PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 15.

9/11/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 15.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.
XIN Ý KIẾN : Một số bạn phản ánh để font chữ màu xanh nhìn chói mắt. dienbatn để đen trắng như bài này để kiểm tra. Thân ái. dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. 

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

I. ĐI TÌM LAI LỊCH DÒNG HỌ NGUYỄN DU.

II. CÁC PHẦN MỘ CỦA DÒNG HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN – NGHI XUÂN – HÀ TĨNH.

1.  ĐỀN THỜ VÀ MỘ XUÂN QUẬN CÔNG NGUYỄN NGHIỄM.

1/ ĐỀN THỜ.


Con trưởng Nguyễn Huệ, mất sớm. Con thứ hai, Nguyễn Nghiễm, có 12 con trai, lập thành chi Giáp. Con thứ ba, Nguyễn Trọng, có 17 con trai, lập thành chi Ất. Ba người sau là Nguyễn Tín, Nguyễn Sĩ, Nguyễn Huyền đều có con cháu, nay lập thành hai chi Bính và Đinh.

Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (1708-1775) là thân sinh của Đại thi hào Nguyễn Du. Ông là vị tể tướng văn võ song toàn, có nhiều cống hiến cho triều đại phong kiến lúc bấy giờ. Thể theo nguyện vọng của ông, sau khi mất, Nguyễn Nghiễm được con cháu an táng tại quê nhà (nay thuộc thôn Tiên Thanh, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Từ cổng chính đi vào bên phải nhà thờ Nguyễn Du là nhà trưng bày bảo tàng. nội thất nhà trưng bày ngoài một số tài liệu tranh ảnh minh hoạ tác phẩm của Nguyễn Du thì có một số hiện vật quý như: nghiên mực, đĩa mai hạc Nguyễn Du được tặng trong thời gian đi sứ, nậm và chén uống rượu, gạc nai treo áo, la bàn dùng đi săn, bức phù điêu bằng gỗ ghi lại hình ảnh rước Tiến sĩ, hoàn sắc của Nguyễn Nghiễm.

Từ khu lưu niệm về phía Đông vài trăm mét là đến đền thờ Nguyễn Nghiễm còn gọi là đền Đức Đại Vương. Trước cổng là hai voi đá và ngựa đá, thượng điện nay chỉ còn bàn thờ bằng đá thanh, bát hương bằng đá, mái lợp ngói xi măng. Hạ điện làm bằng gỗ li, lợp ngói mũi hài.

 
Khu lăng mộ của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm đã bị xuống cấp nghiêm trọng

Tuy nhiên, do tác động của thời gian và ngoại cảnh, cộng với sự thiếu quan tâm, chăm sóc, trùng tu nên đến nay, khu lăng mộ của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm đã bị xuống cấp nghiêm trọng, nhiều hạng mục bị hư hỏng nặng.

Cây cối, cỏ dại mọc um tùm. Lối vào lăng mộ bị cỏ cây phủ kín, lớp gạch lát bị đào bới; đặc biệt, tường rào bao quanh ngôi mộ đã nứt nẻ, biến dạng, vùng đất phía sau khu lăng mộ bị khoét rỗng do sông lấn…

Thiết nghĩ, với những đóng góp to lớn của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, khu lăng mộ của ông cần được bảo vệ, xây dựng một cách xứng tầm để góp phần giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử cho các thế hệ sau. (Baohatinh.vn).

“Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) tên chữ là Hy Tư, biệt hiệu là Hồng Ngư cư sĩ, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh.

Ông là tể tướng nổi tiếng triều Lê, kiêm tài văn võ, trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Tế Tửu Quốc tử giám, Hàn Lâm viện Thừa chỉ. Đến đời Chúa Trịnh Sâm, ông được phong làm Thái tử Thiếu bảo, tước Xuân Quận công. Đặc biệt năm 1774, khi mở cuộc nam tiến bình định Thuận Hóa Quảng Nam, Ông lại được chúa Trịnh vời về kinh và sung chức Tả tướng, theo Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt đem quân đi đánh Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, xóa bỏ ranh giới 2 miền sau hơn 200 năm chia cắt. Sau khi ông mất, triều đình phong Thượng đẳng Phúc thần, giao cho 4 xã phụng thờ và quốc gia tế lễ. Ông còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm nổi tiếng và là nhà sử học với nhiều lời bàn trong Đại Việt sử kí bản kỉ tục biên. Đặc biệt, ông là thân sinh của Đại thi hào Nguyễn Du.

Năm 1741, ngay cả khi ông còn sống, ngôi đền thờ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm (còn gọi là đền Đại Vương Hai) đã được xây dựng tại xã Tiên Điền. Việc xây dựng ngôi đền này đã thể hiện sự ủng ái của triều đình cũng như sự ngưỡng vọng của nhân dân ông. Tuy nhiên trải qua thời gian cũng như sự tác động của ngoại cảnh, ngôi đền hiện nay không còn giữ được vẻ uy nghiêm như trước, thay vào đó là cảnh tượng tiêu điều, lạnh lẽo. Năm 2002, bộ VH-TT đã trùng tu tôn tạo lại các hạng mục của đền, phục chế lại các bức đại tự và câu đối. Nhưng từ đó đến nay, một lần nữa ngôi đền này lại chìm vào quên lãng.

Đền không có biển giới thiệu di tích, lạ hơn nữa là ngôi đền nằm trong quần thể khu di tích Nguyễn Du nhưng lại không có cán bộ trông coi, cũng không có Thủ từ hương khói và quét tước hàng ngày. Theo sử sách để lại, trước đây ngôi đền có diện tích hơn 2.300m2 nhưng hiện nay đã bị thu hẹp lại rất nhiều. Bên cạnh đền là trạm điện chằng chịt ổn áp trông rất mất mỹ quan. Bên ngoài tường bao cây cối ngả nghiêng còn bên trong thì cỏ dại dây leo mọc um tùm kín lối.


Lối vào khu vườn xưa của dòng họ Nguyễn tại Tiên Điền. Ảnh: Trọng Chính.




Đền thờ và mộ Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du ở thôn Minh Quang, xã Tiên Điền. Ảnh: Việt Cường.                                                                                       

Tượng đá mang phong cách kiến trúc thời hậu Lê đặt ở khu lăng mộ Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm. Ảnh: Việt Cường.




Trước đây, tại đền lưu giữ bức đại tự, đề 4 chữ “ Phúc lý vĩnh tuy” (dịch nghĩa: Phúc ấm lâu dài) tự tay chúa Trịnh viết. Một biển gỗ đề “Dịch thế thư hương” (Dòng thi thư hương đời nối đời) do Đức Bảo, sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển đề “Quang tiền du hậu” (Rạng rỡ thế hệ trước, để phúc ấm cho thế hệ sau), biển này do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Ngoài ra, có câu đối:Lưỡng triều danh tể tướng/ Nhất thế đại nho sư (Nho sư cả nước vang danh hiệu/Tể tướng hai triều rạng tiếng tăm).

Trong thời kỳ chiến tranh một số hiện vật quý trên đã bị thất lạc. Hiện nay một số đồ thờ tự mới được phục chế và một số câu đối do con cháu  họ Nguyễn - Tiên Điền ở Bắc Ninh cúng tiến.

Toàn cảnh ngôi đền thờ với kết cấu khá đơn giản với kiến trúc hình chữ nhị gồm bái đường và hậu cung. Nhà bái đường với những cột kèo đang dần bị rêu xanh bám phủ dẫn đến mục nát và hư hỏng. Phần dưới hương án được xây kín bằng xi măng còn bên trên thì phủ đầy tơ nhện. Trên bái đường trở thành nơi gác chiếc kiệu rồng, câu đối. Theo quan sát của chúng tôi thì chiếc kiệu và những câu đối này đều làm bằng chất liệu gỗ có chất sơn đỏ, những chữ Hán khắc trên đó đều rất mềm mại và tinh tế theo lối Hành Thảo đời Nguyễn sơ. Chứng tỏ đây đều là những hiện vật gốc có giá trị từ lâu đời nhưng đáng tiếc lại không được quan tâm bảo tồn, gìn giữ.

Điều khiến ai cũng thấy xót xa nhất chính là cảnh tượng ảm đạm và lạnh lẽo ở toàn bộ hậu cung của ngôi đền. Cửa hậu cung mở ra thường xuyên và chẳng có người trông coi để đóng lại, làm mất đi tính trang nghiêm tôn kính của cả ngôi đền. Trên mặt tường rêu xanh đã phủ kín, loang lổ mốc meo. Dọc các trụ đều có các câu đối bằng chữ Hán theo kiểu chữ Triện nhưng do rêu mốc đã phủ kín nên không còn đọc được các câu đối cổ này. Phía trên mái ngói, cây bụi nhỏ mọc um tùm. Quang cảnh bên trong hậu cung trông rất tối tăm và ẩm thấp. Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm khi mất được triều đình phong Thượng đẳng Phúc thần và gọi là Đại Vương Hai nhưng trong đền thờ hiện nay không có chân tượng và long ngai, ngay cả bài vị cũng không hề có. Đền hiện chỉ có bộ hương án cổ bằng đá, các đồ tế khí khác như bát bảo, lọng tàn đều không có khiến ngôi đền càng thêm lạnh lẽo.

Trên các hương án bài trí rất sơ sài, sai quy cách và có phần lộn xộn khi đặt quá nhiều lư hương và đem cả tượng của Quán thế âm Bồ Tát vào thờ. Trước đây đền thờ có rất nhiều bức hoành phi đại tự ngợi ca thân thế sự nghiệp của Xuân quận công nhưng hiện nay đều không còn giữ được. Trong hậu cung chỉ còn duy nhất một bức hoành phi “Dịch thế thư hương” và đôi câu đối “lưỡng triều danh tể tướng - nhất thế đại Nho sư” nhưng đáng tiếc đây đều là những hiện vật phục chế, phải là hiện vật gốc.

Hiện vật gốc có giá trị nhất của ngôi đền hiện nay phải kể tới 2 bức tượng võ quan đứng chầu đúc với tỉ lệ 1/1 với trang phục, binh khí nhất quán với các pho tượng thời Lê Trung Hưng thường thấy ở các ngôi mộ quý tộc triều Lê ở Thanh Hóa cũng như nhiều di tích cùng niên đại khác ở Đồng bằng Bắc bộ. Ngoài ra còn có đôi voi ngựa chầu ở cổng cũng có phong cách tạo tượng thời Lê Trung Hưng, khớp với lối tạo tượng voi ngựa tại lăng Dinh Hương tỉnh Bắc Giang. Các bức tượng này đều được tạo hình rất tinh xảo. Trên địa bàn Nghệ Tĩnh hiện nay các bức tượng gốc thời Lê Trung Hưng còn lại rất ít, chính vì vậy những hiện vật này là những tài sản đặc biệt quý hiếm cần bảo tồn.

2/ MỘ NGUYỄN NGHIỄM.

Cùng nằm trong quần thể di tích, cách đền Xuân Quận công chỉ khoảng gần 1km là khu lăng mộ của ông. Khu mộ là một khu đất phẳng được vây quanh bằng tường rào thấp, không có bia mộ cũng như chi tiết trang trí nào khác nên trông rất quạnh quẽ trơ trọi. Theo cụ Nguyễn Mậu thì chính Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm đã dặn con cháu táng chìm để tránh kẻ xấu phá hoại”. Trải qua thời gian mưa nắng bào mòn khu vực mộ lộ ra một ngôi mộ táng bằng vữa tam hợp rộng khoảng 10m2 . Đến năm 1993, một Việt kiều đã công đức một số tiền rất lớn để xây dựng tường rào cũng như đặt một số chi tiết. Tuy nhiên khu mộ hiện nay vì không có cổng chắn bảo vệ nên bị trâu bò vào phá hoại một số chi tiết.

Theo người dân địa phương, 20 năm trước, khu mộ được xây khá hoành tráng, ngôi mộ táng bằng vữa tam hợp rộng chừng 10 m2 được bao quanh bởi tường rào kiên cố, lối đi vào khu mộ được lát gạch, hai bên có hàng rào xanh, rất cổ kính, linh thiêng.


Mộ cụ Nguyễn Nhiễm (cha Nguyễn Du) .



3/Văn bia có bút tích của Xuân quận công Nguyễn Nghiễm.

Tại Từ Đường họ Nguyễn ở làng Mật xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch (nay là xã Kim Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh) có văn bia do Nguyễn Nghiễm (1708-1776) soạn nội dung và đã được Nguyễn Dương Thanh (tục gọi là ông Hàn Thanh) dịch năm 1940, hiện lưu trong tập gia phả họ Nguyễn làng Mật.


Văn bia ca ngợi Quan Cánh Tiết tướng Quân Hổ bôn vệ phó quản lịnh Nguyễn Bật Xuân (hậu duệ của tiến sỹ Nguyễn Bật Lượng - người làng Tiên, xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân - đỗ tiến sỹ năm Đinh Sửu (1577) -  làm  đến chức Thái Thường Tự Khanh. Đồng thời ghi lại công đức của bà Nguyễn Thị Chiêm vợ của Quản lệnh Nguyễn Bật Xuân trong việc làm những điều thiện và răn dạy con trưởng thành.

Nội dung văn bia còn ghi ngài Đông Các Hiệu Thư (Tiến sĩ Nguyễn Hành) với Nguyễn Nghiễm là bạn học với nhau  nên chi không ngại gì lời quê kịch, bèn chép lấy sự thật bằng một cách ngay thẳng, chứ không có lời gì đẽo gọt trau chuốt cả.

Cuối văn bia đề: Ngày rằm tháng 8 năm Bính Dần, hiệu Cảnh Hưng, Tứ Tân Hợi khoa Đệ nhị giáp Tiến sĩ, đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, phụng sai Nghệ An xứ kiêm Bố Chánh châu thị tham trí quân thú hiệu Tịnh Trấn cơ chi quan, Công bộ Hữu thị lang, Xuân Lĩnh Hầu, Nghi Xuân Nguyễn (Hy Tư) bái soạn.

 2.  ĐỀN THỜ VÀ MỘ NGUYỄN DU.

1/ ĐỀN THỜ.

Khu di tích Nguyễn Du bào gồm một quần thể các di tích của dòng họ trên xã Tiên Điền. Khu di tích này trải dài trên địa bàn toàn xã. Trên 400 năm, họ Nguyễn sống ở Tiên Điền, con cháu đã xây dựng một số đền, chùa, văn bia, cầu cống, đình làng… Đến nay phần lớn đã trở thành phế tích. Năm 1965, kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Bộ Văn hóa Thông tin và tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành quy hoạch và bảo vệ một số di tích còn lại. Thành lập khu lưu niệm Nguyễn Du, phục vụ cho công tác nghiên cứu, tham quan học tập. Các di tích còn lại:



Nguyễn Quỳnh là ông nội Nguyễn Du. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Năm 1762 sau khi nhận chức Tể tướng được bốn tháng, để tưởng nhớ công ơn cha mẹ. Nguyễn Nghiễm cùng em là Nguyễn Trọng và con cháu lập đàn tế, dựng bia đá tại khu vườn tưởng niệm của dòng họ. Hàng năm đến ngày giỗ, lễ tết, con cháu làm lễ dâng hương tri ân cha mẹ, ông bà, tổ tiên.

Bia dựng vào mùa Thu năm Nhâm Ngọ (1762). Chất liệu bằng gạch đá và đá thanh. Tháng 7 năm 1954, giặc Pháp bỏ bom làm nền bìa sạt lở ¼. Sau đó con cháu tu sửa lại.

Trên bia khắc các dòng chữ Hán như sau:
 Mặt trước: Cảnh Hưng vạn bia (Bia xây dựng triều vua Cảnh Hưng.)
                        Phong tặng Lễ Bộ Thượng Thư Thái Bảo Nhuận Quận công Nguyễn tiên sinh
                        Phong tặng Nhất phẩm thu nhân gia phong Quận phu nhân Phan Thị.
Nghĩa là:
                         Phong tặng ông Nguyễn Quỳnh chức Lễ Bộ Thượng Thư, hàm Thái Bảo, tước Nhuận Quận công.
                         Phong tặng bà Phan Thị đệ nhất phu nhân và được học bổng lộc như Quận công
 Mặt sau: Phía trên : Hồng Nguyên tuấn lưu (Nguồn lớn chảy mạnh)
 Giữa khắc chữ: “Phúc” nghĩa là: Ông bà để lại phúc đức lớn cho con cháu về sau.
Hai bên khắc đôi câu đối:
                          Niệm thời truy nhật nguyệt
                          Truyền ngư tại giang sơn
Nghĩa là:
                          Tưởng niệm cha mẹ theo năm tháng
                          Còn giang sơn còn truyền tụng
Đàn tế và bia đá là di tích nguyên gốc về hình dáng, chất liệu. Đá làm bia do Nguyễn Nghiễm lất từ Thanh Hóa về. Nguyễn Khản viết chữ, thợ khắc chữ người Thanh Hóa. Khi lập đàn tế dựng bia Nguyễn Nghiễm cho xây dựng cạnh 3 cây cổ thụ Nguyễn Quỳnh trồng.




Ông Nguyễn Quỳnh là người giỏi chữ hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi về kinh dịch… Việc thi cử không được hành thông, chỉ chuyên tâm đọc sách, dạy con cái học hàn, chỉ mong muốn con mình thành danh, làm vẻ vang cho gia đình và dòng họ. Ông soạn 3 bộ sách bàn về kinh dịch và những việc chiêm nghiệm được trong đời.

Sinh thời ông trông 3 cây cổ thụ, một cây Muỗm  ( Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói (bị bão đổ năm 1976), để sau này mỗi lần 3 người con: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng, khi về thăm cha có chỗ cột ngựa. Tương truyền vì tinh thông lý số, giỏi tính toán chuyện hậu thế, ông biết trong 6 người con trai sẽ có 3 người đậu đạt làm quan nên ông trồng 3 cây này. Những câu này đến nay đã có trên 300 tuổi.

Nhà tư văn.


Theo Nghi Xuân địa chí thì nhà Tư Văn từ đời Long Đức triều Lê (Lê Nhân Tông 1732-1735) về trước gọi là Văn Thánh, hàng huyện thờ Khổng Tử. Lúc này, Văn Thánh thuộc về dòng họ Ngụy ở Xuân Viên, một dòng học phát đạt nhất huyện Nghi Xuân. Đến đời Vĩnh Hữu Lê Y Tông (1735-1740) dòng họ Nguyễn Tiên Điền nổi lên, thì Văn Thánh lại thuộc Quận công Nguyễn Nghiễm cho đưa về dựng tại khu vườn của ông tổ họ Nguyễn. Theo truyền thống tốt đẹp của dòng họ về mặt văn chương, ngôi nhà này là nơi các tao nhân mặc khách bình thơ, bình văn. Những người vào đây đều là “ Phượng trì long bảng” tức từ Tú tài trở lên. Sau khi bình thơ, bình văn xong, các cụ ngồi xuống nhà Hạ Điền uống trà, uống rượu, nghe ngâm thơ Nôm, hát ả Đào (ca trù). Năm Tân Hợi (1971) anh ruột Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh chống lại nhà Tây Sơn. Hiệp Trấn Nghệ An Nguyễn Quang Dụ đem quân giết Nguyễn Quỳnh , phong hỏa đốt cháy dinh điền họ Nguyễn và làng Tiên Điền. Nhà Tư Văn bị cháy chỉ còn lại gian miếu thờ Thánh Hiền. Sau ít năm anh Nguyễn Du là Nguyễn Nể bỏ tiền ra cho sửa sang lại. Nhân đó đề ra lệ: Trong huyện hạc con cháu thuộc dòng dõi khoa bảng nộp 3 tiền; những người dân “Bạch Đinh” nhưng có biết chữ nộp 10 tiền. Mỗi năm có hai kỳ lễ tế hàng huyện giao Lý Dịch xã Tiên Điền xôi gà làm cúng tế.

Nhà Tư Văn nơi thờ Khổng Tử cũng là nơi thờ “Đạo học” của huyện Nghi Xuân. Về sau Hội Tư Văn xây thêm điện thờ các vị đậu đạt cao trong huyện.( Nguồn tin: nguyendu.com.vn).

2/MỘ NGUYỄN DU.

Lăng mộ Nguyễn Du là một điểm di tích quan trọng trong quần thể di tích Đại thi hào Nguyễn Du. Nơi Người yên nghỉ là một không gian thoáng đãng, thiêng liêng, là điểm đến của mỗi du khách trong và ngoài nước khi về thăm quê hương Đại thi hào Nguyễn Du.
Đại thi hào Nguyễn Du được sinh ra trong một cự tộc, là người con trai thứ bảy của Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, là em cùng cha khác mẹ với Tham tụng Nguyễn Khản.

Ông sinh năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 (23/01/1765) tại phường Bích Câu, Thăng Long, Hà Nội. Năm 1820, Nguyễn Du được cử đi sứ Trung Quốc nhưng chưa kịp lên đường thì lâm bệnh, mất tại kinh thành Huế, thọ 56 tuổi. Thi hài Người được an táng tại cánh đồng Bàu Đá xã An Ninh (nay là An Hoà) huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.Việc ra đi của cụ trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Lúc mắc bệnh cụ không chịu uống thuốc, lúc gần mất cụ sai người nhà sờ chân tay xem nóng hay lạnh, người nhà bảo lạnh hết cả rồi, cụ nói “được” thế là cụ ra đi không để lại lời trăn trối cho đời sau”.

Đại thi hào Nguyễn Du mất năm 1820 khi đang là quan triều Nguyễn và an táng tại Huế. Thông tin tưởng là rõ, vậy mà giới nghiên cứu cả nước tìm kiếm từ lâu nay vẫn chưa ra. 

Cánh đồng Hậu Thôn - nơi mà các vị tiền bối họ Mai Khắc truyền dặn là nơi nguyên táng cụ Nguyễn Du.

Mười năm trước (2008), nhà nghiên cứu Hồ Đắc Duy ở TP.HCM đã công bố công trình nghiên cứu "Đi tìm nơi an táng của thi hào Nguyễn Du tại Huế", xác định Bàu Đá là cánh đồng nằm sau chùa Linh Mụ, nay thuộc hai làng Lựu Bảo và An Ninh Thượng, thị xã huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế.

Dựa trên các căn cứ văn bản là gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền - Hà Tĩnh (tức họ Nguyễn của cụa Nguyễn Du), sách sử của triều Nguyễn, các tài liệu làng xã, dòng họ liên quan, cùng kết quả nghiên cứu thực địa, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu đi đến xác định: nơi nguyên táng cụ Nguyễn Du đặt tại cánh đồng Bàu Đá, còn gọi là Thạch Bàu, Bàu Thôn, thuộc xóm Hậu Thôn, làng Kim Long, nay thuộc tổ 2 - phường Kim Long, TP Huế.

Vị trí này nằm gần đường Lý Nam Đế (phường Kim Long), gần nhà thờ họ Mai Khắc (tức cách vị trí mà ông Hồ Đắc Duy đặt ra khoảng 2km đường chim bay) .


Trên cơ sở khảo sát thực địa, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu đưa ra lập luận, nơi nguyên táng cụ Nguyễn Du từ tháng 9-1820 đến khoảng giữa năm 1824, được xác định tại địa điểm Bàu Đá, tổ 2, phường Kim Long, TP Huế. Nơi cụ Nguyễn Du nằm đầu gối Đông Bắc, chân đạp Tây Nam.

Đứng ở cánh đồng Bàu Đá, nơi nguyên táng đại thi hào nhìn ngang bên phải là điểm cuối của làng Vạn Xuân (nơi Nguyễn Du từng sống nhiều năm), bên trái là điểm đầu làng An Ninh Hạ, trước mặt hiện ra nghĩa địa Cồn Môn, sau lưng là Hậu Thôn. “Thuật phong thủy và tâm linh, thì chỗ nguyên táng ấy, linh khí tinh khôi. Một khoảnh đất rộng vài trăm mét vuông, đột khởi lên một cồn đất nhỏ, cỏ cây um tùm, chim chóc đánh rơi vài hạt mẩy mọc lên dăm ba cây đu đủ, quả sai. Vậy nên nơi đây cần xây dựng nhà bia tưởng niệm, hay một công trình văn hóa ghi dấu tích về đại thi hào Nguyễn Du; biến cánh đồng Bàu Đá thành một chốn linh thiêng, nơi thường lui tới của những người nghiên cứu, yêu mến Truyện Kiều và văn chương thi ca, văn hóa dân tộc. Khi nơi đây thành một địa chỉ văn hóa tâm linh gắn với giai đoạn đại thi hào Nguyễn Du sống và viết Truyện Kiều rồi mất ở Huế.

Mùa thu năm 1824, người con thứ là Nguyễn Ngũ vào kinh thành Huế xin triều đình đưa hài cốt của cha về quê nhà và cát táng tại khu vực Cầu Mái gần cạnh vườn ở trước đây là thôn Thuận Mỹ xã Tiên Điền. Tuy nhiên nơi đây hễ mưa là ngập, sợ bất ổn nên con cháu lại di chuyển. Tương truyền lần này không chọn đất từ trước mà con cháu chọn hai người đi trước bưng yên thư, trên có nhang đèn và một con cò bằng gỗ hai người cứ đi mãi, đi mãi khi nào con cò trên yên thư ngã xuống thì đó chính là nơi yên nghỉ của Người. Sau đó mộ phần được táng trên cánh đồng Phốc, thuộc khu vực đồng Cùng giáp ranh giới giữa hai xã Xuân Mỹ và Tiên Điền.

Lời bàn của dienbatn : Cả một dòng họ Nguyễn Tiên Điền nổi danh học giỏi, rất nhiều người đi làm Âm trạch cho Thiên hạ. Nay đến những người con của Nguyễn Du , không biết sách vở và kinh nghiệm cha ông để đâu mất mà phải dùng đến cách sấp – ngửa này ? (Tương truyền lần này không chọn đất từ trước mà con cháu chọn hai người đi trước bưng yên thư, trên có nhang đèn và một con cò bằng gỗ hai người cứ đi mãi, đi mãi khi nào con cò trên yên thư ngã xuống thì đó chính là nơi yên nghỉ của Người. ????).

Khu mộ Nguyễn Du an táng ở xứ Đồng cùng gồm 3 phần là bàn thờ, phần mộ, vườn trái cây.Phần bàn thờ có bia đá thanh, tượng hình án thư, quanh bia khắc hình hoa văn thế kỷ XIX.






DIENBATN THỬ KHẢO SÁT PHÂN KIM.
Tọa Nhâm – Hướng Bính có 3 Huyệt:

·        Mai táng từ tháng 1-4 thuộc Sửu Long , Tụ khí tại Tân Sửu.

·        Mai táng từ tháng 5-8 thuộc Cấn Long , Tụ khí tại Tân Hợi.

·        Mai táng từ tháng 9-12 thuộc Hợi Long – Tụ khí tại Bính Tý.

1/ Mai táng từ tháng 1-4 thuộc Sửu Long , Tụ khí tại Tân Sửu.

SỬU LONG : Sửu long là Âm long , nhưng có nhiều sát khí , hay phát võ chức . Sửu long cũng phát phú , năm Tý hay năm Sửu hay có của hoạnh tài . Khi phân kim Sửu long thừa Đinh Sửu , Tân Sửu là hợp cục . Thừa Kỉ Sửu là gặp Không vong, thừa Ất Sửu , Quý Sửu là cô hư sát . Sửu long hay sinh ra người hung ác , trộm cắp , ngu si . Sửu long còn sinh ra người gian tham , độc ác , bất nhân, con cái thường to béo . Sửu tuy là Âm long nhưng là “ Hung long “ , lúc giao thời loạn lạc thì rất anh hùng và phấn phát .

Nhâm Sơn – Bính Hướng.

Sửu Long nhập thủ , lạc mạch bên Tả , Huyệt Tọa Nhâm – Hướng Bính , nhích sang bên phải gia Cấn , lấy Tân Sửu làm chính Khí mạch , xuyên suốt vào tai Tả.

Thôi quan Thiên có thơ :

Ngưu Kim tẩu Hướng Thái Vi Viên.

Khí bôn Tả nhĩ , Long mạch toàn.

Dương Khu vi gia , Huyệt niêm hữu.

Thủy triều cục tỏa đa điền viên.

Nghĩa : Ngưu Kim chỉ cung Sửu . Tẩu hướng là hướng Long mạch đi . Thái Vi Viên chỉ cung Cấn. Khí chạy vào tai Tả Long mạch vây bọc quanh. Lập Hướng Cấn ( Gia Khu ) Huyệt dán sát vào bên Hữu. Thủy triều cục khóa kín Thủy khẩu tất sinh ra nhiều người giầu có ,lắm ruộng vườn.

•        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.

-        Kiêm Hợi Tị : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị. ( 162,5 độ )

-        Kiêm Tý Ngọ : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị. ( 167,5 độ )

•        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :

-        Kiêm Hợi Tị : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị.

-        Kiêm Tý Ngọ : Tọa Bính Tý – Hướng Bính Ngọ.

2/ Mai táng từ tháng 5-8 thuộc Cấn Long , Tụ khí tại Tân Hợi.

CẤN LONG : Cấn long thuộc Thổ là Âm long . Loại long tốt hay sinh ra người hiền lành , tuấn tú , thông minh , có khoa cử hanh thông , con nhiều cháu lắm , nhiều lộc , nhiều của cải , ruộng vườn . Cấn long phát cho người tuổi Sửu – Dần – Hợi và lập Hướng nào sẽ phát cho người tuổi đó .Cấn long thường phát rất lớn và rất bền . Cấn long mà lập Canh hướng , mà phương Canh lại có gò cao triều Huyệt thì trước phát văn sau phát võ .

Nhâm Sơn – Bính Hướng.

Cấn Long nhập thủ, lạc mạch buông ngang, Tả đến xuất Huyệt bên Hữu. Lập Huyệt Tọa Nhâm – Hướng Bính , gia về bên Hữu, lấy Mậu Dần làm chí Khí , mạch xuyên suốt vào lưng Tả.

Thôi quan Thiên có thơ :

Thiên Thị lai Long , Thái Vi Hướng.

Khí xung yêu du quan tư vượng.

Âm Dương tương kiến phước vĩnh trinh.

Nhi Khu phân phối tương tùy xương.

Nghĩa : Phương Cấn ( Thiên Thị ) Long đến , lập Hướng Bính ( Thái Vi ) . Khí xung vào lưng bụng ( yêu ) rất đế vượng về đường quan chức , tiền tài. Âm Dương hội hiệp phát phước bền lâu. Cấn Bính chia đều , hòa thuận với nhau rất tốt lành ( Vì Bính nạp Cấn nên bảo một nhà hòa thuận ).

•        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.

-        Kiêm Hợi Tị : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị. ( 162,5 độ )

-        Kiêm Tý Ngọ : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị. ( 167,5 độ )

•        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :

-        Kiêm Hợi Tị : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị.

-        Kiêm Tý Ngọ : Tọa Bính Tý – Hướng Bính Ngọ.

3/ Mai táng từ tháng 9-12 thuộc Hợi Long – Tụ khí tại Bính Tý.

Tọa Nhâm – Hướng Bính. Lấy Tân Hợi làm chính khí cho Hợi Long.

HỢI LONG : Hợi Long là âm Long là thượng cách quý, Hợi Long sao Thiên Hoàng là chính Khí cửa Trời – Đất , xuất sinh ra người tuấn tú , thông minh.

Hợi long nhập thủ, lạc mạch bên Hữu. Lập Huyệt Tọa Nhâm – Hướng Bính, hợp xê dịch quan tài về Thanh long, gia Càn nửa phân. Lấy Tân Hợi làm chính khí cho Hợi Long , mạch xuyên qua tai Hữu.

Thôi quan Thiên có thơ .

Thôi quan đệ nhất Thiên phụ huyệt.

Thiên hoàng khí tòng Hữu nhĩ tiếp.

Huyệt nghi ai Tả, vi gia Càn.

Tử thụ kim chương, tại tiền liệt.

Nghĩa : Thôi quan thứ nhất, Hợi Long Tọa Nhâm( Thiên phụ ) – Hướng Bính. Khí mạch Hợi ( Thiên hoàng ) theo vào bên tai Hữu. Huyệt hợp xê dịch về Tả, gia chút ít Càn. Sẽ sinh người mang đai tía, quân chương vàng, vật quý bày ra ở trước ( phát quý cách ).

•        Phân kim theo Chính châm Địa bàn.

-        Kiêm Hợi Tị : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị. ( 162,5 độ )

-        Kiêm Tý Ngọ : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị. ( 167,5 độ )

•        Phân kim theo Trung châm Nhân bàn :

-        Kiêm Hợi Tị : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị.

-        Kiêm Tý Ngọ : Tọa Bính Tý – Hướng Bính Ngọ.

NHÂM SƠN – BÍNH HƯỚNG : Hướng này là hướng quyền thế và phú quý . Hướng này không chỉ phú quý mà còn có cả uy quyền , chức quan cao hoặc làm tướng , có nghĩa quyền thế ở cấp cao . Ngày xưa trong những triều đại cường thịnh , nhất thiết phải có những võ tướng cao minh , dũng mãnh để phò tá Hoàng đế . Chính Nhâm sơn – Bính hướng là hàm nghĩa người võ tướng có những phẩm chất này . Ở một số địa phương có một số đền thờ chọn hướng này . Đó là những ngôi đền thờ võ tướng , là những vị thần được nhiều võ Đạo tôn thờ . Nhâm sơn là một phương vị khí rất mạnh . Nếu có thể lợi dụng được Khí của Địa long một cách hoàn hảo thì thuận lợi rất lớn . Ngoài ra xây nhà mộ theo hướng này còn có nghĩa gia đình sẽ có người đi xa , hoặc ra nước ngoài sinh sống , tu tập .

NHÂM SƠN – BÍNH HƯỚNG.

1/Thủy ra Tân Tuất . Hỏa cục.

Tả Thủy đảo Hữu ra phương Tân Tuất là Mộ khố, lập Bính Ngọ là Chính Vượng Hướng, gọi là Dần – Ngọ - Tuất tam hợp liên châu, quý giá vô cùng.Hợp với Dương công cứu bần, tiến Thần Thủy pháp ,là Hướng Sinh lai hội Vượng , ngọc đới triều yêu, Kim Thanh Thủy pháp . Cách này đại phú đại quý, nhân đinh hưng vượng, sinh người trung hiếu hiền lương, nam nữ đều thọ cao, ngành nào cũng tốt, phát Phúc lâu dài. Nếu phương Vượng mà có Sa sơn béo , dày , Vượng Thủy tụ triều, thì giầu sánh ngang với Thạch Sùng.


2/ Thủy ra Càn Hợi . Hỏa cục.

Thủy ra Tuyệt, lập Hướng Bính Ngọ là Đế vượng. Gọi là quá cung Thủy, tình quá nhi cang. Thái công ( Khương Tử Nha ) 80 tuổi mới gặp Văn Vương, vận muộn là do Thủy pháp này. Buổi đều có nhân đinh, có tuổi thọ cao nhưng không tài lộc, vì Thủy không về Khố nên vậy.


NHÂM SƠN BÍNH HƯỚNG.

•        Nhâm sơn Bính Hướng gia Hợi  ( 161,5 độ ) : Dùng cho Tọa Đinh Hợi  - Hướng Đinh Tị  ( 120 phân kim ), Tọa sao Thất 2 hay 3 độ, ấy là Bính Tý Hỏa độ, Bình phân ( La kinh bình phân 60 ) Giáp Tý. Ngành 2,3 phú quý. Người có mạng Kim , mạng Thổ phát đạt. Người mạng Mộc tuy có phú quý nhưng không bền.

•        Nhâm sơn Bính hướng gia Tý ( 167 độ ). Dùng Tọa Tân Hợi - Hướng Tân Tị  ( 120 phân kim ) , tọa sao Nguy 11 , 12 độ, ấy là Mậu Tuất Thủy độ, bình phân ( La kinh bình phân 60 ) Bính Tý. Chủ phú quý, các ngành đều quý hiển, dễ có danh vị, dễ phát đạt. Nhưng về lâu dài sinh bệnh về mắt, ngành trưởng chẳng lành, sau sinh tà dâm , loạn gia nhanh, ngành 3 cô quả. Bán hung bán cát.

•        Nhâm sơn Bính hướng chính châm . Dùng Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị phân kim, Tọa sao Nguy 15,5 độ - Hướng Sao Trương 18 độ.

Nếu là Hỏa cục , thì đây là Vượng hướng . Cục này hợp phương Cấn ( Phương Sinh ) có sơn phong cao sẽ xuất văn nhân, như trước mặt cao vừa , mọi ngành đều phát . Phương Sửu Sơn ( Dưỡng ), Thìn Sơn ( Quan đới ) cao, trưởng phòng đắc tài . Nếu tả Thủy chảy đảo qua hữu , xuất ra Tân Tuất phương Mộ Hỏa cục là chính Vượng Hướng tên là Tam hợp liên châu, chủ đại phú quý , các phòng đều phát .

Trường hợp nếu Thủy xuất Đinh Mùi phương , là Mộc cục , là Tử hướng , còn gọi là Tự vượng hướng . Chủ phú quý , tuổi thọ cao, nhân đinh vượng.

Nếu Hữu Thủy đảo Tả xuất qua Giáp phương , không phạm vào chữ Dần, là Kim cục Thủy xuất Thai phương thành Hướng Mộc dục, là cách Lộc tồn lưu tận bội kim ngư , phú quý song toàn, nhân đinh hưng vượng. Nhưng nếu xuất thủy ra gặp chữ Dần – Mão thì không dâm cũng tuyệt .

Nếu Hữu Thủy đảo Tả , xuất ra chữ Bính là xuất đầu của Thủy cục Ấy là phân kim chẳng vào Thai luận ( Thủy ra Thai , Lập Hướng Thai ) , chủ ít phú quý nhưng nhân đinh hưng vượng .

Phản cục : ( Luận cho Hỏa cục ). Tị Sơn phong triều xung , phạm quan phi khẩu thiệt, huynh đệ bất hòa . Tị sơn phong khuyết lõm, chủ đao thương thổ huyết. Nhâm sơn phong ( Thai ) chẳng khởi cao , ngành giữa chẳng lợi . Khôn phương ( Bệnh ) cao lớn , chủ người đổi vợ . Hợi phong ( Tuyệt ) độc cao , nhân đinh chẳng vượng , chủ tuyệt tự nuôi rể .

Nếu phương Ngọ thấy Thủy triều là Dương nhận thủy , đảo Âm phá Dương , chủ nam nữ tham sắc mà mất mạng . Nếu Hữu thủy lưu đến Tả , xuất Tốn Tị phương , là xung phá hướng thượng Lâm quan , phạm sát nhân Hoàng tuyền , chủ bại tuyệt , phạm hỏa tai , huyết chứng.

Nếy Thủy xuất Cấn Dần làm Vượng Khứ xung Sinh , tuy có chút tài phú mà con nhỏ khó nuôi , 10 cái có đến 9 cái tuyệt tự . Chính cục phóng Đinh Khôn Canh thủy chính là Mộc cục .

( Trên đây luận Hỏa cục , khởi Trường sinh tại Dần , trong thực tế , cục địa gì ta cứ căn cứ vào cung Trường sinh mà luận ).

•        Nhâm Sơn – Bính Hướng kiêm Tý Ngọ .

Dùng Tân Hợi - Tân Tị mà phân kim . Tọa sao Nguy 11 độ , Hướng sao Trương 14 độ, làm Dương Thủy kiếp sát hậu. Tý vi Tổ mẫu , Nhâm vi Tôn , phu phụ thất ngẫu chẳng phối hiệp . Âm Dương thác loạn lại tạp . Năm Dần – Ngọ - Tuất phòng Hỏa tai , đinh tài thối bại . nếu được Tá Khố tiêu Thủy , phương Suy và Vượng có sơn phong cáo , cùng có Thủy triều lai ,là dẫn Quý lai triều Đường , chủ hậu nhân thông minh , thiếu niên đắc chí . Các phòng đều đặng tài đinh đều vượng.

•        Nhâm Sơn – Bính Hướng kiêm Hợi Tị .

Dụng Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị phân kim . Tọa sao Thất 2 độ - Hướng sao Dực 2 độ làm tiểu cục . Tạm luận Thủy cục .

Ấy là Thiếu nam ( Bính nạp Cấn ) phối với Thiếu nữ ( Tị nạp Đoài ) , Âm Dương chính phối , phòng phòng đều phát . Các năm Tị - Dậu – Sửu đinh , tài đều vượng . Hướng Bính Lộc tại Tị , vốn dùng Hỏa Lộc phân kim , con cháu danh thành , lợi đến .

Nếu như Bính phong khởi cũng là núi Lộc còn có tên là Thiên Xá , không có hung họa , là cát địa , chủ người sau phú quý , lợi về khoa giáp , xuất tú tài cử nhân , hoặc làm ngành giáo .

Nếu tại Hợi – Nhâm – Tý – Quý ( Phương Vượng ) có sơn phong nhọn đẹp là Lộc – Mã Quý nhân . Nếu Mùi , Khôn , Thân ( phương Trường sinh ) có sơn phong lại có Thủy lai , làm Trường sinh Thủy , nếu hội hiệp Thìn , Tốn phương là đẹp , hay Thôi quan phát phước rất nhanh , lại sanh quý tử . Hiệp với Tiên thiên , hậu Thiên bát quái , con cháu thông minh hơn người , văn nhã , tú lệ , định xuất đại khoa quan cao.

Nếu Bính phương Thủy chảy đi làm Lộc Tồn Thủy . Lộc Tồn khứ tận phú quý khai Thái . Nếu Long nhỏ thấp xuất quý. Cục này hợp Thủy xuất ra Bính là cát vì Thai Hướng – Thai phương.

Phản cục : Nếu Thanh Long sơn cao lớn , Giáp – Mão ( Tử ), Ất Thìn ( Mộ ) Thủy chảy lại , đến Khôn Thân đi ra là đại sát trạch địa , bên nữ bất lợi vì lập Hướng Tử , Thủy chảy ra Tuyệt ( Mộc cục – Trường sinh tại Hợi ) , là Đoản mạng Thủy , cô thân quả tú – Giao như bất cập . Giáp Mão ( Tử của Thủy cục ) sơn phong cao lớn , xuất đàm hỏa huyết chứng , xuất người chinh chiến .

Nếu Tị Bính Thủy lai ( Tuyệt ) . Xuất người du đãng , bại gia , chết trẻ , bất lợi khoa giáp , quan đương vị cũng bị giáng chức . Nếu Thủy theo hướng Mùi Khôn xuất khứ , lưu phá Trường sinh , chung cuộc bị tuyệt tự , lệ chảy ròng ròng , thiếu niên quả phụ phòng không.

( Trên đây tạm luận Thủy cục Trường sinh tại Thân – Thủy cục. Các cách cục khác theo Trường sinh Thủy mà luận ).

NHÂM SƠN – BÍNH HƯỚNG .

Kiêm Tý Ngọ.

Vòng địa bàn chính châm 120 phân kim : Tọa Tân Hợi – Hướng Tân Tị. ( 167,5 độ ).

Vòng Thiên bàn Phùng châm 120 phân kim : Tọa Đinh Hợi – Hướng Đinh Tị.

Tú độ : Tọa sao Nguy 10 độ - Hướng sao Trương 14 độ.

Xuyên sơn 72 Long : Tọa Bính Tý  – Hướng Canh Ngọ.

Thấu địa 60 Long : Tọa Bính Tý – Hướng Nhâm Ngọ ,nạp âm thuộc Thủy.

Độ tọa Huyệt : Bình phân Thủy độ.

Quẻ : Long thấu địa thuộc quẻ : Địa Thủy Sư.

Dùng Cục : Thân – Tý – Thìn : Thủy vượng cục , tốt .

Cục : Hợi – Mão – Mùi , Mộc cục – Tiết cục , kém.

Cục : Tị - Dậu – Sửu , Kim cục , Ấn cục tốt .

Cục : Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa cục ) : Tọa Tam sát hung.

3/ Chân lịch số .

Tiết Vũ Thủy Thái dương đáo Nhâm , cùng Khôn , Ất Tốt .

Tiết Xử thử : Thái dương đáo Bính , chiếu Nhâm Tốt .

Tiết Đại Tuyết , Thiên đế đáo Nhâm Tột .

Khai Môn :

•        Nên Tị phương , Kim chất Khố.

•        Đinh phương hợp hoạng tài.

•        Bính phương , Thiên cơ Mộc tốt .

Phóng Thủy : Đại lợi Đinh phương .

Hoàng Tuyền : Sát tại Tốn , Khôn và Thìn , Ngọ phương .

Bốn vị ấy không nên khai môn, phóng thủy đều xấu.

Tạo táng : Nhâm sơn , không nên dùng năm tháng ngày giờ Dần – Ngọ - Tuất ( Hỏa ) là phạm Tam sát hung.

Nên dùng : Canh Tý , Tân Hợi , Bính Thân , Bính Thìn  hợp với Thủy cục rất tốt.

3/ Chọn năm tháng ngày giờ cho cục Tọa Nhâm – Hướng Bính .

Tháng Giêng ( Dần ) : Tọa Tam sát hung.

Tháng 2 ( Mão ) : Ngày Giáp, Bính , Canh , Nhâm – Thân ; Kỷ , Đinh , Tân , Quý – Mùi . 8 ngày tốt.

Tháng 3 ( Thìn ) : Ngày Giáp, Bính , Canh – Thân. Bính , Canh – Tý. Ất ,Tân , Quý – Dậu tốt.

Tháng 4 ( Tị ) : Phạm Kiếm phong sát an táng bất lợi.

Tháng 5 ( Ngọ ) : Tọa Tam sát hung.

Tháng 6 ( Mùi ) : Ngày Giáp, Bính , Canh – Thân, Tân Mão , Ất, Tân , Quý- Dậu tốt.

Tháng 7 ( Thân ) : Bính  Tý. Bính,Mậu - Thân. Ất , Kỷ , Tân , Quý – dậu tốt.

Tháng 8 ( Dậu ) : Ngày Giáp, Bính , Canh – Thân , Quý Sửu , Bính Thìn ,Kỷ , Quý – Dậu tốt.

Tháng 9 ( Tuất ) : Tọa Tam sát an táng bất lợi.

Tháng 10 ( Hợi ) : Phạm Kiếm phong sát an táng bất lợi.

Tháng 11 ( Tý ) : Ngày Giáp, Bính , Mậu,Canh – Thân tốt. Giáp , Bính , Mậu – Thìn tốt.

Tháng 12 ( Sửu ) : Giáp , Mậu , Canh – Thân. Ất, Tân , Quý- Dậu tốt.

4/ Khảo chính giờ cát hung định cục .

Tý – Tốt , Sửu – Tốt , Dần – Tọa sát Hung, Mão – Bình . Thìn – Tốt , Tị - Tốt , Ngọ - Tọa sát Hung . Mùi – Bình. Thân – Tốt , Dậu – Tốt . Tuất – Tọa sát Hung . Hợi – Bình .

 Xin theo dõi tiếp BÀI 16.Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 14.

9/10/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 14.


PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH.

Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.
XIN Ý KIẾN : Một số bạn phản ánh để font chữ màu xanh nhìn chói mắt. dienbatn để đen trắng như bài này để kiểm tra. Thân ái. dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. 

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

I. ĐI TÌM LAI LỊCH DÒNG HỌ NGUYỄN DU.

Huyền thoại Trạng nguyên Nguyễn Thiến.

(Thethaovanhoa.vn) - Với tài năng văn chương kiệt xuất, Đại thi hào Nguyễn Du đã làm rạng danh cho dòng họ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nhưng "mạch văn" của dòng họ này bắt nguồn từ đâu? Đi tìm thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Tiên Điền là cả một câu chuyện dài. Nghiên cứu của PGS-TS Lê Thị Bích Hồng (Chi hội Kiều học Hà Nội) đưa ra những tư liệu thú vị từ các nguồn gia phả. Xin trân trọng giới thiệu bài viết có tính chất tham khảo này để góp thêm một góc nhìn về cuộc đời, sự nghiệp Nguyễn Du.

. Tôi gặp cựu chiến binh Nguyễn Phúc Nhạ - con cháu dòng họ Nguyễn ở Canh Hoạch, xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai (TP Hà Nội) tại Lễ giỗ 200 năm mất Đại thi hào Nguyễn Du ở Khu Di tích Nguyễn Du (thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Nhận lời mời trân trọng của dòng họ Nguyễn làng Canh Hoạch, ngày 9/10/2020 (23/8 năm Canh Tý) Ban Chấp hành Chi hội Kiều học đã có mặt, dự Lễ kỷ niệm 525 năm sinh Trạng nguyên Nguyễn Thiến (1495-2020) - hiệu Cảo Xuyên, danh sĩ nổi tiếng thế kỷ 16, Thủy tổ dòng họ Nguyễn Tiên Điền và Đại thi hào Nguyễn Du…

Tôi may mắn được tiếp cận từ nhiều nguồn sử liệu, trong đó có tư liệu, gia phả do ông Nguyễn Văn Thắng - hậu duệ đời thứ 18 của Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Nhạ. Bác kể cho tôi nghe nhiều sự kiện lịch sử quan trọng liên quan dòng họ Nguyễn Canh Hoạch - Tổ quán của dòng họ Nguyễn Tiên Điền và Đại thi hào Nguyễn Du.

Câu chuyện thấm đẫm màu huyền thoại về cuộc hợp huyết đặc biệt của 2 người con làng Tảo Dương và Canh Hoạch cùng xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay là TP Hà Nội) sinh ra Trạng nguyên Nguyễn Thiến cứ gieo mãi trong tôi bao ấn tượng sâu sắc.

Theo Ngọc phả lưu giữ tại Đình Đụn làng Canh Hoạch, đời Hùng Vương thứ 18, tên gọi của làng là Trang Cổ Hoạch (chạy dài từ Ngà Tư Vác đến hết làng Tảo Dương ngày nay). Trang Cổ Hoạch được chia làm 2 khu vực: khu vực trên (Canh Hoạch) gọi là Thượng Trang Cổ Hoạch; khu vực dưới (Tảo Dương) gọi là Hạ Trang Cổ Hoạch. Ở Hạ Trang Cổ Hoạch có cụ Nguyễn Quang Cảnh (con trai cụ Nguyễn Quang Kinh), tự là Phùng, tính nết hiền hòa, ham đọc sách canh nông lập nghiệp, gia đình khá giả, thích làm việc thiện, đón thầy địa lý tìm đất đặt mộ. Khi tìm được đất tốt, cụ đã đem hài cốt cha táng ở đó.

Mấy năm sau, cụ Quang Cảnh sinh được người con trai là Nguyễn Doãn Địch. Ngay từ nhỏ cụ Nguyễn Doãn Địch đã bộc lộ thiên tư khác lạ. Gia đình gửi cụ Doãn Địch lên Thượng Trang Cổ Hoạch (Canh Hoạch ngày nay) học cụ Nguyễn Đức Phương và được thầy yêu quý gả con gái yêu là Nguyễn Thị Canh. Năm 25 tuổi, cụ Nguyễn Doãn Địch đỗ Cử nhân khoa Dậu; năm 37 tuổi đỗ Thám Hoa khoa Tân Sửu (niên hiệu Hồng Đức thứ 12 - 1481 đời Lê Thánh Tông) làm quan đến chức Thượng thư bộ Lễ, kiêm tập hiến viên đại học sĩ, Hàn lâm thị tộc. Cụ có 3 người con trai: Nguyễn Doãn Tụ, Nguyễn Doãn Toại và Nguyễn Doãn Dật (chết yểu).


2. Huyền thoại bắt đầu từ người con trai thứ 2 của Thám Hoa Nguyễn Doãn Địch. Năm 18 tuổi, công tử Nguyễn Doãn Toại bị bệnh phong. Vì dân làng eo sèo, nên gia đình đành làm căn lều tạm cho công tử ở và dưỡng bệnh. Không ngờ chiếc lều ấy nằm trên đất con Hỏa Tinh, phía trước có Tam Kỳ Giang làm Minh Đường, thần bút tẩm thủy cờ trống, võng lọng la liệt trước mặt. Chính chỗ đất này, thầy địa lý đã chọn cho gia đình ông Nguyễn Đức Lượng (con cụ Nguyễn Bá Ký, đỗ Tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận, làm đến Lại bộ Thượng thư) người Canh Hoạch đặt mộ. Khu đất có “Mạch chìm, khe nhỏ, theo hướng Mão chảy lại, Tây Long có 5 cái bút, đóng hướng tại Cấn Dần Giáp Mão, Tốn Ly đều chìm dưới mặt nước, về phương Hợi có 3 cái gò ở khe nhỏ quay chầu vào, lập hướng tại Mão, thu nước tại Hợi, phong nước tại Đinh Mùi” (theo sách Lê Quý Đôn).

Thấy công tử Toại ở trên đất đó, gia đình ông Nguyễn Đức Lượng ra sức thuyết phục ông Toại chuyển chỗ ở. Nhưng thuyết phục thế nào công tử cũng không thuận. Cuối cùng, ông Lượng buộc lòng phải thú thực điều bí mật đại sự của gia đình. Nghe xong, công tử Toại đề đạt nguyện vọng được trò chuyện một đêm với cô em gái xinh đẹp của ông Lượng và sau đó sẽ chuyển đi chỗ khác ngay.

Về nhà, ông Nguyễn Đức Lượng buồn rầu, than thở với thầy địa lý. Không ngờ em gái Nguyễn Thị Hiền nghe được và xin anh trai tự nguyện gặp chàng trai Nguyễn Doãn Toại. Đêm đó, vào hạ tuần tháng 11 mưa phùn gió bấc, cô Hiền đội nón, xách đèn, một mình lặn lội ra lều tranh chuyện trò cùng công tử. Công tử Doãn Toại tuy bệnh tật, nhưng giao tiếp thể hiện tư chất thông minh, hiểu biết, tài đức. Hai người chuyện trò tâm đầu ý hợp. Âu đây cũng là duyên trời, cô Hiền đem lòng yêu mến, thương chàng trai giàu chí khí mà bệnh tật phải sống cô đơn.

Vào khoảng canh tư, hai người ân ái mặn nồng thì công tử ngộ phòng đột tử. Cô Hiền sợ hãi, vội về báo gia đình. Nghe tin, ông Nguyễn Đức Lượng cho người xuống báo tin dữ cho gia đình ông Thám Hoa Nguyễn Doãn Địch biết để cùng lo hậu sự. Về phần ông Lượng cũng dự định sáng ngày mai sẽ mang hài cốt cha đặt vào chỗ đất đó. Còn công tử Toại sẽ an táng ở nơi khác. Sáng sáng hôm sau, 2 gia đình đến nơi thì thi hài ông Doãn Toại không tẩm liệm, không áo quan, được mối bồi đất táng thành đống, chỉ còn hở 2 chân.

Gia đình cụ Nguyễn Doãn Địch nói: “Đây là thiên táng không chuyển đi nữa. Tốt thay công tử đã được người tốt lại được cả đất tốt”. Ông Nguyễn Đức Lượng chỉ còn biết than: "Thật là hết phúc, công tử kia đã được người lại còn chiếm cả đất này". Thầy địa lý an ủi: "Việc trời làm vậy, đất này tuy mất huyệt chính, còn huyệt bàng, táng vào vẫn kết phát được, ông nên nghe tôi táng mộ cụ vào huyệt bàng". Không còn cách nào khác, ông Nguyễn Đức Lượng đành táng mộ cha vào bên mộ công tử Doãn Toại.


Lối vào khu vườn xưa của dòng họ Nguyễn tại Tiên Điền

3. Năm ấy, ông Lượng 30 tuổi (1494). Năm 1514 Triều đình mở khoa thi, ông Nguyễn Đức Lượng thi đỗ Đệ nhất giáp, Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh (tức Trạng Nguyên) năm Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514) dưới triều vua Lê Tương Dực. Và kể từ đó, vua ban đổi tên ông từ tên Hề thành Đức Lượng.

Năm thi đỗ, ông đã 50 tuổi và sau 20 năm kể từ khi đặt mộ cha. Ông từng đi sứ nhà Minh; được phong chức Tả thị lang Bộ Lễ (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao ngày nay). Gia đình ông 3 đời liên tiếp đỗ cao: “Cha là Bá Ký, con là Khuông Lễ, em họ là Nguyễn Thuật. Bá Ký đỗ Tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận, làm đến Lại bộ Thượng thư. Khuông Lễ đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Đại Chính nhà Mạc, làm đến chức Tự Khanh, chết dọc đường trong lúc đi sứ Tàu, tặng Hữu Thị Lang. Nguyễn Thuật đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Đoan Khánh, làm đến Ngự sử”.

Ông nêu một tấm gương sáng về lòng quyết tâm kiên trì học tập và được người đương thời ca ngợi là “Văn chương lừng lẫy suốt bậc nho khoa, lẫm liệt tựa tùng bách với sương thu”. Khi mất, ông Nguyễn Đức Lượng được phong tặng Thượng thư. Là người phụ nữ đảm đang, tài giỏi, luôn bên cạnh giúp chồng, vợ Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng được vua phong là "Liệt phu nhân" (người vợ tài giỏi oanh liệt).

Lại nói về em gái ông Lượng, sau đêm cùng công tử Toại, cô Nguyễn Thị Hiền mang thai. Gia đình, dòng họ mang nỗi buồn đau riêng. Thương em gái, để tránh tiếng dị nghị, ông Nguyễn Đức Lượng làm cho cô Hiền gian nhà nhỏ ở rìa làng (ngôi nhà hiện ở khu vực nhà thờ Sắc).

Năm 1495, cô Nguyễn Thị Hiền sinh con trai, đặt tên là Đàm, húy là Thiến (Sảnh). Ngay từ nhỏ, Nguyễn Thiến đã bộ lộ tư chất thông minh. Năm lên 6 tuổi, ông đã giục mẹ cho theo học ông Nguyễn Đức Lượng. Lúc này, ông Lượng mở trường dạy học và giao lưu với các sĩ tử trong vùng để chờ ngày thi cử. Một đêm, ông Lượng chợt nghe có người bảo: "Ngày mai ông dọn dẹp nhà cửa có quan đồng khoa đến chơi". Ông Lượng tỉnh giấc, biết là chiêm bao, nhưng ông vẫn cho dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ có ý chờ đợi. Cả ngày không thấy khách tới, ông nghĩ là giấc chiêm bao. Đến sẩm tối, cô Hiền dắt cháu đến chơi và nói: "Thưa anh! Cháu đã lớn và chỉ đòi đi học. Em cho cháu lên đây, mong anh thương em dạy dỗ cháu, giúp cho em được phận nhờ". Ông Đức Lượng thương em gái, thương đứa cháu cút côi, thu xếp cho 2 mẹ con em gái ở nhà dưới và cho cháu theo học.

Từ ngày đến học ông cậu ruột, Nguyễn Thiến càng bộc lộ tư chất thông minh, vượt xa bạn đồng học… Khi nhà Lê suy yếu, chán ghét cảnh lộng hành, bè đảng của các đại thần trong triều, Nguyễn Thiến không mặn mà chuyện thi cử. Sau khi Mạc Đăng Doanh lên ngôi, nể lời ông Lượng vừa là người trong gia tộc, vừa là thầy và nghe lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, năm 38 tuổi, ông mới đi thi và đỗ Đệ nhất giáp, Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh (Trạng nguyên) năm Nhâm Thìn niên hiệu đại chính thứ 3 (1532) đời vua Mạc Đăng Doanh.

Trạng Nguyên cháu đỗ sau Trạng nguyên cậu 18 năm. Thi đỗ, nhưng gặp hoàn cảnh xã hội, ông không muốn ra làm quan phục vụ nhà Mạc. Nhưng do thúc ép của Triều đình, Nguyễn Thiến vẫn phải làm quan, giữ các chức: Lại bộ thượng thư, Ngự sử đài đô ngự sử, Đông các đại học sĩ, Nhập thị Kinh diên, Tước lại quận công (chức Thượng Thư bộ Lại).

Năm Mạc Cảnh Lịch thứ 3 (1551), Mạc Phúc Nguyên nghi ngờ ông Nguyễn Thiến không toàn tâm với nhà Mạc, nên cho quân định vây bắt một số đại thần. Trước tình thế đó, Nguyễn Thiến cùng với Phụng Quốc Công, Tể tướng - Lê Bá Ly đem toàn quân 2 đạo Sơn Tây và Sơn Nam cùng gia quyến đến Thanh Hóa quy thuận vua Lê. Vua Lê Trung Hưng rất mừng, đã ban thưởng và giữ nguyên chức tước. Ông sinh được 3 con (2 trai, 1 gái): Nguyễn Quyện (Thái Bảo Thường quốc công), Nguyễn Miễn (Phù Hưng Hầu) và con gái Nguyễn Thị Ngọc Cẩn (sau lấy Trịnh Kiểm). Làm quan cho nhà Lê khoảng 8 năm, Nguyễn Thiến mất ngày 24/8 năm Thiên Hựu (1557) đời Lê Anh Tông tại Thanh Hóa, thọ 63 tuổi.

1. Thấy cha con Nguyễn Thiến theo vua Lê, vua Mạc rất lo sợ. Trận đánh của Nguyễn Quyện đánh nhà Mạc ở vùng Sơn Nam năm 1557 càng làm vua Mạc lo sợ hơn. Khi biết Nguyễn Bỉnh Khiêm là thầy dạy của Nguyễn Quyện, vua Mạc Phúc Nguyên sai sứ sang hỏi kế. Sống dưới thời nhà Mạc, chán ghét cảnh binh đao, tàn sát lẫn nhau, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gửi Nguyễn Quyện một bức thư: “Đạo ở trong ta có khó gì/ Phương chi trí khí đã tương kỳ/ Nghìn năm quân phụ cương thường đó/ Trung hiếu một lòng chớ đổi đi”.Sau đó, trước sự thúc bách của nhà Mạc, Trạng Trình tìm cách thuyết phục Nguyễn Quyện.Ông giữ trọn chữ hiếu với cha, theo cha quy thuận nhà Lê. Sau khi cha chết, trước sự thúc bách của nhà Mạc, nể thầy học, 2 anh em Nguyễn Quyện trở lại nhà Mạc…

Vua Mạc được anh em ông Nguyễn Quyện trở về rất lấy làm vui mừng, úy lạo 2 ông, phong chức tước và gả con gái tôn thất cho… Uy danh Nguyễn Quyện kể từ đó càng lừng lẫy, được phong nhiều tước vị quan trọng: Văn Phái hầu (năm 1549), Thạch Quận Công (năm 1557). Đặc biệt năm 1584, ông được phong Thường Quốc Công và sau một năm (1585) được phong Thái Bảo. Ngoài ra, Nguyễn Quyện còn giữ chức Đông quân Đô Đốc, Nam đạo tướng quân, Bình chương quân trọng quốc, kiêm trưởng phụ sự.Đông đảo trai hai làng Canh Hoạch và làng Tảo Dương đi theo ông xông pha nơi trận mạc và lập nhiều công danh. Đến nay, trong dân gian vẫn truyền tụng câu ca: “Gái thì bảy huyện xứ Đông/ Trai thì Gạo, Vác cháu ông già Thường”.

Năm Nhâm Thìn 1592, các con cháu của Trạng nguyên Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện cùng bốn người con, Nguyễn Miễn cùng 5 người con quyết tử khôi phục và giữ Nhà Mạc… Năm 1592, Trịnh Tùng huy động quân đánh nhà Mạc. Quân Mạc chịu tổn thất nặng nề. Vì muốn bảo vệ Kinh thành Thăng Long, Nguyễn Quyện tổ chức tàn quân trấn giữ ở ô Cầu Dền, nhưng thua trận và ông bị bắt. Bắt được Nguyễn Quyện, Trịnh Tùng đãi ông theo lễ thân khách, không giết, chỉ nhắc ân nghĩa của Tiên Vương nuôi dưỡng. Nguyễn Quyện than rằng: "Tướng thua trận không thể nói mạnh được, trời đã bỏ nhà Mạc thì người anh hùng cũng khó thi sức". Chúa Trịnh biệt đãi, thu phục Nguyễn Quyện quy thuận triều đình, nhưng ông một mực thể hiện khí tiết của một danh tướng nhà Mạc. Biết không thể dụ dỗ được, chúa Trịnh ra lệnh tống 3 cha con ông vào ngục. Sáng mùng 4/11 nhuận năm Quý Tỵ (1593), cả 3 cha con Nguyễn Quyện, Nguyễn Tín và Nguyễn Trù cùng chết trong ngục.

Nguyễn Miễn - em ruột Nguyễn Quyện - cùng 2 con là Văn Bảng hầu và Đô Mỹ hầu cũng bị sát hại. 3 người con còn lại của ông Nguyễn Miễn, trong đó có Nam dương công Nguyễn Nhiệm (con thứ 3, cụ tổ 7 đời của Nguyễn Du) thu thập tàn quân, đánh phục thù ở sông Hoàng Giang định khôi phục lại nhà Mạc.

Tháng 10/1600, Nguyễn Đình Luyện (tướng của Lê - Trịnh) dẫn quân cùng nhiều chiến thuyền tiến vào xứ Sơn Nam đánh chiếm Hoàng Giang, nhưng đã bị quân của Nguyễn Nhiệm đánh bật trở ra, mất hơn 40 chiến thuyền. Sau trận này, Nguyễn Nhiệm được phong Quận Công.

Để trả thù cho trận thua nặng nề năm trước (tháng Giêng năm 1601), Trịnh Tùng đích thân mang toàn bộ quân tinh nhuệ vào vùng Nam Xương đánh Nguyễn Nhiệm. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt. Chấn Quận công (tướng tiên phong của Trịnh Tùng) tử trận. Quân Trịnh quá đông, quân nhà Mạc bị đánh tan.


Đền thờ và mộ Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du ở thôn Minh Quang

Sách Lê Quý Đôn toàn tập ghi “Khi Nhiệm bị giết thì bọn giặc (quân Mạc) đều tan”. Trịnh Tùng cho quân thu về Thăng Long. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Nam Dương hầu bị tử trận, còn 2 người em là Nguyễn Tào và Nguyễn Vị (tức An Nghĩa hầu và Thọ Nham hầu) bị bắt và bị chém đầu”. Nhưng theo gia phả dòng họ Nguyễn Tiên Điền và họ Nguyễn ở Canh Hoạch thì trong trận ấy, Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm chỉ bị thương. Ông thoát chết là do nằm ở dưới các tử thi, đến khi chiến trận yên ắng thì thoát được. Ông nghĩ tới nhiều phương án: Vận nhà Mạc đã hết, nên theo nhà Mạc lên Cao Bằng cũng không được. Trở về làng Canh Hoạch lại càng không thể vì sẽ bị quân Trịnh bắt… Sau thời gian suy nghĩ mông lung, Nguyễn Nhiễm nghĩ tới Trấn Nghệ An tiếp giáp với Thuận Quảng của Nguyễn Hoàng. Có đến vùng đất này may ra mới tránh được sự truy bức của quân Trịnh (Theo Họ Nguyễn Tiên Điền - Đinh Sỹ Hồng).

Và hướng đi đã hiện ra trước mắt. Nguyễn Nhiễm cùng một số người sống sót đã chạy ra biển. Theo đường biển thuyền vào tới cửa Hội thì ngược dòng sông Lam, đến làng Tiên Điền thì dừng lại.

Tiên Điền khi ấy còn là một nơi hoang vu, ít người. Nguyễn Nhiệm bắt đầu một cuộc đời mới, tránh xa việc binh đao. Nhờ người bản Mường, “Ông Nam Dương” sống qua những ngày gian khổ và lên bờ dưới danh nghĩa một thầy lang chữa bệnh. Cuối Nhà Mạc, đến thời Quang Hưng - Lê Thế Tông năm Bính Thân (1596), người con của đất Sơn Nam Thượng xứ Canh Hoạch đã tổ chức, hình thành khu dân cư sống chuyên nghề nông tang, mới đổi U Điền ra làng Tiên Điền và khẳng định dòng họ Nguyễn ở vùng đất mới - xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh - địa danh gắn với tên tuổi Đại thi hào Nguyễn Du…

Như vậy, tổ quán (nội, ngoại) của Nguyễn Du đã có nhiều đời ở Canh Hoạch, Tảo Dương. Thủy tổ họ Nguyễn Tiên Điền là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm (con của Nguyễn Miễn, cháu nội của Trạng nguyên Nguyễn Thiến). Từ đời Nam Dương công đến đời Nghi Hiên công Nguyễn Nghiễm là 6 đời...

Họ Nguyễn Canh Hoạch đến họ Nguyễn Tiên Điền danh gia vọng tộc, văn võ toàn tài có nhiều danh nhân nổi tiếng:

- Thủy tổ là Nguyễn Doãn Địch đậu Thám hoa năm 1481.

- Công tử Nguyễn Doãn Toại - con trai Thám hoa Nguyễn Doãn Địch.

- Trạng nguyên Nguyễn Thiến (1495-1557) - con trai công tử Nguyễn Doãn Toại và bà Nguyễn Thị Hiền.

- Làng Canh Hoạch có 2 Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và Nguyễn Thiến, thường được gọi là Trạng cậu, Trạng cháu.

- Nguyễn Huệ - anh ruột Nguyễn Nghiễm: Tháng 3 năm Quý Sửu (1733) dự thi Hội đứng thứ 6, thi Đinh Dậu tam giáp Tiến sĩ suất thân đứng thứ 7.

- Tể tướng Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775) cha của Nguyễn Du.

- Tể tướng Nguyễn Khản (1734 - 1786) anh trai cùng cha với Nguyễn Du.

- Tiến sĩ Nguyễn Tán (1804 - 1835) cháu nội Nguyễn Nghiễm.

- Tiến sĩ Nguyễn Mai (1876 - 1954): Cháu 4 đời thuộc chi Nguyễn Trọng (Nguyễn Trọng là em ruột Nguyễn Nghiễm).

- Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du (1765 - 1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, con thứ 7 Tể tướng Nguyễn Nghiễm. Truyền đến đời thứ 6 kể từ ông Nguyễn Nhiệm có Tể tướng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm sinh được 21 người con, 12 con trai, 9 con gái, trong đó có người con trai thứ 7 là Đại thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn…”.

Con cháu dòng họ Nguyễn tự hào về mảnh đất “địa linh nhân kiệt” đã nuôi dưỡng người tài cho đất nước:

“Duyên vàng lại nảy cành vàng

 Đất thiêng lại nảy những hàng kiệt linh”.

Do có nhiều người đỗ đạt, vinh hiển, nhiều đời đỗ đạt làm quan, hiện ở nhà thờ Sắc có nhiều đôi câu đối vinh danh:

- Văn đỗ Trạng Nguyên, võ làm Quốc công, áo tía đầy triều.

Nam thì trung thần, nữ thì oanh liệt, sử sách ngợi ca.

- Ngọn bút lấn mây, văn chiếm trạng nguyên, võ chuyên chức tướng.

Cành bạc chia nhánh, nhà ở Canh Hoạch, quán tại Tảo Dương.

- Cậu Trạng nguyên, cháu Trạng nguyên, khoa bảng đỗ đầu sáng danh sử sách.

Bố Tiến sĩ, con Tiến sĩ, tám đời quyền quý phúc lớn gia truyền.

Đất kiệt linh, quê hương của Thám Hoa Nguyễn Doãn Định cụ tổ 11 đời, quê hương của Trạng Nguyên Nguyễn Thiến cụ tổ 9 đời, quê hương của Thái Bảo Thường Quốc Công Nguyễn Quyện, Phù Hưng hầu Nguyễn Miễn cụ tổ 8 đời và quê hương của Thái Bảo Nam Dương công Nguyễn Nhiệm cụ tổ 7 đời của Đại thi hào Nguyễn Du:

Gặp buổi Mạc vương thành sụp đổ

Nam Dươmg hầu còn cố hy sinh

Tiên Điền thành đất lánh mình

Nghi Xuân đại tộc ngát xanh muôn đời”.

(Đinh Công Vĩ).

Về cái chết của Nguyễn Du: "Hữu Tham tri Lễ bộ là Nguyễn Du chết. Du là người Nghệ An rộng học giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ. Đến bây giờ có mệnh sai sang nước Thanh, chưa đi thì chết. Vua thương tiếc, cho 20 lạng bạc, 1 cây gấm Tống...". Ảnh: Trong đền thờ Nguyễn Du ở Tiên Điền.

3. Tại Lễ giỗ 200 năm Đại thi hào Nguyễn Du (10/8 năm Canh Thìn 1820 - 10/8 năm Canh Tý 2020) tại Khu di tích Tiên Điền, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Nhạ nói với tôi: “Năm 2012, dân làng Canh Hoạch vào Tiên Điền được đón tiếp rất ân cần, chu đáo và được cung cấp rất nhiều tư liệu quý để Canh Hoạch bổ sung vào lịch sử nhà thờ Thường Quốc Công Nguyễn Quyện. Năm 2014, Canh Hoạch dẫn đoàn đại biểu họ Nguyễn Duy thôn Tảo Dương, xã Hồng Dương vào nhận họ tộc. Năm 2014, Lễ đón bằng Di tích lịch sử nhà thờ Thường Quốc Công Nguyễn Quyện, làng Canh Hoạch vinh dự được đón lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và dòng họ Nguyễn Tiên Điền ra dự chung vui. Năm 2017, Canh Hoạch vào dự lễ kỷ niệm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du đã đề xuất trồng một cây đại lấy từ nhà thờ Trạng nguyên Nguyễn Thiến và tặng đôi câu đối gỗ tặng Khu di tích Nguyễn Du”. Đôi câu đối nối liền Tổ quán với dòng họ Nguyễn Tiên Điền có ý nghĩa nhân văn như chim có tổ, như người có tông:

Canh Hoạch cổ danh hương, Trạng nguyên cậu, Trạng nguyên cháu danh truyền khắp nước

Tiên Điền miền phúc địa, Tể tướng cha, Tể tướng con phúc ấm muôn nhà”.

Hai làng Canh Hoạch – Tiên Điền có cùng chung nguồn cội“Cây chung nghìn nhánh sinh từ gốc/ Nước chảy muôn dòng phát tại nguồn”. Những cuộc thăm hỏi của dòng họ Nguyễn làng Canh Hoạch hai đã được Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du, dòng họ Nguyễn Tiên Điền đón tiếp rất nồng hậu, ấm áp tình họ tộc. Đúng như lời cổ nhân: “Chim có tổ, người có tông, tuy ở cách nghìn sông không mờ nhạt tổ tông Hồng Lạc/ Nước có nguồn, cây có cội, dẫu đi xa vạn đỗi chẳng phai nhòa nguồn cội Rồng Tiên”.

Từ làng Canh Hoạch đến đất Tiên Điền - dòng họ Trạng nguyên Nguyễn Thiến đã làm rạng danh, xứng đáng là họ trâm anh thế phiệt. Tính từ đời Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm đến Nguyễn Du là đời thứ 7. Dòng họ Nguyễn Tiên Điền tự hào có Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du.

Tôi đọc đôi câu đối trong nhà thờ Thường quốc công: “Văn đỗ Trạng nguyên, võ tước Quốc công đầy triều đỏ tía/ Nam là trung thần, nữ là liệt phụ, thực chép sử xanh” mà ngẫm ngợi bao điều sâu xa. Câu đối ca ngợi công danh vinh hiển ông và cháu, cha và con, vợ và chồng. Như vậy, nội dung đôi câu đối đã lan tỏa từ đất Canh Hoạch đến đất Tiên Điền, đến con cháu Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Khản, Nguyễn Du… 2 vị Trạng Nguyên có quan hệ thân tộc Trạng cậu, Trạng cháu, lại cùng từ một nơi nuôi dưỡng phát triển tài năng là làng Canh Hoạch. Dòng Trạng nguyên Nguyễn Thiến trâm anh thế phiệt, kinh bang tế thế đã làm rạng danh đất Canh Hoạch và đất Tiên Điền.

Khi Chi hội Kiều học trở về, hậu duệ Trạng nguyên Nguyễn Thiến cùng dòng họ Nguyễn Canh Hoạch đã bày tỏ nguyện vọng tha thiết: “Dân làng Canh Hoạch chúng tôi mong muốn xây dựng Nhà lưu niệm Trạng nguyên Nguyễn Thiến cùng dòng Nguyễn tôn vinh xứng đáng những danh nhân của đất nước khởi sinh từ mảnh đất này. Nhà lưu niệm tọa lạc ở trên chính mảnh đất thiêng này - nơi sinh ra Trạng nguyên Nguyễn Thiến, Thường Quốc công Nguyễn Quyện… là Thủy tổ dòng họ Nguyễn Tiên Điền và Đại thi hào Nguyễn Du. Chúng tôi muốn lưu danh dòng họ Nguyễn Canh Hoạch và dòng họ Nguyễn Tiên Điền cho muôn đời sau…”.

(Bài viết sử dụng tư liệu của dòng họ Nguyễn Canh Hoạch; Họ Nguyễn Tiên Điền và Khu di tích Nguyễn Du của Đinh Sỹ Hồng).

( PTS-TS Lê Thị Bích Hồng.)

dienbatn giới thiệu.

Xin theo dõi tiếp BÀI 15. Thân ái. dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *