PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 19.

9/15/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 19.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

I.   ĐỊA CHÍ CAN LỘC HÀ TĨNH.

II. CÁC VỊ TỔ ĐẦU TIÊN CỦA DÒNG HỌ NGUYỄN TRÀNG LƯU.

1.Nguyễn Uyên Hậu : (năm sinh, năm mất không rõ) thụy Dụ Khánh là Thuỷ tổ dòng họ Nguyễn Huy, vốn quê ở quận Trần Lưu phương Bắc, vợ ông là bà Trần Thị Ý, người làng Gia Hanh, xã Nhân Lộc, Can Lộc. Ông bà sinh được một  người con trai là Nguyễn Hàm Hằng. Ông từng đỗ cao trong kỳ thi Hương, sau khoa đỗ Ngũ kinh bác sỹ đời Hồng Đức (1470 - 1497), dạy học ở Quốc Tử Giám. Làm quan được một thời gian, đầu thế kỷ 16 ông về vùng núi Phượng Lĩnh, lập làng mới với tên gọi Tràng Lưu (nay là xã Trường Lưu). Làng Tràng Lưu  từ giữa thế kỷ 18 đã rất nổi tiếng với truyền thống học hành khoa bảng và trứ tác. Ông chỉ sống ở Truờng Lưu không lâu, khoảng 6 - 10 năm, sau đó trở làng cũ và dặn con cháu lấy ngày Đông chí hàng năm làm ngày giỗ ông.

Bác sĩ Nam thiên chỉ Nguyễn Uyên Hậu, vì ông giữ chức Ngũ kinh Bác sĩ giảng dạy ở Quốc Tử Giám. Nam thiên lấy từ trong biển gỗ sơn son thếp vàng với bốn chữ Nam thiên cư sĩ, là chữ do triều đình phương Bắc tặng cho Nguyễn Huy Oánh để chỉ về Thuỷ tổ của mình, khi ông hỏi về quê quán, nguồn gốc của Thuỷ tổ Nguyễn Uyên Hậu, Nam thiên cư sĩ có nghĩa là bậc cư sĩ của trời Nam. Trong dòng họ Nguyễn Huy Tràng Lưu, lưu truyền câu chuyện về việc tìm lai lịch vị tổ của Nguyễn Huy Oánh, khi đi sứ sang Bắc Kinh năm 1766, Nguyễn Huy Oánh có ý tìm hiểu về lai lịch quê hương Trần Lưu của Nguyễn Uyên Hậu, ông đã gặp và hỏi vị Tể tướng của Thanh triều, khi cụ Oánh có ý hỏi về nguồn gốc, vị Tể tướng hỏi cụ sinh ở vùng nào của Việt Nam, trả lời vùng núi Hồng sông Lam, hỏi tiếp là cụ Oánh có biết núi Hồng cao bao nhiêu và sông Lam sâu thế nào không? Cụ Oánh trả lời là không rõ và nhờ chỉ giáo. Vị Tể tướng nhà Thanh mời cụ sang một phòng khác và chỉ rõ cho cụ Oánh biết núi Hồng và sông Lam cao sâu thế nào. Sau đó vị Tể tướng nói với cụ Oánh là vị Thủy tổ của cụ Oánh gốc ở phương Nam và tặng cho mấy chữ Nam thiên cư sĩ nói về cụ Uyên Hậu. Vị Tể tướng Thanh triều còn giải thích thế đất của làng Trường Lưu chỉ có thể đỗ cao nhất là Đình nguyên Thám hoa. Cụ Uyên Hậu giữ chức Ngũ kinh Bác sĩ, dạy năm kinh ở Quốc Tử Giám, về sau, vào tiết Đông chí, Cụ trở về quê hương bản quán, dặn con cháu lấy ngày Đông chí làm ngày giỗ, vì vậy nhà thờ Cụ gọi là Nhà thờ Đông chí, đã được xếp hạng di tích tỉnh Hà Tĩnh năm 2009. Con cháu đời sau chỉ xây một ngôi mộ tượng trưng cho Cụ ở trong lăng mộ tổ họ Nguyễn Huy Tràng Lưu ở Rú Đền, trong lăng này có mộ của các Cụ thuộc đời thứ 2, 3, 4, 5 họ Nguyễn Huy Tràng Lưu. Còn Cụ bà khi về già lại về làng Gia Hanh và phần mộ nay ở Núi Cụp Chùa thuộc địa phận làng Gia Hanh.

Cụ Uyên Hậu và Cụ Tâm Hoằng, một vị Ngũ kinh Bác sĩ, một vị Tiến sĩ đã kết thông gia với nhau để nay con cháu thành dòng họ Nguyễn Huy Tràng Lưu, đã đặt nền móng để con cháu cùng các dòng họ khác xây dựng nên làng Trường Lưu như ngày nay, thành một làng văn hóa du lịch. Cụ Uyên Hậu vì mến mộ cụ Nguyễn Tâm Hoằng nên về đây lập nghiệp, cho con ở rể nhưng ở gần (cụ Nguyễn Tâm Hoằng chỉ có con gái – 10 người, không có con trai, sau này bà vợ cụ Nguyễn Hàm Hằng là con gái trưởng nên có về thờ cúng, chứ không ở ngay Vĩnh Gia). Những cư dân gốc thời đó, nay theo các dòng họ thì không còn hậu duệ ở Trường Lộc.

Gia phả, lời truyền của họ Nguyễn Vĩnh Gia : Cụ Tâm Hoằng có 10 người con gái, không có con trai. Người con gái  đầu là vợ cụ Nguyễn Hàm Hằng ( Tổ đời thứ 2 họ Nguyễn Huy Tràng Lưu), sau bà đã về chăm sóc và cư tang bố mình ở Vĩnh Gia. Bản thân cụ Tâm Hoằng cũng từ miền Đức Thọ vào ở làng Vĩnh Gia. Như vậy, khả năng lớn là, cụ Uyên Hậu đã chọn làng Trường Lưu là nơi có khả năng phát triển, cho con mình ở lại Trường Lưu vừa có thể chăm sóc, vừa có thể dựa vào thế lực của bố vợ cho việc sau này. Và lại vừa ở rể mà không mang tiếng là ở rể, ở gần nhưng ở làng khác. Hơn nữa, để nhập làng đã phát triển khó hơn nhiều, như tổ họ Dương ở Yên Huy, muốn vào được làng này phải tới làm con nuôi họ Đặng.

Một điều lưu ý nữa là, cho đến hiện nay chưa tìm được dấu tích của cư dân các làng như làng Vạc, làng Tràng, làng Trại, Kẻ Đò, Kẻ Bỉn…nhưng vị trí và tên gọi của các làng này đến nay vẫn còn,  trước thời cụ Uyên Hậu. Không có dấu tích mồ mả, hoặc khi khai ruộng, hoặc khi đào hầm hào thời chiến tranh về các dòng họ có từ trước thời cụ Uyên Hậu về đây. Còn mồ mả của dòng họ Nguyễn Huy Tràng Lưu, từ đời thứ 2 đến nay khá rõ ràng. Chưa tìm được chứng cứ gì ở các bộ gia phả của các dòng họ ở Trường Lưu hiện nay về thời gian trước thế kỷ XV. Không có trong gia phả của các họ, cũng như truyền ngôn về nguồn gốc của các họ về cư dân trước thế kỷ XV.

Ngay đến thời Nguyễn Huy Oánh, giữa thế kỷ thứ XVII, khi đúc chuông cho chùa Hân, cụ cũng chỉ nói là chùa Hân có từ lâu, khi viết về giếng Thạc cụ cũng chỉ nói là giếng Thạc ở Trường Lưu có từ lâu trong một cuộc Nam chinh của thời trước, mà không chỉ rõ cuộc Nam chinh ấy vào quãng thời nào. Để tìm hiểu về lịch sử của làng Trường Lưu nói riêng và của các làng vùng này nói chung, thật khó khăn, chúng tôi thử tìm hiểu qua gia phả của các dòng họ. Trong hơn 19 dòng họ ngoài họ Nguyễn Huy, tất cả đều về sau Nguyễn Uyên Hậu, sớm nhất như họ Nguyễn Xuân, họ Trần Huy, cũng đến 3-4 đời.

Năm 1995, khi con cháu họ Nguyễn Huy xây mộ cụ tổ bà Trần Thị Ý ở Rú Cụp Chùa làng Gia Hanh và đưa các mộ các vị tổ đời thứ 2, 3, 4, 5 về xây khu mộ tổ ở Rú Đền đều còn hài cốt. Điều này phù hợp với cứ liệu trong gia phả là các vị tổ đời thứ 2, 3, 4, 5 lúc về già đều về ở Trường Lưu.

Trong văn tế của Hội Văn xã Lai Thạch và văn tế của Hội Văn Trường Lưu đều ghi rõ hai vị tổ đời thứ hai và thứ ba đều là Giám sinh thời Hồng Đức vua Lê Thánh Tông, tức quãng năm 1470-1498.

 Theo Phan Huy Chú, trong Lịch triều hiến chương loại chí trang 537, 560 năm 1466, đặt chức Ngũ kinh bác sĩ để dạy 5 kinh ở Quốc Tử Giám, chức này thời Lê Trung hưng bỏ.

 Về khoa thi đỗ, thời gian đỗ của Nguyễn Uyên Hậu, có nhiều ý kiến khác nhau. Thái Kim Đỉnh cho rằng ông đỗ khoa Minh Kinh Bác sĩ (1429) thời vua Lê Thái Tổ .

Cũng trong bản Văn bia về Nguyễn Huy Oánh và dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu (trang 80-116), PGS TS Đinh Khắc Thuân dịch công bố văn bia – Nguyễn Thám hoa gia phổ ký – có ghi “Thế tổ đời thứ tám của ta lấy văn học khởi nghiệp, gia phả từ đây rõ ràng. Ông tự Uyên Hậu thi Hương đỗ Sĩ vọng, rồi Ngũ kinh bác sĩ”. Theo chúng tôi có thể văn bia nhầm vì khoa Sĩ vọng chỉ có từ năm 1628 (cũng như theo Đinh Khắc Thuân, từ năm 1627 trang 85)” Thần Tông năm Vĩnh Thọ thứ 1 (1628), đặt khoa Sĩ vọng, lấy đỗ 22 người, bổ làm các chức trong ngoài”.

Chú thích: Sĩ vọng: Khoa thi chọn lấy những người có danh vọng trong sĩ phu), thời gian này thì họ Nguyễn Huy Trường Lưu đã đến đời thứ 6, như Nguyễn Công Ban sinh năm 1630, thuộc đời thứ 6. Trong bản văn bia trên còn nhầm là thiếu hẳn một đời, thiếu tổ đời thứ 3 là Nguyễn Thừa Nghiệp. Việc nhầm này trong Phượng Dương Nguyễn Tông thế phả đã làm rõ, vì ở Văn bia thời gian soạn là năm 1756, bản gia phả được soạn vào năm 1787.

Nhà thờ Đông chí là nơi thờ Nguyễn Uyên Hậu, người đặt tên làng là làng Trường Lưu, giữ chức Ngũ kinh Bác sĩ thời Hồng Đức vua Lê Thánh Tông. Là người cùng cư dân bản địa dời lên gò Phượng lĩnh, và phát triển cho đến ngày nay. Rất tiếc là chưa có được tư liệu về cụ và tác phẩm của cụ, nhưng công lao của cụ trong việc hình thành và phát triển làng Trường Lưu luôn được mọi người ghi nhớ và các nhà nghiên cứu về văn hóa ghi nhận. Nhà thờ nằm trên diện tích chừng… m2 theo bản đồ địa giới xã là thửa đất số… gồm cả vườn tộc trưởng họ Nguyễn Huy Tràng Lưu - vườn nhà ông Liên Mặc.

Cụ Nguyễn Uyên Hậu ra đi vào tiết Đông chí, con cháu chưa rõ phần mộ và quê hương của Cụ, năm 1993 khi xây lăng cho khu mộ tổ ở dòng họ Nguyễn Huy ở Rú Đền, từ thế hệ thứ 2 đến thế hệ thứ  5: Nguyễn Hàm Hằng-Nguyễn Thừa Nghiệp-Nguyễn Thừa Tổ- Nguyễn Thừa Hưu, con cháu đã xây một ngôi tượng trưng cho phần mộ của Cụ và Cụ Bà Trần Thị Ý.      

Từ đường nhà thờ cụ tổ Nguyễn Uyên Hậu vừa được xây dựng năm 2018.

2 . Nguyễn Hàm Hằng.

Con cháu ông Uyên Hậu, từ đời thứ hai đến đời thứ chín đều có nhiều người học hành đỗ đạt. Nguyễn Hàm Hằng, con trai ông, 15 tuổi đã đỗ Hương cống, 16 tuổi thi Hội vào tam trường làm giáo quan ở Quốc tử giám.

3. Nguyễn Thừa Nghiệp.

Con thứ Nguyễn Hàm Hằng là Nguyễn Thừa Nghiệp cũng đỗ Hương cống, và tam trường hội thí.

Thế hệ thứ 2 và 3 họ Nguyễn tại Tràng Lưu, Nguyễn Hàm Hằng cùng hai con là Nguyễn Thừa Cẩn và Nguyễn Thừa Nghiệp đều là Giám sinh đời vua Lê Thánh Tông.

Chưa có tư liệu nào nói về 3 thế hệ đầu tiên của họ Nguyễn Huy Trường Lưu, nhưng Nguyễn Uyên Hậu thì không trở về Trường Lưu, còn Nguyễn Hàm Hằng và Nguyễn Thừa Nghiệp cũng như anh Nguyễn Thừa Nghiệp là Nguyễn Thừa Cẩn đều mất ở quê, bằng cứ là mộ các cụ và các cụ bà còn đến ngày nay. Con cháu truyền nhau là lúc già các cụ về quê dạy học, vậy người theo học có lẽ là cư dân của các làng Tràng, làng Trại, làng Vạc, Kẻ Đò, Kẻ Bỉn chăng ? Và thêm vào đó là cuối đời thứ 3 họ Nguyễn Huy Trường Lưu có thuỷ tổ họ Nguyễn Xuân và họ Trần Huy cũng vào đây lập nghiệp, có thể họ tìm về vùng có những người dạy học như các vị tổ ba đời đầu của họ Nguyễn Huy. Gia phả cả hai họ đều không ghi rõ các cụ ở đâu về, nhưng không phải người ở đây vì đều ghi là Thuỷ tổ.

 Như vậy khoảng 100 năm đầu từ 1450 đến 1550 là quãng thời gian Thuỷ tổ họ Nguyễn Huy về lập nghiệp, dựng làng cùng với cư dân gốc, và 2, 3 đời kế tiếp. Các cụ không vào Yên Huy, cũng không vào Gia Hanh và cũng không ở Vĩnh Gia. Mặc dù, có thể cụ Uyên Hậu vì mến mộ cụ Nguyễn Tâm Hoằng nên về đây lập nghiệp, cho con ở rể nhưng ở gần (cụ Nguyễn Tâm Hoằng chỉ có con gái – 10 người, không có con trai, sau này bà vợ cụ Nguyễn Hàm Hằng là con gái trưởng nên có về thờ cúng, chứ không ở ngay Vĩnh Gia). Những cư dân gốc thời đó, nay theo các dòng họ thì không còn hậu duệ ở Trường Lộc.

Nguyễn Uyên Hậu là ông tổ của họ Nguyễn Tràng Lưu, ông có tên thụy là Dụ Khánh, giữ chức Minh kinh bác sĩ ở Quốc tử giám thời Lê Thánh Tông. Về sau ông về lại Trung Quốc, dặn con cháu lấy ngày Đông Chí làm ngày giỗ.

Nguyễn Hàm Hàng là con của Nguyễn Uyên Hậu. Năm 15 tuổi đỗ Hương cống, thi hội đạt tam trường, ông làm quan ở Quốc tử giám.

Nguyễn Thừa Mỹ là con thứ của Nguyễn Hàm Hằng, đỗ Hương cống.

Đời thứ 4 và thứ 5 không thấy ghi chép ai đỗ đạt. Đến đời thứ 6 tính từ Nguyễn Uyên Hậu có Nguyễn Đôn Hậu đỗ Hương cống, làm chức Tham tướng thần sự. Người em của Nguyễn Đôn Hậu là Nguyễn Như Thạch (1579 – 1662) đỗ Hương giải năm 1602, làm đến Lang trung bộ Hình.

Đời thứ 7 có Nguyễn Công Ban  sinh năm 1630, đỗ Hương cống, sau đỗ khoa sĩ vọng năm 1665, làm đến Giám sát ngự sử, tước Thái Sơn Nam.Đời thứ 8 có Nguyễn Công Chất đỗ Hương giải năm 1675, làm tri huyện Thạch Hà.

Nhà thờ Nguyễn Công Ban thường gọi là nhà thờ Đại tông họ Nguyễn Huy, ở trung tâm xã Trường Lộc hiện nay, giữa trụ sở Ủy ban nhân dân xã và đình làng, nơi đó trước đây thuộc núi Bình Cương, chưa rõ dựng từ lúc nào, trong Di tích danh thắng Hà Tĩnh và Địa chí huyện Can Lộc có ghi tên nhà thờ Nguyễn Công Ban. Do Đền Thư viện thờ Nguyễn Huy Oánh không còn, chính quyền địa phương cùng con cháu trong dòng họ đã đề nghị và được các cơ quan chức năng chấp nhận, lấy nhà thờ Nguyễn Công Ban để xếp hạng di tích gắn với chắt của ông là Danh nhân văn hóa Nguyễn Huy Oánh, năm 2006.

Là một tác giả của dòng văn Nguyễn Huy Trường Lưu, Nguyễn Công Ban có nhiều đóng góp cho sự phát triển của làng Trường Lưu, Ủy ban nhân dân xã Trường Lộc đang có kế hoạch đề nghị các cấp chính quyền lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh cho phần mộ của ông ở Rú Mác- Mạc Sơn.

Mộ Nguyễn Công Ban được xây lăng quãng những năm nửa đầu thế kỷ XIX, và đến cuối thế kỷ được tu bổ và xây lăng mộ của vợ ông là bà Dương Thị Xa, con gái của Bạt quận công Dương Trí Trạch. Tại Rú Mác trước đây còn có ngôi mộ của bà mẹ kế người Nhật của Nguyễn Công Ban, năm 1995 lúc chuyển mộ không còn gì.

Mộ tổ cụ Nguyễn Công Ban đã được xây dựng lại trên khuôn viên tuyệt đẹp 1.000m2 và khang trang hơn rất nhiều.

Đời thứ 9 có hai anh em là Nguyễn Công Xuân (1688 - ?) đỗ Hương cống, làm Đồng nhạc đường mậu lâm lang và Nguyễn Huy Tựu (1690 – 1750) đỗ Hương giải, làm Tham chính Thái Nguyên, Tả thị lang, được truy phong Thượng thư bộ Công, tước Khiết Nhã hầu.

Từ Nguyễn Huy Tựu ở đời thứ 9 thì dòng họ Nguyễn đổi thành Nguyễn Huy, mở ra một thời kì mới của dòng họ Nguyễn Tràng Lưu.

Nhà thờ Nguyễn Huy Tựu, do Nguyễn Huy Oánh xây dựng từ năm 1752 để thờ cha là Nguyễn Huy Tựu, sau đó con cháu thờ cúng và làm giỗ theo ngành trưởng từ mẹ Nguyễn Huy Tựu là bà Nguyễn Thị Bẩm (1669-1743) - Nguyễn Huy Tựu - Nguyễn Huy Oánh - Nguyễn Huy Tự - Nguyễn Huy Tượng… nhà thờ thường được gọi là nhà thờ cụ Thượng (Nguyễn Huy Tựu được phong tặng là Thượng thư bộ Công năm 1767) hay nhà thờ họ Lục chi (từ 6 con trai của Nguyễn Huy Tựu nay chia thành 6 chi họ - Lục chi, vào các dịp tế Xuân, tế Thu, 6 vị tổ của 6 chi đều được tế ở đây).

Từ Nguyễn Huy Tựu, tổ đời thứ chín, họ Nguyễn Công đổi thành Nguyễn Huy, và mở ra một thời kỳ mới của dòng họ Nguyễn Tràng Lưu. Ông có năm con trai và một con nuôi, đều thành đạt: Con trưởng Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) đỗ đầu thi hương, rồi đỗ Thám hoa lúc 38 tuổi, làm quan qua các chức Tri phủ, Hàn lâm viện thị chế, đến Quốc tử giám tư nghiệp, Hàn lâm viện thừa chỉ, đi sứ nhà Thanh về thăng Thị lang, Ngự sử đài đô ngự sử rồi Thượng thư bộ Công, trí sĩ; Nguyễn Huy Cự (1707-1775) đỗ Hương giải, tước Ngật đình bá; Nguyễn Huy Kiên, Hương giải, Thiêm sự bộ Lại; Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785), đỗ Tiến sĩ, làm Đốc thị đạo Quảng Thuận, Hàn Lâm viện thị giảng; Nguyễn Huy Khản, Hương cống; Con nuôi là Nguyễn Huy Đại, làm Phó sứ đồn điền, tặng tước Hầu.

Nguyễn Huy Oánh (1713 – 1789) .

Là con trưởng của Nguyễn Huy Tựu, tự là Thư Hiền, hiệu Thạc Đình, biệt hiệu là Thiên Nam cư sĩ. Ông đỗ đầu thi hương, đỗ Đình nguyên Thám hoa năm 1748. Về sau ông làm các chúc Tri phủ, Hàn lâm viện thị chế, Quốc tử giám tư nghiệp, Hàn lâm viện thừa chỉ. Ông đi sứ Trung Quốc năm 1765. Về được thăng Thị lang, Ngự sử đài đô ngự sử, thượng thư bộ Công. Năm 1777, ông cáo quan về quê.

Nguyễn Huy Cự (1707 – 1775), là con của Nguyễn Huy Tựu, đỗ Hương giải, được phong tước Ngật Đình bá.

Nguyễn Huy Kiên, là con của Nguyễn Huy Tựu, đỗ Hương giải, làm Thiêm sự bộ Lại.

Nguyễn Huy Quýnh (1734 – 1785), sau đổi là Trực, là con của Nguyễn Huy Tựu, đỗ Hương giải, năm 1772 đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan đến chức Hàn lâm thị chế. Khi quân chúa Trịnh tiến đánh Thuận Hóa, ông được cử làm Đốc thị đạo Thuận Quảng, sau đó mất trong quân ngũ.

Nguyễn Huy Khản, là con của Nguyễn Huy Tựu, đỗ Hương cống.

Nguyễn Huy Tự (1743 – 1790) tự là Hữu Tri, hiệu Uẩn Trai. Ông là con của Nguyễn Huy Oánh. Năm 1759, đỗ Hương giải, sau đó được ban Tiến triều ứng vụ, xem ngang Tiến sĩ. Ông làm Tri phủ Quốc Oai. Năm 1770 được thăng Hiến sát phó sứ Sơn Nam. Năm 1774 chuyển sang võ chức, lần lượt giữa các chức Hiến sát sứ Sơn Tây, Đốc đồng Sơn Tây. Ông được ân thăng Hàn lâm viện hiệu lý và ban tặng 4 chữ “Võ khố hùng lược”. Nguyễn Huy Tự là con rể của Nguyễn Khản[4]. Nhân loạn kiêu binh năm 1785, ông xin về trí sĩ tại quê nhà. Năm 1789, theo sự tiến cử của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Tự đã vào Phú Xuân nhận chức Hữu thị lang bộ Binh của triều Tây Sơn Nguyễn Huệ, tuy nhiên được hơn một năm thì ông mất.

Nguyễn Huy Lạng là em của Nguyễn Huy Tự, ông đỗ hương cống.

Nguyễn Huy Tá cũng là em của Nguyễn Huy Tự, ông cũng đỗ Hương cống, làm Đốc học Bắc Ninh, Phó đốc học Quốc tử giám, tước Thư Đình hầu.

Nguyễn Huy Hào (1770 - ?) là con của Nguyễn Huy Quýnh, đỗ Hương cống, làm tri huyện Tiên Tữ tỉnh Bắc Ninh.

Nguyễn Huy Hội (1765 – 1838), có tên khác là Huy Phó, đỗ Hương giải năm 1783.

Nguyễn Huy Giáp là con của Nguyễn Huy Hào, đỗ cử nhân năm 1837.

Ngoài những vị khoa bảng nêu trên thì họ Nguyễn Tràng Lưu còn có thêm một nhân vật nổi tiếng khác. Đó chính là Nguyễn Huy Hổ (1783 – 1841), tên tục là Nhâm, tự là Cách Như, hiệu Liên Pha, ông là con thứ 3 của Nguyễn Huy Tự. Học giỏi nhưng ông không đi thi, ông sống ẩn dật tại quê nhà, đọc sách, làm thuốc, giỏi về y thuật, tinh thông thiên văn địa lí. Ông lấy cháu gái của vua Lê Cảnh Hưng nên tình cảm của ông đối với nhà Lê vô cùng sâu đậm. Năm 1823, vua Minh Mạng triệu ông vào kinh đô Phú Xuân làm thuốc. Ông đã chỉ ra vài điểm sai lầm của Khâm Thiên giám, về sau triều đình nghiệm thấy đúng, vua lấy làm kính phục ban cho chức Linh lang đài.

Khoảng thời gian từ 1550-1650, điểm chính của lịch sử ở giai đoạn này là cuộc chiến Lê-Mạc, tương ứng từ đời thứ 4-6 họ Nguyễn tại Tràng Lưu. Từ năm 1526 nhà Mạc thay nhà Lê, giai đoạn đầu thể hệ thứ 4 họ Nguyễn tại Tràng Lưu chỉ học ở quê, gia phả ghi về Nguyễn Thừa Tổ là “bản phủ hiệu sinh”, thế hệ thứ 5 họ Nguyễn Huy Trường Lưu, Nguyễn Thừa Hưu cũng chỉ là học trò ở trường phủ - bản phủ hiệu sinh và em là Nguyễn Thừa Sủng cũng “bản phủ hiệu sinh” nhưng cụ Thừa Hưu đã tham gia cuộc chiếc Mạc – Lê Trịnh, với chức Tham tướng thần sự. Đời thứ 6, con trưởng của Nguyễn Thừa Hưu là Nguyễn Đôn Hậu kế tiếp cha làm Tham tướng thần sự, từ người con thứ 3 là Nguyễn Như Thạch sinh năm 1579, đã ở Kinh thành làm quan với chức Lang trung bộ Hình được phong tước là Mỹ lương tử. Tương ứng với ba đời này là quãng thời gian 1530-1650, thời cuộc chiến Lê - Mạc, qua 3 thế hệ họ Nguyễn Huy Trường Lưu, giai đoạn đầu, thế hệ thứ 4, ở quê, thế hệ thứ 5, 6 tham dự chiến tranh và thế hệ thứ 6 thì nhà Lê đã khôi phục kinh thành, chấn chỉnh thi cử. Nguyễn Như Thạch là thông gia với Dương Trí Trạch, mà Dương Trí Trạch nhờ có công trong chiến trận được triều đình cho lấy con gái thứ 5 của Tể tướng Nguyễn Văn Giai.

100 năm tiếp, quãng 1650-1750 là giai đoạn đặt nền tảng cho làng Trường Lưu, phát triển và đi xây dựng tiếp ở các nơi khác, tương ứng với đời thứ 7-9 họ Nguyễn tại Tràng Lưu. Ở giai đoạn này cuộc chiến Lê-Mạc đã vào giai đoạn kết thúc và cuộc chiến Trịnh-Nguyễn còn tiếp tục, lúc căng thẳng, lúc âm ỉ. Họ Nguyễn Huy có Nguyễn Như Thạch làm quan ở triều, lúc già về quê dạy học mất năm 1662, có 3 con đều trưởng thành: Nguyễn Công Ban (1630-1711), thế hệ thứ 7 họ Nguyễn Huy Trường Lưu đỗ Hoành từ, đỗ Sĩ vọng, Tam trường thi Hội, làm quan tại triều với chức Giám sát Ngự sử.

Nguyễn Công Ban sinh năm 1630, thuộc đời thứ 6.

Nhà thờ Nguyễn Công Ban thường gọi là nhà thờ Đại tông họ Nguyễn Huy, ở trung tâm xã Trường Lộc hiện nay, giữa trụ sở Ủy ban nhân dân xã và đình làng, nơi đó trước đây thuộc núi Bình Cương, chưa rõ dựng từ lúc nào, trong Di tích danh thắng Hà Tĩnh và Địa chí huyện Can Lộc có ghi tên nhà thờ Nguyễn Công Ban. Do Đền Thư viện thờ Nguyễn Huy Oánh không còn, chính quyền địa phương cùng con cháu trong dòng họ đã đề nghị và được các cơ quan chức năng chấp nhận, lấy nhà thờ Nguyễn Công Ban để xếp hạng di tích gắn với chắt của ông là Danh nhân văn hóa Nguyễn Huy Oánh, năm 2006.

Là một tác giả của dòng văn Nguyễn Huy Trường Lưu, Nguyễn Công Ban có nhiều đóng góp cho sự phát triển của làng Trường Lưu, Ủy ban nhân dân xã Trường Lộc đang có kế hoạch đề nghị các cấp chính quyền lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh cho phần mộ của ông ở Rú Mác- Mạc Sơn.

Mộ Nguyễn Công Ban được xây lăng quãng những năm nửa đầu thế kỷ XIX, và đến cuối thế kỷ được tu bổ và xây lăng mộ của vợ ông là bà Dương Thị Xa, con gái của Bạt quận công Dương Trí Trạch. Tại Rú Mác trước đây còn có ngôi mộ của bà mẹ kế người Nhật của Nguyễn Công Ban, năm 1995 lúc chuyển mộ không còn gì.

 Ông có 3 con thuộc thế hệ thứ 8 họ Nguyễn Huy Trường Lưu, con cả là Nguyễn Công Phác, theo học ở ngoài Bắc, lấy vợ ở ngoài này, tiếp thu tinh hoa của văn hoá Kinh bắc. Con thứ hai là Nguyễn Công Chất, đỗ Giải nguyên năm 1675, con thứ 3 là Nguyễn Công Trân làm Tri châu Bố chánh.

Thế hệ thứ 9 họ Nguyễn Huy Trường Lưu, ở thế hệ này có Nguyễn Huy Tựu (1690-1750) là người đầu tiên có tên đệm là Huy, làm quan đến Tham chính. Ở các chi nhánh khác của họ Nguyễn Huy, cũng phát triển, bà Nguyễn Thị Huyên thế hệ thứ 8 ở làng Phúc Lộc, là mẹ của Thám hoa Phan Kính. Anh trai bà là Giám sinh Quốc Tử Giám Nguyễn Công Lâm là người có ảnh hưởng lớn đến sự trưởng thành, thành đạt của Phan Kính. Nguyễn Công Chất như đã nói ở trên, đã chuyển về làng Cảnh xã Phú Lộc, góp phần xây dựng vùng này. Ở chi họ làng Nguyễn Xá, anh em chú bác tại triều rất có thế lực. Trong dòng họ Nguyễn của Tiến sĩ Nguyễn Bật Lượng, có Nguyễn Bật Kỷ là tộc trưởng, thuộc đời thứ 7 cùng thời gian này đã lên làng Nguyễn Xá làm con nuôi của Thắng lộc hầu Nguyễn Khắc Khoan, thuộc họ Nguyễn Huy Trường Lưu chi họ ở làng Nguyễn Xá, mà theo “Gia phả họ Nguyễn ở làng Mật” là có “thế lực trong cung thất nhà vua”, ông (chỉ Nguyễn Bật Kỷ) “bèn tình nguyện làm con nuôi”. Sau nữa, bà Nguyễn Thị Chiêm, thuộc đời thứ 8 họ Nguyễn Huy Trường Lưu (ở Nguyễn Xá) là mẹ của Tiến sĩ Nguyễn Hành ( 1701-?). Nguyễn Nghiễm đã soạn bia ca ngợi bà Chiêm có công lớn đối với dòng họ Nguyễn ở làng Mật.

Những năm cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, Trường Lưu đã khá phát triển, nhiều người thi đỗ Hương cống, làm quan ở triều. Họ Nguyễn Xuân có Nguyễn Xuân Mậu (1685-1736) đỗ khoa năm 1708 làm Tri huyện, sau khi mất được tặng Thiếu Khanh. Họ Trần Huy có Trần Huy Báu, đỗ năm 1729 làm Tri huyện Hội Ninh. Trước nữa, trong vùng có họ Hoàng, có người làm Tri huyện, từng là thầy học của Nguyễn Công Ban, chưa tìm được lai lịch của vị Tri huyện này. Hai vị này cùng một số người họ NHTL đều tham gia Hội Văn huyện La Giang (Văn Bia Hà Tĩnh).

Hiện nay trong bia viết về Khoa bảng là Trường Lưu chỉ bắt đầu từ Nguyễn Huy Oánh trở về sau.


Nguyễn Huy Oánh (chữ Hán: 阮輝𠐓, 1713 - 1789), tự: Kinh Hoa, hiệu:Lưu Trai; là đại thần và là nhà văn thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Huy Oánh.

Thám hoa Nguyễn Huy Oánh.

 Sinh trưởng trong một gia đình Nho học tại làng Trường Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Trường Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh).

Ông sinh ngày 4 tháng 11 năm 1713.

Năm Nhâm Tý (1732), Nguyễn Huy Oánh đỗ đầu khoa thi Hương tại Trường thi Nghệ An lúc 20 tuổi, được bổ quan, thăng dần đến chúc Tri phủ Trường Khánh.

Nguyễn Huy Oánh mất ngày 2 tháng 6 năm 1789 tức ngày 9 tháng 5 năm Kỷ Dậu, thụy là Văn Túc. Triều đình và nhân dân địa phương lập đền thờ ông, tục gọi là đền thờ cụ Thám.

Cha ông là Nguyễn Huy Tựu (1690 - 1750), từng làm Tham chính Thái Nguyên, sau phong hàm Công bộ Thượng thư, tước Khiết Nhạ hầu.

Thân mẫu ông người họ Phan, tên chữ Cẩm Trực là cô ruột Thám hoa Phan Kính, người cùng xã.

Em trai ông là Nguyễn Huy Quýnh (1734 - 1785) đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thìn (1772) và làm quan đến Đốc thị Thuận Quảng, Hàn lâm viện thị giảng.

Con ông là Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790), đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương năm 1759; đến năm 1779 được công nhận học vị tương đương với Tiến sĩ, chuyển sang ban võ nhưng vẫn sáng tác văn thơ. Nguyễn Huy Tự là tác giả truyện thơ Nôm Hoa tiên đặc sắc.

Con Thứ Phan Huy Cẩn là danh thần, nhà sử học thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Cháu ông là Nguyễn Huy Hổ, tác giả truyện thơ Mai đình mộng ký.

Nhà thờ Đại tôn họ Nguyễn Huy gắn với Danh nhân văn hoá Việt Nam Nguyễn Huy Oánh.

 Nguyễn Huy Oánh được triều Lê Trịnh phong tước Đại Vương và triều Nguyễn suy tôn là “Phúc Giang Thư viện Uyên bác Cai hạp Hiệu dụng Đoan túc Doãn ý Trác vĩ Thượng đẳng tôn thần” được thờ ở Đền Thư viện, ở phía Đông Nam vườn Bao Đạc. Đền nay không còn nhà chính, dấu tích chỉ còn một ít cốt tường gạch bao quanh, khoảng những năm 50-60 thế kỷ trước vẫn còn hai cột nanh cao ở trước cổng, ao rộng gần 300 m2. Ngày lễ Kỳ phúc, trước đây dân làng rước linh vị Nguyễn Huy Oánh từ Đền Thư viện về Đình làng để làm lễ. Chưa rõ, lễ tế ở Đền Thư viện tiến hành như thế nào, ngày nào, nay đã tìm được văn tế thần Đền Thư viện, cùng một số vị được tế chung.

Ở Trường Lộc, chính quyền các cấp và con cháu dòng họ đề nghị và được Bộ Văn hoá Thông tin ra quyết định số… ngày…. tháng… năm 2006 công nhận nhà thờ Đại tông họ Nguyễn Huy, thừa đất số… theo địa giới xã có diện tích… m2 là DSVHQG gắn với DNVH Nguyễn Huy Oánh. Đây chính là nhà thờ Nguyễn Công Ban (1630-1711) là tằng tổ của Nguyễn Huy Oánh. Tại nhà thờ này con cháu thờ cúng cụ Nguyễn Công Ban, bà vợ là Dương Thị Xa và theo ngành trưởng sau đó là Nguyễn Công Phác - Nguyễn Công Xuân - Nguyễn Huy Đề…

  Trong nhà thờ chia làm ba dòng, chính giữa là bài vị cụ Nguyễn Công Ban, bên phải là dòng trưởng, bên trái là bàn thờ Đức Bà và đệ tử. Đức Bà là Nguyễn Thị Hộ được tôn vinh là: Trai tịnh Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn thần, là con gái của Nguyễn Công Ban. Nhà thờ cấu trúc theo hình chữ Nhị bao gồm thượng điện và bái đường, phía trước có 2 cột nanh và câu đối. Năm 2008 con cháu đã sửa sang lại hạ điện, lát nền chống ẩm.

          Trong vườn có cây hải đường, tương truyền cho dòng họ Lê ở xã Trung Lễ trồng tặng, đã hơn một trăm năm. Tiếc thay cây hải đường đã bị hỏng năm 2011. Nhiều câu đối, hoành phi, bảng sơn son thiếp vàng sẽ được giới thiệu ở phần sau.

          Nhà thờ đã được cấp 100 tr. đồng tu sửa năm 2011 và con cháu đóng góp hơn 150 tr. đồng.

          Lúc Nguyễn Huy Oánh mất, con cháu táng ở gò Rú Phượng và giữ nguyên vị trí cho đến bây giờ, năm 1993 con cháu đã xây lăng và gọi là Thám hoa lăng.(Ths. Nguyễn Trí Sơn, Trưởng phòng quản lý di sản- SVHTT và DL Hà Tĩnh).

Năm 2018, con cháu dòng họ Nguyễn Huy đóng góp tiền để tu sửa, tôn tạo lại những hạng mục đã xuống cấp của nhà thờ Nguyễn Huy Oánh.

Một sắc phong được lưu giữ tại nhà thờ Nguyễn Huy Oánh.

Bia đá hình con rùa được lưu giữ tại nhà thờ Nguyễn Huy Oánh

Xin theo dõi tiếp BÀI 20. Thân ái,dienbatn.
Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 18.

9/14/2021 |

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 18. 


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

I.   ĐỊA CHÍ CAN LỘC HÀ TĨNH.

Bản đồ Huyện Can Lộc – Hà Tĩnh.

Can Lộc xưa kia có tên gọi là Thiên Lộc thuộc phủ Đức Quang được xem là vùng đất "địa linh nhân kiệt" của xứ Nghệ An. Trong thời kỳ phong kiến có khoảng 40 vị đỗ đại khoa (tiến sĩ) và rất nhiều danh nhân văn hóa như: Thám hoa Đặng Bá Tĩnh (đời nhà Trần); danh tướng Đặng Tất và Đặng Dung (thời Hậu Trần); Quốc tử giám Tế tửu Phan Viên (1421-?); Thượng thư kiêm Sử quán Tổng tài Đặng Minh Khiêm, Đặng Chiêm, Tiến sĩ Nguyễn Hành,Trấn quốc Thượng tướng quân Tuy thọ Hầu Trần Phúc Tuy; Quan tổng trị thống lĩnh đạo Nghệ An Trần Đình Tương; Đội trưởng quản Phủ Trịnh Trần Tất Thục; La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Đô đốc Phan Văn Lân, Đại Tư mã Ngô Văn Sở (danh tướng nhà Tây Sơn), danh tướng Ngô Phúc Vạn, nhà văn hóa Hà Tông Mục, Thượng thư Hà Tông Trình; Đình nguyên, Hoàng giáp Vũ Diễm; Tể tướng Dương Trí Trạch; Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Huy Oánh; nhà thơ Nguyễn Huy Tự; nhà thơ Nguyễn Huy Hổ; Đình nguyên Lưỡng quốc Thám hoa Phan Kính; chí sĩ Ngô Đức Kế; nhà yêu nước Võ Liêm Sơn; chí sĩ Nguyễn Trạch, nhà cách mạng Đặng Văn Cáp, chỉ huy trưởng của lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định Nguyễn Đức Hùng...

Những người nổi tiếng ngày nay có: nhà thơ Xuân Diệu, nữ anh hùng La Thị Tám, Giáo sư vật lý hạt nhân Nguyễn Đình Tứ, Giáo sư toán học Phan Đình Diệu, Giáo sư, TS, NGND Trần Văn Huỳnh (nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Mỏ- Địa chất); Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thụ (nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội); Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Huy Mỹ; Trung tướng, phó giáo sư Trần Văn Độ (phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao), Thiếu tướng, Giáo sư Lê Năm (Giám đốc Viện bỏng quốc gia Lê Hữu Trác); Giáo sư TSKH Nguyễn Tử Cường; phó Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng Nguyễn Trường Cửu; TSKH Phan Xuân Dũng-Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội; Tiến sĩ Trần Hồng Hà- Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Doanh nhân Phạm Nhật Vượng, Giáo sư TSKH toán học Nguyễn Tử Cường...và nhiều chính khách, nhà khoa học, doanh nhân khác.

Tám cảnh đẹp ở Trường Lưu.

  Năm 1985-1986, trong quá trình tìm hiểu về làng Trường Lưu, vấn đề đầu tiên là chúng tôi tìm hiểu về tám cảnh đẹp ở Trường Lưu. Nhiều bậc cao niên ở Trường Lưu lúc đó như Nguyễn Huy Lạp, Nguyễn Huy Bút … mỗi người một ý, chưa rõ tám cảnh đó là gì? Trên cơ sở các ý kiến của các chú, các bác và các bậc cao niên trong làng, chúng tôi lược lại và viết bài về làng Trường Lưu và ra Hà Nội hỏi ý kiến một số người có học như ông Trần Văn Thuỵ ở nhà 12 phố Vũ Lợi, ông là người có cả Hán học và quốc ngữ (những năm 80 thế kỷ trước ông thường viết sao lại tư liệu cho Thư viện thông tin xã hội ở 27 Lý Thường Kiệt – ông là bác họ tôi – cha ông là anh, bà nội tôi là em, thời trước ông làm tham tá cho chính quyền Pháp, sau này làm việc ở Tổng cục đường sắt với hàm cục trưởng. Ông đã viết lại cho tôi rõ tám cảnh là cảnh gì? Ông còn nói cụ Thám (chỉ Nguyễn Huy Oánh) có làm mấy bài thơ đối nhau về tám cảnh ở Trường Lưu, ông chép lại và dịch ra thơ. Bài dịch của ông sau này được rất nhiều người sử dụng, năm 1997, lần đầu tiên Lại Văn Hùng công bố ở sách Nguyễn Huy Hổ với Mai Đình Mộng Ký, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1997, trang 19.

 Theo Trần Văn Thụy, tám cảnh đẹp đó là:

Quan thị triêu hà,

Phượng Sơn tịch chiếu

Hân tự hiểu chung,

Nghĩa thương vãn thác

Cổ miếu âm dung

Liên trì nguyệt sắc

Thạc tỉnh tuyền hương,

Nguyễn trang hoa mỹ.

Và ông dịch thơ là:

Ráng bọc chợ Quan khi tảng sáng,

Nắng viền Rú Phượng lúc hoàng hôn.

Chùa Hân buổi sớm hồi chuông gọi,

Kho Nghĩa chiều hôm tiếng mõ dồn.

Rậm rạp bóng cây che miếu cổ,

Lung linh ánh Nguyệt chiếu hồ sen.

Nghĩa trang hoa đẹp nhìn ưa mắt,

Giếng Thạc dòng thơm uống tỉnh hồn.

  Gần đây, trong quá trình biên soạn Nguyễn Huy Oánh toàn tập, tập 1, quyển 1: Thạc Đình di cảo, Lại Văn Hùng cùng nhóm biên soạn phiên âm, dịch nghĩa và dịch 8 bài thơ, trang 216 -223 (tài liệu đánh máy) của Nguyễn Huy Oánh về tám cảnh đẹp của làng Trường Lưu.

 Về tám cảnh đẹp ở Trường Lưu, Nguyễn Huy Cừ, thuộc thế hệ thứ 15 họ Nguyễn Huy Trường Lưu diễn tả khá đạt trong bài Trường Lưu giai sự vịnh, từ câu - , (bài đăng ở tạp chí Văn hoá Hà Tĩnh số, … tháng … trang…).

 Trong tập tư liệu do ông Nguyễn Huy An cung cấp cho anh Thái Kim Đỉnh, chúng tôi được anh Đỉnh cho xin lại cuối năm 2006 có mấy bài thơ, theo ông An là do Nguyễn Huy Oánh làm khi đi sứ nói về nỗi nhớ quê hương, trong ba bài thơ, một bài Tư Gia - Nhớ nhà do Thanh Minh dịch và 2 bài thơ nôm nhớ nhà, trong đó có nói đến nỗi nhớ cảnh đẹp ở Trường Lưu. Hai bài sau được in lại trong tập thơ câu lạc bộ Lam Kiều, tập VI, Tình Quê, tháng 4 năm 2006 trang 7, cũng trong tập thơ này, trang 4 -6 in lại 8 bài thơ Bát cảnh Trường Lưu, không rõ tác giả.

 Như vậy tám cảnh đẹp ở Trường Lưu là:

          1. Buổi sáng ở Chợ Quan. Hiện đã tìm được bài Quan thị bi ký, được dịch và in ở Văn Bia Hà Tĩnh, Sở văn hoá Thông tin Hà Tĩnh. Qua bài ký viết trên bia ở chợ Quan – Quan thị bi ký, năm  2007 trang 82-88, ta được biết chợ Quan được Nguyễn Huy Oánh lập năm 1752, niên hiệu Cảnh Hưng vua Lê Hiển Tông trên nền đất Cồn Lều của cơ ngơi nhà ông.

          Chợ Quan cũng có tên gọi là chợ Trường, hiện vẫn họp vào các ngày chẵn âm lịch: 4, 14, 24, 8, 18, 28 hàng tháng, nằm ở phía Nam làng, giáp với làng Yên Huy và làng Gia Hanh, trên triền sông Phúc Giang, kề bên cầu Quan. Buổi sáng, lúc mặt trời mới mọc, ánh nắng chiếu xuống vùng chợ Quan, do bị núi Cài chắn, tạo thành một vùng ráng khá đẹp. Ngày nay dòng sông bị bồi lấp mất nhiều, nên nhỏ lại, phía sườn núi cây cối thưa thớt, nên cảnh này chắc khác xưa nhiều.

          2. Buổi chiều ở Rú Phượng. Trái ngược với cảnh ở chợ Quan, buổi sáng đến muộn, buổi chiều ở núi Rú Phượng kéo dài hơn, do sườn núi Phượng có độ dốc thoai thoải về phía Tây, phía trước là đồng ruộng, ánh nắng buổi chiều chiếu lâu nhất ở sườn núi này. Ngày nay vùng này hầu như không còn cây cối, nên khó có thể so sánh với trước đây.

          3. Chùa Hân Thiên. Mảnh đất dựng chùa Hân Thiên, nay là Trường PTTH Trường Lộc, trước đây có cây xanh bốn mùa, có chùa, có đền và đình. Thời xưa, buổi sáng có tiếng chuông chùa Hân. Chùa Hân đã bị phá, nay còn một quả chuông cao khoảng một mét, đường kính 60 cm, đúc vào đầu thời Tự Đức, một văn vật khá quý và hiếm còn sót lại ở vùng Can Lộc. Chuông hiện để trong Đình Thượng, một nhà của đình làng thuộc khu vực này. Trước đây, năm 1756 Nguyễn Huy Oánh đã đúc một chuông cho chùa Hân Thiên, ở chùa Tuyết Sơn thuộc Sơn Nam và ông có viết bài bia kí về việc này, chuông này không còn.

          4. Ao Nghĩa Thương. Phía trước đình, trước đây có kho chứa thóc, gọi là kho Nghĩa Thương. Kho này do Nguyễn Huy Cự lập năm 1759, nhân dịp một nhà có 2 người đậu hương cống (Nguyễn Huy Kiên và Nguyễn Huy Tự) và 2 người đậu sinh đồ (Nguyễn Huy Khản và Nguyễn Huy Tiêu), Nguyễn Huy Cự đã cúng thóc lập kho Nghĩa Thương và 12 mẫu ruộng làm ruộng Binh. Để chứa thóc nhằm giúp đỡ dân làng khi bị mất mùa hoặc đói kém, kho có người canh gác, buổi chiều tối, thường đánh mõ, kề bên kho có ao chứa nước, để cứu hỏa, cũng gọi là ao Nghĩa Thương. Cho tới những năm 60 ao này vẫn còn. Người trông coi kho được xếp vào diện chức sắc của làng.

          5. Miếu cổ. Làng Trường Lưu gần khu trung tâm kề bên đình làng và đền Cả có miếu gọi là nơi thờ Song Đồng, Ngọc Nữ, một trong tám cảnh đẹp, cũng nằm gần chùa Hân, nay là vùng thuộc Trụ sở của Đảng uỷ và UBND xã Trường Lộc, trước rất nhiều cây cối, nay là vùng sân cỏ.

          6.Ao sen. Phía trước nhà thờ Nguyễn Huy Tựu và nhà thờ Nguyễn Huy Hổ, trước đây có hồ sen rộng chừng gần mẫu, dần thành rộng, theo lời truyền thì trước đây nhiều sen và những đêm trăng sáng ở vùng này rất đẹp. Những năm 1993 -1994, chính quyền đã xây lại một cái ao nằm trước nhà thờ Nguyễn Huy Tựu và thả sen, nhưng tiếc thay ao quá nhỏ nên sen không thể sống được.

7. Giếng Thạc. Ở chân núi Phượng, thuộc địa phận xóm sáu, có một giếng nước gọi là giếng Thạc (không rõ có liên quan gì đến tước hầu của Nguyễn Huy Oánh, ông được phong tước là Thạc lĩnh hầu), nước rất trong và mát về mùa Hạ, ấm về mùa Đông. Xung quanh chân núi Cài có nhiều mạch nước chảy quanh năm. Giếng Thạc mới được xây lại gần đây và là nguồn nước cho dân thuộc xóm 6.

Theo lời chú thích ở bài thơ về giếng Thạc, thì giếng được đào trong dịp hành quân đi đánh dẹp ở Phương Nam (chưa rõ là cuộc hành quân nào, triều nào [], trang 219).

8. Vườn hoa họ Nguyễn với nhiều hoa đẹp là cảnh đẹp thứ 8 của làng Trường Lưu, cho tới nay vẫn không rõ là vườn nào. Có hai ý, một cho rằng đó là khu vườn Bao đạc, ranh giới khu vườn này nay vẫn rõ ràng, bên trong vườn có nhà thờ Nguyễn Huy Hổ và nhà thờ Nguyễn Huy Vinh, sau nhà thờ Nguyễn Huy Hổ trước đây có nhiều cây cối, thường gọi là Lòi. Một ý kiến khác cho rằng đây là khu vườn ở chân núi Mác, gồm mộ Nguyễn Công Ban (1630-1711), nay là vườn của một số con cháu Nguyễn Huy Vinh, gần đây chúng tôi thiên về ý thứ hai, nơi có những ngôi nhà thuộc dạng cổ nhất ở Trường Lưu.

          Như vậy ta thấy, trong tám cảnh đẹp của làng Trường Lưu tới nay chỉ còn Giếng Thạc, còn nguyên vẹn, mặc dầu cảnh vật ở miền đất của chợ Quan và núi Phượng có nhiều thay đổi, nhưng ráng buổi sáng và những tia nắng cuối chiều vẫn còn mãi với thời gian. Tiếng chuông và tiếng mõ ở chùa Hân, ở kho thóc Nghĩa Thương nay chỉ còn trong các câu chuyện kể của dân làng. Năm 2007, Hội đồng hương Trường Lộc đã quyên góp để đào lại ao Nghĩa Thương. Trăng vẫn sáng đều như xưa nhưng hồ sen, cây cối bên miếu, vườn hoa họ Nguyễn, nay chỉ còn là những ruộng cạn, đồi trọc và những khu vườn cằn cỗi.

Tôn giáo. Qua việc dân làng Trường Lưu chăm chút xây dựng nhà thờ và khu mộ tiền nhân, ta thấy dân làng Trường Lưu chủ yếu thờ cúng tổ tiên, không theo Thiên chúa giáo, Phật giáo hoặc các tôn giáo khác. Mặc dù có chùa, nhưng trước đây chưa nghe truyền lại là có sư. Xa xưa, đặc biệt thời 1930-1931, đối với Thiên chúa giáo thì Trường Lưu là một điểm mạnh về việc bài xích, chống lại, do Trường Lưu ở gần nhà thờ của giáo xứ Tràng Đình xã Yên Lộc.

(Ths. Nguyễn Trí Sơn, Trưởng phòng quản lý di sản- SVHTT và DL Hà Tĩnh)

 II.   PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN XÃ TRÀNG LƯU - HUYỆN CAN LỘC.

Làng Trường Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, xứ Nghệ An, (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) là một trong những làng văn hóa nổi tiếng của Việt Nam. Nơi đây là quê hương của dòng họ Nguyễn Huy với 3 danh nhân văn hóa Việt Nam và nhiều nhà khoa bảng khác.

Làng Tràng Lưu được thành lập từ giữa thế kỷ thứ XV, và người đặt tên làng là Thủy tổ họ Nguyễn Huy, cụ Ngũ kinh Bác sĩ Nguyễn Uyên Hậu sau khi cùng cư dân các xóm nhỏ vùng xung quanh dời vào gần gò Rú Phượng để xây dựng làng. Bản đồ 1 giới thiệu địa giới làng Trường Lưu từ thời cụ Uyên Hậu.

“ Khi về vùng Lai Thạch xưa, nay là các xã Trường Lộc, Song Lộc, Phú Lộc hoặc rộng lớn hơn về vùng xung quang Rú Cài (Nhạc Sạc Sơn) với các làng cũ: Nguyệt Ao, Mật Thiết, Kiệt Thạch, Yên Huy, Đông Tây, Vĩnh Gia, Nguyễn Xá… ít ai biết được về nguồn gốc tên các làng, thời gian xây dựng làng …kể cả qua các lời truyền hay giai thoại. Riêng với làng Tràng Lưu – Trường Lưu thì trước là giai thoại, truyền ngôn và sau ít nhiều có tư liệu về tên làng và thời gian có tên làng Tràng Lưu, sau đọc là Trường Lưu.

Trước năm 1945, làng Trường Lưu thuộc xã Lai Thạch (xã Lai Thạch thời đó gồm 5 làng là: Trường Lưu, Đông Tây, Vĩnh Gia, Yên Thọ, và Phúc Lộc). Cuối năm 1945 đầu năm 1946, thực hiện chủ trương bỏ cấp tổng, chính quyền mới lập xã Lam Kiều gồm các làng Phúc Lộc, Yên Thọ, Vĩnh Gia, Đông Tây, Trường Lưu (xã Lai Thạch cũ) và làng Nguyễn Xá (thuộc xã Nguyệt Ao). Làng Nguyễn Xá (thuộc xã Nguyệt Ao) thời đó gồm các xóm Quỳnh Côi, xóm Giai và làng Nguyễn Xá, (xã Nguyệt Ao bao gồm các làng: Nguyễn Xá, Mật Thiết, Phúc Hội và Yên Tràng). Cuối năm 1949-1950 lại lập xã Trà Lĩnh bao gồm các xã: Lam Kiều, Liên Nga, Linh Quy và Minh Tân cho tới năm 1953-1954 chia xã Trà Lĩnh thành các xã Thuận Lộc, Kim Lộc, Nga Lộc, Song Lộc, Phú Lộc và Trường Lộc. Xã Trường Lộc bao gồm làng Trường Lưu, xóm Quỳnh Côi và xóm Giai của làng Nguyễn Xá trước đây, và giữ nguyên ranh giới từ thời gian đấy cho đến bây giờ. Năm 1989, chia lại ranh giới và đổi tên các xóm thành: Đông Thạc, Phúc Trường, Phượng Sơn, Quỳnh Sơn và Tân Tiến.” (Ths. Nguyễn Trí Sơn, Trưởng phòng quản lý di sản- SVHTT và DL Hà Tĩnh)

“Vùng đất nằm lọt giữa các dãy núi chè (Trà Sơn), Rú Bụt (Bột Sơn), Rú Cài (Nhạc Thốc Sơn) xưa là các lòng chảo, mùa mưa nước ngập thành hồ. Về sau hồ bồi lấp, chỉ còn một con ngòi nhỏ chảy vào sông Nhe, có tên Phúc Giang. Bên sông có mấy chòm dân cư thưa thớt. Kẻ Vạc, Kẻ Trằng… đầu thế kỷ XV dời lên vùng đất cao trên dãy Phượng Lĩnh gọi là Trường Lưu [5]; “Xa xưa, Trường Lưu gồm các làng Kẻ Đò, Kẻ Vạc, và làng Tràng. Ba làng này nằm ven một con sông nho nhỏ quanh co gọi là sông Phúc Giang. Đến đời Lê Thánh Tông, Cụ Uyên Hậu, thuỷ tổ họ Nguyễn Huy… đã về đây. Nhận thấy ba làng Kẻ Đò, làng Vạc và làng Tràng ở đồng trũng, dân vất vả quanh năm, mà Phượng Lĩnh cách đó không xa, độ dăm trăm mét thôi, là nơi “địa linh tú khí” không những dễ làm ăn mà còn cao ráo, bề thế, có cơ phát triển. Có tầm nhìn xa, cụ Uyên Hậu đã đề xuất với dân ba làng chuyển về đây. Và sau khi nhập với Kẻ Bỉn (thuộc làng Đông Tây đặt tên là làng Trường Lưu. Cái tên Trường Lưu có từ đó” (Thái Kim Đỉnh).

Tên làng Tràng Lưu có từ gốc tích đó, nói Nguyễn Uyên Hậu là người lập làng Tràng Lưu cũng đúng vì ông đã bàn với cư dân cùng dời vào sườn núi lập làng, hoặc nói ông là người đặt tên làng là Tràng Lưu để ngày nay ta có tên gọi Tràng Lưu-Trường Lưu - Trường Lộc, cũng đều đúng cả.

Nguyễn Huy Cừ thuộc thế hệ thứ 15 họ Nguyễn Huy Trường Lưu (NHTL), là người dạy chữ Hán ở làng, hai lần trúng Nhị trường thi Hương và từng là học trò của Tiến sĩ Nguyễn Văn Trình, trong bài Trường Lưu giai sự vịnh có ghi:

 “Nhớ quan Bác sĩ Nam thiên,

Tràng Lưu danh hiệu dọi truyền đến nay.”

Làng Trường Lưu hiện nay.


Làng Trường Lưu hiện nay như mọi người thường gọi và hiểu là xã Trường Lộc, là một trong 23 đơn vị hành chính thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (bản đồ 3) với diện tích 412 ha, 2978 dân của 41 chi họ, thuộc 20 dòng họ, trong đó họ Nguyễn Huy có 23 chi.

Phía Bắc, Tây Bắc giáp xã Song Lộc, Đông Bắc và Đông giáp 2 xã Thanh Lộc và Yên Lộc, phía Nam giáp xã Gia Hanh và Tây Nam chung ranh giới với xã Phú Lộc. Xã Trường Lộc, bao gồm 5 xóm là: Đông Thạc, Phúc  Trường, Phượng Sơn, Quỳnh Sơn và Tân Tiến. Trước đây qua nhiều lần thay đổi của thế sự, tên gọi của các xóm, làng cũng đổi thay, một số tên như làng Vạc, làng Tràng (Kẻ Trằng), Kẻ Đò, Kẻ Bỉn… chỉ còn lại trong ký ức, rồi xóm Đình, xóm cầu Lối, làng Quan…một số tên từ thời xưa như làng Trại thì vẫn còn cho đến ngày nay. 

Xã Trường Lộc thuộc vùng đất giữa các dãy Rú Chè (Trà Sơn), Rú Bụt (Bụt Sơn) và Rú Cài (Nhạc Sạc Sơn), xưa là các lòng chảo, mùa mưa nước ngập thành hồ nay là các sông lạch. Giữa có một số rú nhỏ như Rú Mác, Rú Cà. Như vậy địa bàn xã được tự nhiên kiến tạo đủ cả đồi núi, đồng bằng ven sông. Từ điểm chung này, lần lượt xem xét địa hình núi, sông. Lịch sử phát triển của làng gắn liền với địa hình sông núi ở vùng này. Trường Lưu có đầy đủ các yếu tố tự nhiên phong phú, núi, sông xen lẫn. Làng hình thành theo thế dựa vào ven núi, triền sông.

Núi: Núi Cài - Nhạc Sạc Sơn là tên gọi Hán Việt, dân xung quanh quen gọi là Rú Cài gồm núi Cao (núi Nậy) và núi Thấp. Núi Cài được nhắc đến trong các tư liệu xưa . Nhạc Sạc Sơn nằm giữa 5 xã: Thanh Lộc, Yên Lộc, Song Lộc, Kim Lộc và Trường Lộc. Trường Lộc nằm ở phía Tây Nam núi. Từ ngọn núi Cài có một dải đồi sải dài khoảng chừng 2 km, dân trong vùng quen gọi là Rú Ngang, xuôi về sông Phúc Giang giống như đuôi chim (cánh chim phượng) gọi là Rú Phượng hay Phượng Lĩnh. Vùng đồi này trước đây có 2 con đường đi qua Thanh Lộc, một qua Eo Cao và một qua Eo Thấp, trước đây ở hai bên sườn núi dân làng Trường Lưu thường trồng các loại cây có củ như lạc, củ đậu, sắn, khoai vạc, khoai từ. Khá nhiều mía được trồng ở đây. Các loại cây trên, trừ lạc được thu hoạch vào quãng tháng 6 âm lịch, còn lại được thu hoạch vào tháng 11, Chạp. Mía được dùng để kéo che làm mật. Đoạn cuối, núi rẽ hai nhánh, một về làng Trại, một qua giữa làng và kết thúc ở Rú Mác, thường gọi là Mạc Sơn. Ở phần giữa gò Phượng Lĩnh, dân thường hay gọi là Rú Đền, vì trên đó có Đền Rú thờ Nam Nhạc Đại Vương.

Bùi Dương Lịch (1757-1828) soạn sách Nghệ An Ký vào thời gian ông làm Đốc học Nghệ An, chép “Từ núi Bụt Sơn mọc lên núi Cài”. Lưu Công Đạo biên soạn Phong thổ chí huyện Can Lộc năm 1871 và Trần Mạnh Đàn viết Can Lộc huyện phong thổ ký năm 1930 cũng chỉ ghi ở giữa vùng “4 xã” thời xưa và “thế núi này trông như hình con chim vươn cổ giang cánh, có nhiều chỗ núi nhấp nhô quanh lượn như từng đôi chim phượng hoàng vờn múa”.

Núi Cài cùng đá ở núi này được miêu tả kỹ hơn ở , nhưng chủ yếu vẫn về phía làng Kiệt Thạch và Yên Huy (xã Thanh Lộc và Yên Lộc). Nếu quan sát kỹ, ta thấy, từ Núi Nậy một dải đồi dài chạy khoảng hai cây số thì chia làm hai nhánh một nhánh về phía Tây và một nhánh về phía Tây Nam. Dãy đồi này dân làng thường gọi là Rú Ngang, Rú Đền và Rú phượng.  

Rú Mác (Mạc Sơn), Bùi Dương Lịch ghi “Từ Trà Sơn chia làm 3 nhánh, nhánh đông làm núi Bụt Sơn, các núi Mạc Sơn, núi Trường Sơn, xã Lai Thạch”. Không rõ có phải núi Mạc Sơn này không, dân làng thường gọi là Rú Mác, gần như ở cuối dãy nhánh Tây Nam của Rú Ngang – Rú Đền, Rú Phượng. Núi Trường Sơn chưa rõ là núi nào, hồi xưa ở giữa xã Trường Lộc hiện nay, chỗ gần đình làng có núi gọi là núi Bình Cương, không rõ có phải là núi Trường Sơn mà Bùi Dương Lịch nói đến chăng?

Núi Quỳnh Côi, ở xóm Quỳnh Sơn, ở đây trước có nhà Thánh làng Nguyễn Xá, nay không rõ núi vì dân làng đã làm nhà ở kín, phía Tây Bắc vẫn còn sườn núi có nhiều đá dăm, trước là kho lương thực.

Rú Cà - nằm giữa vùng ranh giới xã Gia Hanh với Trường Lộc, phía Nam núi là phần đất của Trường Lộc, có lẽ trước đây dân làng hay lấy đá về cà chân, nên gọi là Rú Cà chăng? Trước ở đây có một cái miếu, có nhiều đồi cây nhỏ như sim, móc… xung quanh núi có nhiều thửa đất, có nhiều cát, dân làng thường trồng sắn, củ đậu và các loại khoai vạc, khoai từ.

Sông: ở xã Trường Lộc, các xóm làng đều dựa vào chân núi và ven sông, sông quanh xã thuộc hệ thống sông Nghèn. Như phần trên đã trình bày, đây là vùng giữ núi Cài và núi Bụt, nên xưa là cái lòng chảo, mùa mưa nước ngập, ngày nay dịp mưa là thường vào tháng Chín âm lịch, nước tràn về, ta lại có thể hình dung ra lòng chảo này . Ngày nay, sông qua xã được chia làm nhiều nhánh, một phần của sông Minh Giang, đoạn qua Trường Lưu là sông Phúc Giang, gần như là ranh giới tự nhiên giữa các xã. Tên gọi sông Phúc Giang là đoạn giữa xã Yên Lộc, Gia Hanh và Trường Lộc, sông Đò Hói là đoạn từ xã Song Lộc với Trường Lộc. Sông được khơi, đào nhiều lần như vào năm Quý Sửu – niên hiệu Duy Tân  và năm Mậu Dần .

Cùng với sông là các cầu để qua lại, đó là: Cầu Cơn Khế theo tỉnh lộ giáp giới với xã Song Lộc, Cầu Làng qua làng Vĩnh Gia xã Song Lộc, Cầu Lối cuối xóm có tên gọi là xóm Cầu Lối để đi qua làng Đông Tây, sang xã Phú Lộc, Cầu Ròi, qua làng Hốt xã Phú Lộc, Cầu Đồng Trấu vào Rú Cà, Cầu Quan để sang khu ruộng Đồng Quan. Giáp với làng Yên Huy là một con lạch nhỏ, khó nhận biết dòng chảy, qua lạch này không có cầu. Giữa xóm Quỳnh Côi và xóm Giai có một cây cầu cũng gọi là Cầu Lối, gọi là cầu, nhưng thực là một cây gỗ to bắc qua. Gần đấy có cầu Lối qua một đoạn ruộng qua sông có Cầu Xóm Tám, qua xóm 8 xã Song Lộc. 

Ruộng: làng có mấy cánh đồng sau: dọc theo sườn núi phía Bắc giáp với làng Nguyễn Xá, với các tên gọi như Đồng Mụ Vàng (trung kho vàng chăng?), Đồng Ba Lăm.

Giữa làng Quỳnh Côi với làng Trại gần gò Phượng Lĩnh và Rú Mác, và Đồng Vời, chủ yếu là trồng lúa.

Giữa làng Đông Tây với làng Trường Lưu là khu ruộng chừng vài chục mẫu, có Cồn Hiên là nơi trước đây Nguyễn Huy Tựu lập ruộng khoa danh.

Giữa làng Yên Huy với làng Trường Lưu, chủ yếu các dải ruộng men theo khe.

Giữa làng Gia Hanh với làng Trường Lưu có Đồng Trấu, Đồng Quan. Ở đây trước có ruộng hương hỏa của họ Nguyễn Huy Tràng Lưu từ thời Nguyễn Công Ban.

Phần đất ở sườn núi, có dạng đất màu đỏ, tiện cho việc trồng các loại cây củ. Ở Rú Cà cũng vậy, dọc ven đồi Rú Ngang trước đây là các mảnh đất trồng mía, khoai vạc, khoai từ, củ đậu, sắn v.v…nay gần như bỏ hoang.

(Ths. Nguyễn Trí Sơn, Trưởng phòng quản lý di sản- SVHTT và DL Hà Tĩnh). 

II .    HỌ NGUYỄN TRÀNG LƯU.

Có một dòng họ ở vùng quê thuần nông của Hà Tĩnh nhưng có đến 11 di tích văn hóa, trong đó có 3 di tích cấp tỉnh, 3 di tích cấp quốc gia. Đặc biệt, mới đây hai di sản của dòng họ này được UNESCO công nhận là di sản tư liệu ký ức thế giới.

Đó là dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu, xã Trường Lộc (huyện Can Lộc, Hà Tĩnh).

Theo gia phả họ Nguyễn tại Tràng Lưu thì vùng đất nằm cạnh rào Nhe  gồm có ba xóm là Kẻ Trằng, Kẻ Đò, Kẻ Vạc. Vị tổ của họ Nguyển Tràng Lưu là người quận Trần Lưu bên Trung Quốc về định cư tại vùng này vào thế kỉ XV. Ông thấy vùng Kẻ Trằng cao ráo, địa thế đẹp nên đã bàn với dân làng lên định cư tại đây. Tên làng Tràng Lưu là tiếng ghép “Tràng” (Kẻ Tràng) với “Lưu” trong Trần Lưu quận. Về sau người ta quen đọc thành Trường Lưu. Trước năm 1921, làng Tràng Lưu thuộc về tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ năm 1921 thuộc về huyện Can Lộc. Ngày nay làng Tràng Lưu ngày xưa nằm trong xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Cùng với họ Nguyễn Tiên Điền thì họ Nguyễn Tràng Lưu là một cự tộc về trước tác. Hai dòng họ này đã tạo nên “Hồng Sơn văn phái” nổi tiếng trong cả nước. Về sự nghiệp trước tác của dòng họ Nguyễn Tràng Lưu tiêu biểu có Nguyễn Huy Oánh,Nguyễn Huy Quýnh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ, Nguyễn Huy Vinh.

“Làng Trường Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, xứ Nghệ An, (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) là một trong những làng văn hóa nổi tiếng của Việt Nam. Nơi đây là quê hương của dòng họ Nguyễn Huy với 3 danh nhân văn hóa Việt Nam và nhiều nhà khoa bảng khác.

Tương truyền, vùng đất phía Đông Rủ Xanh (Trà Sơn) giữa Bụt và Rú Cài, thời xa  xưa là cải lòng chảo, mùa mưa nước ngập băng trời, về sau bồi lấp dần, chỉ còn lại con ngòii đổ xuống Rào Nho, có tên Phúc Giang. Bên Phúc Giang là mấy xóm nhỏ; Kẻ Tràng, Kẻ Đò, Kẻ Vạc (về sau quen gọi làng), Gia phả họ Nguyễn cũng ghi lại lời truyền rằng vị tổ họ này là Nguyễn Uyên Hậu người quận Trần Lưu phương Bắc và định cư tại Kẻ Tràng vào thế kỷ XV. Ông thấy vùng ven dãy đồi Phương Linh, bên kẻ Bin (thuộc làng Đông Tây) địa thế đẹp đẽ, cao ráo, bèn bàn với dân làng dời lên ở đó, người ta cũng nói rằng tên làng Tràng Lưu là ghép tiếng “Tràng" (Kẻ Tràng) với “Lưu” trong Trần Lưu quận, quê cũ ông Uyên Hậu …Tràng Lưu (sau quen đọc Trường Lưu) thuộc tổng Lai Thạch, huyện La Sơn (từ 1921 là huyện Can Lộc), nay nằm trong xã Trường Lộc.

Nguyễn Uyên Hậu, tên thụy Du Khánh, đỗ Ngũ kinh bác sĩ đời Lê Hồng Đức (1470-1497), là người mở đầu việc học hành ở Tràng Lưu. Sau ông về Bắc quốc, dặn lấy ngày Đông chí làm ngày giỗ, vì vậy nhà thờ họ Nguyễn Tràng Lưu (thờ ông cùng bốn đời kế tiếp ngành trưởng) gọi là nhà thờ họ Đông Chí “ ( HÀ TĨNH – Đất văn vật Hồng Lam – Thái Kim Đỉnh )

 1/ĐÌNH LÀNG TRÀNG LƯU.


 Đình làng Trường Lưu. Ảnh: Huy Tùng.

Đình làng Trường Lưu được công nhận là DTLSVH Tỉnh Hà Tĩnh theo quyết định số… ngày .. tháng.. năm 2008. Đình làng trước đây có đình Trung, đình Thượng và đình Hạ, Cấu trúc theo đình hình chữ Vương nằm trên cùng một khu đất.. m2  ở xóm Đình nay là xóm… Chưa rõ đình được xây dựng từ lúc nào, nhưng khá công phu với các điêu khắc chạm trổ đời Lê: các cột, xà, rường, đầu đố đều chạm khắc theo hình long, ly, quy, phượng. Là nơi dân làng cử hành lễ hội Kỳ Phúc hàng năm vào ngày 13 tháng Sáu, ngoài ra xóm Đình cùng làm lễ Binh vào ngày 18 tháng 2.

 Đến năm 2004 chỉ còn đình Hạ, Hội đồng hương Trường Lộc ở Hà Nội đã quyên góp khôi phục đình Thượng, tu sửa đình Hạ và năm 2005 việc khôi phục, tu sửa cơ bản hoàn thành. Việc làm đó được sự ủng hộ nhiệt tình thêm của Hội đồng hương xã Trường Lộc ở thành phố Vinh, thành phố Hà Tĩnh và các cá nhân con em Trường Lưu. Một số đồ thờ đã được mua sắm thêm, cây được trồng ở phía trước và đặc biệt Hương ước của làng được sao chụp, ép plactic, đóng bảng treo ở đình Thượng và Bia khoa danh làng được khắc, đặt ở đình Hạ. Danh sách, năm thi đỗ của 22 vị được làng tế theo văn tế của Hội Tư văn, được khắc ghi chú năm mất, năm sinh, năm đỗ theo dương lịch cho mọi người dễ rõ, trong đó phần di hiệu, bảng Hán văn không ghi lại, ví dụ như: Về Nguyễn Công Ban ghi: Chính Hoà Tân Mão khoa, đặc tứ tiến triều, Lạng Sơn đạo Giám sát Ngự sử - Thái Sơn Nam, Nguyễn Công tự Công Ban được ghi là Nguyễn Công Ban (1630-1711), đỗ Hương cống năm 1652.

Cùng với 3 DTLSVHQG nhà thờ và mộ  Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Huy Hổ và 6 DTLSVHT Hà Tĩnh đã được công nhận, đặc biệt trong hệ thống di tích làng Trường Lưu có cả di tích lịch sử kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

 Xin theo dõi tiếp BÀI 19. Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *