo truyền thuyết, khi Tây Sơn khai quật hài cốt Nguyễn Phúc Côn ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người).Như vậy, từ mối thâm tù cá nhân, vua Gia Long đã tận pháp trừng trị nhà Tây Sơn, mà không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình, khi tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù". 
Theo Quốc sử quán triều Nguyễn, vua Gia Long sau khi có những hành động tận pháp trừng trị lên hài cốt của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và thân xác của Nguyễn Quang Toản…, đã  chừa lại ba đầu lâu bỏ vào 3 cái vò, đậy nắp kỹ, niêm khằng, quấn xích sắt, chú bùa để giam vĩnh viễn trong Nhà Đồ ngoại (sau đổi thành Vũ Khố) vào tháng 11 năm Nhâm Tuất (1802).
Đến năm 1822, vua Minh Mệnh ra lệnh đưa 3 cái vò vào giam ở Khám đường. Đêm 22 rạng 23 tháng năm Ất Dậu (1885), phòng thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi phòng thành, quân Pháp vào thành…Lúc đó, có người mang 3 vò chạy trốn. Riêng một vò (sọ vua Quang Trung) được một ông họ Phan, người ở gần Cầu Ngói đã theo hào, lạch, sông đưa về Cầu Ngói Thanh Toàn…
Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện sơ tập. Quyển 30, chép rành rành " Mùa đông (Nhâm Tuất, 1802) xa giá (Gia Long) về Phú Xuân, cáo ở Tôn miếu, dâng tù binh Tây Sơn, đem hết phép trừng trị, đào mộ Nhạc, mộ Huệ, đem giã hài cốt vất đi, giam đầu lâu ở nhà ngục... ".
Công chúa Ngọc Hân trong lịch sử được biết đến là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Nàng lấy vua Quang Trung và trở thành Bắc Cung Hoàng hậu - một vị Hoàng hậu nổi tiếng trong lịch sử.
Công chúa Lê Ngọc Hân sinh năm 1771, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, là công chúa thứ 21, con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Mẫu thân của công chúa Lê Ngọc Hân là Nguyễn Thị Huyền, người làng Phù Ninh (huyện Ðông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh). Công chúa Lê Ngọc Hân là em Thái tử Lê Duy Vỹ và là cô Hoàng tử Lê Duy Kỳ tức người sau này lên nối ngôi vua Lê lấy niên hiệu Chiêu Thống.
Khi Nguyễn Huệ làm Tiết chế, thống lĩnh quân đội Tây Sơn đánh Bắc Hà với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh” năm 1786 thì công chúa Ngọc Hân mới 16 tuổi. Công chúa Lê Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ năm 1786, thụ phong Bắc Cung Hoàng hậu năm 1789. Từ đây, bà đã có vai trò rất lớn đối với sự nghiệp của của chồng là Quang Trung-Nguyễn Huệ. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trungtrước khi kéo quân ra Bắc lần thứ ba để diệt quân Thanh, Lê Ngọc Hân được phong làm Hữu Cung Hoàng hậu.Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng Hậu. Bà đãcó 2 con với Nguyễn Huệ là Công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và Hoàng tử Nguyễn Quang Đức.Công chúa Ngọc Hân mất năm 1799, đương triều vua Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn. Năm đó nàng mới 29 tuổi.
Bắc Cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân chỉ sống hạnh phúc với chồng được trọn 6 năm và vua Quang Trung băng hà trong lúc tuổi đời còn rất nhiều hứa hẹn...Ngọc Hân đau xé lòng, khóc thương chồng bằng tác phẩm chữ Nôm “Ai tư vãn”, đây là một bài văn tế vua Quang Trung được giới văn học đánh giá cao về tài năng văn chương lỗi lạc, phản ánh mối tình chung thủy của bà đối với vua Quang Trung-Nguyễn Huệ:
Buồn thay nhẽ! Sương rơi gió lọt
Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa!
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.
Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa nở!
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong?
Quyết liều mang vẹn chữ tòng
Trên rường nào ngại giữa dòng nào e!
Con trứng nước thương vì đôi chút
Chữ tình thân chưa thoát được đi
Vậy nên nấn ná đợi khi...
Hình thì tuy ở phách thì đã theo...
“Hồng nhan đa truân”, câu nói đó có lẽ nó ứng vào cuộc đời của Bắc Cung Hoàng hậu Ngọc Hân. Nàng mất ở tuổi 29 vì héo mòn trước nỗi đau mất chồng, mất con. Những tưởng đó là dấu chấm hết cho một kiếp hồng nhan, nhưng, cái nghiệp “giai nhân” đã đeo đuổi số phận của nàng ngay cả sau khi Ngọc Hân mất.
Vòng xoáy báo thù của triều Nguyễn với những người trung thành với vương triều Tây Sơn đã không buông tha cả khi Bắc Cung hoàng hậu Ngọc Hân đã thành người thiên cổ.
Công chúa Ngọc Hân từng chịu nhiều đau đớn ở cõi trần. Và lúc chết, nàng vẫn còn bị đày đọa khi có kẻ tà tâm báo cho triều đình nhà Nguyễn (thời vua Thiệu Trị) biết nơi công chúa đã nhắm mắt xuôi tay. Nhà Nguyễn không ngần ngại cho đào mộ công chúa Ngọc Hân và hai con của nàng với vua Quang Trung vứt xuống sông Hồng.
Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi vua cha là Quang Trung, bị họ ngọai chuyên quyền, nội bộ triều Tây Sơn lục đục rồi suy tàn. Bắc Cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân và hai con phải trốn vào sống lẫn với dân chúng ở Quảng Nam. Không lâu sau, vào năm Kỷ Mùi 1799, danh tính được phát hiện và bị bắt, Ngọc Hân uống thuốc độc quyên sinh khi bà còn rất trẻ, chỉ mới 29 tuổi; hai người con cũng đã bị thắt cổ chết. Nghe tin đau đớn này, bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền, mẹ của Ngọc Hân, lúc đó sống ở quê Phù Ninh (tục gọi là làng Nành, tỉnh Bắc Ninh) liền thuê người vào Quảng Nam lấy trộm được xác con và hai cháu ngoại đem về mai táng tại làng rồi cho dựng miếu thờ. Gần 50 năm sau, dưới thời Thiệu Trị thuộc nhà Nguyễn, miếu thờ bị đổ nát; một ông Tú người làng Nành nhớ công lao của bà Chiêu Nghi họ Nguyễn đối với dân làng nên đã quyên góp tiền để tu sửa ngôi miếu. Công việc này đã bị tên Phó Tổng cùng làng vốn thù riêng với ông Tú đã cất công vào Huế tâu báo vua Thiệu Trị việc thờ "ngụy Huệ". Triều đình Huế liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu thờ, quật đào ba ngôi mộ và vứt hài cốt xuống sông. Ông Tú này đã bị kết án trọng tội và Tổng đốc Bắc Ninh là Nguyễn Đăng Giai cũng bị giáng chức. Phần mộ của Bắc Cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân cùng hai người con đã từng tồn tại ở bãi Cây Đại, làng Nành, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm trong khoảng thời gian từ năm 1804 đến năm 1843 được chứng minh là có thật. Sự kiện vua Thiệu Trị thuộc nhà Nguyễn sai người đào mộ và đổ hài cốt 3 mẹ con bà xuống sông, sau đó con cháu dòng họ Nguyễn Đình và nhân dân tại đây đã lập ngôi mộ tượng trưng trên bãi Cây Đại để thờ cúng bà cách đây trên 70 năm cũng đã được các nhà khoa học khẳng định.
Cho đến nay giới khoa học đã khẳng định được năm qua đời của Công chúa Ngọc Hân là 1799. Tất cả những ức thuyết gì đề cập đến Công chúa mà không khớp với thời điểm Công chúa mất vào năm 1799 đều không đúng. Công chúa có với vua Quang Trung 2 người con, 1 trai (Nguyễn Văn Đức), 1 gái là Nguyễn Thị Ngọc (theo Đỗ Bang), nhưng theo Phạm Văn Diêu (Lành Mạnh, số 2, 1.11.56, tr.2) là Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Sau khi Công chúa mất, hai con của bà vẫn ở Huế hay đi đâu chưa xác định được. Đến mùa hè năm 1801, ông Nguyễn Ánh (sau nầy là vua Gia Long) lấy lại Phú Xuân trong tay nhà Tây Sơn, tất cả những người thân của gia đình vua Quang Trung và vua Quang Toản không chạy kịp đều rơi vào tay quân Nguyễn Ánh. Barizy - một sĩ quan người Pháp theo chân Nguyễn Anh vào Phú Xuân ngay từ ngày đầu của cuộc thắng thế ở Huế, trong thư viết ngày 16.7.1801, Barizy cho biết:
“ Nhà vua (Nguyễn Ánh) bảo tôi đi xem mặt các cô công chúa của kẻ tiếm vị (tức Quang Trung). Tôi đến đó, họ ở trong một căn phòng hơi tối, không phải là một phòng sang trọng, có tất cả 5 công chúa: 1 cô 16 tuổi, theo tôi là một cô gái đẹp, một em bé 12 tuổi là con gái của bà công chúa Bắc Kỳ (tức Ngọc Hân) em nầy cũng coi được. Còn 3 cô nữa từ 16 đến 18 tuổi thì nước da hơi nâu nhưng diện mạo cũng dễ thương. Ngoài ra còn có 3 con trai, có 1 em độ 16 tuổi cũng da nâu nhưng nét mặt thì tầm thường, còn em trai kia độ 12 tuổi là con của bà công chúa Bắc Ky thì diện mạo rất đáng yêu và có những cử chỉ rất dễ thương.” 
Giả thuyết rằng Barizy viết đúng vào tháng 7 năm 1801 thì những người thân của các vua Nguyễn Tây Sơn đã bị giam cho đến tháng 11, rồi tất cả những người bị bắt ấy đều bị giết như Đại Nam Thực lục Chính biên - bộ biên niên sử của triều Nguyễn đã viết:
Năm Tân Dậu (1801), tháng 11:“Phá hủy mộ giặc Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu của giặc 31 người đều bị lăng trì cắt nát thây” 
Nếu chúng ta tin Barizy viết đúng và chưa tìm được một tài liệu nào chứng tỏ hai người con của Công chúa Bắc Kỳ đã vượt ngục hay được Nguyễn Ánh ân xá thì ta phải tin là hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã chịu chung số phận trong số “31 người đều bị lăng trì cắt nát thây” như Thực lục đã viết.  
Sau cuộc trả thù đó một năm, Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long và ông lại thực hiện một cuộc giết chóc kinh khủng thứ hai nữa.Trong chiếu ra vào tháng 11 Nhâm tuất (1802) đề cập đến lễ Hiến phù (dâng những người bắt được trong chiến tranh) vua Gia Long cho biết: “ Ngày 7 tháng 11 năm Nhâm tuất (1802) yết tế Thái Miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy thái tể Quang Huy, Nguyên súy Quang Thiệu, đốc trấn Quang Bàn, thiếu phó Trần Quang Diệu, tư đồ Võ Văn Dũng, tư mã Nguyễn Văn Tứ; đổng lý Nguyễn Văn Thận, đô ngu Nguyễn Văn Giáp, thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng...”  
Trong danh sách tử tội bị hành hình lần thứ hai nầy không hề thấy có tên Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Thị Ngọc (Bảo). Điều đó củng cố thêm ý tưởng hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã chết hồi tháng 11 năm trước rồi (tức năm 1801).  
Theo Barizy thì hai người con của Công chúa Ngọc Hân đã sa vào tay Nguyễn Ánh. Nhưng theo tài liệu của nhà Nguyễn thì không hề thấy một tư liệu nào chứng tỏ điều đó. Mà theo sử nhà Nguyễn thì hai người đó đã “chết non cả”. Chết ở đâu, lúc nào, vì sao thì chưa ai khám phá ra được. Xin đọc đoạn Thực lục sau đây của nhà Nguyễn viết về thời Thiệu Trị:
Nhâm dần, Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), mùa Thu, tháng 7:“Tỉnh Bắc-ninh có dân xã Phù-ninh ngầm thờ ngụy quỉ. Việc bị phát giác. Vua sai hủy bỏ đền thờ.
(Nguyên người xã ấy là Nguyễn Thị Huyền, làm cung nhân của vua Lê Hiển tông, có người con gái là (tr.183) Ngọc Hân, sau gả cho ngụy (Nguyễn) Huệ sinh được 1 trai, 1 gái. Ngọc Hân chết, trai gái cũng chết non cả. Khoảng đầu năm Gia-long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú-xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù-ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả dối, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích. Tới đây, việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy đi) .
 Đọc kỹ đoạn trích nầy ta thấy:
Đô đốc Hài là một tướng của Tây Sơn mà không bị Nguyễn Ánh bắt và có thể bí mật dời hài cốt của mẹ con Công chúa Ngọc Hân về chôn cất ở xã Phù Ninh. Chứng tỏ việc dời đó chỉ có thể diễn ra trước khi Nguyễn Ánh làm chủ được ở Phú Xuân tức phải trước tháng 6.1801;
Các con bà Công chúa Ngọc Hân phải chết trước khi Nguyễn Ánh về lại Phú Xuân (6.1801) thì mới có hài cốt để cho đô đốc Hài mang về Phù-ninh;
Thông tin dẫn trong đoạn trích trên có độ tin cậy cao, bởi vì: Đô đốc Hài làm một việc thiêng liêng, khó khăn và đầy nguy hiểm như thế không thể dời mộ sai, bà Nguyễn Thị Huyền không thể dựng bia đắp mộ cho những người không phải thân thuộc của mình; vua quan nhà Nguyễn thời Thiệu Trị không thể làm một việc thất nhân tâm đến thế mà lại làm sai đối tượng!
Công chúa Ngọc Hân và hai người con của bà đã chết trước khi Nguyễn Ánh trở lại và làm chủ được Phú Xuân là khớp với toàn bộ những sử liệu của triều Nguyễn viết về sự kiện nầy.
Nếu chưa tìm ra được những tư liệu gì xác đáng hơn để có thể bác bỏ được những tư liệu trên thì ta có thể tin là nếu hai người con của Công chúa Ngọc Hân không chết trước khi Nguyễn Ánh về Phú Xuân (6.1801) thì cũng phải chết trong các cuộc trả thù của Nguyễn Ánh vào tháng 11 Tân dậu (1801) và tháng 11 Nhâm tuất (1802). Tức là Hoàng tử Nguyễn Văn Đức và Công chúa Nguyễn Thị Ngọc (Bảo) không còn ở trên cõi đời cho tới cuối năm 1802.
3.PHẨM BÌNH CỦA LỊCH SỬ .
Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn ánh về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của ông. Cuộc báo thù này có hai mục đích: Trả thù cho những việc Tây Sơn làm với cho gia tộc và bản thân Nguyễn ánh trước kia: phá lăng mộ các chúa nhà Nguyễn, giết chết người thân và cả những đắng cay trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy; Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới. Có lẽ vì vậy, Nguyễn ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. ông tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù". Trong các đánh giá về sau về sự việc này, sử sách cho rằng Nguyễn ánh thực hiện quá tay và "đôi lúc rất tiểu nhân".
Tại miền Nam trước 1975, có hai bộ thông sử tiếng Việt thông dụng là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn. Viết về vua Gia Long, cả hai bộ sử đều giống nhau ở một điểm: có phê phán sự hẹp lượng của vua Gia Long qua việc giết hại công thần (vụ án Nguyễn Văn Thành và vụ án Đặng Trần Thường), có kể rõ việc hành hình trả thù Tây Sơn nhưng hoàn toàn không bình luận, phê  phán gì đến sự “quá tay” trong việc này. Tại sao?
Hoa Bằng, tác giả Quang Trung, Anh hùng dân tộc (Nxb Bốn Phương, Saigon, 1953) khi kết luận thiên biên khảo đầu tiên bằng tiếng Việt về đề tài này đã ngậm ngùi viết: “Vậy mà Nã Phá Luân [Napoléon I] được gởi nắm xương trong đền Invalides để cho người sau hoài niệm, viếng thăm; còn Quang Trung: mả phải đào, xương phải tán, dòng dõi bị chu di, sự nghiệp liệt liệt oanh oanh gói tròn trong một chữ ‘Ngụy’”.
Nhà viết sử Trần Gia Phụng trong Nhà Tây Sơn (Nxb Non Nước, Toronto, 2005) cũng đã có lời bình phẩm nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc: “Cuộc trả thù được vua Gia Long xem là ‘nghĩa lớn Kinh Xuân Thu’ nhưng hành hạ di cốt địch thủ trước mắt con cái họ trái hẳn với đạo lý cổ truyền của dân tộc” (tr.240).
Phê bình mạnh tay, mạnh mẽ hơn có Quách Giao:
Nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi non sông đổi chủ.
Còn đối với Nhà Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng [Cảnh Thịnh], cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ thì đem xiềng nơi ngục thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn tránh nơi sơn dã. Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An Khê.
Vua tôi Nhà Nguyễn biết nhưng sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ. Bọn bất lương đi mật báo. Quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân giết chết.
Trong văn hóa phương Tây, đánh nhau là đánh nhau nhưng không có chuyện trả thù kẻ chiến bại một cách tàn nhẫn, nhất là đối với người đã chết. Do đó, khi bắt gặp hành động “dã man” này của vua Gia Long, Stanley Karnow, tác giả tiếng tăm bộ sử ( VietNam, A History (Penguin Book, 1984) đã viết:
“Ông ta tỏ ra chẳng khoan dung chút nào đối với kẻ thù đã chiến bại, dù đã chết hay còn sống. Binh sĩ của ông đã quật xương cốt của một cặp vợ chồng cầm đầu Tây Sơn đã chết [Nguyễn Huệ], tiểu tiện vào xương cốt đó trước sự chứng kiến của con cái họ và những người này sau đó tay chân bị trói vào 4 con voi và xé nát.” (p.65).
Các sách sử Việt Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia Long đều lấy tài liệu từ các bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết khác do nguồn sử liệu Tây phương cung cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đã không giấu diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người sau chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà không có bớt. 
Như vậy, từ mối thâm tù cá nhân, vua Gia Long đã tận pháp trừng trị nhà Tây Sơn, mà không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình, khi tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù".Tuy nhiên, hậu thế rất lên án hành động này, khiến vua mang tiếng "tội nhiều hơn công"... "Sự tàn bạo của hoàng đế Gia Long khi áp dụng các hình phạt thời Trung cổ, trả thù Tây Sơn khiến hậu thế nhiều khi có định kiến nặng nề về ông đến nỗi xóa nhòa hết công lao nhất định của ông đối với sự thống nhất đất nước. Và đó là điều đáng tiếc đối với vị quân vương quá nặng về khôi phục vương nghiệp, cố đạt được mục đích bằng bất cứ giá nào", theo Wikipedia. Tuy nhiên, trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim vừa khen vừa phê Gia Long: "Vua Thể tổ có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.
Công nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại nhiều người, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa".
Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn ánh về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của ông. Cuộc báo thù này có hai mục đích: Trả thù cho những việc Tây Sơn làm với cho gia tộc và bản thân Nguyễn ánh trước kia: phá lăng mộ các chúa nhà Nguyễn, giết chết người thân và cả những đắng cay trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy; Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới. Có lẽ vì vậy, Nguyễn ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. ông tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù". Trong các đánh giá về sau về sự việc này, sử sách cho rằng Nguyễn ánh thực hiện quá tay và "đôi lúc rất tiểu nhân".
Theo thiển ý của dienbatn thì đánh giá của  Nhà nghiên cứu lịch sử Võ Hương An có lẽ là xác đáng nhất :
“Các sách sử Việt Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia Long đều lấy tài liệu từ các bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết khác do nguồn sử liệu Tây phương cung cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đã không giấu diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người sau chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà không có bớt.
Riêng người viết, trong niềm ngưỡng mộ chiến thắng oanh liệt hào hùng của vua Quang Trung trước quân Xiêm và quân Thanh xâm lăng, ban đầu thì cũng đồng ý với những bình phẩm chê trách hành động của vua Gia Long đối với Tây Sơn là thái quá, tàn nhẫn, nhưng sau đó, khi được biết những nguồn tin khác, không khỏi đắn đo tự hỏi và tìm lời giải đáp.
Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát .Ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Sau khi làm chủ Bắc hà, vua “Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc thờ cúng họ Trịnh. Trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: ‘Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời” (Thực lục I, tr.508).
Vậy là Trịnh Tư được giao lo việc thờ cúng, họ Trịnh được cấp 500 mẫu ruộng để lấy huê lợi cúng tế hàng năm, 247 người họ Trịnh được xét tha thuế dinh và miễn binh dao (đi lính và chịu sưu dịch).
Ai cũng biết La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được coi như một Gia Cát Lượng của vua Quang Trung, một cố vấn tối cao, được vua quan trên dưới đều kính nể (4 lần vua khẩn khoản mời ra giúp, cuối cùng nhận chức Viện trưởng Viện Sùng Chính năm 1790, giúp vua chấn chỉnh việc giáo dục, văn hóa, giúp vua chọn đất Nghệ An làm Phượng Hoàng trung đô…).
Khi Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân, ông đang ở Huế giúp vua Cảnh Thịnh nhưng không chạy theo khi vua đào thoát (hay chạy theo không kịp?) và dường như không bị bị bắt mà chỉ quản thúc tại gia, dù phía Nguyễn Vương biết rõ lý lịch, sau đó Nguyễn Vương đã ra lệnh:
“Thả xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về. Thiếp là người xã Nguyệt Áo huyện La Sơn, đậu Hương tiến đời Lê, làm quan huyện Thanh Chương, bỏ quan về nhà. Khi nhà Lê mất, theo lời mời của Nguyễn Quang Toản mà ở lại Phú Xuân. Tới nay vào yết kiến, xin trở về làng. Vua [Nguyễn Vương] dụ rằng ‘Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta.’ [người viết in đậm]. Bèn sai quan quân đưa về” (Thực lục I,tr.445).
Lại năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành bắt giải về Kinh, vua Gia Long tha hết cho về quê. Lại khi Bộ Hình tâu xin vua định đoạt số phận của người vợ lẽ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên Đại và Vạn bị bắt thì vua nói: “Vợ lẽ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì?” (Thực lục I, tr.544).
Những chứng dẫn nho nhỏ đó cho thấy vua Gia Long là con người phải chăng, tùy theo người, theo trường hợp mà có quyết định tha hay phạt, chứ không phải bạ đâu giết đó, thà giết lầm hơn bỏ sót. Vậy tại sao giết Tây Sơn chưa đủ, phải hành hạ mới hả, kể cả nắm xương khô. Thù chi mà dữ vậy?..
… Vua Gia Long có một thanh gươm mang tên Qui Y. Sử ghi rằng thanh gươm này có tính ưa giết người (hiếu sát), Tối hôm nào gươm tự động thoát ra khỏi vỏ thì hôm sau thế nào cũng có người phạm tội bị chém bằng thanh gươm đó. Vua Gia Long ghét tính hiếu sát của gươm bèn đem qui y cửa Phật và đặt tên là Qui Y (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu).
Sự thật là đây :
Về chuyện vua Gia Long trả thù Tây Sơn, nhà viết sử Trần Gia Phụng đã đi xa hơn các học giả đi trước khi lần đầu tiên ông phân tích chính xác rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì ba việc chính: thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790” (Việt Sử Đại Cương, Tập 2, tr.445).
Chừng đó nợ máu nghe đã nặng (5 người cật ruột), nhất là món nợ thứ 3, nhẹ vật chất mà nặng tâm linh và đạo đức, ít người biết. Nhưng kể vậy cũng chưa đủ.
Khi đọc câu mở đầu của chiếu bố cáo lễ hiến phù: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…”  (Thực lục I, tr.532) tôi không khỏi mỉm cười một mình với ý nghĩ: thiệt mấy ông đời xưa văn chương lớn lối quá, cái chi cũng lôi điển tích với sách vở ra, tô vẽ cho long trọng. Nhưng sau đó, khi đọc kỹ Thực lục mới biết mấy chữ vì 9 đời mà trả thù mang một ý nghĩa rất thực, rất cụ thể, bên cạnh màu sắc điển tích văn chương tô điểm.
Ngày 13/6/1801, Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô Phú Xuân, nơi ông đã vội vã ra đi khi mới 13 tuổi (ta), và ròng rã 27 năm mơ ước được trở về. Tuy đã làm chủ được Phú Xuân nhưng lực lượng hùng hậu của Tây Sơn Cảnh Thịnh vẫn còn ở bên kia lũy Trường Dục (Quảng Bình), vậy mà đến đầu tháng 8 năm đó đã lo sửa sang lăng mộ tổ tiên và cấp tốc hoàn tất ngay trong tháng.
Sao việc này lại làm gấp rút còn hơn cả công tác sửa sang thành trì, xây đồn đắp luỹ để phòng chống Tây Sơn? Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của Thực lục sau đây, có thể thấy được lý do thúc đẩy (những chữ in đậm là do người viết, chữ ghi giữa hai ngoặc đứng [x] là chú giải của người viết):
“Tháng 9, ngày Ất hợi [ 9/8/1801], sửa lại Sơn lăng.
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.
Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên.
Vua thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại. Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Ngày Kỷ hợi [1/11/1801], vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều khóc cả. Sai đổi xã Cư Hóa làm xã Cư Chính, cho dân miễn dao dịch làm hộ lăng. Cho Huyên làm Cai đội (năm Minh Mệnh thứ 11[1830] phong An Ninh bá, lập đền thờ ở núi Cư Chính) con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài tòng quân ở Bình Định cũng được gọi về hậu thưởng cho” (Thực lục I, tr.466).
Thứ nhất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy hài cốt ném xuống sông. Việc này cộng với việc giết chết vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên năm 1777 thì quả nhiên vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chậy chút nào. Vì vậy có thể nói được rằng chữ 9 đời có một ý nghĩa rất cụ thể.
Đây là 8 đời chúa Nguyễn:
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613);
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635);
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691);
Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725);
Chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738);
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765);
Về ông tổ Nguyễn Kim, có lẽ vì không biết đích xác mộ phần nẳm ở đâu trong cái bát ngát của núi Triệu Tường ở Thanh Hóa, nên vua Quang Trung đành phải cho qua mà không tính sổ.
Tám đời chúa Nguyễn này không có hận thù gì với anh em Tây Sơn, đã có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước khi kế tục nhau mở nước về phương Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, cống hiến cho tổ quốc non một nửa nước, trài dài từ Phú Yên trở vào Nam, với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn lãnh thổ nam tiến của các triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cộng lại. Không có sự nghiệp này thì hậu thế ngày nay lấy chi để khoe với thế giới rằng “nước ta hình cong như chữ S” với “rừng vàng biển bạc”?!
– Thứ hai: Phần mộ của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long cũng bị quật lên và hài cốt ném xuống sông.
Ông Nguyễn Phúc Côn là con thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm 1765, khi con là Nguyễn Phúc Ánh đang còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế (1806) mới truy tôn cha làm Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ cho đến khi chết dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan, ông chẳng làm vua làm chúa gì. Chỉ vì con ông là Nguyễn Phúc Ánh dám chống lại Tây Sơn mà ông đã không được ngủ yên, lâm vào cảnh con làm cha chịu!
Trong văn hóa Việt Nam, phận làm con cháu là phải lo gìn giữ mồ mả tiên tổ cha ông. Do đó chúng ta thông cảm với vua Gia Long chỉ trong 2 tháng sau khi tái chiếm Phú Xuân đã vội vã hoàn tất việc tu sửa lăng mộ bởi khi đã biết tình trạng lăng mộ bị phá tanh banh thê thảm như thế thì không một ai có thể chờ đợi được nữa.
Trong lịch sử Việt Nam, việc tranh giành quyền lực dẫn đến những hành động giết hại nhau tàn nhẫn không phải là hiếm. Điển hình, để cướp ngôi nhà Lý, Trần Thủ Độ không ngần ngại dồn Lý Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ nhổ cỏ tận gốc, mặc dù Huệ Tông đã biết thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở chùa Chân Giáo. Đã thế, Trần Thủ Độ còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý chôn sống trọn gói (may mà Hoàng tử Lý Long Tường nhanh chân thoát qua tị nạn ở Cao Ly, trở thành thuỷ tổ họ Lý của xứ Đại Hàn ngày nay).
Nhưng có lẽ trong cuộc tranh chấp quyền lực chưa có ai trong lịch sử phải trả cái giá 5 mạng người ruột thịt và 9 ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh với xương cốt không biết đâu tìm như trường hợp vua Gia Long trong khi đối đầu với Tây Sơn để phục hồi cơ nghiệp của ông cha đã tốn công xây dựng.
Ở đời, có vay thì có trả. Nợ nào cũng có tính lãi suất, chỉ có khác là nặng hay nhẹ, không hình thức này cũng hình thức khác. Nếu Quang Trung Nguyễn Huệ không tạo nhân ác thì có thể đã không gặp quả ác. Hận thù luôn luôn vẫy gọi thù hận là chuyện thường của thế gian, huống chi lại có yếu tố tranh giành quyền lực trong đó, tham lam và sân hận hẳn phải bốc lên ngùn ngụt.
Phải chăng nên thử tự đặt mình vào địa vị của vua Gia Long để có nhiều thông cảm và có lời phẩm bình phải chăng hơn.”
Xin theo dõi tiếp BÀI 16 . dienbatn.
Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 15.

7/12/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 15.
I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) .
5. LĂNG VUA KHẢI ĐỊNH.
1/ TƯ LIỆU LỊCH SỬ.
1.1/ TIỂU SỬ.
1.2/Vua Khải Định và chuyến công du sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Marseille
1.3/HÌNH ẢNH LỄ TANG VUA KHẢI ĐỊNH.
1.4/PHÂN KIM HƯỚNG MỘ.
Ông lên ngôi vào ngày 18-5-1916, là vị vua thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông ở ngôi được 10 năm thì lâm trọng bệnh và mất ngày 20-9 năm Ất Sửu tức ngày 6-11-1925 an tang tại Ứng Lăng thuộc làng Châu Chữ thị xã Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế.
Vua Khải Định và tứ trụ đại thần triều đình.
Để xây dựng lăng cho mình, Vua Khải Định đã tham khảo nhiều tấu trình của các thầy địa lí́ dâng lên và cuối cùng Vua đã chọn triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) làm vị trí tọa lạc cho nơi an nghỉ của mình sau này. Tọa lạc ở vị trí này, Ứng Lăng lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm “Tiền án”, có khe suối Châu Ê chảy từ trái qua làm nơi “Thủy tụ”, núi Chóp Vung ở bên Tả và Kim Sơn ở bên Hữu làm Tả Thanh Long và Hữu Bạch Hổ (Rồng, Cọp chầu Ứng Lăng). Nhà Vua đã cho đổi tên núi Châu Chữ là nơi khu lăng tọa lạc thành Ứng Sơn và khu lăng được gọi tên là Ứng Lăng. Hiện nay dưới chỗ đặt bức tượng sâu 9m là nơi chôn cất thi hài của nhà Vua. Có một điều đặc biệt Lăng Khải Định khác với nhiều lăng của các vị Vua triều trước, đó là, đối với các lăng của vua triều Nguyễn, thi hài nhà Vua nằm ở đâu đó trong lăng rất khó để xác định, nhưng riêng Lăng Khải Định được định vị rõ ràng. Do tình hình lịch sử biến động khi Khải Định lên ngôi vua, triều đình bị người Pháp thao túng. Nhất cử nhất động của nhà Vua đều có ánh mắt của quan thầy Pháp dõi theo, cũng chính vì thế mà đám tang của Vua Khải Định có nhiều người nước ngoài đưa tiễn và vì thế thi hài của nhà Vua chôn ở đâu không còn là một điều bí mật như các Vua đời trước.Có giai thoại kể rằng: Lăng được xây từ khi nhà Vua còn sống.Người ta đào một đường hầm ở dưới lòng đất từ bức bình phong đến điện chính của lăng (nơi chôn cất nhà Vua) là 30m. Sau khi nhà Vua băng hà, quan tài của Vua được đưa vào bằng đường hầm ở dưới, sau đó người ta bịt kín đường hầm. Trong các đời Vua, duy nhất chỉ có Lăng Khải Định mới xác định được rõ ràng ví trị quan tài của nhà Vua.
Đưa thi hài vua Khải Định vào lăng.
Một điều đặc biệt là trên ngai vàng của nhà vua có một lọng che được làm bằng xi măng cốt thép trọng lượng trên 1 tấn nhưng trông rất mềm mại, có cảm giác như những cơn gió thổi có thể làm lọng che khẽ khàng lay động. Người thiết kế cũng chính là ông Phan Văn Tánh, người vẽ bức “Cửu long ẩn vân”.
Những người trông coi di tích lăng tẩm Vua Khải Định kể lại rằng: Từ khi mất đi cho đến nay ông chưa bao giờ nhận được một nén nhang từ con và cháu của mình.Quần thể lăng hoàn thành cách đây 83 năm, cho đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn. Nét đặc sắc của lăng và giá trị nghệ thuật nhất là cung Thiên Định, nơi chôn cất thi hài của Vua Khải Định. 
HƯỚNG TRỤC THẦN ĐẠO : 222 độ.
Trước Lăng có khe suối Châu Ê chảy từ trái qua – Tả Thủy đảo Hữu phóng thủy tại Canh Dậu.
TỌA CẤN – HƯỚNG KHÔN. MỘC CỤC.
Thủy ra 6 chữ : Đinh –Mùi , Khôn – Thân, 
Canh – Dậu. Thì phương Quý – Sửu, Cấn – Dần, 
Giáp – Mão cao, nên là Mộc dục , khởi Trường sinh tại Hợi để luận thủy.
THỦY RA CANH – DẬU.
Là Mộc cục . Thủy ra Thai phương. Lập được 4 Hướng : Mộc dục – Suy – Tuyệt – Thai.
Tả Thủy đảo Hữu.
Lập Hướng Tuyệt.
Tọa Cấn – Hướng Khôn.
Phú quý , đinh , tài đều phát lớn.
1.NHÂM LONG NHẬP THỦ.
NHÂM LONG: Nhâm Long là Dương long, sinh ra người bình thường chóng suy. Hay sinh ra người 6 ngón tay hay chân, hoặc sứt môi.
Gồm có 3 Hướng :
1/ Tý Sơn – Ngọ Hướng.
2/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
3/ Tân Sơn - Ất Hướng.
Lấy Bính Tý làm chính Khí của Long.
Cấn Sơn – Khôn Hướng.
Nhâm Long nhập thủ , mạch lạc bên Hữu , lập Huyệt Tọa Cấn – Hướng Khôn ; ai tả gia Hợi nửa phân , lấy Nhâm mạch xuyên suốt lưng Hữu.
Thôi quan Thiên có thơ : 
Nhâm Sơn thiều thiều , Huyệt Thiên Thị.
Thiên Phú Khí bôn xung Hữu du.
Huyệt Tả vi xâm bán phân Hợi.
Phú quý thanh danh hương lư lý.
Nghĩa : Nhâm Sơn từ xa đến , Huyệt lập Cấn ( Thiên Phụ ) , chạy xung vào Hữu. Huyệt Tả lấn nửa phân vào Hợi. Giầu sang thơm nức tiếng nơi xóm làng.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi. ( 222,5 độ )
- Kiêm Dần Thân : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi. ( 227,5 độ )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi.
- Kiêm Dần Thân : Tọa Bính Dần – Hướng Bính Thân.
2.TÝ LONG NHẬP THỦ.
TÝ LONG :  Tý long là Dương long , cũng là Khảm long , hay sinh ra người to béo giầu có, lợi về canh tác .
Long này độc nhất có 1 hướng chóng phát là Tọa Cấn – Hướng Khôn. Lấy Canh Tý làm chính Khí.
Tọa Cấn – Hướng Khôn : Tý Long nhập thủ , lạc mạch từ bên Hữu xuống , lập Huyệt Tọa Cấn – Hướng Khôn, nhích sang bên Tả một chút Nhâm phương chừng 1 phân, khiến chính khí ở Tý xuyên suốt qua tai bên Hữu.
Thôi quan Thiên có thơ : 
Dương Quang huyệt Tọa Thiên Thị viên.
Khí trung Hữu nhĩ nãi vi huyền.
Huyệt nghi ai Tả gia Thiên Phụ.
Dụng sinh lục chỉ, đa điền viên.
Nghĩa : Long Dương Quang ( Tý ), Huyệt Tọa Cấn – Hướng Khôn . Khí theo tai phải vào là huyền diệu nhất. Huyệt nên nhích về bên Tả gia Nhâm ( Thiên Phụ ). Dùng Long này hay sinh người có 6 ngón tay hay chân nhưng giầu có , nhiều ruộng vườn.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi. (222,5 độ )
- Kiêm Dần Thân : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi. ( 227,5 độ )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi.
- Kiêm Dần Thân : Tọa Bính Dần – Hướng Bính Thân.
3.QUÝ LONG NHẬP THỦ.
QUÝ LONG :  Quý long là Dương long, thứ long tầm thường , hay sinh ra người to béo , tròn và trắng bạch . Quý long hay sinh ra người tu hành , nếu không thì sinh ra người phá của. Duy có Quý long có Quý thủy triều thì lợi về kinh doanh , buôn bán .
Quý Long gồm 2 hướng :
1/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
2/ Tý Sơn – Ngọ Hướng.
Lấy mạch Đinh Sửu làm chính Khí Quý Long.
1/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
Quý Long nhập thủ , lạc mạch bên Hữu  thì lập Huyệt Tọa Cấn – Hướng Khôn, xê dịch quan tài qua bên trái gia Tý một chút , lấy Đinh Sửu làm chính Khí của mạch , để Khí xuyên suốt qua tai phải.
Thôi quan Thiên có thơ :
Thôi Quan thập tam, hướng Huyền Qua.
Âm Quang tuần mỹ hữu nhĩ qua.
Ai Tả vi gia bán phân nguyệt .
Phú quý tiên kiến , phong lưu đa .
Nghĩa : Thôi Quan thứ 3 Hướng Huyền Quan ( Khôn ) . Âm Quang thuộc Quý mạch đẹp xuyên qua tai Hữu. Nhích về bên Tả nửa phân gia Tý ( Nguyệt ). Trước thấy giầu sang , cuộc sống rất phong lưu.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi. (222,5 độ )
- Kiêm Dần Thân : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi. ( 227,5 độ )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi.
- Kiêm Dần Thân : Tọa Bính Dần – Hướng Bính Thân.
4.DẦN LONG NHẬP THỦ.
DẦN LONG : Dần long là Dương long. Hay phát về văn , sinh người tuấn tú , nếu kiếm được Huyệt tốt cũng phát được vài đời .Dần long thường phát cho tuổi Dần – Ngọ - Tuất – Hợi . Dần long phân kim thừa Bính Dần , Canh Dần phát 3 đời . Nếu thừa Mậu Dần là Không vong , thừa Giáp Dần , Nhâm Dần là cô hư sát , chỉ phát 1 đời rồi bại tuyệt, phải tiếp Phúc ngôi đất khác mới bền .
Dần Long có 2 hướng Thôi Quan.
1/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
2/ Dần Sơn – Thân Hướng.
Lấy Nhâm Dần làm chính Khí.
1/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
Dần Long nhập thủ lạc mạch bên Tả , lập Cấn Sơn – Khôn Hướng , nhích quan tài về bên Hữu là gia Giáp, Lấy Nhâm Dần làm chính Khí , mạch xuyên qua tai Tả.
Thôi quan Thiên có thơ .
 Công Tào tọa Cấn , diện Huyền Qua.
Tả nhĩ thừa khí cô thiên phá.
Vi Gia Giáp vi cục chu hoàn.
Long mạch tinh kì phát như hỏa.
Thử Huyệt phát phước cực tốc.
Nghĩa : Long Dần ( Công Tào ) tọa Cấn mặt hướng về Khôn ( Huyền Qua ). Thừa Khí mạch vào tai Tả, không có xung phá. Hợi gia về Giáp là cục chu toàn nhất . Long mạch tinh kì phát nhanh như lửa dậy , Huyệt này phát phúc rất nhanh.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi. ( 207,5 độ )
- Kiêm Dần Thân : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi. ( 212,5 độ )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi.
- Kiêm Dần Thân : Tọa Bính Dần – Hướng Bính Thân.
5.GIÁP LONG NHẬP THỦ.
GIÁP LONG : Giáp long là Dương long , thuộc Mộc . Là loại long thường hay sinh ra người xấu xí , nhỏ bé. Giáp long nếu đắc địa , hoạnh phát trong các năm Dần – Mão . Phát được vài đời thì hết, muốn phát đạt tiếp phải kiếm ngôi khác tiếp Phúc .
Long này được 2 hướng Thôi Quan:
1/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
2/ Tốn Sơn – Càn Hướng.
Lấy Kỷ Mão làm chính Khí.
1/ Cấn Sơn – Khôn Hướng.
Giáp Long nhập thủ , lạc mạch ở Tả, lập Huyệt Tọa Cấn – Hướng Khôn , nhích quan tài về bện Hữu gia Dần 1 phân . Lấy Kỉ Mão làm chính Khí , mạch xuyên vào tai Tả.
Thôi quan Thiên có thơ .
Âm cơ Long lập hướng Khôn.
Tả nhĩ thừa Khí phước vô cùng.
Huyệt nghi niêm hữu vi gia Dần.
Long kỳ cục tỏa, phương kham dụng.
Thử Huyệt dị hưng.
Nghĩa : Long Âm cơ ( Giáp ) lập hướng Khôn. Mạch rót khí vào tai Tả đặng phước vô cùng. Huyệt nên niêm ( dán ) ở Hữu, gia bên Dần. Long kì lạ đặc biệt, địa cục khóa chặt , nên chọn mà dùng. Huyệt này phát đạt làm nên sự nghiệp.
Phân kim theo Chính châm Địa bàn.
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi. ( 207,5 độ )
- Kiêm Dần Thân : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi. ( 212,5 độ )
Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :
- Kiêm Sửu Mùi : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi.
- Kiêm Dần Thân : Tọa Bính Dần – Hướng Bính Thân.
6.CẤN SƠN – KHÔN HƯỚNG.
Thủy ra Canh Dậu. Mộc cục.
Tuyệt Hướng , Thủy ra Thai. Nếu Tả Thủy đảo Hữu ra phương Canh Dậu , hợp Văn khố tiêu Thủy, Dương công tiến thần Thủy pháp . Thư nói : Lộc tồn lưu tận bội kim ngư là cách này. Chủ phát phú quý , phúc thọ toàn 2. Sai một chút là Tuyệt, không nên khinh thường, như chân Long Huyệt đích thì không ngại.
CẤN SƠN – KHÔN HƯỚNG.
Cấn Sơn – Khôn Hướng gia Sửu.
Dùng Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi phân kim. Tọa sao Đẩu 9 độ , là Mậu dần Hỏa độ , bình phân Bính dần. Chủ ngành 2 và 4 phú quý. Chẳng hợp vào vị trí sao Đẩu 8 độ , phạm Hỏa Kim quan sát , mọi ngành bại tuyệt .
Cấn Sơn – Khôn Hướng gia Dần.
Dùng  Tọa Tân Sửu – HướngTân Mùi phân kim . Tọa sao Đẩu 1 độ , ấy là Nhâm Dần Thủy độ- Tọa sao Đẩu 2 độ ấy là Canh dần Kim độ, bình phân Mậu Dần . Chủ ngành 2 phú quý , ngành trưởng cũng phát đạt .
Cấn Sơn – Khôn Hướng chính châm.
Dùng Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi  phân kim. Tọa sao Đẩu 4 độ - Hướng sao Tỉnh 9 độ làm Thủy cục . Cấn sơn nên cao lớn có nham thạch càng đẹp, trưởng phòng đinh tài đại vượng . Quý sơn hai núi cao khởi , ngành 2,3 có vợ quý , nữ có chồng sang . Tuất Càn phương có sơn phong cao lớn , núi nhọn , ngành trưởng ngành 4 đếu cát , nếu thấp lõm thì không lành .Dậu sơn tú lệ , ngành 3,5 sinh quý tử. Thân sơn tú lệ , ngành 3,6 đinh tài đại vượng . Hữu Thủy đảo tả ra trước mặt Đinh Mùi tiêu thủy là Tuyệt xứ phùng Sinh ( Mộc cục ) , chủ phú quý , đa tử tôn . Tả Thủy đảo hữu ra Canh Dậu  là Văn Khố tiêu Thủy , chủ phú quý , thọ cao . Chính cục hợp Thủy phóng Đinh là cát ( Tuyệt Hướng – Mộ lưu Thủy ).
Phản cục : Nếu Tị Sơn rơi Không vong , ngành 4 chẳng lợi . Nếu Khôn Sơn không cao nhọn , ngành 3,4 sinh người ngu độn .Sơn Sửu ít cao , ngành trưởng , ngành 2 đổi vợ , tuyệt tự . Gió hõm tại phương Cấn , tất chết đường . Thìn Sơn cao lớn , ngành 2 vô tự cầu con rể . Nếu Thân Hợi có sơn phong cao lớn , có thể cứu , hóa cát không hung. Sửu sơn cao lớn , chủ quan phi khẩu thiệt , tai họa thường đến , chủ nam mắt mờ . Nếu Thìn , Tuất , Sửu , Mùi sơn cao lớn như nhau , mọi ngành đều tuyệt tự .Nếu Thủy xuất Bính Ngọ là xung phá Thai Thần ( Sinh Hướng , Thủy chảy ra Thai ), lúc đầu có phát đinh tài , lâu dài tuyệt tự . Thủy xuất Tuất Càn là Hỏa cục . Bệnh Hướng , chủ có đinh không tài , thường đau ốm.
Cấn Sơn – Khôn Hướng , kiêm Sửu Mùi.
Dùng Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi phân kim . Tọa sao Đẩu 8 độ - Hướng sao Tỉnh 14 độ . Làm Mộc cục . Phu thê chính phối , Âm Dương hội hiệp – là cách Lộc – Mã đồng quan.
Cục – Hướng chân đích , Thanh Long tiềm phục , cục này nếu có Thủy đến ngang , hữu Thủy đảo tả rồi ra , ấy là chủ về lâu dài không bị suy bại , lại được Càn, Tuất , Hợi Thủy lai triều Minh đường , chảy đến phương Ất THÌN mà thành Thủy  cục – Sinh lai Hội Vượng , đại phú quý.
Nếu Tốn Tị xuất Thủy khẩu, ít vượng nhân đinh, nhưng có thọ cao . Cấn Dần phương sơn loan nhọn đẹp , rất lợi khoa cử , nếu thấp bé được tiểu quý. Nếu 5 cát phương Thủy lai triều ( Vượng , Quan , Lâm , Mộc , Sinh ), chủ thực lộc vạn chung.
Nếu Canh phương Thủy đến chuyển hướng Tị , Bính mà ra , lợi các năm tháng Tý – Ngọ - Mão – Dậu , bất lợi năm tháng Thìn – Tuất – Sửu – Mùi .
Phản cục : Cục này phạm : Bảng sát trinh dâm ,là hung tinh . Vì Khôn là lão mẫu , Mùi là trưởng nam . Trẻ con phối mẹ già là ngỗ nghịch , loạn luân, phạm khắc tử hình thê. Ngọ Đinh Thủy đến, thì cờ bạc , dâm loạn . Ngọ Đinh có sơn phong cao lớn, chủ xuất trộm cướp, phá gia chi tử.
Khôn phương có sơn phong cao lớn, bệnh lâu ngày về huyết hỏa khí vượng . Canh Thân có sơn phong cao lớn, cùng Thủy chảy lại xuất sinh phong tật , phụ nữ trụy thai , khó nuôi con . Dần Giáp Thủy xuất khứ là Giao như bất cập , giáng quan , mất chức . Càn Hợi Thủy xuất khứ ,  tổn hại trẻ con , sát nhân Hoàng tuyền . Thủy ra Sửu Cấn chủ phá sản tổn tài đinh . Thủy ra Tân Tuất chủ quan phi.
Cấn Sơn – Khôn Hướng , kiêm Dần Thân.
Dùng Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi phân kim. Tọa sao Đẩu 1 độ - Hướng sao Tỉnh 6 độ , là Đảo Dương Thủy cục . Tuy là cách Thiên Trụ , chỉ vì Âm Dương chẳng hợp . Cấn gia Sửu trên là chồng , Dần với Giáp Mộc là vợ , tức em lấy chị dâu. Nếu được cục chân đích , thác sơn ở sau cần thấp nhỏ , Thanh long cần cao lớn, Bạch Hổ tiềm phục hợp pháp , lại được phương Dưỡng có núi đẹp , khuất khúc Thủy triều Minh đường , chủ mọi ngành đều phát đạt. Nếu Trương sinh sơn thủy triều chủ phát phước  vào các năm Thân – Tý – Thìn, nhân đinh đại vượng.
CẤN SƠN – KHÔN HƯỚNG.
1/Kiêm Sửu Mùi ( Theo Thủy cục ).
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi.( 222,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi.
Tú độ : Tọa sao Đẩu 10 độ - Hướng sao Tỉnh 13 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Quý Sửu – Hướng Kỷ Mùi.
Thấu địa 60 Long : Tọa Bính Dần – Hướng Nhâm Thân, nạp âm thuộc Hỏa.
Độ tọa Huyệt : Hỏa độ ( Không nằm trong Mộc.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Địa Sơn Khiêm .
Dùng Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Bình.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , tốt .
Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Hung sát.
Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : tọa Tam sát hung.
2/Kiêm dần Thân ( Theo Mộc cục ).
Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Tân Sửu – Hướng Tân Mùi.( 227,5 độ ).
Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa Đinh Sửu – Hướng Đinh Mùi.
Tú độ : Tọa sao Đẩu 2 độ - Hướng sao Tỉnh 6 độ.
Xuyên sơn 72 Long : Tọa  Bính Dần  – Hướng Nhâm Thân.
Thấu địa 60 Long : Tọa Mậu Dần – Hướng Giáp Thân , nạp âm thuộc Thổ.
Độ tọa Huyệt : Bình phân Thủy độ.
Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Hỏa Sơn Lữ .
Dùng Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Cát.
Cục :Thân – Tý – Thìn : Thủy cục , thứ cát .
Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Hung sát.
Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Tọa Tam sát hung.
3/ Chân lịch số .
Tiết Đông chí , Thái Dương đến Cấn hội Bính , Tân tốt.
Tiết Hạ chí , Thái Dương đáo Hướng chiếu Cấn tốt.
Tiết lập Xuân : Thiên Đế đến Cấn tốt.
Khai môn : Thân phương hợp chất khố.
Phóng Thủy : nên dùng phương Bính tốt. Cả tả Thủy đảo hữu và hữy Thủy đảo tả đều tốt.
Hoàng Tuyền : Sát tại Canh , Đinh , Khôn , Dương trạch không nên khai môn , phóng Thủy.
Tạo táng : Cấn sơn – Khôn Hướng, kiêm Sửu Mùi , Không nên dùng năm tháng ngày giờ Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa ) là phạm Tam sát hung.
3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục tọa Cấn – Hướng Khôn.
Không nên dùng năm tháng ngày giờ Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa ) là phạm Tam sát hung.
Tháng Giêng ( Dần ) : Tọa Tam sát hung.
Tháng 2 ( Mão ) : Ngày Đinh ,Quý – Sửu tốt. Ngày trực Khai thượng cát . Ngày Đinh ,Quý – Mùi , Bình.
Tháng 3 ( Thìn ) : Ngày Đinh,Tân, Quý – Dậu , cát . 5 ngày Mão bình.
 Tháng 4 ( Tị ) : Ngày Đinh, Tân,Quý  – Dậu cát . Ngày Ất ,Đinh,Tân, Quý –Sửu tốt.
Tháng 5 ( Ngọ ) : Tam sát hung không dùng.
Tháng 6 ( Mùi ) : Kiếm phong sát , an táng bất lợi. 
Tháng 7 ( Thân ) : Ngày Đinh,Tân, Quý – Dậu , cát . Kỷ Mùi bình.
Tháng 8 ( Dậu ) : Ngày Quý , Đinh– Dậu cát . Ngày Quý , Đinh – Sửu cát.
Tháng 9 ( Tuất ) : Tọa Tam sát an táng bất lợi.
Tháng 10 ( Hợi ) : Ngày Đinh,Tân, Quý – Dậu , Ngày trực Khai thượng cát, Ngày Ất ,Đinh,Tân, Quý- Mùi bình.
Tháng 11 ( Tý ):  Bính , Mậu,Nhâm – Thìn tốt. Bính , Mậu,Canh ,Nhâm- Thân bình , Hướng sát.
Tháng 12 ( Sửu ) : Kiếm phong sát , an táng bất lợi.
4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Tốt , Sửu – Bình , Dần –Bình , Mão – Hung. Thìn – Tốt , Tị - Bình, Ngọ - Bình. Mùi – Hung . Thân – Tốt , Dậu – Bình . Tuất – Bình, Hợi – Hung.
5/Chọn các ngày tốt cho cục Tọa Cấn – Hướng Khôn , Kiêm Dần Thân.
Không nên dùng năm tháng ngày giờ Tị - dậu – Sửu ( Kim ) là phạm Tam sát hung.
Tháng Giêng ( Dần ) : Bính Ngọ, Nhâm Ngọ cát .
Tháng 2 ( Mão ) : Ngày Bính , Canh , Nhâm- Dần tốt.  Ngày Bính , Canh , Nhâm – Thân thứ cát.
Tháng 3 ( Thìn ) :  Ngày Giáp,  Bính , Canh , Nhâm- Ngọ cát. Ngày Giáp,  Bính , Canh , Nhâm- Thân cát. Ngày Giáp,  Bính , Canh , Nhâm- Tý cát.
 Tháng 4 ( Tị ) : Tọa Tam sát hung không dùng.
Tháng 5 ( Ngọ ) : Ngày Bính , Mậu ,Canh , Nhâm- Dần, Thân , Tý tốt. 
Tháng 6 ( Mùi ) : Kiếm phong sát , an táng bất lợi. 
Tháng 7 ( Thân ) : Bính Ngọ, Nhâm Ngọ, Trực Khai cát. Bính , Mậu , Nhâm – Thân , Tý cát.
Tháng 8 ( Dậu ) : Tọa Tam sát an táng bất lợi.
Tháng 9 ( Tuất ) : Ngày Bính , Mậu ,Canh , Nhâm- Dần, Ngọ cát.
Tháng 10 ( Hợi ) : Canh Ngọ, Mậu Ngọ cát.
Tháng 11 ( Tý ):  Ngày Bính , Mậu ,Canh , Nhâm- Dần, Thân , Tý tốt. Thìn thứ cát.
Tháng 12 ( Sửu ) : Kiếm phong sát , an táng bất lợi.
6/ Khảo chính giờ cát hung định cục .
Tý – Tốt , Sửu – Hung, Dần –cát , Mão – bình. Thìn – Tốt , Tị - Hung, Ngọ - cát. Mùi – Bình . Thân – Tốt , Dậu – Hung . Tuất – cát, Hợi – Bình.
( Lưu ý : Phân cung định cục cho tứ duy Càn – Khôn – Cấn – Tốn, thì phân 2 mà luận Tọa Tam sát, để chọn ngày giờ như trên ).
CẤN SƠN – KHÔN HƯỚNG.
1/Cấn Sơn – Khôn Hướng.
Kiêm Sửu Mùi 3 phân – Tên là Thiên Thọ Long.
Thiên Thọ Long vị , chuyển hưng Long,
Nhất cử thành danh , bạn Đế Vương.
Nếu đặng Ngũ hành đồng nhập miếu ,
Đời đời con cháu thọ ấn phong.
Long ấy đại cát , được Long Thủy Cửu tinh nhập miếu, ngành trưởng và giữa vượng tướng, sinh người có mạng Kim và Thủy Thực lộc vạn chung, người mạng Thổ đại phú, nếu giầu thì chỉ 1 đời là hết .
Như hạ Huyệt 7 phân Cấn Sơn đầu, Thủy lưu Đinh , làm Mộc cục thượng cát. Hướng này hợp Thuỷ cục. Thủy ra Mộ khố là Sinh Hướng, 12 năm sinh quý tử, 18 năm đại phú, 24 năm ngành ngành đại vượng, công hầu khanh tướng , gần bậc Đế Vương , 5 đời con cháu đại vượng .
Nếu Thủy ra Hỏa cục thì Bệnh Hướng, tất suy bại , gia đạo đa hung, ứng vào các năm Hợi – Mão – Mùi. Hướng này không hợp Kim cục.
2/Cấn Sơn – Khôn Hướng.
Kiêm Dần Thân 3 phân – Tên là Thiên Khánh Long.
Thiên Khánh Long là phúc tinh . Phải xem tọa vị như thế nào để luận ? Nếu như Hỏa tinh lại tương ứng thì cập nhị đệ chí trung thư ( Dưới Thượng thư ). Thúc vị tại Mão, Hỏa tinh tại Bính – Ngọ - Đinh , Long ấy phú quý đều trọn vẹn . Ngành giữa và út phát trước . Người mạng Thổ thực lộc , người mạng Hỏa quý nhân , mạng Thủy thì giầu.
Nếu như hạ Huyệt 7 phân Cấn Sơn, đầu Tọa Giáp Dần – Hướng Giáp Thân – Thủy Long , Thủy Hướng, Dương lai , Dương tác , Lộc lai sơn đầu, thì người đặng phú quý . Mã đáo sơn Hướng , nhân đinh hưng thịnh . Hợp rộng rãi , có ao hồ ở Minh đường chứa nước .
Như Càn Tân , Canh Khôn , có Thủy triều , xuất Thủy tại Ất Thìn là thượng cách – Chính Sinh Hướng. Càn Nhâm làm Võ Khúc , Canh , Khôn , Đinh làm Tham Lang . Khôm làm nhất Dương , Tân làm Nhị Dương, Càn làm Tam Dương .
Sách rằng : Tam Dương Thủy lộ nhiều tiến lưu , đời đời con cháu phú quý tới Tam Công. Năm Thân – Tý – Thìn sinh quý tử . 12 năm đại phát . 24 năm phú quý  lâm môn , 36 năm vị chí trung thư , tử tôn phú quý .
Nếu Canh Dầu Thủy lai triều thì là Văn Khúc , Mộc dục quá Đường, chủ phiêu lãng ly hương, sản nạn , tự ải , ngỗ nghịch , nhiều bệnh tật , bại tuyệt .
3/Cấn Sơn – Khôn Hướng.
Chính Hướng – Tên là Thiên Văn Long.
Thiên Văn Long vị, nên xem xét cẩn thận , nếu phạm sát , một đời sẽ tuyệt người hiền lương, truyền để các thời Sư được biết . Chớ nên xem thường an táng Hướng này. Long này nếu 6 phương Lục Tú tôn quý, chủ bạch ốc xuất thân ( Nhà nghèo xuất thân hay tay trắng làm nên ), trở thành siêu quần chúng.
Cấn làm Mã, Khôn Thân làm Cửu Thiên phú ngũ Lộc , Tị làm Sung Thiên Lộc , Hợi làm Đại Lộc quý nhân , Ngọ làm Võ nghĩa , Tý làm văn nghĩa . Nếu không tại Bính lại gia Càn Tốn, phương sơn phối hợp, cần có Võ Khúc Thủy triều nhập quy, xuất khố tại Ất Thìn là Sinh Hướng , xuất Mộ thì phú quý.
Nếu xuất tại Tốn Tị, Bính Ngọ là Tuyệt , Thai – Tiên phú , hậu bần . Hướng này Kim mạng thực lộc, Thổ mạng phú quý .
Như hạ Huyệt tại Cấn sơn , đầu Tọa Thiên văn – Hướng Thiên Bửu – THổ Long , Thổ Hướng, trong Dương sinh Âm , Thủy xuất Tốn Tị Bính thì cũng tạm cát . Năm Thân – Tý – Thìn đại phát , một đời phú quý , trước tuyệt ngành trưởng , đời đời nuôi con nuôi- Vậy cát chẳng vẹn toàn .  Cục này sai Thủy pháp , Hợi – Mão – Mùi tuyệt. Hoặc có giảm sút – Do vậy bảo chính Cấn khó đương hạ Táng là vậy .
Triều Nguyễn có 13 vua, nhưng vì nhiều lý do nên chỉ có 7 khu lăng tẩm được xây dựng.
1/Lăng Gia Long (Thiên Thọ Lăng). Lăng Gia Long còn gọi là Thiên Thọ Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Lăng thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này.
2/Lăng Minh Mạng - Hiếu Lăng. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 để chôn cất vua cha Minh Mạng. Lăng nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12 km.
3/ Lăng Thiệu Trị - Xương Lăng. Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng nằm ở địa phận thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy. Được vua Tự Đức cho xây dựng vào năm 1847 để chôn cất vua cha Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn.
4/Lăng Tự Đức - Khiêm Lăng. Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng. Lăng có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
5/ Lăng Dục Đức - An Lăng. Lăng Dục Ðức tên chữ An Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc huyện Hương Thủy, nay thuộc phường An Cựu, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố chưa đầy 2 km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Ðức, Thành Thái và Duy Tân. Dục Đức lên ngôi năm 1883 được 3 ngày thì bị phế trất và mất, sau này con ông là vua Thành Thái (lên ngôi năm 1889) cho xây lăng để thờ cha đặt tên là An Lăng. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng Thành Thái.
6/ Lăng Đồng Khánh. Lăng Ðồng Khánh còn gọi là Tư Lăng tọa lạc giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành phố Huế). Nguyên trước đây là Ðiện Truy Tư được vua Đồng Khánh xây dựng để thờ cha mình là Kiên Thái Vương. Khi Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Ðồng Khánh.
7/ Lăng Khải Định - Ứng Lăng. Lăng Khải Định còn gọi là Ứng Lăng toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế là lăng mộ của vua Khải Định, vị vua thứ 12 của triều Nguyễn. Lăng được xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi. Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi sự pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim Cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo.
Các Lăng Tẩm Huế có một chủ đề tư tưởng chung nhưng lại mang phong cách nghệ thuật riêng. Sự dị biệt ấy được nêu ra bằng những tính từ sau :
Lăng Gia Long hoành tráng.
Lăng Minh Mạng thâm nghiêm.
Lăng Thiệu Trị thanh thoát .
Lăng Tự Đức thơ mộng.
Lăng Dục Đức đơn giản. 
Lăng Đồng Khánh xinh xắn.
Lăng Khải Định tinh xảo.
Trong quá trình điền dã tại Huế vừa qua , rất tiếc  Lăng Dục Ðức đang sửa chữa nên không vào được .Lăng Ðồng Khánh dienbatn chưa ghé khảo sát được , hẹn khi đủ duyên vậy.



Xin theo dõi tiếp BÀI 16. dienbatn.
Xem chi tiết…

GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 14.

7/11/2020 |
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN VỀ KINH THÀNH HUẾ VÀ LĂNG MỘ CÁC VUA NGUYỄN. BÀI 14.

I.NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA 9 ĐỜI CHÚA VÀ 13 ĐỜI VUA NHÀ NGUYỄN.
II.LĂNG MỘ CỦA CÁC VUA NGUYỄN TẠI HUẾ.
1.LĂNG THIÊN THỌ CỦA VUA GIA LONG.
2. HIẾU LĂNG CỦA VUA MINH MẠNG.
3. XƯƠNG LĂNG(昌陵) - LĂNG CỦA VUA THIỆU TRỊ.
4. KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵) – Tiếp theo.
1/ TƯ LIỆU LỊCH SỬ .
2/ KHIÊM LĂNG – Lăng Tự Đức (chữ Hán: 嗣德陵).
3/ THỬ TÌM LẠI PHÂN KIM MỘ VUA TỰ ĐỨC.
5. LĂNG VUA KHẢI ĐỊNH.
1/ TƯ LIỆU LỊCH SỬ.
1.1/ TIỂU SỬ.
1.2/Vua Khải Định và chuyến công du sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Marseille
1.3/HÌNH ẢNH LỄ TANG VUA KHẢI ĐỊNH.
( by Lịch Sử Việt Nam).
Những hình ảnh xưa về lễ tang vua Khải Định diễn ra vào những ngày 29-30-31 tháng 1 năm 1926 căn cứ theo ngày tác giả ghi trên hình
Vua Khải Định (ông sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu tức ngày 8-10-1885 mất 6-11-1925 tại kinh đô Huế) tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đạo về sau đổi lên là Nguyễn Phúc Tuấn. ông là con trai trưởng của Vua Đồng Khánh, mẹ là Hựu Thiên Thuần Hoàng Hậu.
Ông lên ngôi vào ngày 18-5-1916, là vị vua thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông ở ngôi được 10 năm thì lâm trọng bệnh và mất ngày 20-9 năm Ất Sửu tức ngày 6-11-1925 an tang tại Ứng Lăng thuộc làng Châu Chữ thị xã Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế.
Toàn quyền Pháp đến dự lễ.
Lễ Động quan với sự hiện diện của những nhân vật quan trọng.
Lễ Động quan ở điện Càn Thanh.
Vua Bảo Ðại mặc tang phục đứng kế bên quan tài vua cha.
Kiệu tang trong lễ tang vua Khải Đinh.
Ðoàn đưa đám đi ra cổng thanh.
Đoàn đưa đam.
Kiệu tang thi hài vua Khải Đinh.
Tấm triện ghi tên họ và chức tước của Vua.
Ðoàn sư dẫn hương linh.
Ðàn voi đi mở đương.
Đoàn hát trong lễ tang vua Khải Đinh.
Lồng đèn giấy phía sau là kiệu tang.
Đoàn đưa đám đi qua vùng Châu Ê triền núi Châu Chư.
Đoàn đưa đám đi qua vùng Châu Ê triền núi Châu Chư.
Cúng bái trên đường đi.
Đến nhà trạm. 
Vào Ứng lăng.
Đưa thi hài vua Khải Định vào lăng. 
Toàn cảnh Ứng lăng nhìn từ khe Châu Ê.
Ðồ Mã (xe cộ, nhà cửa,… bằng giấy). 
Điện Kiến Trung bằng giấy, sinh thời đây là nơi ở và sinh hoạt của vua Khải Định do chính ông xây dựng.
Ðốt đồ mã (cho vua dùng ở thế giới bên kia !). 
Dân chúng đi coi trên sông Hương.
Xin theo dõi tiếp BÀI 15. dienbatn.
Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *