PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 21.

9/17/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 21.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

I.   ĐỊA CHÍ CAN LỘC HÀ TĨNH.

II. CÁC VỊ TỔ ĐẦU TIÊN CỦA DÒNG HỌ NGUYỄN TRÀNG LƯU.

III. HỌ NGÔ - TRẢO NHA – CAN LỘC – HÀ TĨNH.

Từ thị xã Hà Tĩnh ra thành phố Vinh (Nghệ An) theo đường Quốc lộ 1A, đến ki lô mét 19, nhìn về bên phải thấy một đồi đất thấp nhô lên giữa đồng lúa phì nhiêu, chen chúc nhiều nhà cao tầng trong các thôn xóm trù phú. Đó là làng Trảo Nha xưa, nay là thị trấn Nghèn huyện lỵ của huyện Can Lộc. Đồi đất ấy có tên gọi trong sách vở xưa là Nghiện Sơn, Kỳ Lạc Sơn, còn tên gọi thông thường là Đồi Nghèn cao chưa đầy 100 mét so với mặt nước biển. Dưới chân đồi Nghèn về phía Tây Bắc và Đông Nam có dòng sông Nghèn chạy quanh co uốn khúc đổ nước ra cửa Sót.

Đồi Nghèn ở Trảo Nha là một di chỉ khảo cổ học. Qua thám sát bước đầu, các nhà nghiên cứu đã thu nhặt được hàng trăm công cụ bằng đá như: rìu, cuốc, bốn, đục, có niên đại cách ngày nay gần một vạn năm, thuộc về Thời kỳ đồ đá mới.

Lần theo các sách địa chí xưa viết về xứ Nghệ, chúng ta còn được biết nhiều chuyện lý thú, có ý nghĩa lịch sử, văn hóa về Đồi Nghèn và làng Trảo Nha. Vào thế kỷ thứ VII thời Bắc thuộc, làng Trảo Nha lúc ấy có tên là Đan Liên thuộc huyện Thạch Hà là một địa danh, một làng quê có bên đò, có chợ hợp ven sông, có đường thiên lý qua làng. Sự giao lưu từ Nam ra Bắc và ngược lại qua Đan Liên ngày càng phát triển.Đầu thế kỷ XVII, để khen thưởng, ghi công cho 3 vị Tể tướng và 15 vị Quận công thuộc dòng tộc họ Ngô ở Đan Liên, vua Lê và chúa Trịnh đã đặt tên làng là Trảo Nha – có nghĩa là nanh vuốt. Thực sự con cháu họ Ngô thời Lê Trung Hưng xứng đáng với mỹ tự “nanh vuốt” của quốc gia. Có tới 15 người họ Ngô là danh thần, lương tướng của triều đình Lê Trịnh.

Nhà thờ Ngô Phúc Vạn.

 I. DÒNG HỌ NGÔ TRẢO NHA(Thôn Phúc Sơn - Thị trấn Nghèn - Can Lộc)

Đất Thổ Sơn - Ngạn Sơn từ đời Lý đã là một tụ điểm cư dân đông đúc, một nơi đô hội. Nhưng mãi đến thế kỷ thứ XV, đời Lê sơ, Ngô Lợi (Ngô Nước) - là một trong 6 con trai cư biệt quán của Thanh Quốc công Ngô Khế , Thủy tổ họ Ngô Trảo Nha mới từ xã Chỉ Châu ra đây lập nghiệp, và nhanh chóng trở thành một cự tộc võ thần.

Đời thứ hai, Ngô Phúc Hải mở đầu sự nghiệp với chức Tổng binh đồng tri Thái Nguyên, rồi đời thứ ba Ngô Phúc là làm Chủ bộ ở phủ Yên Vương, trước Thuấn trung hầu và đời thử tư, Ngô Phúc Thanh lại làm đến Độ tổng binh tước Vĩnh Lộc hầu, sau tặng Thái Bảo.

Từ đời thứ năm trở đi, nhờ những võ công trong cuộc nội chiến Nam Bắc triều (Lê - Mạc), nhiều người họ Ngô trở thành tướng lĩnh tiếng tăm. Ngô Phúc Trừng (tức Ngô Cảnh Hữu, (1550-1596) giữ chức Hữu Đô đốc ở phủ Đô đốc Bắc quan, tước Thể Quận công, lúc mất tặng Thái bảo. Con Phúc Trừng là Phúc Tịnh, tước Tử quận công, tặng Thái bảo, và cháu, Phúc Vạn - có sách chép Phúc Mại (1577-1652) tước Tào Quận công, tặng Thái bảo, là con rể chúa Trịnh Tùng, con nuôi Tiến sĩ Lệ Quận công Nguyễn Văn Giai ở Ích Hậu. Chúa Trịnh coi những người họ Ngô là “Xã tắc trảo nha” (nanh vuốt của nước nhà). Do đó vùng đất Thổ Sơn, Ngạn Sơn xã Đan Liên mới có tên là xã Trảo Nha.

Thời gian này họ Ngô Trảo Nha còn có các chi Phú Điền (Nghệ An), Chỉ Châu, Y Tụ, Tam Đa (Hà Tĩnh) đều phấn phát. Chi Y Tụ (nay xã Thạch Ngọc, Thạch Hà) có Tá Võ hầu, Vân Lộc hầu, Tín Võ hầu, Vinh Thái hầu... Từ đây, Trung tín bá Ngô Phúc Hy dời đến Tự Cường (nay thuộc xã Sơn Lộc) lập thành một chi, lại một người ra Sơn Nam lập thành chi họ Ngô đổi thành họ Trần ở Vị Xuyên (huyện Mỹ Lộc, Nam Định). Chi Tam Đa (nay là xã Quang Lộc) có Vì Quận công (con thứ hai Ngô Phúc Tịnh, cháu Ngô Cảnh Hựu), Diên Quận công, Lý Quận công và con cháu là Ngô Phúc Cẩm (tước hầu), Ngô Phúc Thuận (Chân Lộc hầu), Tài bá hầu... Con cháu của họ cũng đều có công hầu.

Theo gia phả thì dưới thời Lê và Tây Sơn, họ Ngô có tới 18 quận công, 36 hầu tước, có 4 người đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) và nhiều người đỗ Tam trường (võ).

Ngô Trảo Nha là dòng họ võ tướng, nhưng từ lâu đã có nhiều người giỏi văn học như các Quận công Ngô Phúc Tịnh, Ngô Phúc Vạn, Ngô Phúc Thiêm và nhiều người khác. Ngô Phúc Túc (Hoành Quận công) vừa đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ), lại đỗ Hương cống (văn); đỗ Hương cống còn có Ngô Phúc Thiện, Ngô Phúc Vạn (Mại) là người “đọc rộng, giỏi kinh nghiệm, thiên văn, địa lý, bói toán, lại được Hoàng quân đạo sư truyền phép thuật tu hành, được coi là Phật, thường gọi “Thái bảo Phật”. Cuối đời, ông xây am Phúc Quy, tự đặt hiệu là Huân Dương chân nhân. Bia am Phúc Quy có đoạn: “Chân nhân gia truyền y bát... đạo đức cao vời, dáng vẻ trang nghiệm, nhưng lại vui với cảnh thần tiên đạo giáo.” (“Hoan Châu Thạch Hà Trảo Nha Ngô tộc truyền gia tạp lục”. T.S. Ngô Phúc Lâm soạn năm Mậu thìn - 1748). Sách trên cũng chép về Ngô Phúc Thiêm: Cố công tìm thầy học hỏi, “biết phép thuật đại gia...”. Như vậy Ngô Phúc Vạn và con trai trưởng, ngoài văn chương, còn tinh thông Đạo giáo.

Người đỗ đại khoa đầu tiên là Ngô Phúc Lâm (17241784). Ông là con thứ tư Dật Trung hầu Ngô Phúc Bình và là cháu nội Toản Võ hầu Ngô Phúc Trị (thuộc thế hệ thứ X - Chi 9 Trảo Nha).

Ngô Phúc Bình, làm Quản binh, tước hầu, xin về quê, nói: “Có phúc không nên hưởng hết, nhà chúng ta hưởng lộc trời nhiều rồi, còn để cho họ khác”. Ông lấy hiệu Lạc Viên tiên sinh chuyên nghiên cứu y dược. Ông thường nhắc lời Đan Khê: “Cứu được mạng người, không làm quan cũng như làm quan”. Ông chữa lành bệnh cho Hương cống Lê Trù ở Ích Hậu rồi lấy con gái họ Lê sinh con út Phúc Lâm.

Ngô Phúc Lâm trước tên là Cung, được thầy học Hồng Ngư tiên sinh (Nguyễn Nghiễm) đổi lại là Lâm. Ông học giỏi, nhưng thi hương lần đầu mới trúng Tam trường (sinh đồ), đến khoa Canh ngọ, Cảnh Hưng thứ 10 mới trúng Hương giải. Bốn lần thi hội thì ba lần trúng Tam trường, xếp thứ 6, nhưng khoa ấy chỉ lấy 5 Tiến sĩ. Năm Ất dậu (1765) ông được Tể tướng Nguyễn Nghiễm tiến cử nhưng vua Lê dụ: “Con nhà gia thế, vinh tiến hãy chờ, việc chi vội vã, cho về học thêm nữa”. Năm sau, khoa Bính tuất ông mới trúng Tam giáp đồng Tiến sĩ.

Ông được bổ Giám sát ngự sử đạo Lạng Sơn, rồi thăng đến Đốc đồng Sơn Tây, Hiến sát sứ Thanh Hoa; về kinh làm Tri thị nội thư tả binh phiên, Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử, lại ra làm Thừa chánh sứ Sơn Nam rồi làm Đốc thì việc quân... Ông mất lúc 62 tuổi, được gia tăng hàm Đại phu, Hữu thị lang bộ công, tước Khiêm Quận công.

Cháu nội Ngô Phúc LâmNgô Phúc Trinh, Ngô Phùng và con Ngô PhùngNgô Huệ Liên, đều đỗ cử nhân đời Nguyễn. Ngô Phúc Trinh là Tri huyện, Ngô Phùng làm đến Hồng Lô tự thiếu khanh, còn Ngô Huệ Liên làm Toản tu Quốc sử quán, tặng Tham tri bộ công. Ông là thân sinh tiến sĩ Ngô Đức Kế.

Chi 5, dòng Ngô Phúc Hộ (thế hệ VIII) có Ngô Đức Hồng (thế hệ XII), đỗ cử nhân làm Tri huyện, bị cách. Con trai ông là Ngô Đức Bình (1824-?) tú tài, giám sinh, rồi đỗ nhị giáp khoa Nhã sĩ (như Hoàng Giáp), năm Tự Đức thứ 18 (1865), bổ Án sát Quảng Bình, sau làm Tế tửu Quốc tử giám. Ngoài ra có Ngô Phúc Hội (tức Trương Duy Phúc) đỗ cử nhân đời Gia Long ở trường Gia Định. Theo gia phả thì còn có Ngô Đức Thịnh cũng đỗ cử nhân nhưng chưa rõ khoa nào.

Theo gia phả còn lại ở Trảo Nha, dưới thời Lê và Tây Sơn có tới 18 quận công, 36 hầu tước, 4 người đỗ tạo sĩ (tiến sĩ võ) và nhiều người đỗ tam trường võ. Đặc biệt, đời thứ 7, Toàn quận công Ngô Phúc Vạn là con rể của Trịnh Tùng được tặng Thái Bảo. Phúc Vạn có 10 người con trai làm rạng rỡ thêm võ công của dòng họ đều được phong công hầu. Con cháu 10 vị tướng này đi trấn nhậm nhiều nơi đã hình thành nhiều chi họ Ngô mới ở Hà Nội, Quảng Bình, Quảng Nam, An Giang…

Như vậy là riêng các chi 5 và 9 họ Ngô Trảo Nha đã có 3 tiến sĩ, 2 hương cống và 5 cử nhân, nhiều người khác đỗ tam trường, tú tài (Hán học). Về Tây học, họ Ngô chỉ có 2 người đỗ tú tài và 1 người đỗ cao đẳng tiểu học.

Trong các phong trào yêu nước, cách mạng thời cận hiện đại, họ Ngô có 5 người tham gia Văn thân, 3 người là hội viên hội Quang phục, 4 người là Đảng viên Tân Việt và 10 người hoạt động trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Họ Ngô Trảo Nha là một trong hai dòng họ “Thạch Hà thế tướng” thời Lê - Trịnh, và từ cuối Lê đến Nguyễn lại là họ văn học - khoa bảng có tiếng tăm. Và những người đem lại vinh dự lớn nhất cho dòng họ thời hiện đại là chí sĩ Ngô Đức Kế và thi sĩ Xuân Diệu.

Ngô Đức Kế (1879-1929) đỗ Tiến sĩ năm 1901, lúc 23 tuổi. Ông không ra làm quan mà tham gia phong trào Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo từ 1908 đến năm 1921. Được tha về, ông ra Hà Nội làm báo Hữu Thanh. Ông là nhà thơ, nhà trước tác, nhà báo nổi tiếng. Nhưng trước hết, ông là nhà ái quốc. Tên ông luôn gắn với tên các chí sĩ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn: “Phan thê lu Nhật, Đặng hệ vu tù, Ngô lưu vu hải...” (Phạm Văn Ngôn); “Đặng, Hoàng (Huỳnh), Ngô ba bốn bác hàn huyên” (Phan Bội Châu).

Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ lớn Việt Nam thế kỷ XX, là nhà hoạt động văn hóa xuất sắc, ủy viên ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, ủy viên Ủy ban TW các Hội VHNT Việt Nam, ủy viên Ban chấp hành Hội Hữu nghị Việt - Xô, Viện sĩ Viện hàn lâm nghệ thuật của Cộng hòa dân chủ Đức... Ông là nhà thơ khi đi xa “như một cây lớn nằm xuống làm cho cả khoảng trời trong vắng” (Điếu văn); là “rễ cây và gió, là đất và nhạc. Khi một nhà thơ lớn đi xa, nhân dân của nhà thơ khóc trước hết là nhân dân các nước sẽ dần khám phá ra anh, có khi nhiều năm sau, có khi những thế kỷ sau, và một ngày nào đó, sẽ biệt đèn cái chết của anh và nghe được tieng nói của anh." (Miray Gångxen). ( Thái Kim Đỉnh ).

II.VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ HỌ NGÔ TRẢO NHA.

Trung tâm Thị trấn Nghèn

(Tổ của Họ Ngô - đời thứ 29, tại Đức Sơn - Hội Sơn - Hoa Sơn huyện Anh Sơn - tỉnh Nghệ An hiện nay)

Họ Ngô xuất hiện ở Trảo Nha rất sớm. Từ TK thứ 15, Ngô Nước - một trong 6 người con “Cư biệt quán” của Thanh Quốc công Ngô Khế di cư từ Thanh hóa vào sinh cơ lập nghiệp ở xã Chỉ châu phủ Thạch Hà (nay là xã Thạch Trị - Thạch Hà – Hà Tĩnh) sau đó thiên cư ra làng Trung Thủy, xã Đan Liên, phủ Thạch Hà, nay là khối Phúc Sơn, thị trấn Nghèn, Can Lộc - Hà Tĩnh.

Hai ông bà cần kiệm nghề trồng trọt chăn nuôi. Ông bà thường hay giúp người nghèo khó, cứu người lỡ bước khi hoạn nạn, lại biết chữ nên được dân làng bầu làm Lý chính (như Lý trưởng sau này); sau đó được tặng phong “Nghệ An chánh quản lĩnh”. Thời kỳ còn sinh sống ở Chỉ Châu, có lần khai hoang cuốc đất bắt được 3 hũ vàng, có người trung Quốc theo nham cảo tìm đến xin chuộc, đối chiếu thấy đúng, ông vui vẻ trả lại và làm cơm thết đãi ân cần được người khách báo ân cho một huyệt đất quý, và đề vào nham cảo câu “tha hương võ tướng, lũy thế nguyên huân” (con cháu xa quê sau này sẽ có người làm nên võ tướng, nối đời là nguyên huân của quốc gia). Ông thiên cư ra làng Trung Thủy xã Đan Liên từ đó phát triển nhanh chóng thành một dòng họ “cự tộc võ thần”.

Đời thứ 2 Ngô Phúc Hải mở đầu sự nghiệp với chức Tổng binh đồng tri trấn Thái nguyên, ông có sức khỏe hơn người, 13 tuổi đã lập mưu bắt được trộm cướp, lớn lên theo Tổng binh trấn Nghệ an đi dẹp giặc cướp vùng Nam Đường (Nam Đàn) Thanh Giang (Thanh Chương) lập nhiều công, được thăng chức Tổng binh giữ Đô ty sứ. Năm sau được cử đi trấn thủ Thái Nguyên. Ông có hai vợ bà cả người làng Trảo Nha, bà thứ người Hoa Viên, ngụ xã Phú Điền. Mộ được Thiên táng ở chân núi Mã Yên Sơn (rú Rum), làng Phúc Lễ, xã Phú Điền (Hưng Phú - Hưng nguyên - Nghệ An).

Đời thứ 3 Ngô Phúc Hà làm Chủ bộ ở Phủ Yên vương tước Thuần trung hầu, ông có hai vợ, bà cả người Trảo nha sinh Ngô Phúc Thanh là dòng trưởng ở Trảo Nha, bà hai người làng Hoa Viên (Nghi Xuân) sinh Ngô Phúc Điền, nay là Thủy tổ họ Ngô Phú Điền (xã Hưng Phú - Hưng Nguyên - Nghệ An) mới liên hệ được với họ Ngô Trảo Nha từ 1976. Đây là lần phân chi thứ nhất.

Đời thứ tư Ngô Phúc Thanh làm đến Đô tổng binh sứ ty, tước Vĩnh lộc hầu gia phong Thái bảo, mười năm trấn thủ Nghệ an được mệnh danh là “Nam diện trường thành”(bức tường thành kiên cố ở phía Nam). 

Đời thứ 5 Ngô Phúc Trừng tức Ngô Cảnh Hữu (1520 - 1596), tước Thiếu Bảo Thế quận công. Khi Mạc cướp ngôi nhà Lê, ông còn nhỏ. Lớn lên gặp lúc quê hương nhiều trộm cướp, ông tập hợp gia thuộc chiếm cứ huyện nhà (huyện Thiên Lộc - trấn Nghệ an) người theo ngày một đông. Ông đưa quân vào núi lập trại khẩn hoang luyện quân, chiếm cứ một vùng từ bờ nam sông Lam trở vào đợi thời cơ. Năm 1546 nghe tin vua Lê đặt hành cung ở Vạn Lại (Thọ Xuân - Thanh hóa) ông đem binh mã gồm 2 nghìn quân, 10 võ tướng 20 ngựa chiến theo Trịnh Kiểm phò vua Lê lập nhiều công.Ngày sau triều đình luận công khen thưởng, ông được xếp thứ 6 trong các Trung Hưng công thần được phong “lũy đại công thần dữ quốc đồng hưu”. Ông có ba bà: bà Từ Quang, bà quận chúa Trịnh Thị Diệu Minh, bà Diệu Hằng họ Phạm quê Nghệ An.

Ông sinh 7 người con:

- Con trưởng Tứ quận công Ngô Phúc Tịnh ở Trảo Nha

- Hoành phổ hầu Ngô Phúc Hoành thủy tổ họ Chỉ châu (Thạch Trị - Thạch Hà - Hà Tĩnh),

- Khang trạch hầu Ngô Phúc Mai họ Cổ Bái - Tự Cường (Thạch Ngọc - Thạch Hà - Hà Tĩnh),

- Câu kê hầu, thủy tổ họ Thạch Mỹ - Thạch Hà,

- Ngô Đăng Khản lánh nạn đến đất Hà Linh - Hương Khê làm nghề dạy học, sinh Ngô Đăng Thiên, Ngô Đăng Minh, Ngô Đăng Bính. Ngô Đăng Minh làm Thái giám dưới triều Lê Hy Tông, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1685) có công đánh dẹp Bồn man phong Án trung hầu sau khi chết dân làng Hà Linh lập đền thờ. Triều Nguyễn sắc phong “Trung đẳng tôn thần”, đền thờ được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa - 1993.

- Ngô Thuận Tâm (sau đổi thành họ Trần) thủy tổ họ Trần Vị Xuyên - Nam Định và một bà con gái là Ngô Thị Ngọc Nguyên thứ phi Bình an vương Trịnh Tùng. Đây là lần phân chi thứ hai.


Đời thứ 6 con của Ngô Cảnh Hữu là Ngô Phúc Tịnh tước Tứ quận công tặng Thái bảo, Ngô Phúc Tịnh sinh Ngô Phúc Vạn , Vị Quận công (không rõ húy) và hai người con gái. Vị Quận công lấy quận chúa họ Trịnh sinh hai con trai là Diên quận công - thủy tổ họ Tam Đa (Quang Lộc - Can lộc - Hà Tĩnh) và Lý quận công.

Đời thứ 7  - Ngô Phúc Vạn (1577 – 1652) còn có tên khác là Ngô Phúc Mại, tự Tử Hán, hiệu Huân Dương Chân Nhân, sinh giờ Dần ngày 20 tháng 5 năm Đinh Sửu (1577), mất 15 tháng 8 năm Nhâm Thìn (1652) Ngô Phúc Vạn là người văn võ toàn tài không chỉ võ nghệ cao cường, thông hiểu binh thư trận pháp mà thánh kinh hiền truyện, thiên văn, địa lý, toán học đều tinh thông. Là một trọng thần, một danh tướng của triều đình Lê - Trịnh, phía Bắc diệt Mạc bắt được Mạc Kính Cung, phía Nam chống Nguyễn giữ yên bờ cõi, bảo vệ chính đường, khẩn hoang ruộng đất, đưa lại lợi ích cho trăm họ trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở nước ta từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII. Ông là người đầu tiên mở con đường thiên lý từ Thượng Huề (Vượng Lộc - Can Lộc) đến phủ Kỳ Hoa (Kỳ Anh - Hà Tĩnh) và lập nên làng Trảo Nha xưa. Ngô Phúc Vạn làm quan đến chức Phó tướng Trung nhuệ Quân doanh, tước Thái Bảo, sắc phong là Tào Quận công, lúc về trí sĩ lập am Phúc Quy ở xã Thái Hà (xã Quang Lộc - Can Lộc ngày nay) tu tiên luyện Đạo với Pháp hiệu là Huân Dương Chân Nhân, thông hiểu nho y lý số, khi mất được nhân dân địa phương lập đền thờ tại quê nhà. Đền thờ và mộ Tào quận công được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1992. Ngô Phúc Vạn có 7 bà vợ sinh 15 con gái và 10 con trai sau này phát triển thành 10 chi phát tán khắp cả nước.

Đây là lần phân chi thứ 3:

- Dòng trưởng:

Nhuận Quận công Ngô Phúc Thiêm (1628-1662)” - Ngô gia danh tướng”. Ông là con trưởng Tào Quận công Ngô Phúc Vạn, mẹ là Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Uyên. Mẹ mất sớm, ông được Thanh đô vương Trịnh Tráng đem về nuôi trong phủ chúa đổi họ Trịnh. Năm 13 tuổi nhờ có công dẹp loạn Nguyễn Khắc Tôn được phong Nham Quận công. Năm 15 tuổi thi trận pháp đỗ đầu cả nước được thưởng 50 lạng bạc. Ông là người trí dũng song toàn, võ nghệ siêu quần, giỏi binh thư trận pháp, lâm trận biến hóa như thần đánh đâu thắng đó làm cho giặc kinh hoàng. Nhưng bản tính cương cường ương ngạnh nên nhiều phen thăng rồi bị giáng, cuối cùng mới được phục chức và thăng Đô đốc Nhuận quận công. Ông lấy Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Mai, con gái Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, ông ly dị khi chưa có con. 

Bà thứ Lê Thị Điều, tục gọi là Bà Thượng cũng không có con,vì vậy phả cũ chép là vô tự.Trong thời kỳ bị biếm ở Thăng Long, Ông có bà thiếp họ Nguyễn, sinh một con trai Ngô Phúc Thiên. Sau khi được lệnh cầm quân vào chống quân nhà Nguyễn ở Nghệ An, Ngô Phúc Thiêm từ trần. Bà họ Nguyễn đã đem con trai về Hải Dương, sinh con đẻ cháu thành chi họ Ngô ở xã Chi Lăng Bắc huyện Ninh Thanh tỉnh Hải Dương.Đương thời ông được mệnh danh là “ Ngô gia danh tướng”. Sau khi mât hoá thần linh thiêng, nhân dân Nghiện Hùng (Tiến Lộc - Can Lộc) thờ ông làm Thành Hoàng. Sắc phong “Dực bảo Trung hưng Trung đẳng tôn thần”

Sau ngày chiến thắng ở bờ nam sông Lam, được phục hồi chức tước đóng quân tại huyện nhà, ông có lấy thêm bà thiếp họ Mai , người làng Hàm Anh (nay thuộc xã Tân Lộc huyện Can Lộc).Vừa lúc ông từ trần, bà sinh một con trai Ngô Phúc Tiến,sinh sống tại quê Hàm Anh. Người con trai ấy trở thành Thủy tổ chi họ Ngô Tân Lộc ngày nay.

- Chi 2: Hàn Quận công Ngô Phúc Đang (? - 1696).

Ông là con thứ hai Tào Quận công. Tước Tham đốc đông giang hầu sau thăng Nam quân đô đốc phủ, hữu đô đốc châu Bố chính (Quảng bình) Năm Vĩnh trị thứ 3 (1678) được phong tước Hàn Quận công cùng ngày với hai em là Đằng Quận công Ngô Phúc Đang và Phượng Quận công Ngô Phúc Hộ. Sau khi nhuận Quận công Ngô Phúc Thiêm bị giáng chức, bắt phải đổi họ Phạm, ông được Tào Quận công giao ruộng đất hương hỏa và làm quyền tộc trưởng Chi 2 nối dòng tộc trưởng cho đến sau cách mạng tháng Tám - 1945. Hiện nay con cháu phân chi ở Phúc sơn, Bắc sơn (thị trấn Nghèn) và xã Tiến lộc, có một phái về Thạch hà. Nhà thờ hiện nay ở thôn Phúc Sơn - Thị trấn Nghèn - Can Lộc - Hà Tĩnh

- Chi 3: Đằng Quận công Ngô Phúc Hạp - Thị xã Châu Đốc

Ông là con trai thứ ba Tào Quận công Ngô Phúc Vạn.

Sau ngày Tào Quận công từ trần(1652), Ông là Chân kỳ Hầu khi mới 25 tuổi,là tướng trẻ có tài, được Chúa Trịnh giao cầm quân vào đất Chiêm Thành cũ, đánh sau lưng quân Chúa Nguyễn. Đi quá sâu vào Châu Đốc,vợ con ông ở lại đó không trở về quê cũ Trảo Nha. Nay thành một chi họ Ngô ở ấp Châu Thới 2, Thị xã Châu Đốc, đã ra liên lạc nhận gốc Tổ.

- Chi 4: Đáng Quận công Ngô Phúc Tân - huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định 

Ông là con thứ tư Tào Quận công Ngô Phúc Vạn. khi mới trên 20 tuổi được phong tước Khiêm cung Hầu, ông cầm quân vào đánh Điện Bàn thuộc trấn Quảng Nam. Tương truyền ba anh em (Đằng Quận công Ngô Phúc Hạp, Đáng Quận công Ngô Phúc Tân, Khanh tương Hầu Ngô Phúc Triều) bị sa cơ trong chiến đấu, không trở về được, phải ở lại. Tước Quận công là tước phong tặng sau này. Người anh lấy tên Ngô Hân, người em tên Ngô Chúng cùng ở huyện Phù Ly, sau chia thành hai huyện là Phù Mỹ và Phù Cát. Người em sinh Ngô Thị Dũng, hai cha con di cư vào nam Phú Yên, rồi qua Gia Định, còn tồn nghi, đến nay chưa xác định được cụ thể.

- Chi 5 - dòng Phượng quận công Ngô Phúc Hộ (1634 – 1704).

Ông là con thứ 5 của Thái bảo Tào quận công Ngô Phúc Vạn, con cháu phân chi nhiều địa phương như Quảng trạch - Quảng bình, Thụy phương – Hà Tây. Ở Trảo nha hiện còn phái 1 Vinh Quận công và phái 4 Thuyền Phái Hầu (Có một nhánh ở Hưng Yên - Hưng Nguyên - Nghệ An). Phái 2 Tuấn Đức Hầu ở Quảng Trạch - Quảng Bình. Phái 3 Vị Phái Hầu ở xã Thụy Phương, huyện Chương Mỹ Hà nội. Con cháu các đời sau đều được phong Quận công và Hầu tước, đặc biệt huyền tôn của Ngô Phúc Vạn (cháu 5 đời) là Ngô Phúc Phương, húy Túc (1710 - 1804) làm đến chức Đại tư đồ (Thừa tướng) kiêm phụ dực nội điện là chức quan coi sóc việc nội chính trong phủ Chúa. Bà là con gái thứ 8 chúa Trịnh Cương sinh 5 người con trai đều được phong tước hầu: Trọng võ hầu Ngô Phúc Trọng, Khoát võ hầu Ngô phúc Giám (phái Yên viên – Hà Nội), Thuần trung hầu Ngô Phúc Thuần, Ngạn Trung hầu (thất truyền) và Diễn võ bá Ngô Phúc Diễn (phái nội thành Hà nội). Ngô Phúc Trọng sinh 4 người con trai: Phúc Bành, Phúc Dương, Phúc Ba, Phúc Lộc.

Ngô Phúc Bành về Trảo Nha trở thành thủy tổ của phái 1 chi 5. Phúc Dương ở Ninh Sơn, Phúc Ba sinh con cháu về Trảo Nha sau vào Vĩnh Lưu (Thạch Vĩnh - Thạch Hà).

Ngô phúc Bành sinh Phúc Thân, Phúc Dũng, Phúc Cụ.(Hai người sau tồn nghi lên ở Thổ Hoàng - Hương khê). Nhà thờ hiện tại ở khối I thị trấn Nghèn - Can lộc - Hà tĩnh..

- Chi 6: Kiêm lộc Hầu Ngô phúc Điền:

Ông là con trai thứ sáu Tào Quận công Ngô Phúc Vạn , Cẩm y vệ thự vệ, Chánh cai đội, con cháu ngày nay phát triển đông đúc ở thôn Văn Cử - xã Xuân Lộc - Can Lộc - Hà Tĩnh

- Chi 7: Hào mỹ Hầu Ngô Phúc Liêu

Ông là con trai thứ bảy Tào Quận công Ngô Phúc Vạn, Sinh hai con trai: Ngô Văn Cang Ngô Thuần Cẩm.

- Dòng Ngô Văn Cang thiên cư vào Quảng Nam

- Dòng Ngô Thuần Cẩm làm quan nhà Lê ở Thăng Long. Vài đời sau, khi vua Lê Chiêu Thống chạy theo quân nhà Thanh, con cháu là Ngô Phúc Thước về ở làng Quan Thổ, xã Thổ Quan, tổng Vĩnh An, huyện Hoàn Long, trấn Sơn Tây, nay là phường Thổ Quan, quận Đống Đa - Hà Nội.

- Chi 8: Vân lĩnh Hầu Ngô Phúc Phổ - Làng Vĩnh Ba, xã Hòa Đông, huyện Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên

Vân lĩnh Hầu, lúc nhỏ có tên là Bạc, con trai thứ 8 Tào Quận công phả cũ chép thất truyền,mấy năm gần đây chi họ Ngô chợ Rạng huyện Thanh Chương về nhận tổ,Gần đây lại có họ Ngô Văn ở huyện Tuy Hoà tỉnh Phú Yên nhận là dòng Ngô Phúc Phổ. (Hiện chưa thể khẳng định được, về niên đại thế thứ và tương truyền nên chép vào đây để sưu tầm xác định sau).

- Chi 9 -Toản Võ Hầu Ngô Phúc Trị (1643 - ?)

Khi Tào Quận công mất, Ngài mới 10 tuổi, lúc bấy giờ chiến tranh loạn lạc, quân Chúa nguyễn lấn chiếm đất Nghệ an đến bờ sông Lam, trong cơn binh lửa bị lạc mẹ, được bà bảo mẫu đưa về nuôi ở xã Ngọc sơn - phủ Thạch Hà, lưu lạc 10 năm sau ngày yên ổn trở về Trảo Nha lấy vợ người Phù Việt. Thi võ ở phủ trúng cách làm Quản quân, dòng dõi quân thần được phong tước Hầu, làm lực sĩ Ty lực sĩ hiệu úy, sau được thăng đô chỉ huy sứ ty, chỉ huy đồng tri, Thượng trụ quốc. con cháu hiện nay tập trung chủ yếu ở thị trấn Nghèn và xã Tiến Lộc - Can Lộc - Hà Tĩnh. Một phái ở xã Nghi công - Nghi lộc - Nghệ an. Hiện nay nhà thờ ở khối 2 thị trấn Nghèn - Can lộc - Hà Tĩnh

- Chi 10: Khanh tương Hầu Ngô Phúc Triều - Huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình

Ngài làcon trai thứ 10 Tào Quận công , trấn thủ bến Trọng - Đồng Hới , vợ con ở lại không về, sinh ba con, con trưởng trở về Trảo Nha, truyền đến đời Ngô Phúc Duyện. Hiện nay con cháu ở lâm trường Hương Khê - Hà Tĩnh

Dòng thứ 2 theo đạo Thiên chúa, truyền đến đời Ngô Đình Khả, làm Thượng thư Phụ Đạo Đại Thần triều Đồng Khánh nhà Nguyễn. Sau ngày vua Hàm Nghi bị thực dân Pháp bắt , phong trào Cần Vương Phan đình Phùng tan rã, thực dân Pháp đưa ra hai bản án đày vua Hàm Nghi và quật mộ Phan đình Phùng. Ngô Đình Khả trong triều đình Nam triều không ký bản án đày vua, Nguyễn Hữu Bài không ký bản án quật mộ. Đương thời có câu "Đày vua không Khả - quật mả không Bài".

Ngô Đình Khả Thượng thư Phụ Đạo đại thần triều Đồng Khánh, Cố vấn của Vua Thành Thái nhà Nguyễn, Sinh Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm,Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện, Ngô Đình Cẩn. Sau ngày Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị ám sát, gia đình ra nước ngoài hiện nay con cháu định cư ở Pháp, Bỉ và Italia.

Còn dòng thứ 3 truyền đến đời hiện nay là tộc trưởng Ngô Khiêm thôn Phổ Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình

Thời kỳ Tào Quận công và con trai là Nhuận Quận Công Ngô Phúc Thiêm được giao trấn thủ Nghệ an, có lần về triều Chúa hỏi tình hình, ông trả lời “Xin Chúa thượng bình tâm,cha con tôi còn ở đó địch không dám làm gì, một mai thế sự biến thiên tôi không thể biết trước được”. Chúa ban lời khen “Cha con ông thực xứng đáng là “Xã tắc chi Trảo nha” (Nanh vuốt của nước nhà). Về sau Tào Quận Công được phong ấp ở quê bèn đổi tên xã là Đan Liên thành Trảo Nha. Tên xã Trảo nha có từ đó.

Năm 1608 Tào Quận Công Ngô Phúc Vạn lấy Quận chúa Trịnh thị Ngọc Luyện được Chúa Trịnh phong ấp 2 ngàn mẫu ruộng, lập 18 trang trại bao gồm một vùng rộng lớn từ xã Thái Hà (Quang Lộc ngày nay) đến tận làng Hội (Khánh Lộc) vòng ra tận cống Thượng Huề (Vượng Lộc) về đến vùng Cửa Đạo ( thị trấn Nghèn). Đến năm 1628 ông mới bắt đầu về quê ở làng Gia Kỳ xã Trảo Nha xây dựng dinh thự nguy nga: 32 toà nhà ngói, chuồng ngựa 50 con, xưởng đóng thuyền chứa được 5 thuyền lớn, mở con đường thiên lý từ cống Thượng Huề (Vượng Lộc) đến Kỳ Hoa (Kỳ Anh). Lại dựng am Phúc Quy ở xã Thái Hà (Quang Lộc) thờ Tam tài phủ quân:

- Thiên hoàng đại đế nguyên thủy thiên tôn

- Địa hoàng đại đế nguyên thủy thiên tôn

- Thần nông đại thánh nguyên thủy thiên tôn

Về sau con cháu thờ thêm:

- Huân Dương chân nhân đại thánh (tức Tào Quận công)

- Thái Đường chân nhân đại thánh (chưa rõ là ai?)

(Trong chiến tranh phá hoại của Mỹ am bị phá, hiện chỉ còn dấu tích nền am cũ).

Đến cuối thế kỷ 18, nhà Lê bắt đầu suy vong, tập đoàn phong kiến họ Trịnh lục đục xâu xé sát hại lẫn nhau tranh giành quyền lực.Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786) dưới danh nghĩa “phò Lê diệt Trịnh”, nghĩa quân Tây sơn dưới sự chỉ huy của Long nhương tướng quân Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà, quan quân họ Trịnh chống cự rất yếu ớt rồi nhanh chóng tan rã, chúa Trịnh Tông chạy lên Sơn Tây bị bắt giải về kinh thành nộp cho nghĩa quân Tây sơn, giữa đường cắt cổ tự sát. Đại đa số con cháu họ Ngô là cựu thần của nhiều đời Chúa Trịnh, thậm chí là con cháu ngoại họ Trịnh, lo sợ bị Tây sơn trả thù cũng đành phải mai danh ẩn tích, có người thay tên đổi họ, lần lượt lui về cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã khắp mọi miền, đa số trở lại quê cha đất tổ ở Trảo Nha im hơi lặng tiếng một thời gian dài, giấu tung tích tộc trưởng, không ai dám nhận mình là cửa trên, xưng hô với nhau toàn bằng “chú”.(cách xưng hô này còn tồn tại đến ngày nay)

Suốt chiều dài lịch sử gần 500 năm đầy biến động thăng trầm, đa số con cháu trong họ đều làm quan làm tướng nên sống tập trung ở kinh đô hoặc thiên cư theo nơi cha ông được bổ dụng. Ở tại quê hương bản quán con cháu ít, nguồn sống chính là bổng lộc triều đình và lợi tức từ tô thuế ruộng đất được triều đình phong ấp. Đến khi lui về cuộc sông thôn dã do thiếu kinh nghiệm làm ăn, thiếu công cụ sản xuất nên từ tầng lớp “công thần tôn tử” nhanh chóng bị bần cùng hóa.Từ phu đài tạp dịch, đến thuế đinh thuế điền đều dưới danh nghĩa là “dân ngụ cư” nên phải chịu nhiều bất công nặng nề.

Đầu TK 20 triều đình Nhà Nguyễn mở cuộc điều tra đất đai, lập địa bạ các làng xã, có một vùng đất khoảng 300 mẫu giáp giới giữa các xã, sâu trũng, nước mặn đồng chua mỗi năm ngập lụt 2-3 lần, không xã nào chịu nhận vào địa bạ, nhân đó họ Ngô xin nhận lập thành một thôn mới đó là thôn Tập phúc một thôn toàn dân họ Ngô (chủ yếu là chi II, chi V, chi IX) – đó là thôn thứ 9 của xã Trảo nha.(vùng đất Cồn Trống thuộc Phúc xuân - Đại lộc cũ, hiện còn dấu tích đền Tập phúc và miếu thành hoàng ở cánh đồng Nhà Hy - Cửa miệu). Từ đó con cháu họ Ngô mới được coi là dân địa phương hợp pháp.

Suốt thời gian dài qua nhiều thăng trầm của lịch sử và chiến tranh loạn lạc, con cháu họ Ngô ly tán khắp mọi nơi, dần dần ở đâu an cư lạc nghiệp ở đó, ít người nghĩ đến chuyện trở quê hương và cũng ít có điều kiện để đi lại thăm hỏi nhau lâu dần thành mất liên lạc . Sau này khi đất nước được thống nhất, điều kiện kinh tế - xã hội dần dần được khôi phục và phát triển, con cháu khắp mọi miền bắt đầu nghĩ đến quê cha đất tổ, tìm về quê hương bản quán, tìm kiếm chắp nối, đối chiếu lại gia phả, họ Ngô ta lại bắt đầu thời kỳ hưng vượng, bước vào một thời kỳ phát triển mới.

Có thể tự hào rằng trong lịch sử tồn tại và phát triển của họ Ngô Trảo Nha hơn 500 năm qua con cháu hậu duệ của đức Thủy tổ Ngô Nước từ làng Chỉ Châu (sau này là đất Thổ Sơn) đã chuyển cư đến nhiều nơi khác nhau trong nước và nước ngoài nhưng đều mang theo hoài niệm về quê gốc, về Thuỷ Tổ – Thần Tổ của họ mình. Ở đâu cũng phát triển thịnh vượng sản sinh ra nhiều danh nhân trên các lĩnh vực văn hóa, lịch sử, quân sự. Theo Gia Phả thì dưới thời Lê và Tây Sơn, họ Ngô ở Trảo Nha có tới 18 quận công, 36 hầu tước, có 4 người đỗ Tạo sĩ (tiến sĩ võ) là Ngô Phúc Thiêm, Ngô Phúc Túc, Ngô Phúc Trọng, Ngô Phúc Hoằng và nhiều người đỗ Tam Trường .

Đại Tư Mã Ngô Văn Sở là một võ tướng của triều Tây Sơn, có công giúp Hoàng đế Quang Trung đánh đuổi giặc Thanh thống nhất giang sơn.

Tuy là dòng họ võ tướng, nhưng từ lâu đã có nhiều người giỏi văn học như các quận công Ngô Phúc Tịnh, Ngô Phúc Vạn, Ngô Phúc Thiêm …Ngô Phúc Túc (Hoành Quận công) - vừa đỗ Tạo sĩ (tiến sĩ võ), lại đỗ Hương Cống (văn).

Người đỗ đại khoa đầu tiên là Ngô Phúc Lâm (1724 - 1784). Ông là con thứ tư Dật Trung hầu Ngô Phúc Bình và là cháu nội Toản Võ hầu Ngô Phúc Trị (thuộc thế hệ thứ X - Chi 9 Trảo Nha).Cháu nội Ngô Phúc LâmNgô Phúc Trinh, Ngô Phùng, con Ngô PhùngNgô Huệ Liên đều đỗ cử nhân đời Nguyễn. Ngô Phúc Trinh làm Tri huyện; Ngô Phùng làm đến Hồng Lô tự Thiếu Khanh, còn Ngô Huệ Liên làm Quản Tu Quốc Sử quán, tặng Tham tri Bộ công. Ông là thân sinh tiến sĩ Ngô Đức Kế.

Có thể nói rằng Lịch sử họ Ngô gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Quá trình hình thành tồn tại và phát triển của dòng họ luôn song hành với những thăng trầm của lịch sử, trải qua bao cơn binh đao loạn lạc con cháu ly tán, nhà thờ lăng mộ bị hoang phế, gia phả bị thất lạc... Ngày nay khi đất nước đã thống nhất, kinh tế - văn hóa - xã hội đang phát triển, dần dần con cháu sẽ tìm về cội nguồn, chắp nối gia phả nhìn nhận lại họ hàng. Giở lại những trang lịch sử hào hùng của ông cha chúng ta càng thêm tự hào được làm con cháu họ Ngô càng ra sức công tác học tập phấn đấu để xứng đáng với truyền thống của của ông cha.

(Theo: Ngô Trọng Kim- đăng tại http://nguoitraonha.blogspot.com/.../vai-net-ve-lich-su... )

Xin theo dõi tiếp BÀI 22. Thân ái, dienbatn

Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 20.

9/16/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 20.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

I.   ĐỊA CHÍ CAN LỘC HÀ TĨNH.

II. CÁC VỊ TỔ ĐẦU TIÊN CỦA DÒNG HỌ NGUYỄN TRÀNG LƯU. ( Tiếp theo ).

Ta tiếp tục xét các thế hệ của dòng họ Nguyễn Tràng Lưu.

1/ĐỜI THỨ NHẤT :Nguyễn Uyên Hậu là ông tổ của họ Nguyễn Tràng Lưu, ông có tên thụy là Dụ Khánh, giữ chức Minh kinh bác sĩ ở Quốc tử giám thời Lê Thánh Tông. Về sau ông về lại Trung Quốc, dặn con cháu lấy ngày Đông Chí làm ngày giỗ.

2/ĐỜI THỨ 2 :Nguyễn Hàm Hàng là con của Nguyễn Uyên Hậu. Năm 15 tuổi đỗ Hương cống, thi hội đạt tam trường, ông làm quan ở Quốc tử giám.

3/ĐỜI THỨ 3 :Nguyễn Thừa Mỹ là con thứ của Nguyễn Hàm Hằng, đỗ Hương cống.

Đời thứ 4 và thứ 5 không thấy ghi chép ai đỗ đạt. Đến đời thứ 6 tính từ Nguyễn Uyên Hậu có Nguyễn Đôn Hậu đỗ Hương cống, làm chức Tham tướng thần sự. Người em của Nguyễn Đôn Hậu là Nguyễn Như Thạch (1579 – 1662) đỗ Hương giải năm 1602, làm đến Lang trung bộ Hình.

Đời thứ 7 Nguyễn Công Ban đỗ Hương cống, sau đỗ khoa sĩ vọng năm 1665, làm đến Giám sát ngự sử, tước Thái Sơn Nam.

Đời thứ 8Nguyễn Công Chất đỗ Hương giải năm 1675, làm tri huyện Thạch Hà.

Đời thứ 9 có hai anh em là Nguyễn Công Xuân (1688 - ?) đỗ Hương cống, làm Đồng nhạc đường mậu lâm lang và Nguyễn Huy Tựu (1690 – 1750) đỗ Hương giải, làm Tham chính Thái Nguyên, Tả thị lang, được truy phong Thượng thư bộ Công, tước Khiết Nhã hầu. Từ Nguyễn Huy Tựu ở đời thứ 9 thì dòng họ Nguyễn đổi thành Nguyễn Huy, mở ra một thời kì mới của dòng họ Nguyễn Tràng Lưu .

Đời thứ 10. Nguyễn Huy Oánh (1713 – 1789) là con trưởng của Nguyễn Huy Tựu, tự là Thư Hiền, hiệu Thạc Đình, biệt hiệu là Thiên Nam cư sĩ. Ông đỗ đầu thi hương, đỗ Đình nguyên Thám hoa năm 1748. Về sau ông làm các chúc Tri phủ, Hàn lâm viện thị chế, Quốc tử giám tư nghiệp, Hàn lâm viện thừa chỉ. Ông đi sứ Trung Quốc năm 1765. Về được thăng Thị lang, Ngự sử đài đô ngự sử, thượng thư bộ Công. Năm 1777, ông cáo quan về quê.

Nguyễn Huy Cự (1707 – 1775), là con của Nguyễn Huy Tựu, đỗ Hương     giải, được phong tước Ngật Đình bá.

Nguyễn Huy Kiên, là con của Nguyễn Huy Tựu, đỗ Hương giải, làm Thiêm sự bộ Lại.

Nguyễn Huy Quýnh (1734 – 1785), sau đổi là Trực, là con của Nguyễn Huy Tựu, đỗ Hương giải, năm 1772 đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan đến chức Hàn lâm thị chế. Khi quân chúa Trịnh tiến đánh Thuận Hóa, ông được cử làm Đốc thị đạo Thuận Quảng, sau đó mất trong quân ngũ.

Nguyễn Huy Khản, là con của Nguyễn Huy Tựu, đỗ Hương cống.

8.Đời thứ 11. Nguyễn Huy Tự (1743 – 1790) tự là Hữu Tri, hiệu Uẩn Trai. Ông là con của Nguyễn Huy Oánh. Năm 1759, đỗ Hương giải, sau đó được ban Tiến triều ứng vụ, xem ngang Tiến sĩ. Ông làm Tri phủ Quốc Oai. Năm 1770 được thăng Hiến sát phó sứ Sơn Nam. Năm 1774 chuyển sang võ chức, lần lượt giữa các chức Hiến sát sứ Sơn Tây, Đốc đồng Sơn Tây. Ông được ân thăng Hàn lâm viện hiệu lý và ban tặng 4 chữ “Võ khố hùng lược”. Nguyễn Huy Tự là con rể của Nguyễn Khản . Nhân loạn kiêu binh năm 1785, ông xin về trí sĩ tại quê nhà. Năm 1789, theo sự tiến cử của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Tự đã vào Phú Xuân nhận chức Hữu thị lang bộ Binh của triều Tây Sơn Nguyễn Huệ, tuy nhiên được hơn một năm thì ông mất.

Nguyễn Huy Tự (阮輝嗣, 1743-1790): còn có tên là Yên, tự Hữu Chi, hiệu Uẩn Trai; là danh sĩ và là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Huy Tự sinh tháng 7 năm Quý Hợi (tháng 8 năm 1743) trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).

Ông là con trai trưởng của danh sĩ Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh, và là con rể của Tiến sĩ Nguyễn Khản (anh Nguyễn Du) ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

Năm 1790, ông được vua Quang Trung triệu tới Phú Xuân. Ông nhận lời làm Hữu thị lang cho nhà Tây Sơn. Nhưng liền sau đó, ông mắc trọng bệnh và mất ngày 27 tháng 7 năm 1790 tại Phú Xuân, lúc 47 tuổi, thụy là Thông Mẫn.

Nguyễn Huy Tự cưới Nguyễn Thị Bành (1750 - 1773), con gái của Nguyễn Khản làm vợ. Năm 1773, vợ mất. Sau đó, ông tục huyền cùng em gái vợ là Nguyễn Thị Đài (1752 - 1819), được 9 trai, 4 gái.

Một số người con như  Nguyễn Huy Phó, Nguyễn Huy Vinh và Nguyễn Huy Hổ đều tiếp nối truyền thống tốt đẹp của gia đình và đều là những văn nhân có tiếng, trong số đó có người con trai út là Nguyễn Huy Hổ (1783 - 1841), là người tinh thông thiên văn, y học, lý số, giỏi sáng tác văn chương, và là tác giả tập thơ Nôm Mai đình mộng ký viết năm 1809.

Nhà thờ họ Nguyễn Tràng Lưu thờ Nguyễn Huy Tự (Can Lộc)'

Đền thờ Nguyễn Huy Tự

Nhà thờ Nguyễn Huy Tự.

 Nhà thờ Nguyễn Huy Tự được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1991 gắn với danh nhân văn hoá Việt Nam Nguyễn Huy Tự.

 Đây là nhà thờ Nguyễn Huy Tựu, do Nguyễn Huy Oánh xây dựng từ năm 1752 để thờ cha là Nguyễn Huy Tựu, sau đó con cháu thờ cúng và làm giỗ theo ngành trưởng từ mẹ Nguyễn Huy Tựu là bà Nguyễn Thị Bẩm (1669-1743) - Nguyễn Huy Tựu - Nguyễn Huy Oánh - Nguyễn Huy Tự - Nguyễn Huy Tượng… nhà thờ thường được gọi là nhà thờ cụ Thượng (Nguyễn Huy Tựu được phong tặng là Thượng thư bộ Công năm 1767) hay nhà thờ họ Lục chi (từ 6 con trai của Nguyễn Huy Tựu nay chia thành 6 chi họ - Lục chi, vào các dịp tế Xuân, tế Thu, 6 vị tổ của 6 chi đều được tế ở đây).

Nhà thờ có diện tích khuôn viên hơn 800 m2, kết cấu theo kiểu chữ Nhị gồm thượng điện và hạ điện. Xung quanh vườn được rào dậu, có ba cây lộc vừng hơn trăm năm tuổi. Trong nhà thờ có 3 bia Quan thị bi ký, Nguyễn Thám hoa bi ký và Nguyễn Thị danh bi cùng nhiều câu đối, bản gỗ sơn son thiếp vàng, sập gỗ, ván khắc in sách. Nhà thờ còn lưu lại được 14 cặp câu đối, 4 bức đại tự. Bảng gỗ “Võ Khố Hùng Lược” thuộc về Nguyễn Huy Tự, bảng gỗ “Thiên Nam cư sĩ” thuộc về Nguyễn Uyên Hậu, bảng gỗ “Đẩu Nam tuấn dự thuộc” về Nguyễn Huy Oánh, bảng gỗ “Túy Hà cư sĩ” và “Tú Lâm cư sĩ” thuộc về Nguyễn Huy Tựu,v.v... Các câu đối, hoành phi chủ yếu ca ngợi công đức tổ tiên, sư phụ của con cháu, học trò hoặc là những tác phẩm tự thuật của các nhân vật dòng họ Nguyễn Huy. Đáng chú ý trong đó là những câu đối, hoành phi ghi lại những lời ban tặng, phong khen của triều đình Lê Trịnh (cho Nguyễn Huy Oánh, cho Đức Bà,...) và của quan lại triều đình Trung Hoa (cho Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự). Đó là những di sản vô giá thể hiện uy vọng, danh tiếng của các nhân vật lịch sử cũng như của bản thân làng Trường Lưu đã vang vọng rất xa, vượt ra khỏi biên giới sang tận Bắc quốc.  

Phần mộ của Nguyễn Huy Tự ở phía sau Rú Bụt, được con cháu và chính quyền xây lăng tu bổ năm 1995 (ảnh). Trong 3 ngôi mộ, chưa biết ngôi nào là mộ thật.

Nguyễn Huy Lạng là em của Nguyễn Huy Tự, ông đỗ hương cống.

Nguyễn Huy Tá cũng là em của Nguyễn Huy Tự, ông cũng đỗ Hương cống, làm Đốc học Bắc Ninh, Phó đốc học Quốc tử giám, tước Thư Đình hầu.

Nguyễn Huy Hào (1770 - ?) là con của Nguyễn Huy Quýnh, đỗ Hương cống, làm tri huyện Tiên Tữ tỉnh Bắc Ninh.

Nguyễn Huy Hội (1765 – 1838), có tên khác là Huy Phó, đỗ Hương giải năm 1783.

Nguyễn Huy Giáp là con của Nguyễn Huy Hào, đỗ cử nhân năm 1837.

Ngoài những vị khoa bảng nêu trên thì họ Nguyễn Tràng Lưu còn có thêm một nhân vật nổi tiếng khác. Đó chính là Nguyễn Huy Hổ (1783 – 1841), tên tục là Nhâm, tự là Cách Như, hiệu Liên Pha, ông là con thứ 3 của Nguyễn Huy Tự. Học giỏi nhưng ông không đi thi, ông sống ẩn dật tại quê nhà, đọc sách, làm thuốc, giỏi về y thuật, tinh thông thiên văn địa lí. Ông lấy cháu gái của vua Lê Cảnh Hưng nên tình cảm của ông đối với nhà Lê vô cùng sâu đậm. Năm 1823, vua Minh Mạng triệu ông vào kinh đô Phú Xuân làm thuốc. Ông đã chỉ ra vài điểm sai lầm của Khâm Thiên giám, về sau triều đình nghiệm thấy đúng, vua lấy làm kính phục ban cho chức Linh lang đài.

 Hàng cháu (thế hệ 11), có Nguyễn Huy Tự (1713-1790) đỗ thi Hương năm 17 tuổi, thi Hội liên trúng tam trường, được ban tiến triều ứng vụ, coi ngang Tiến sĩ, làm Thị nội văn chức thăng đến Hiến sát phó sứ, chuyển sang võ ban, làm Quản binh, Trấn thủ Hưng Hóa, Đốc đồng, tước Uẩn đình hầu, về sau vào Thuận Hóa, làm Hữu tham tri bộ Binh triều Tây Sơn, nhưng bao lâu thì mất. Em Nguyễn Huy Tự có Nguyễn Huy Lạng và Nguyễn Huy Tá đỗ Hương cống, Huy Tá làm Đốc học Bắc Ninh, Phó đốc học Quốc tử giám, tước Thư đình hầu. Những người khác đều tập ấm Triều liệt đại phu. Con Nguyễn Huy QuýnhNguyễn Huy Hào (1770-?) đỗ Hương cống làm Tri huyện Tiên Lữ.

Thế hệ 12, con Nguyễn Huy Tự có Nguyễn Huy Hội hay Huy Phó (1765-1838) đỗ giải nguyên năm 1783. Những người khác đều là nho sinh, tập tước Hiển cung đại phu. Riêng Nguyễn Huy Tượng (trưởng) được phong tước Sai lĩnh bá, Nguyễn Huy Vinh (thứ) tước Trà lĩnh bá, và Nguyễn Huy Hổ (1783-1841), giỏi y thuật, thiên văn, được vua Minh mệnh triệu vào làm thuốc trong cung, nhân ông chỉ trích Tòa khâm thiên giám tính sai, nghiệm ra ý kiến ông đúng nên được phong Linh đài lang. Con Nguyễn Huy Hào là Nguyễn Huy Giáp đỗ Cử nhân năm 1837 đời Minh Mệnh. Từ đây con cháu họ Nguyễn Huy đều được học hành và có nhiều người giỏi, nhưng không ai đỗ đạt.

Họ Nguyễn Tràng Lưu, từ vị sơ tổ Nguyễn Uyên Hậu (TK XV) đến nay đã 19-20 đời là dòng họ đông nhất trong 40 dòng họ ở Trường Lộc hiện nay. Ngoài các chi phái ở quê gốc, còn có nhiều chi phái ở các nơi khác.

Ở Trường Lộc có 20 nhà thờ các chi phái họ Nguyễn Huy, trong đó có một số nhà thờ họ Đông Chí là di tích lịch sử văn hóa quốc gia, một số được dân tôn là Thành Hoàng nên cũng là đền thờ Thành Hoàng làng v.v...

Cũng như một số cự tộc văn học khác, họ Nguyễn Tràng Luu có rất nhiều người không chỉ uyên thâm Nho học mà còn có tài năng về nhiều mặt. Nguyễn Huy Oánh “.. đọc bách gia chư tử, bao gồm thiên văn, địa lý, thái ất, nhâm, cầm, độn, toán, binh thư, binh pháp, không cách nào là không tinh tường, thông suốt nghĩa lý..” (“Can Lộc huyện phong thổ ký”). Nguyễn Huy Tự là một “thiếu niên đa tài nghệ” (Nguyễn Nghiễm), “đọc rộng, biết nhiều, tinh thông cả thư, họa, thanh luật, thạo phép dùng binh, giỏi việc án từ.” (Nguyễn thị gia tăng”), “học suốt cổ kim, ưu thông số thuật, quốc âm, thanh luật, kỹ nghệ gì cũng tinh tuyệt” (“Hành trạng”. Nguyễn Huy Hổ giỏi làm thuốc, thông hiểu thiên văn, địa lý.

Sự nghiệp lớn nhất, cũng là công tích lớn nhất của họ Nguyễn Tràng Lưu là dạy học và trước tác. 

 Vị tổ sáng nghiệp Nguyễn Uyên Hậu là một nhà giáo, giữ chức Ngũ kinh bác sĩ ở Quốc tử giám Thăng Long. Con cháu ông, đời nối đời đều có nhiều người làm nghề dạy học, và nhiều người nổi tiếng trong xứ, trong nước. Có người mở trường ở một vùng quê như hiệu sinh Nguyễn Thừa Tổ, Chung Sơn cư sĩ Nguyễn Huy Vinh... Có người là học quan như Hương cống Nguyễn Hàm Hằng, dạy ở Quốc tử giám, Hương cống Nguyễn Huy Tá, làm Đốc học Bắc Ninh, rồi được triệu lên làm việc ở Quốc tử giám. Đặc biệt, Thám hoa Nguyễn Huy Oánh có thời gian từng làm gia sư trong các phủ đệ họ Trịnh, làm A bảo dạy Thế tử, về sau lại làm Quốc tử Giám Tư nghiệp kiếm Nhập nội Thị giảng cùng con trai Nguyễn Huy Tự làm Thị nội văn chức tùy giảng ở phủ Lương Vương.

Nguyễn Huy Oánh là nhà giáo dục lỗi lạc, “học không chán, dạy không mỏi” (Câu đối tặng của Hiệp trấn họ Giác Trung Hoa), là học giả cự phách, “văn chương mực thước” (Lời Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm), là nhà trước tác lớn trong dòng "Bách khoa thư” thế kỷ XVIII. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ gần 40 quyển sách: “Ngũ Minh, Tứ thư tin yêu” (15 quyển), “Tính lý toàn yếu” (1 quyển), “Quốc sử toản yêu" (1 quyển), “Sơ học chỉ nam” (1 quyển), “Châm cứu toát yêu" (1 quyển), “Trường Lưu Nguyễn Thị” (10 quyển), “Hoàng hoa sứ trình đồ” (2 quyển), “Bắc dư tập lãm” (1 quyển), “Phụng sứ Yên kinh tổng ca” (1 quyển), “Tiêu Tương bách nịnh” (1 quyển), “Thạc Đình di cảo” (2 quyển), “Huấn nữ tử ca” (1 quyển). Tiếc rằng hầu hết tác phẩm trên đều đã thất truyền (1 ).

Sau Nguyễn Huy OánhNguyễn Huy Quýnh (em trai ông), Nguyễn Huy Tự (con trưởng) và Nguyễn Huy Vinh, Nguyễn Huy Hổ (hai cháu nội) được coi là các tác giả tiêu biểu trong dòng họ. Nguyễn Huy Quýnh hiệu Dần Phong có “Dần phong thi sao” (4 quyển), “Dần phong văn sao” (3 quyển), “Tây Hưng đạo sử tập” (đều không còn), “Quảng Thuận đạo sử tập” và bài “Thác lời người con gái phường vải Tràng Lưu”2). Về Nguyễn Huy Tự, trước kia chỉ có sách “Lai Thạch tân khoa ký” (chưa rõ của ai) chép: “Ông nở trước khá nhiều, nhưng) chỉ còn “Truyện Hoa tiên” và chép tiếp: “Tây Hưng đạo sứ tập”, “Quảng Thuận đạo dư tập”. Hai người con của Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Vinh để lại tập “Chung sơn di thảo”, và Nguyễn Huy Hổ là tác giả “Mai đình mộng ký”.

CHÚ THÍCH

(1) Trong “Tuyển tập thơ văn Nguyễn Huy Oánh” (NXB Hội nhà văn, H.2005), ông Lại Văn Hùng cho biết ở Thư viện Viện Hán Nôm và gia đình họ Nguyễn Huy còn lưu giữ được 8 cuốn (“Bắc dự tập lãm”, “Hoàng hoa sứ trình đồ”, “Phụng sử Yên Kinh tổng ca”, “Sơ học chỉ nam”, “Quốc sử toàn yếu”, “Huấn nữ tử ca”, “Dược tính ca quát”, “Thạc Đình di cảo”). Sách “Lược truyện các tác gia Việt Nam” (Tập 1 - KHXH - H.1971) ghi 5 tên sách, và “Tác gia Hán Nôm Nghệ Tĩnh” (của Thái Kim Đỉnh, Thư viện Hà Tĩnh xuất bản, 1996) ghi 8 tên sách trong đó đều có tên sách “Cổ lễ nhạc chương thi văn tập”. Trong bài “Về bộ ván khắc của Thạch đình tàng bản lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Tràng Lưu” (TKĐTC Hồng Lĩnh số 33 8/2006) chỉ giới thiệu hai bộ “tính lý toàn yếu đại toàn" và “Ngũ kinh toàn yếu đại toàn”, và nói không thấy có “Tứ thư trong bộ ván khắc. (2) Theo Nguyễn Huy Mỹ - VHHT số 74 - 9/2004. Trong sách “Nguyễn Huy Vinh với “Chung sơn di thảo” (NXB Hội nhà văn 2005), ông Lại Văn Hùng đặt vấn đề: “Có thể “Thác lời người con gái phường vải...” là của Nguyễn Huy Vinh”.

 Như vậy, hai nguồn tài liệu chép khác nhau về hai cuốn “Tây Hưng đạo.” và “Quảng Thuận đạo..” mà NHM ghi “sử tập” còn LTTKK chép “sứ tập” và “dư tập”. Theo tôi, cuốn “Quảng Thuận đạo sử tập” (hay “dư tập (?) chắc chắn là của Nguyễn Huy Quýnh vì ông từng làm Đốc thị đạo Quảng, Thuận và sách hiện còn Ở Thư viện Hán Nôm; còn cuốn “Tây Hưng đạo sứ tập” là của Nguyễn Huy Tự vì ông làm Trấn thủ Hưng Hóa rồi Đốc đồng Sơn Tây, Hưng Hóa, và có thể đây là một tập thơ (?).

Sau các tác giả lừng danh trên, họ Nguyễn Tràng Lưu còn nhiều nhà thơ, nhà văn, tiếc rằng tác phẩm của họ truyền lại quá ít ỏi: “Nữ huấn ca” của Nguyễn Huy Phó; “Mai đình mộng ký thi” của Nguyễn Huy Hào; “Phượng Dương Nguyễn tông thể phả tự” của Nguyễn Huy Giáp, một người nổi tiếng văn hay”; “Tràng Lưu giai sự Định” của Nguyễn Huy Cừ (thế hệ XV) v.v...

Ngoài thơ văn chữ Hán, nhiều tác giả Nguyễn Tràng Lưu rất sành văn Nôm, trong đó có những danh tác như ta đã biết, hầu hết viết bằng thơ lục bát. Đặc biệt, Nguyễn Huy Oánh đã dùng hình thức dân tộc này viết nên những bài ca chữ Hán (“Phụng sứ Yên kinh tổng ca” 470 câu; “Dược tính ca quát” 234 câu).

 ( Trích từ HÀ TĨNH – Đất văn vật Hồng Lam – Thái Kim Đỉnh ).

Hệ thống di tích đã được xếp hạng ở Trường Lưu bao gồm 4 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (các đền thờ: Nguyễn Huy Oánh (1713-1789), Nguyễn Huy Cự (1717-1775), Nguyễn Huy Tự (1743-1790) và Nguyễn Huy Hổ (1783-1841); 6 di tích cấp tỉnh là mộ và đền thờ danh nhân (đền thờ Nguyễn Uyên Hậu, mộ Nguyễn Công Ban (1630-1711), mộ Nguyễn Huy Tựu (1690-1750), mộ Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785), đền thờ Nguyễn Huy Vinh và đền thờ Nguyễn Duy).

Sắc phong, bia ký: Hiện còn 14 bản sắc phong cho các nhân vật của dòng họ và Thư viện Phúc Giang: + 2 bản cho Nguyễn Công Ban (1630-1711). + 1 bản cho Nguyễn Huy Tựu (1690-1750). + 4 ban cho Nguyễn Huy Oánh (1713-1789). + 5 bản của Nguyễn Huy Hổ (1783-841). + 2 bản cho Thư viện Phúc Giang (1783, 1824). Ngoài sắc phong, còn có 2 tấm bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) ghi tên: + Nguyễn Huy Oánh, đỗ 1748. + Nguyễn Huy Quýnh, đỗ 1772.

Loại gia phả:

+ Phương Dương Nguyên tổng thể phá (VHv. 1354), cuốn phả chép thế thì còng họ Nguyễn Huy từ cụ viễn tổ Nguyễn Uyên Hậu (thế kỷ XV) đến đời thứ 13 (nửa sau thế kỷ XIX).

+ Nguyễn Thị gia tăng: bản tàng tư của dòng họ Nguyễn Huy, sư chép thơ văn và lành trạng của một số nhân vật trong dòng họ.

Di vật quý nhất ở Trường Lưu còn lại là quả chuông ở chùa Hân, như đã trình bày ở trên, chuông này được đúc thời Tự Đức, có bài ký viết trên chuông, nhưng nay khó đọc, vì thời kháng chiến chống Pháp được dùng để đánh kẻng. Trước đây chuông ở chùa Hân được Nguyễn Huy Oánh đúc ở chùa Tuyết Sơn ở Sơn Nam năm 1756 đưa về, chuông này nay không còn, về việc này ông có viết bài ký [7,17].

Triện của Nguyễn Huy Quýnh hiện do con cháu giữ, tiếc rằng hiện vẫn chưa đọc được các chữ khắc ở triện này.

Một di vật quý hiếm của làng Trường Lưu là hiện tại còn hơn 400 bản khắc gỗ để in sách, thời 1945-1954 bị mất mát nhiều, người dân chẻ làm củi sưởi khi rét. Trước đây theo sách của triều Nguyễn Đại Nam nhất thống chí chép là có hàng vạn bản, thời CCRĐ là bị phá nhiều nhất, thậm chí có nhà còn chẻ ra làm củi đun suốt mùa đông sưởi ấm…Năm 1961 lúc về Trường Lưu, PGS Nguyễn Thạch Giang có lấy mấy bản ra Hà Nội, sau này ông có giao lại cho tôi một bản. Bảo tàng Hà Tĩnh đã dập lại được hơn 1500 bản và chúng tôi đã nhờ Anh Thái kim Đỉnh xem và anh đã giới thiệu một bài về các bản khắc gỗ này. Các văn bản khắc gỗ của triều Nguyễn ở Huế đã được UNESCO, các bản khắc gỗ chùa Vĩnh Nghiêm đã công nhận là di sản văn hóa, như vậy các bản khắc gỗ ở Trường Lưu thật quý, vì có trước các bản kia nhiều và là của tư nhân dòng họ.

Hiện tại ở Trường Lưu có 3 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia là: Nhà thờ (Đại tôn) và mộ Nguyễn Huy Oánh, nhà thờ (họ Lục chi) và mộ Nguyễn Huy Tự và nhà thờ và mộ Nguyễn Huy Hổ; 5 di tích cấp tỉnh là: Đình làng, nhà thờ (Đông chí) Nguyễn Uyên Hậu, nhà thờ và mộ Nguyễn Huy Cự, nhà thờ và mộ Nguyễn Huy Vinh, mộ Nguyễn Huy Quýnh (nhà thờ ở xã Đức Dũng).

Vào những năm trước 1945 họ Nguyễn Tràng Lưu còn giữ được hơn 1.000 bản

sách khắc gỗ, chứa đầy cả một căn nhà thờ của chi tộc trưởng. Kháng chiến chống Pháp nổ ra, số sách gỗ bị người dân trong làng đem ra chẻ làm củi đun sưởi ấm. Hàng ngàn bản sách giấy của Phúc Giang thư viện cũng bị đưa ra đốt, chỉ còn lại một ít cuốn được các ông Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh mượn đem ra Hà Nội nghiên cứu,nay còn lưu giữ tại Thư viện quốc gia Hán - Nôm. Hiện nay tại nhà thờ họ NguyễnHuy còn tồn tại 375 mộc bản.

Mộc bản Trường Lưu là bộ ván khắc dùng để in sách “giáo khoa” phục vụ cho việc dạy và học, được hình thành trong quá trình hoạt động văn hóa của dòng họ Nguyễn Huy từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX tại trường học Phúc Giang, làng Trường Lưu, xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Phần lớn các mộc bản của “Mộc bản Trường Lưu” được khắc 2 mặt, tờ đầu, lời tựa, tự, bạt, được trình bày chính giữa là tên sách, trang, tập, quyển; mỗi bản để lề trên 1-1,2 cm, dưới 1-1,2 cm, lề phải 1 cm và lề trái 1 cm. Đây là khối mộc bản duy nhất, cổ nhất về giáo dục của một dòng họ còn được lưu giữ ở Việt Nam. Di sản bao gồm 383 bản, được khắc chữ Hán ngược để in 3 tập sách giáo khoa kinh điển (gồm 11 quyển) của Nho giáo và 01 quyển sách quy chế trường học: Tính lý toản yếu đại toàn, Ngũ kinh toản yếu đại toàn và Thư viện quy lệ.

Tháng 5/2016, Mộc bản Trường Lưu được Ủy ban Chương trình ký ức Thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương (MOWCAP) công nhận là di sản tư liệu ký ức thế giới. Đây không chỉ là niềm vui của dòng họ Nguyễn Huy mà còn là niềm tự hào, hãnh diện của Việt Nam.



Cuốn sách “Hoàng hoa sứ trình đồ” được vẽ với 3 loại màu, trên giấy dó bằng chữ Hán, sách có khuôn khổ 22x14, đóng theo kiểu xưa gồm 119 tờ.

“Hoàng hoa sứ trình đồ” là cuốn sách cổ được sao chép lại năm 1887 từ bản gốc của soạn những năm 1765 - 1767 dưới triều vua Lê Hiển Tông. Đây là bản sao chép tay duy nhất do con cháu dòng họ Nguyễn Huy lưu giữ tại tư gia ở làng Trường Lưu.

Cuốn sách là tập bản đồ ghi chép với nhiều hình ảnh, thông tin phong phú, quý giá về hành trình đi sứ của sứ thần Đại Việt thế kỷ XVIII do Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) biên tập, hiệu đính và chú thích trong các năm 1765-1768, từ các tài liệu của các thế hệ đi trước, đồng thời bổ sung các chi tiết liên quan đến chuyến đi năm 1766-1767 do ông làm Chánh sứ.

Nhà thờ Nguyễn Huy Hổ với diện tích khoảng 150 m2 nằm ở trung tâm vườn Bao Đạc của Nguyễn Huy Oánh (vườn Bao Đạc là vườn do triều đình Lê Trịnh cấp cho Nguyễn Huy Oánh sau khi ông đỗ Đình nguyên Thám hoa, năm 1748 - Mậu Thìn). Nhà thờ trước chỉ có Thượng điện, trong có nhiều câu đối, bảng sơn son thiếp vàng, bảng gỗ khắc gia phả, 3 dòng thờ, bảng câu đối ghi do vợ lẽ của Thượng thư Nguyễn Văn Trình (bà là chắt gái của Nguyễn Huy Hổ), cùng các con phúng biếu. Năm 2001 nhà thờ Nguyễn Huy Hổ được công nhận là di tích lịch sử quốc gia.

Nhà thờ Đại tôn họ Nguyễn Huy.

 Nhà thờ đại tôn họ Nguyễn Huy gắn với Danh nhân văn hoá Việt Nam Nguyễn Huy Oánh.

Nguyễn Huy Oánh được triều Lê Trịnh phong tước Đại Vương và triều Nguyễn suy tôn là “Phúc Giang Thư viện Uyên bác Cai hạp Hiệu dụng Đoan túc Doãn ý Trác vĩ Thượng đẳng tôn thần” được thờ ở Đền Thư viện, ở phía Đông Nam vườn Bao Đạc. Đền nay không còn nhà chính, dấu tích chỉ còn một ít cốt tường gạch bao quanh, khoảng những năm 50-60 thế kỷ trước vẫn còn hai cột nanh cao ở trước cổng, ao rộng gần 300 m2. Ngày lễ Kỳ phúc, trước đây dân làng rước linh vị Nguyễn Huy Oánh từ Đền Thư viện về Đình làng để làm lễ. Năm 2006, nhà thờ Đại tôn họ Nguyễn Huy được công nhận là di tích lịch sử quốc gia gắn với danh nhân văn hóa Nguyễn Huy Oánh. Đây cũng là nhà thờ Nguyễn Công Ban (1630-1711), là tằng tổ của Nguyễn Huy Oánh. Tại nhà thờ này con cháu thờ cúng cụ Nguyễn Công Ban, bà vợ là Dương Thị Xa và theo ngành trưởng sau đó là Nguyễn Công Phác - Nguyễn Công Xuân - Nguyễn Huy Đề…

 Nhà thờ cấu trúc theo hình chữ Nhị bao gồm thượng điện và bái đường, phía trước có 2 cột nanh và câu đối. Năm 2008 con cháu đã sửa sang lại hạ điện, lát nền chống ẩm.

Nhà thờ Nguyễn Huy Vinh.

 Nhà thờ Nguyễn Huy Vinh nằm ở trong vườn Bao Đạc trên phần đất được chia cho ông và con cháu, gồm một nhà với nhiều bảng sơn son thiếp vàng, câu đối bên trong. Nhà thờ Nguyễn Huy Vinh, được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa Hà Tĩnh năm 2006 là nơi thờ cúng Nguyễn Huy Vinh cùng con cháu trong chi họ Hầu Chung Sơn. 

Phần mộ nguyễn Huy Vinh nay được đưa về ở phía dưới Thám hoa lăng ở Rú Phượng.

 Nhà thờ Nguyễn Huy Cự.

Nhà thờ Nguyễn Huy Cự - Đại Vương từ, nằm trên phần đất nhà vườn của ông thời trước. Nhà thờ cấu trúc theo hình chữ Nhị gồm thượng điện và hạ điện, trong đó có nhiều câu đối, bảng gỗ sơn son thiếp vàng, hòm sắc với 4 tờ sắc cho Nguyễn Huy Cự và con ông là Tri phủ Nguyễn Huy Trác. Dân làng làm lễ tế ông vào ngày mất 16 tháng Chạp, con cháu làm giỗ vào ngày 15 tháng Chạp hàng năm.

Nhà thờ Nguyên Huy Cự được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa tỉnh Hà Tĩnh năm 2009.

 Nhà thờ Đông chí.

 Nhà thờ Đông chí là nơi thờ Nguyễn Uyên Hậu, người đặt tên làng là làng Trường Lưu, giữ chức Ngũ kinh Bác sĩ thời Hồng Đức vua Lê Thánh Tông. Là người cùng cư dân bản địa dời lên gò Phượng lĩnh, và phát triển cho đến ngày nay. Nhà thờ nằm trên vườn tộc trưởng họ Nguyễn Huy Trường Lưu- vườn nhà ông Liên Mặc.

Ngoài các nhà thờ nói trên, trong hồ sơ các di tích cũng ghi nhận mộ của Nguyễn Huy Tự ở vùng chùa Sen sau Rú Bụt, mộ Nguyễn Huy Hổ ở Rú Cà, mộ Nguyễn Huy Oánh ở Rú Phượng và mộ Nguyễn Huy Quýnh cũng ở Rú Phượng là một phần của di tích lịch sử.

Mộ Nguyễn Huy Tựu.

Nguyễn Huy Tựu là Thành hoàng làng và là tác giả văn học, ông là người đặt ruộng khoa danh ở xứ Cồn Hiên, nằm giữa cánh đồng giáp với xã Phú Lộc, nhằm khuyến khích con cháu và dân làng học hành. Mộ Nguyễn Huy Tựu được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2011.

 Mộ Nguyễn Huy Quýnh.

 Mộ Nguyễn Huy Quýnh đã di chuyển qua nhiều nơi, hiện ở trong khu lăng mộ Nguyễn Huy Oánh ở Rú Phượng, là một phần của di tích gắn với danh nhân văn hóa.

Mộ Nguyễn Công Ban được xây lăng quãng những năm nửa đầu thế kỷ XIX, và đến cuối thế kỷ được tu bổ và xây lăng mộ của vợ ông là bà Dương Thị Xa, con gái của Bạt quận công Dương Trí Trạch. Tại Rú Mác trước đây còn có ngôi mộ của bà mẹ kế người Nhật của Nguyễn Công Ban, năm 1995 lúc chuyển mộ không còn gì.

- Mộ cụ Nguyễn Công Phác (1649-1706), thế hệ thứ 8 họ Nguyễn Huy Trường Lưu, tác giả bài Trướng mừng cụ Nguyễn Công Ban được vào làm quan trong triều năm 1693, ở lăng Vạn Niên.

          - Mộ bà Nguyễn Thị Đài (1752-1819), mẹ DNVH Nguyễn Huy Hổ, bà là tác giả bài thơ mừng thọ mẹ chồng năm 1789. Bà là người được làng Trường Lưu tế thời xưa (làng Trường Lưu tế 5 người: Nguyễn Huy Tựu, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Cự, Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thị Đài) do có công cúng ruộng cho làng “Nẩy làng”.

          - Mộ Nguyễn Huy Phó (1765-1838) thế hệ thứ 12 họ Nguyễn Huy Trường Lưu, trước ở... sau chuyển về gò Phượng Lĩnh, tác giả bài Huấn tử nữ ca.

          - Mộ Nguyễn Huy Toản, Nguyễn Huy Triện là hai người có công biên soạn tư liệu của dòng họ ở Rú Phượng.

          - Mộ Nguyễn Huy Mơi (1883-1934) thế hệ thứ 15 họ Nguyễn Huy Trường Lưu là tác giả bài Giáo đầu, năm 1927.

          - Mộ Nguyễn Huy Cừ (1887-1959) thế hệ thứ 15 họ Nguyễn Huy Trường Lưu là tác giả bài Trường Lưu giai sự vịnh

          - Mộ Nguyễn Huy Tường (1887-1967) thế hệ thứ 15 họ Nguyễn Huy Trường Lưu là tác gia bài Khuyên thục mữ và bài Đất Thường Nga.

Lời bàn của dienbatn Cùng với họ Nguyễn Tiên Điền thì họ Nguyễn Tràng Lưu là một cự tộc về trước tác. Hai dòng họ này đã tạo nên “Hồng Sơn văn phái” nổi tiếng trong cả nước. Tuy nhiên khi xét kỹ ta thấy dòng họ Nguyễn Tràng Lưu có lịch sử rõ ràng ,lâu dài và ổn định hơn họ Nguyễn Tiên Điền . 

Xin theo dõi tiếp BÀI 21.Thân ái,dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *