Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 5.
PHẦN I.
PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.
“ Dưới các triều Lý – Trần là thời kỳ phát triển rực rỡ của nền văn hóa Đại Việt . Năm 1070 , vua Lý Thánh Tông lập Văn miếu thờ thánh Khổng phu tử . Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên gọi là khoa “ Tam trường “ , cũng gọi là khoa “ Minh Kinh “ . Năm 1076 Vua mở trường Quốc tử Giám ở Thăng Long cho con em quý tộc và quan chức .
Nếu lấy khoa bảng làm mốc thì đất Diễn , Hoan chậm hơn Thăng Long và phụ
cận tới 200 năm . ( Người đỗ đại khoa đầu tiên ở châu Diễn là Trạng nguyên Bạch
Liêu ( 1263 – 1315 , người làng Nguyễn Xã , châu Diễn . Sau khi đỗ không làm
quan , chỉ làm môn khách của thượng tướng Trần Quang Khải . Sau này ông sống và
dạy học ở Nghĩa Lư – Hải Đông – Hải Dương . Mộ ông táng ở chân núi Hồng Lĩnh
địa phận xã Thiên Lộc – Can Lộc – Nghệ An ). Người đầu tiên đỗ Trạng nguyên ở
châu Hoan là Đào Tiêu , khoa Ất Hợi , đời Trần Thánh Tông ( 1275 ), và Trạng
nguyên Sử Hy Nhan , đỗ khoa Quý Mão đời vua Trần Dụ Tông ( 1363 ) . Như vậy ,
cuối đời Trần ở vùng bắc Hà Tĩnh bậy giờ , chủ yếu ở hai huyện Chi La và Phi
Lộc , việc học hành đã khá thịnh…..
Môi trường tự nghiên nghiệt ngã đến mức giọng nói cũng không thể nhẹ nhàng
, trong trẻo . “ Em thường chê giọng nói quê anh – Cứ nặng trịch như là đá ấy !
Thử nghĩ xem , nếu không là vậy – Thì làm sao dằn được ngọn gió Lào “ ( Thơ TKĐ
). Hoàn cảnh xã hội nhiều lúc cũng hết sức thảm khốc . Theo cuốn “ Tên làng xã
Việt nam đầu thế kỷ XIX “ thì chỉ trong 2 huyền Kỳ Hoa, Thiên Lộc hồi đó đã có
10 xã , thôn trang phiêu bạt vì loạn lạc , đói kém, bệnh tật .
Sống trong một điều kiện tự nhiên và xã hội như vậy , đời này qua đời khác , con người giữ được bản tính chất phác , nhẫn nại , cần cù , tằn tiện , lạc quan , thẳng thắn và trở nên gan dạ , cứng cỏi , tháo vát , khắc khổ mà trượng nghĩa, chung tình . Có điều là cái hay , cái dở đều đậm nét hơn bình thường , đều có phần thái quá , cực đoan . Nhiều khi nhẫn nhục đến tự tin , tằn tiện đến keo kiệt , thẳng thắn đến bốp chát , gan dạ đến liều lĩnh , trung thành đến mù quáng …Không ít những trường hợp biểu hiện thái độ cực đoan ấy . Ví như có vị Cử nhân ghét Tây đến mức không dùng dầu tây ( dầu hỏa ) , giấy Tây , không cho con em đi học chữ Tây , không gả con gái cho người học trường Tây! Nhiều nhà Nho không thừa nhận Vua Đồng Khánh , có người cho đến đời Duy Tân vẫn chỉ dùng niên hiệu Hàm Nghi . Trong ứng xử với người ở đây , cái gì cũng phải minh bạch . Phải trái rõ ràng, yêu ghét rõ ràng . Đã nói là nói thẳng , đã làm là làm đến cùng . Tuy nhiên tất cả những ưu nhược điểm trong tính cách con người cùng Hồng – Lam này đã tạo nên nét nổi bật là đất nghĩa khí và tài năng .
Nghĩa khí trước hết được biểu hiện qua các việc làm trượng nghĩa bình thường của nhân dân .Đã có 1 thư sinh Bùi Cầm Hổ ra du học ở Thăng Long , đến cửa Bộ Hình minh oan cho một người đàn bà bị kết án tử hình vì tội giết chồng . Đã có 1 Ngô Trát thấy dân vất vả khi đi qua núi , bỏ công ghép lát 1645 bậc đá trên 1.300 m đường Truông Vắn , núi Hồng Lĩnh. Một Cố Bá lúc về già , dốc hết của nhà bắc chiếc cầu qua Hói cho dân qua lại . Ngày nay người ta vẫn gọi hai công trình của lòng nghĩa cử ấy là “ Truông Cố Ghép “ , là “ Cầu Cố bá “ . lại có một cố Bu làm giặc chống lại triều đình , nhưng rất thương và hay giúp đỡ dân nghèo . Một Lý trưởng Nguyễn Văn Hiền , giúp cho một toán nghĩa quân thoát khỏi vòng vây của quân triều đình , rồi ra nhận chết chém thay dân làng …” Trại Cố Bu “ ở Hồng Lĩnh và “ Thành Cố Bu “ ở Hương Khê , “ Đền ông Văn Hiền “ ở Nhượng Bạn là 2 chứng tích về 2 con người ấy .
Còn những bậc hào kiệt , anh hùng , đại diện ưu tú nhất của nhân dân thì
đời nào cũng có , nhất là trong sự nghiệp chống kẻ thù xâm lược và đô hộ .
Thời tự chủ , trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc , đời
nào cũng có người ở vùng quê Hồng Lam tham dự .
Tấm bia làng Bình Hà , Huyện Nam Thanh – Hải Dương còn ghi công trạng của
một vị tướng được phong Thần , thờ ở đây là Cao Minh Hựu , người huyện Phi Lộc
( Can Lộc ) , đã tham gia cuộc kháng chiến chống quân Tống do vua Lê Đại H2nh
lãnh đạo , trên sông Hương Đại , Tây nam sông Bạch Đằng.
Thần tích đền An Tân , huyện Gia Phúc , nay thuộc tỉnh Bắc Ninh , chép về 2
vị Thần là “ Trường Tân nhị tướng quân “ , mà sách Việt điện u linh chép lại
như sau : Lê Thạch tự Phúc Sơn , quê La Sơn , và Hà Anh tự Quang Hoa , quê châu
Diễn , khoảng niên hiệu Thiệu Hưng đời Trần Nhân Tông ( Đúng ra là niên hiệu
Thiệu bảo ( 1279-1284 ) và Trùng Hưng ( 1285- 1292 ) , phụng thị ở trong cung
Thái tử lâu ngày , được phong là Chánh , Phó thị đô lang tướng . Năm Nhâm Thân
( 1272 ) , muốn kiếm cớ sang đánh nước ta . Nhà Nguyên sai Ngột Lương ( Uriyang
), sang hỏi về dấu vết cột đồng Mã Viện . Vua Trần cho Hàn lâm hiệu thảo Lê
Kính Phu đi hội khám . Hai tướng Lê , Hà cũng được sai đem 2000 quân đao phủ đi
cùng. Ngột Lương ngạo mạn , hạch sách đủ điều Lê , Hà nói với Kính Phu : Chúng
ta vâng mệnh Vua , không được làm nhục Quốc thể . Việc dùng lý lẽ là do tiên
sinh , chúng tôi là con nhà võ , như mũi tên đã để sẵn trên dây cung , giữ lại
hay phóng đi chỉ tách một cái là xong .Hôm sau , ba người cùng gặp Ngột Lương ,
Kính Phu biện bác qua loa rằng : Cột đồng lâu ngày đã không còn dấu vết , còn 2
tướng thì quắc mắt tỏ ý phẫn nộ , làm cho Ngột Lương sợ hãi , đành phủ dụ vài
câu rồi về .Khi quân Nguyên sang đánh nước ta ( 1285) , hai người xin đi đánh
giặc . Lê Thạch được phong là “ Uy linh thượng tướng quân “ đóng đồn ở Hải Ải
Điểm khẩu. Hà Anh được phong là “ Đông lãm đại tướng quân “ , đóng đồn ở Cao
lâu khẩu . Trong trận An Bác châu , hai ông chém được tướng Nguyễn Triệu Tộ và
Giải Ninh . Nhưng trong trận Phượng Nhãn hai ông bị quân Trương Hằng phục kích
vây bắt . Tướng Toa Đô dụ dỗ , nhưng 2 ông không chịu khuất phục , đều bị giặc
chém vứt xác xuống sông Nguyệt Đức ( Đoạn chảy qua làng Nguyệt Đức ,Bắc Ninh
).Thi thể 2 người trôi về bến Trường Tân , được nhân dân vớt lên chôn ven sông
và lập miếu thờ. Về sau Triều đình ban sắc phong cho Lê Thạch là “Chính trực
đại vương và Hà Anh là “ Cương đoán đại vương “.
Đầu thế kỷ XV , nhà Minh mượn tiếng sang giúp nhà Trần đánh lại nhà Hồ
để cướp nước ta . Vùng đất Hồng – Lam trở thành điểm quy tụ lực lượng
kháng chiến . Những Bà Hồ , Động Choác , Tiên Hoa , Lục Niên …trở thành địa
danh lịch sử gắn với tên tuổi của những anh hùng , nghĩa sĩ .
Đặng Tất ( ?- 1409 ) là cháu nội Thám Hoa Đặng Bá Tĩnh đời Trần, quê làng
Đông Rạng , xã Tả Thiên Lộc ( nay là xã Tùng Lộc – Thiên Lộc ) . Gia phả chép
ông là Cống sĩ , làm quan dưới triều Trần Thuận Tông ( 1388- 1398 ) , Trần
Thiếu Đế ( 1389 – 1400) , đến chức Tri châu Thanh Hóa . Ông đứng về phe ủng hộ
Hồ Quý Ly , nên dưới triều Hồ , được cử làm Đại tri châu Hóa Châu . Nhà Hồ mất
, ông trá hàng nhà Minh để giữ binh quyền Hóa Châu . Tháng 10/1407 , vua Giản
Định khởi binh chống giặc Minh ở Mộ Độ ( Ninh Bình ) . Ông giết quan lại nhà Minh
, đưa quân ra hợp , gả con gái cho Vua , được phong Quốc công , cùng với
Đồng tri khu mật viện Nguyễn Cảnh Chân ra sức giúp rập Giản Định . Nghĩa quân
càng ngày càng lớn mạnh , như sau chiến thắng Bô Cô ( Nam Định ) Vua tôi
có sự bất đồng . Vốn hẹp hòi , đa nghi Vua Giản Định nghe lời ghèm pha đã giết
2 công thân Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.
Đặng Dung ( ? – 1414 ) : là con trưởng của Đặng Tất và 2 em là Đặng Doãn ,
Đặng Thiết đang giữ Hóa Châu , được tin cha bị giết oan , bèn cùng Nguyễn
Cảnh Dị , con của Nguyễn Cảnh Chân , đem quân ra Thanh Hóa đón Trần Quý Khoáng
( cháu vua Trần Nghệ Tông , gọi vua Giản Định bằng chú ) , về Nghê An và tôn
lên làm Vua . Ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Sửu (7/4/1409 ) , Trần Quý Khoáng lên ngôi
ở bà Hồ , huyện Chi La ( nay là xã Yên Hồ - Huyện Đức Thọ ) , lấy hiệu Trùng
Quang , phong Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo , Đặng Dung làm Đồng bình chương sự .
Sau đó vua Trùng Quang tôn vua Giản Định làm Thái thượng hoàng đế , thống nhất
lực lượng kháng chiến .Từ căn cứ Bà Hồ , nghĩa quân tiến ra đánh giặc Minh ở
Bình Than, hàm Tử rồi rút về Nghệ An củng cố lực lượng . Giữa năm 1410, Vua
cùng Nguyễn Cảnh Dị , Đặng Dung lại đưa quân ra Hạ Hồng , phá được quân của Đô
đốc Giang Hạo rồi thùa thắng đuổi giặc đến bến Bình Than . Hào kiệt nhiều nơi
nổi dậy hưởng ứng . Đến giữa năm 1412, Trương Phụ , Mộc Thạnh tiến đánh Nghệ
An. Lực lượng nghĩa quân yếu dần tiến ra Bắc , bị thất bại lại phải về Nghệ An
. năm 1413 lùi vào Hóa Châu .Đặng Dung và Nguyễn Súy đóng giữ kênh Thái Hà ,
đánh úp giặc suýt giết được Trương Phụ . Nhưng khi giặc phản công thì nghĩa
quân tan rã , Vua tôi đều bị giặc bắt đưa về Đông Quan . Dọc đường vua Trùng
Quang , Đặng Dung và Nguyễn Súy cùng nhảy xuống sông tự tận ( 1414 )….
Ngoài ra còn rất nhiều anh hùng hào kiệt : Nguyễn Biên ( Hồng Lộc- Can Lộc
) ; Phan Liêu( Thạch Linh – TP. Hà Tĩnh ); Sử Hy Nhan (? – 1421 ) và Sử Đức Huy
( 1360-1430 ) ( TX. Hồng Lĩnh ); Lê Bôi ( 1730 ? ); Phan Đán ( Tùng Ảnh – Đức
Thọ ); Võ Lộng ; Bùi Cầm Hồ ( Thiên Lộc );Phan Huân ( 1814 – 1864 )( Thiên Lộc
); Lê Ninh ( 1857- 1887 ) ( Đức Thọ ) ;Phan Cát Xu (Tiu ) ( 1846-1886 ) ( Đồng
Thái – Đức Thọ ); Phan Đình Phùng ( 1847-1896 ) ( Đồng Thái – Đức Thọ );Cao
Thắng ( 1864-1893 ) ( Hương Sơn ); Ngô Đức kế (1879 – 1992 ) ( Can Lộc ); Lê
Văn Huân ( 1876-1992 ) ( Đức Thọ ); Nguyễn Hàng Chi (1886-1908 ) ( Can Lộc
)……..
Thông minh , tài năng là đặc điểm nổi bật thứ 2 của con người vùng đất Hồng
– Lam. Thật ra thì nghĩa khí và tài năng là hai mặt liên quan chặt chẽ, không
thể tách rời . Trên đất hà Tĩnh bây giờ, từ xa xưa, đã có những con người “
truyền thuyết “ mà tài năng được nhiều người biết đến . Một người con gái
đất Phổ Minh , hát giỏi mà bạc mệnh , mất tích trong một lần vào Ngàn Hống lấy
củi , đã trở thành “ Thần hát ví “ . Một chàng trai bên bờ sông Phố , giỏi nghề
thợ dác , đi theo nghĩa quân Lam Sơn , ngày thắng lợi trở về , tiếp tục hành
nghề . Khi mất được dân dựng miếu thờ và gọi là “Tiên Dác “ . Một Võ Đức Huyền
là “ Thánh Địa lý Tả Ao “ . Một Lê mai ở Kẻ Thượng là “ Thần Y “ . Một Nguyễn
Cảnh ở Tiên Điền là “ Thánh Y “ . Một Sáu Ngại – Nguyễn Huy Ngại , được dân thợ
mộc Thái Yên gọi là “ Á Thánh “ sau Thánh thợ Lỗ Ban . dân gian còn truyền một
“ ông kẻ bề “, có tài vật bách chiến bách thắng , có tên lạ là “ Ông Ồ “ . Một
bà mụ người làng Lạc Dị , giỏi nghề hộ sinh , được Khái ( Hổ ) đến cõng vào
rừng đỡ đẻ cho Khái mạ ( Hổ mẹ ), nên dân gian trong vùng gọi là “ Mụ Khái “
.Một Trần Hồ , vạn chài , có tài lặn bắt cá dưới nước , được vua lê Thánh Tông
ban cho tên “ Thám Hồ “ . và những người có tài khôi hài thì dân xứ Nghệ gọi là
“ Trạng “..
Chuyện người tài trong dân gian thì phải kể đến hàng tháng , hàng năm . Ở
đây chỉ nói đến một số nhân tài lỗi lạc , tiêu biểu nhất cho tài năng của nhân
dân ta .Họ là con em của vùng đất núi Hồng – Sông Lam văn vật , và là những người
góp công tạo nên đất văn vật Hồng – Lam. Đó là những ông Trạng, ông bảng , ông
Thám , ông Nghè , ông Cử là những trí thức tân học hiện đại.
Thời Lý – Trần , Thăng Long và vùng phụ cận , Nho học đã phát triển mạnh
mẽ, thì Thanh , Nghệ còn là đất trại xa xôi .nếu lấy khoa cử làm mốc thì việc
học ở đây chậm sau 2 thế kỷ , và Nghệ Tĩnh so với Thăng Long cũng chậm hơn một
bước. Nhưng từ cuối thời Trần , nhất là dưới hai triều Lê – Nguyễn , xứ Nghệ
nổi tiếng là đất học , có nhiều người chăm học và học giỏi .
NGHI XUÂN BÁT CẢNH : Là tám cảnh đẹp ở huyện Nghi Xuân . Theo sách “ Nghi
Xuân thông chí – Quyển hạ “ thì nguyên trước kia có 01 cảnh , nhưng Hoàng
Giáp Bùi Dương Lịch đã dọn bớt chỉ để lại 8 cảnh .
Tám cảnh được sắp xếp theo thứ tự từng cặp đối với nhau . Mở đầu là hai bức
tranh :
* Hồng Sơn liệt chương ( Núi Hồng thành dựng ).
* Đan Nhai quy phàm ( Bờ son buồm về ).
Hồng sơn tức là Hồng Lĩnh , tục gọi là Ngàn Hống , xưa được coi là 1 trong
21 danh sơn nước Việt , cùng với sông lam là biểu tượng xứ Nghê . Núi Hồng 99
ngọn , mỗi ngọn là một thắng tích , từng được ghi vào điển thờ triều Nguyễn và
khắc hình lên “ Anh Đỉnh “ ở Kinh đô Huế.
Còn Đan Nhai ( sách cổ chép Đơn hay Đan Thai ) là xã Hội Thống bây giờ .
Đan Nhai là hải môn của Cửa Hội , cửa sông Lam ( Ngàn Cả ) chảy giữa Nghi Lộc
và Nghi Xuân . Sách “ Nghi Xuân địa chí “ của lê văn Diễn mô tả : “ Những tháng
cuối xuân sang hè , trời nắng tạnh , các loại thuyền đánh cá lớn nhỏ , cùng với
thuyền buôn từ Bắc đến , vào cửa sông có hàng mấy trăm chiếc . Buồm thuyền no
gió , dập dờn qua lại hàng đàn …khác nào như đàn bướm đang vờn hoa , bày cá
đang dỡn nước …Thật là một nơi thắng lãm hiếm có “.
Hồng Sơn – Đan Nhai là hai bức tranh toàn cảnh Sơn – Hải ( Thủy ) rộng lớn
. Có 2 bức “ Song Ngư hí thủy ( Đôi cá dỡn nước ) – “ Cô độc lâm lưu “ ( Nghé
lẻ lội sông ), là trích từ 2 bức tranh lớn đó ra , nói về 2 cảnh sơn – Thủy cụ
thể , nhỏ xinh như 2 hòn non bộ.
Song Ngư – Hòn Ngư , là đảo phía ngoài Cửa Hội , cách bờ 5 km , nay thuộc
huyện Nghi Lộc – Nghệ An .Đảo dài khoảng 1.500 m , có 2 đỉnh cao 108 m và 128
m. Do đó đứng nhìn xa giống như 2 con cá đùa dỡn giữa sóng nước . Vua Lê Thánh
Tôn , trong bài thơ “ Vịnh Đan Nhai hải môn “ ( Cửa Hội ) có câu : Đoạn tục
Song Ngư tử thúy điền – Biếc xanh dứt nối ngọn Song Ngư .
Cô Độc là trái núi nhỏ, nằm tách ra riêng ở mé sông Lam , thuộc nhóm Ngữ Mã
trong dãy Hồng Lĩnh. Do hình núi nên dân gian tưởng tượng ra là Con nghé
lẻ loi sắp lội xuống sông ( Cô độc lâm lưu ) . Núi còn có tên là “ Khu độc “ (
Con nghé đang nhảy ) . dân địa phương xã Xuân Hồng gọi là Núi bà ( có lẽ là
Tháp Sơn ở gần đó có đền thờ bà Chúa Liễu ). Trên đỉnh núi có tảng đá lớn , mặt
rộng gần trượng , giữa có 1 lỗ sâu gọi là “ Đá Cối “ . Tương truyền đó là dấu
tích Ninh quận công Trịnh Toàn giã gạo quân lương.
Cặp đôi thứ 3 là một bến đò , một cái bãi trên sông Lam : Giang đình cổ độ
( bến cổ Giang đình ) – Quần Mộc binh sa ( Bãi bằng Quần mộc ) .
Giang Đình là 1 bến đò có từ xưa , gọi là đồ Tả Ao ( Thuộc làng Tả Ao ) ,
trên bến là chợ Tả Ao. Hội Xuân quận công Nguyễn Nghiễm , thân sinh ra thi hào
Nguyễn Du khi trí sĩ, người ta dựng Giang Đình trên bến đò để đón rước , mở hội
ăn mừng . Để ghi lại sự kiện mang lại vinh dự cho địa phương , người ta đổi tên
bến đò và khu chợ thành Giang Đình . về sau , Nguyễn Du có nhắc lại việc này
qua bài thơ “ Giang Đình hữu cảm “
Ức tích ngô ông tạ lão thì ,
Phiêu phiêu bố trí thử giang nữ .
( Nhớ cụ ta khi cáo lão về ,
Mé sông này rộng ngựa cùng xe.)
Còn Quần Mộc tức là Cồn Mộc , nghĩa là bãi sa bồi , đất tốt , cây rậm .Ngôi
làng trên bãi bồi này cũng gọi là Quần Mộc . Sau này đổi thành “ báu Lâm “ (
Rừng cây quý ) , thuộc tổng Xuân Viên , nay là Xuân Giang . Sách “ Nghi Xuân
địa chí “ chép : Cồn Mộc , bãi chiến trường ngày xưa …Hồi đó quân Đàng Trong và
quân Đàng Ngoài đánh nhau ở đây…Trước đây hàng năm đến kỳ hạch Huyện để tuyển
chọn trò đi thi thường đặt thi tại chỗ này.Triều Sơn tây chỗ này được đắp thành
lũy …
Cuối cùng là một cảnh chùa và một cảnh chợ . Uyên Trừng danh tự ( Chùa đẹp
Uyên Trừng ) và Hoa phẩm thắng triền ( Chợ lớn Hoa Phẩm ).
Uyên Trừng là tên tục của chùa Dằng, trên rú Dằng ( Uyên Trừng sơn ) ,
trong nhóm Ngũ Mã phía Tây dãy Hồng Lĩnh thuộc xã Tam Đang hạ ( sau là Tam Xuân
hạ, nay là Xuân Hồng ) .Uyên Trừng là gọi theo tên núi , tên địa phương , còn
tên chính thức là chùa Hoa Tạng, từ đời Thiệu Trị, kiêng húy đổi ra là Ba Tạng.
Đây là ngôi chùa lớn dựng từ thời Lý ( nay không còn ) . sách cổ đều chép :
Phía trước chùa là sông Lam núi Hồng bao quanh 3 mặt , phong cảnh thanh u ,
tĩnh mịch . Phía trước chùa có khe , có cầu , có am viện , có ao đá do nước
suối chảy vào . Bên chùa là nơi sư ở . Xưa nay du khách đã ngâm vịnh ở chùa này
nhiều. Thật là một nơi già lam bậc nhất .
Chợ Hoa Phẩm tức là chợ Chế ở xã Tam Chế , sau đổi thành Hoa Phẩm rồi Quả
Phẩm , nay là xã Xuân Lam . Ngày trước chợ sát chân núi . Đời Lê , táng mộ Lý
nguyên phi ở núi Na nên dời chợ xuống khu đất sát sông Lam . Vua Lê Thánh
Tông có bài thơ Nôm “ Vịnh làng Chế “ như sau :
…Chợ họp bên sông gẵm có chiều,
Thuyền bày trên đất xem nhiều vẻ.
Cảnh vật bằng đây họa có hai …
Các cảnh trên đấy trước , sau Bùi Dương Lịch đều có người ngâm vịnh , nhưng
chỉ có ông Bùi là làm đủ 8 bài trong “ Nghi Xuân bát cảnh “. ( SĐD ).
" ( Trích trong Hà Tĩnh đất văn vật Hồng Lam " - Thái Kim Đính.)
MỘT CHÚT TƯỞNG NHỚ VỀ TÁC GIẢ THÁI KIM ĐỈNH.
Xin theo dõi tiếp BÀI 6 - PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.
Thân ái. dienbatn.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét