Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 23.
PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.
PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.
PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.
I. ĐỊA CHÍ CAN LỘC HÀ TĨNH.
II. CÁC VỊ TỔ ĐẦU TIÊN CỦA DÒNG HỌ NGUYỄN TRÀNG LƯU.
III. HỌ NGÔ - TRẢO NHA – CAN LỘC – HÀ TĨNH.
IV. HỌ NGUYỄN ĐỨC - NGUYỄN CHI - Ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh.
I. Đất và người Ích Hậu - Can Lộc - Hà Tĩnh.
Trước 2007, xã có thời gian gọi là Ích Hậu, sau đổi thành xã Hậu Lộc thuộc
huyện Can Lộc.
Sau 2007 ,Thành lập huyện Lộc Hà, xã chuyển từ Can Lộc sang huyện Lộc Hà,
gọi là xã Ích Hậu.
Trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, làng cổ Ba Xã (nay là
xã Ích Hậu – Lộc Hà) đã khắc phục những khó khăn của một địa danh "5 nắng,
10 mưa", phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tạo nên một vùng đất
"địa linh nhân kiệt". Ích Hậu ngày nay với những danh nhân và các giá
trị văn...
Trải dài từ Chân Tiên (điểm cuối cùng của dãy núi Hồng Lĩnh) đến núi Nam
Giới, phía Bắc giáp huyện Nghi Xuân, phía Tây và phía Nam giáp các huyện Can Lộc,
Thạch Hà và thành phố Hà Tĩnh, phía Đông là biển, Lộc Hà không chỉ được biết đến
là một vùng non nước hữu tình mà còn là vùng đất có truyền thống lịch sử, văn
hóa, cách mạng. Với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa như đền
thờ Mai Thúc Loan, đền thờ Chiêu Trưng Đại vương Lê Khôi, chùa Chân Tiên, chùa
Kim Dung, đình Đỉnh Lự, núi Bằng Sơn,… mỗi tên đất, tên người đã mang trong đó
niềm tự hào. Chính vì thế, việc hình thành huyện mới Lộc Hà là cơ sở để phát
huy tiềm năng của vùng đất này.
Một góc
con đường liên xã Ích Hậu ngày nay.
Làng Ích Hậu vốn chỉ là vùng đất cát pha, bốn phía sông ngòi bao bọc, từ
xưa vốn nổi tiếng là một miền quê nghèo. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, đất
và người nơi đây đã có nhiều thay đổi. Từ chỗ hoang sơ, đói nghèo, nhờ bàn tay,
khối óc của con người, Ích Hậu dần trở nên nhộn nhịp, sầm uất. Có lẽ chính từ sự
khó khăn trong sản xuất nông nghiệp nên người dân làng Ba Xã xưa đã sớm nuôi dưỡng
ý chí hiếu học. Vùng đất được bao bọc bởi thổ nhưỡng của các con sông ấy đã sớm
sản sinh cho đất nước những anh hùng tuấn kiệt.
Xã Ích Hậu giống như một hòn đảo thu nhỏ được bao quanh bởi mạng lưới
sông ngòi dày đặc, nằm ở vùng thấp trũng; sản xuất nông nghiệp, trồng mía, rau
màu các loại, nuôi trồng thủy sản… mất mùa triền miên do đất đai, ruộng đồng,
ao hồ đều bị nhiễm nước mặn nặng từ biển tràn vào. Hệ thống cơ sở hạ tầng không
có, đường sá lầy lội, đi lại khó khăn… đẩy nhiều người dân trong xã lâm vào cảnh
đói nghèo, nhà cửa xác xơ. Một số người lớn tuổi ở xã Ích Hậu cho biết,
mấy chục năm trước, do mất mùa liên tục nên người dân phải gửi con lại rồi đi bộ
hàng trăm cây số ra các tỉnh - thành: Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Thái Bình,
Hà Nội… để hành nghề ăn xin. Cũng vì có quá nhiều người trong xã đi ăn xin nên
mới có những biệt danh "xã ăn mày", "Hậu đùm", “làng ăn
xin", "làng cái bang"…
Hậu Lộc thuộc vùng đất vùng chiêm trũng nhưng hệ thống thủy lợi không được
chú trọng nên đồng chua nước mặn, đất nông nghiệp không sản xuất được, đói kém
xảy ra liên miên. Trong làng không còn một thứ gì để ăn được, đến rau má người
dân cũng đào ăn hết, số người chết đói trong xã rất nhiều.
“Năm 1978 đó là trận đói lịch sử khiến cả xã đói rụng rời, nhà ai cũng dắt
nhau đi ăn xin, đến nỗi số dân trong xã chỉ còn trên đầu ngón tay”. Người dân Hậu Lộc kéo nhau đi hành khất chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc như:
Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Nội… Quá khứ lùi xa, dân Hậu Lộc đã có cuộc sống
no đủ, một thời đói khổ đó không ai còn muốn nhắc lại.
Ngày nay, Ích Hậu luôn tự hào là quê hương của Hoàng giáp Đông các hiệu
thư Trần Đức Mậu đời Lê Thánh Tông, Tam nguyên Hoàng giáp, Tể tướng Nguyễn Văn
Giai là công thần "khai quốc" thời Lê Trung Hưng, nổi tiếng chính trực
và biết giữ nghiêm pháp luật triều đình, có công bình định nhà Mạc đồng thời
cũng là một nhà thơ thời Lê -Trịnh. Đặc biệt, đây còn là quê hương của dòng họ
Nguyễn Chi nổi tiếng về truyền thống yêu nước, văn chương và khoa bảng. Dòng họ
Nguyễn Chi dã sinh ra những tên tuổi lớn như: nhà giáo và chí sĩ Nguyễn Hiệt
Chi người đồng sáng lập Công ty Liên Thành và Trường Dục Thanh theo tinh thần
Duy Tân ở Phan Thiết, lãnh tụ phong trào chống thuế Nghệ Tĩnh Nguyễn Hàng Chi,
Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi - Thứ trưởng Bộ Y tế thời kháng chiến chống Pháp, Giáo
sư nhà văn hóa học Nguyễn Đổng Chi, Giáo sư dân tộc học Nguyễn Từ Chi, Giáo sư
cổ văn học Nguyễn Huệ Chi, Phó giáo sư chuyên gia mỹ thuật cổ Nguyễn Du Chi...
Ngoài ra, cũng ở Ích Hậu còn có nhà cách mạng tiếng tăm Lê Viết Lượng thời
kỳ tiền khởi nghĩa. Về sau, trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu
nước, phát huy truyền thống cách mạng, tiết khí quả cảm, yêu nước của người Hà
Tĩnh, bao lớp gái trai Ích Hậu đã xông pha ra trận, chiến đấu và hy sinh vì sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc…
Dường như cũng chính thổ nhưỡng của các dòng sông đã kiến tạo nên những
giá trị văn hóa đặc sắc của người Ích Hậu. Những ngôi đền lớn như đền Cả, đền
thờ Nguyễn Văn Giai… với lối kiến trúc chạm trổ tinh vi, thể hiện sự phát triển
sớm về văn hóa tâm linh của vùng đất này. Đền Cả được xây dựng năm 1475 thờ 3 vị
Lý Nhật Quang (hoàng tử thứ 8 của vua Lý Thái Tổ) và 2 vương hầu là Lý Đạo
Thành và Lý Thái Giai là 3 vị đã có công hướng dẫn nhân dân vùng Tây nam Hồng
Lĩnh khai lập nên một số làng trong đó có làng Kẻ Ngật (thuộc Ích Hậu). Về sau
đền còn thờ thêm 2 vị công thần nhà Trần là Trần Quang Khải và Trần Khánh Dư.
Đất Nghệ Tĩnh có nhiều dòng họ nổi
tiếng về cao khoa hiển hoạn, về võ lược văn tài... nhưng hiếm thấy các họ có
nét độc đáo như họ Nguyễn Đức - Nguyễn Chí ở Ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh.
Vị tổ của dòng họ Nguyễn Đức lục
chi Nguyễn Đức Tạo là cháu 9 đời của
Hoàng giáp Trần Đức Mậu thời Lê. Trần Đức Mậu lại là cháu trực hệ 5 đời
của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải
thời Trần. Như vậy, họ này vốn gốc hoàng tộc, đời Lê vẫn là quý tộc khoa bảng,
đến đời Nguyễn đã trở thành một dòng họ bình dân.
Hiện nay, không có tài liệu nào
cho biết người vào đất Hà Bạc (Ích Hậu) đầu tiên có phải là Trần Đức Mậu không, và vì sao một số
chi hậu duệ của ông lại đổi sang họ Nguyễn.
Vị viễn tổ Trần Quang Khải (1241-1294), Hoàng tử thứ ba của vua Trần Thái Tông, em Thánh Tông, chú Nhân Tông là
nhà chính trị, nhà quân sự, nhà thơ Việt Nam. Ông giữ chức Tướng quốc, Thái úy,
Thượng tướng quân dưới triều Thánh Tông, cùng với Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là hai • trụ cột của triều
đình trong và sau cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và thứ ba
(1284-1288).
Về vị tổ khai cơ ở Ích Hậu, (1442-?), sách Đăng khoa lục chỉ chép sơ lược:
ông “người xã Ích Hậu, huyện Thiên Lộc, 32 tuổi đỗ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng
giáp) khoa Nhâm thìn niên hiệu Hồng Đức thứ ba (1472) đời Lê Thánh Tông, làm
quan đến chức Đông các hiệu thư. Gia phả cho biết thêm: ông là người khai sáng
nên vùng đất Ích Hậu, bấy giờ còn mang tên Hà Bạc. Về già, ông cũng tư cơ của
mình cho xã để dựng ngôi chùa Trường Xuân (tức chùa Ba Làng), nên sau được phối
tự ở gian bên tây chùa. Làng còn lập đền thờ ông làm phúc thần, nhiều triều đại
có sắc phong (Chùa bị phá năm 1948, đền cũng chỉ còn cổng). Hiện con cháu trực
hệ ở tại đền cũ còn giữ được Cờ và Biển “Ấn tứ vinh quy” cùng một số đạo sắc và
tấm bia ghi tiểu sử, hành trạng của ông. Gia phả cũng sao chép lại được hai bài
văn ông làm khi thi Hội, thi Đình.
Vị tổ dòng Nguyễn Đức lục chi
húy Đức Tạo, tự Đoan Trai, thường gọi Can
Dũng (1788-1856) là con của lưu binh Đức
Thạc công. Nghĩ mình con nhà võ biền, ông không ham học hành mà chỉ chăm lo
vườn ruộng. Nhưng biết rằng tiểu nông khó mà gây dựng nên sản nghiệp lớn, ông
bèn học buôn bán. Bà vợ ông, Nguyễn Thị Hoa, hiệu Ngọc Liên (1796-1862) vốn
dòng dõi Hoàng giáp Lễ Quận công Nguyễn Văn Giai, là người khéo lo toan, cùng
ông trù tính việc làm ăn. Sau một thời gian buôn bán các hàng bông vải, tơ lụa,
cau khô, cá mắm phát đạt, ông bà tậu thêm ruộng đất, mở mang cả nghề nông,
không đầy mười năm, đã thành một nhà cự phú. Nhưng ông không chỉ biết làm giàu
mà còn biết đưa của cải mình làm ra dùng vào việc thiện, việc nghĩa. Văn bia ở
nhà thờ chép rằng: “Ông chủ trương chủ nghĩa lợi quần”. Phàm việc công ích (đắp
đường, bắc cầu, mở chợ...), ông quyên góp nhiều nhất, sớm nhất. Năm 1818 đời
Gia Long, ông xuất 10 lạng bạc cho đoàn đại biểu huyện Thiên Lộc vào kinh đô
Thuận Hóa trần tình về việc dân phiêu tán. Triều đình liền cho giảm thuế, và
giao cho ông xuất của nhà chiêu tập lưu dân trở về an cư lạc nghiệp, khiến cho
cả một vùng lại hồi sinh. Do công tích này, năm 1829 đời Minh Mệnh, ông được
Triều đình cấp bằng khen. Thời gian này, trộm cướp nổi lên nhiều nơi, ông được
cử làm Tuần thám Hà Tĩnh, chuyên trách ba huyện Nghi Xuân, Thiên Lộc, Thạch Hà.
Ông khéo tổ chức việc tuần phòng, chiêu dụ, trong vùng yên ổn, nên năm 1834,
ông được ban thưởng 60 quan tiền. Đến năm Tự Đức thứ 5 (1852), cả vùng hạ Thiên
Lộc đói to. Ông mở kho thóc nhà mình, cùng quan An tỉnh phái về, đứng ra phát
chẩn suốt cả tháng, giúp dân nghèo hai tổng Nội Ngoại và Phù Lưu thoát nạn. Việc
tâu lên, ông được triều đình ân thưởng tấm biển “Nghĩa dân” và 6 đồng tiền “Phi
long”. Khi ông mất, dân trong huyện nhớ ơn, kéo đến đưa đám rất đông.
Theo lời dặn của ông, bà vợ đem gia sản xây nhà thờ, đặt ruộng hương hỏa,
lại đặt ruộng Thánh, ruộng chùa, ruộng thần, ruộng học, ruộng bình cho làng, và
mời thầy về dạy học cho con em.
Sáu người con trai của ông bà Nguyễn
Đức Tạo là Đức Thống, Đức Xuân, Đức
Hoan, Đức Hạo, Đức Mạo, Đức Huy về sau trở thành tổ của sáu chi Nguyễn Đức.
Chi trưởng, đến đời thứ tư, đích tằng tôn
Nguyễn Đức Thuận đổi tên là Hiệt Chi
và lấy tên lót là Chi. Từ đó chi trưởng dòng họ Nguyễn Đức đổi thành Nguyễn
Chi, đến nay cũng đã bốn, năm đời.
Cổng vào
Khu lăng mộ.
Con cháu dòng họ Nguyễn Đức từ đời thứ hai, thứ ba trở đi đều có học,
nhưng họ chỉ tham dự việc tổng, việc xã, hoặc dạy học, làm thuốc, cày ruộng, đến
đời thứ tư mới có người đỗ đạt. Từ đây, bước vào đường tân học, nhưng nhiều người
vẫn uyên thâm Hán học. Và suốt thế kỷ XX, các thế hệ, dòng họ Nguyễn Đức - Nguyễn
Chi đã có đóng góp lớn cho đất nước, nhất là trong lĩnh vực văn hóa.
Điều dễ nhận thấy là người họ Nguyễn Đức tiếp thụ sâu sắc truyền thống
yêu nước của dân tộc và của tổ tiên, luôn biểu thị lòng nghĩa khí cao đẹp. Lúc
thường họ tính kế làm ăn, nhưng không mê chuyện vinh thân phì gia, mà chăm làm
việc công ích; khi hoạn nạn thì sẵn lòng nghĩa cử, bênh kẻ yếu, giúp người
nghèo. Về mặt này, ông tổ dòng Nguyễn Đức lục chi là người tiêu biểu. Có thể kể
thêm cháu 5 đời của ông, Y sĩ Đông Dương Nguyễn
Kinh Chi, khi làm việc tại Bệnh viện huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) thường một
mình một ngựa xuống tận các làng, tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, chạy chữa
cho nhiều con bệnh nghèo, có khi phải chữa cho cả gia súc. Cao hơn, khi đất nước
lâm nguy, người họ Nguyễn Đức không bao giờ thiếu mặt. Thời Cần Vương, lương y Nguyễn Đức Hoan (1827-1903) là thầy thuốc
trong nghĩa quân Phan Đình Phùng. Thời Duy Tân - Đông Du có anh em ông Hiệt, ông Hàng.
Nguyễn Hiệt Chi hiệu Mộng Thương (1870-1935), đỗ Tú tài
năm 1906, vào Phan Thiết cùng với các nhân sĩ Nguyễn Quý Phầu, Hồ Tá Bang...
thành lập Công ty Liên Thành buôn bán, không chỉ để mưu sinh mà còn góp phần mở
mang thương kỹ, chấn hưng đất nước theo chủ trương của Hội Duy Tân, đồng thời mở
Trường Dục Thanh nhằm nâng cao dân trí, truyền bá tư tưởng yêu nước. Nguyễn Tất
Thành từng dạy trường này. Người cháu gọi ông bằng bác, Nguyễn Đức Bỉnh vinh dự là bạn nhà giáo, và con ông, Nguyễn Kinh Chi là học trò của Người.
Nguyễn Hàng Chi, hiệu Đồ Nam và Đồ Tuy (1885-1908), một
thanh niên trí thức hăng hái, là người cầm đầu chống lôi thi cử Hán học cuối
mùa, cổ động phong trào cắt tóc ngắn, và tổ chức lãnh đạo các cuộc chống thuế ở
Hà Tĩnh năm 1908, bị thực dân Pháp kết án tử hình.
Trong số các chiến sĩ cách mạng thời Xô Viết Nghệ Tĩnh Ích Hậu, người họ
Nguyễn Đức có hai đảng viên cộng sản: Nguyễn
Đức Tạo bị giết trong một cuộc địch khủng bố năm 1930 và Nguyễn Đức Hà bị kết án đày vào Quảng
Nam.
Nhiều người của dòng họ Nguyễn Đức tiếp tục có đóng góp quan trọng trong
cuộc cách mạng tháng Tám và xây dựng chính quyền nhân dân: Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Hưng Chi, Nguyễn Hiền... đều
tham gia cách mạng sớm, hoạt động trong Mặt trận Việt Minh thời tiền khởi
nghĩa.
Nguyễn Kinh Chi (1899-1986) là một thầy thuốc tâm huyết với
nghề nhưng không được Nhà nước Bảo hộ tin cậy. Ông đã từng đăng đàn diễn thuyết
ở Hội Trí tri Quảng Bình về đề tài “Bài
thuốc chữa bệnh hối lộ”, viết sách, viết báo để bày tỏ tư tưởng của mình. Về
Huế, ông tham gia nhóm trí thức, lấy tên “Responsable”
(trách nhiệm) cùng với Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Thân Trọng Phước, Nguyễn
Lân... trao đổi về văn hóa dân tộc. Năm 1945, ông tham gia nhóm Việt minh bí mật
do Tôn Quang Phiệt lãnh đạo. Sau cách mạng, ông được bầu vào Quốc hội nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, giữ các chức Giám đốc y tế Trung Bộ (1945), Thứ trưởng Bộ
Y tế kiêm Giám đốc y tế Liên khu IV, đến 1953 xin từ chức, chỉ nhận làm Giám đốc
y tế Nghệ An. Ông là người có công chuyển Bệnh viện Huế ra Liên khu IV an toàn
trước ngày kháng chiến bùng nổ và kịp chặt rừng cây canhki-na ở Lâm Đồng để làm
dược liệu trị bệnh sốt rét cho bộ đội, đồng thời có sáng kiến xây dựng các xưởng
chế dụng cụ y tế và thủy tinh làm ống thuốc vốn rất khó khăn, thiếu thốn trong
thời chống Pháp. Sau hòa bình, ông đã lập Bệnh viện phong Quỳnh Lập.
Nguyễn Đổng Chi (1915-1984) em ông, ở tuổi ngoài 20 đã lập
“Tập phúc phường, một hình thức biến tướng của hội kín ở quê, và viết thiên
phóng sự Túp lều nát, bị mật thám làm khó dễ. Năm 1939, ông tham gia cách mạng,
đến 1942, vào Việt Minh ở Hà Nội, được phân công cùng với Nguyễn Chung Anh về
Hà Tĩnh, tổ chức Thanh niên cứu quốc ở Can Lộc mà ông là một trong những người
lãnh đạo chủ chốt. Năm 1945, dưới danh nghĩa “Thanh niên Phan Anh” do ông được
đoàn thể cử làm thủ lĩnh, Nguyễn Đổng Chi và các bạn đồng chí Nguyễn Chung Anh,
Nguyễn Hiền, Đặng Giá, Nguyễn Hưng Chi, Lê Viết Quân, Trần Doãn Hoài, Phan Nhân
Hiếu, Trần Văn Quý, Phan Nhân Đồng, Bùi Nhụy...) thành lập Đội vũ trang khởi
nghĩa trong Mặt trận Việt Minh Bắc Hà (dưới quyền chỉ đạo của ông Nguyễn Tạo),
tổ chức việc cứu đói, diễn kịch, tuyên truyền Việt Minh, luyện tập quân sự, và
kéo lên cướp chính quyền ở huyện Can Lộc vào ngày 16 tháng Tám, sớm nhất trong
tỉnh.
Trong số rất nhiều người họ Nguyễn Đức tham gia quân đội, có Đại tá
Hoàng Minh Phương Nguyễn Đức Sao) từng
là thư ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở mặt trận Điện Biên Phủ, và tham gia
nhiều chiến dịch quan trọng thời chống Mỹ. Có Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) là Phó tư lệnh quân khu Sài Gòn - Gia Định.
Về lòng nghĩa hiệp, nghĩa khí, tuy họ Nguyễn Đức có nét đặc sắc, vẫn là
điểm chung của nhiều dòng họ khác. Nét riêng, nổi bật của họ Nguyễn Đức - Nguyễn
Chi là thực học. thực tài, Vị tộc trưởng Nguyễn
Hiệt Chi nêu lên một phương châm để dạy dỗ con cháu: “Học tập, làm lụng ta
ngó lên Ăn mặc ta nhìn xuống”. Học và làm phải nhìn người hơn mình mà theo, mà
vượt lên; còn ăn mặc, hưởng thụ thì đừng đua đòi, phải nhìn vào người kém hơn
mình mà xử cho hợp với hoàn cảnh. Đó là cách nghĩ rất xa và rất mới. Có thể nói
dòng họ này luôn luôn có tư duy mới.
Ông tổ Nguyễn Đức Tạo là một người nông dân sống đầu thế kỷ XIX, đã nghĩ
rằng làm ăn kiểu tiểu nông thì không gây dựng gia sản lớn được. Ông đã học buôn
bán, kết hợp kinh doanh nông - thương và đã thành công mỹ mãn. Cuối đời ông lại
thấy cần có chữ nghĩa nên dặn mời thầy giỏi về dạy dỗ con cháu.
Từ đời thứ hai trở đi, Nguyễn Đức dần dần trở thành dòng họ học thức, và
từ đời thứ năm, con cháu bước vào đường tân học, mà vẫn giữ nền nếp nho gia.
Nhưng khác với giới nho sĩ (và cả không ít người tân học) thường khinh rẻ lao động
chân tay, coi thường thực nghiệp, khinh thi công thương, những người họ Nguyễn
Đức lại tích cực cách tân, Nguyễn Hàng
Chi hăng hái vận động cắt tóc ngắn và chống lối thi cử lỗi thời. Nguyễn Hiệt Chi tham gia mở hội buôn. Nguyễn Kinh Chi giúp nhà doanh nghiệp
Viễn Đệ về kỹ thuật chế dầu tràm (khuynh diệp), và viết hai cuốn sách Du lịch
Quảng Bình và Công nghệ Quảng Bình (giới thiệu mấy chục nghề thủ công) là những
vấn đề rất mới lúc bấy giờ. Nguyễn Đổng
Chi ngoài 20 tuổi cũng đã tập sự kinh doanh, mở Bình An được phòng, chế thuốc
gịt, cải tiến đồ tre... Về sau, ông cùng nhiều người trong họ là cán bộ kinh tế
- tài chính của nhà nước. Gặp lúc hoàn cảnh khó khăn, ông cùng gia đình trở về
quê lao động, làm đủ nghề, thậm chí cả nghề “cu mơ” (tức là góp phần tiêu) mà
không ngượng ngùng gì... Trong thực nghiệp, biết học và làm thực nghiệp cũng là
nét độc đáo.
So với thiện hạ, hơn trăm năm nay, họ Nguyễn Đức không cố thgười đỗ đạt
cao, chức quyền lớn. Thời Hán học chỉ có Nguyễn
Đức Thuận (Nguyễn Hiệt Chi) đỗ Đầu
xứ rồi đỗ Tủ tài, làm giáo chức, được phong hàm Thị giảng học HĨ, Nhưng tiếng Đầu
xứ Thuận hay chữ thì nhiều người biết đến. Ông đã sáng lập Mộng Thương thư
trai, cùng với Thư viện Long Cương của Cao Xuân Dục là hai thư viện gia đình lớn
và quý ở Nghệ Tĩnh đương thời.

Phần mộ Hiển
tổ Đoan Trai công Nguyễn Đức Tạo – người có công cứu tế dân trong nạn đói thời
Tự Đức thứ 5, 1852.
Lớp tận học trước và sau cách mạng, có Nguyễn Kinh Chi đỗ Y SĨ Đông Dương (sau thi lên Bác sĩ); Nguyễn Đức Trà, đỗ Thành chung, chuyển
sang ngạch Nam triều, làm đến Tri phủ; Nguyễn
Hiền, Nguyễn Đức Ràn, Nguyễn Đức Bốn, Nguyễn Đức Sao đều đỗ Thành chung; Nguyễn Từ Chi đỗ Tú tài; còn mấy người
khác học dở dang bậc trung học. Lớp lớn lên sát sau cách mạng, người có học vị
cao nhất cũng chỉ tốt nghiệp đại học. Nhưng trong số họ, không ít người là trí
thức tài năng, là học giả uyên bác. Có người được phong học hàm Giáo sư, Phó
giáo sư, có người được xếp vào hàng Danh nhân văn hóa.
Giáo sư Nguyễn Đổng Chi
(1915-1984) là nhà văn, nhà sử học, nhà folklore học, nhà Hán Nôm học... mà
trong lĩnh vực nào cũng có thành tựu lớn. Giáo sư Nguyễn Từ Chi (1925-1995), con Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi, là nhà dân tộc học xuất sắc, nổi tiếng trong và
ngoài nước. Hai người con của Giáo sư Nguyễn
Đổng Chi là Giáo sư Nguyễn Huệ Chi
và Phó giáo sư Nguyễn Du Chi. Nguyễn Huệ Chi (sinh năm 1937), ngót 50
năm công tác tại Viện Văn học, từng là Trưởng ban nghiên cứu văn học Cổ, cận đại
Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện. Với hàng trăm công trình khoa học,
trong đó có nhiều bộ sách lớn mà ông là chủ biên hoặc là đồng soạn giả đã chứng
minh ông là nhà nghiên cứu văn học có uy tín. Nguyễn Du Chi (1938-2000), 30 năm làm việc tại Viện Mỹ thuật thuộc
Trường Đại học mỹ thuật Hà Nội, là Thư ký khoa học của Viện, ông đã viết trên
100 bài nghiên cứu và là đồng tác giả của nhiều bộ sách nghiên cứu mỹ thuật, kiến
trúc... được mệnh danh là người luôn “trên đường tìm về cái đẹp của cha ông”
như tên cuốn sách vừa được xuất bản sau khi ông mất. Là những nhà nghiên cứu
khoa học, các GS Từ Chi, Huệ Chi và PGS Du Chỉ cũng là nhà giáo, giảng dạy tại
nhiều trường đại học và đào tạo cho đất nước nhiều Tiến sĩ chuyên ngành.
Đến lớp sau các vị trên đây, họ Nguyễn Đức - Nguyễn Chí đã có hàng chục
người đạt học vị cao, là tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư trong nước và ở Pháp, ở
Nhật, ở Mỹ, trong đó có Tiến sĩ Thư viện học Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (1933-2002) từng làm việc tại Thư viện Quốc hội
Hoa Kỳ. Đó là thế hệ nối tiếp làm trạng rỡ thêm dòng họ này. .( Hà Tĩnh – Đất văn vật Hồng Lam
– Thái Kim Đỉnh).
Mộ và đền thờ Trần Đức Mậu hiện nằm tại thôn Thống Nhất, xã Ích Hậu, huyện
Lộc Hà là một di tích lịch sử văn hóa có từ lâu đời, được con cháu trong
dòng họ Trần Đức (về sau đổi là Nguyễn Đức) bảo vệ và phát huy giá trị
nhân văn của di tích.
Trần Đức Mậu là một người văn võ song toàn, học cao, chí lớn, là một
trong số những bậc nhân tài được ghi tên vào bảng vàng Tiến sỹ ở khoa thi Nhân
Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) đời vua Lê Thánh Tông. Ông còn là một vị
tướng tài đã cùng với vua Lê Thánh Tông, nếm mật nằm gai tham gia chinh phạt
Chiêm Thành mở mang bờ cõi quốc gia Đại Việt trong những năm giữa thế kỷ XV. Với
sự uyên bác về trí tuệ và sự dũng mãnh của một vị tướng tài ba, Ông đã được triều
đình phong kiến nhà Lê tin tưởng trọng dụng và giao giữ nhiều chức vụ quan trọng
như: Hàn lâm viện hiệu lý, Đông các Hiệu thư.
Sau khi Ông mất triều đình nhà Lê thương tiếc vô hạn với một vị quan tài
ba, thanh liêm, đức độ đã ra đi trong sự nghiệp đang còn dang dỡ, về sau để ghi
nhận công lao của ông đối với đất nước, triều đình nhà Lê và sau này nhà Nguyễn
đã phong tặng các đạo sắc phong, xây dựng đền thờ, dựng bia để ghi dnah công trạng
và sự nghiệp của Ông và dòng họ.
Đặc biệt đền thờ hiện nay còn lưu giữ được nhiều hiện vật gốc có giá trị
lịch sử văn hóa như: sắc phong, văn bia, đại tự, hoành phi, câu đối … là nguồn
tư liệu hết sức quý giá, có giá trị nghiên cứu lịch sử khoa học về thân thế và
sự nghiệp của danh thần Trần Đức Mậu, về giai đoạn lịch sử mà Ông đã cống hiến
đóng góp cho đất nước quê hương.
PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 22.
社 稷 之 爪 牙
Xã Tắc Chi Trảo Nha.
(Xưa là xã Đan Liên,đổi xã Trảo Nha, huyện Thạch Hà trấn Nghệ An). Nay thuộc thị
trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh.
Truyền thống Thạch Hà Tướng Phiệt.
Ngô
Nước, tên trước là Ngô Lợi, là một
trong sáu con trai cư biệt quán của Thanh Quốc công Ngô Khế .Ngô Nước đi lánh nạn
vào đến xã Chỉ Châu huyện Thạch Hà trấn Nghệ An ở lại đó khai phá đất hoang làm
ruộng, sinh sống nhiều năm,sau dời ra thôn Trung Thủy rồi đến thôn Thổ Sơn xã
Đan Liên(sau đổi xã Trảo Nha, nay là thị
trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà
Tĩnh) xin dân làng một khoảnh đất hoang khai phá làm vườn ở (vườn ấy nay
là vườn từ đường họ Ngô Trảo Nha, được
Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá năm 1993). Hai ông bà lấy nghề nấu rượu
nuôi lợn làm kế độ thân. Trong “Tân kỷ Hoan châu Ngô thị truyền gia tập lục”,Ngô Phúc Lâm viết:”Ông bà
thường hay giúp người nghèo khó,cứu người lỡ bước gặp hoạn nạn,lại có biết chữ
nên được dân làng bầu làm lý chính (như lý trưởng sau này)”.
Trong những năm sinh sống ở Chỉ Châu, có lần khai hoang cuốc đất bắt được
ba vò vàng, có người Trung Quốc theo nham cảo lần sang tìm của, xem xét đối chiếu
thấy là đúng,ông bèn trao trả nguyên cả ba vò vàng, người Trung Quốc báo ân cho
một huyệt đất quý, để nham cảo lại, có câu“tha
hương võ tướng,luỹ thế nguyên huân”( Chuyển cư xa quê hương sẽ phát võ tướng,
nối đời là nguyên huân của quốc gia).
Ông bà sinh con trai Ngô Phúc Hải.Mới
tuổi 13,Ngô Phúc Hải đã có sức khoẻ hơn người. Có lần ông cụ vắng nhà, đêm đến
trộm khoét vách vào nhà, ông lập mưu bắt được ba tên, hai tên chạy thoát.Sáng
ngày dẫn ra điếm làng, dân làng đều phục tài,nhân đó bầu làm Đoàn trưởng, đêm
đêm dẫn dân đinh đi tuần bắt được nhiều
trộm cướp. Bọn gian kết oán,tụ tập nhau mưu hại ông.Ông xin phép cha mẹ tạm
lánh ra trấn lỵ,chờ thời gian yên ổn sẽ trở về
phụng dưỡng. Năm 16 tuổi Tổng
binh trấn Nghệ thấy có tài, có sưc khoẻ, học giỏi, lấy vào giúp việc trong trấn
nha.
Thời bấy giờ trộm cướp tứ tung,ông đi theo đánh dẹp lập được nhiều
công.Có lần có toán cướp mạnh,đánh chiếm trấn dinh,Tổng binh xuất trận bị giết,Tổng
binh Đồng tri một mình một ngựa chạy dài.Ngô Phúc Hải đang đi dẹp trộm cướp
vùng Thanh Giang, Nam Đường được tin vội vàng quay về trong tay chỉ có vài mươi
tuỳ tùng. Ông tổ chức tuần đinh các thôn lân cận, trước hết phục trên các ngả
đường đánh bắt được nhiều tốp nhỏ, quân
cướp bị yếu dần,sau đó đánh vào trấn lỵ thu phục lại trấn dinh.Trấn nha
đem việc tâu lên, triều đinh phong chức Tổng binh,nhưng chỉ giữ việc Đô ty sự.
Năm sau ông được thăng Tổng binh Đồng tri đi lãnh chức Trấn thủ trấn Thái
Nguyên.Ông mất sớm ,nhà ở Phú Điền, con
trai còn nhỏ,người làng định đưa táng trên núi Mã Yên Sơn (Rú Rum), linh cữu vừa
đến gần chân núi, trời nổi cơn giông mưa gió dữ dội, giây thừng bị đứt, người
làng phải mai táng luôn tại đó.
Ngày sau khi Thuần Trung Hầu đã khôn lớn
đón thầy địa lý về phúc mộ,thì mới hay huyệt đất này đúng với huyệt đất mà ngày
trước mấy người khách buôn đã báo ân vì được cứu sống ở bãi biển Chỉ Châu.Ngôi
mộ đến nay vẫn còn nguyên vẹn, tục gọi là “mộ thiên táng”.
Ngô Phúc Hải có hai bà,bà cả người Trảo Nha sinh Ngô Phúc Hà làm Chủ bộ phủ Yên Vương,tặng
phong Thuần trung Hầu.
Ngô Phúc Hà có hai bà,bà cả người Trảo Nha sinh Ngô Phúc Thanh,bà thứ người làng Hoa Viên sinh Ngô Phúc Điền nay là
Thuỷ tổ họ Ngô xã Phú Điền huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An .
Vĩnh Lộc Hầu Ngô Phúc Thanh
là một tướng có tài,10 năm làm Tổng binh Trấn thủ Nghệ An, giữ vững an ninh trong trấn,giặc
ngoài không dám xâm phạm biên cương,được mệnh danh“Nam diện truờng thành”.
Ông từ trần trước ngày Mạc cướp ngôi nhà Lê,mộ táng trên núi Ngư Lão
(thuộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh) .
Tính từ đời thứ nhất Triệu Tổ Ngô
Nhật Đại đến Ngô Nước là đời thứ 21.
Quản Lĩnh công, con trai Thanh Quốc công Ngô Khế,một trong sáu người “cư biệt quán”,ông lánh vào xã Chỉ Châu
huyện Thạch Hà ,sau dời qua làng Trung Thuỷ,định cư ở thôn Thổ Sơn xã Đan
Liên,sau đổi là xã Trảo Nha trấn Thạch Hà.
Ông bà nấu rượu nuôi lợn để sinh sống.Được tặng phong Nghệ An Quản lĩnh.Mất ngày mồng 3 tháng Chạp,Bà Bùi Thị,húy Chuyên,mất ngày 15 tháng Giêng.
Mộ hai ông bà táng ở dăm Nhà quan thôn Thổ Sơn,nay thuộc thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh.
Thuỵ hiệu: Thuỷ tổ Nghệ An vệ,
Chánh Quản Lĩnh công, thuỵ Chính
Nhân phủ quân.
Sinh Ngô Phúc Hải.
Đời 22 . Ngô Phúc Hải Đô Tổng binh.Bà cả người Trảo Nha,bà thứ người Hoa
Viên cư ngụ xã Phú Điền.
Mộ được thiên táng ở chân núi Mã Yên Sơn
(rú Rum) xã Phúc Lễ huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An .
Thuỵ hiệu: Thái Nguyên trấn Đô Tổng binh sứ ty,Đô tổng binh Đồng
tri Ngô Tướng công thuỵ Chính Đạo phủ
quân.
Sinh Ngô Phúc Hà Thuần Trung Hầu.
Đời 23. Ngô Phúc Hà.Chủ bộ Thuần Trung Hầu.
Mộ tại chân núi Mã Yên Sơn, xã Phúc Lễ huyện
Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An.
Thuỵ hiệu :Yên Vương phủ Chủ bộ, tặng Thuần Trung Hầu, thuỵ Giác Tính phủ
quân.Bà cả người Trảo Nha sinh - Ngô Phúc Thanh,
Bà thứ người Hoa Viên sinh -Ngô Phúc Điền Thuỷ tổ họ Ngô Phú Điền xã Hưng Phú huyện Hưng Nguyên tỉnh
Nghệ An.
Đời 24 .Ngô Phúc Thanh.Thái Bảo Vĩnh Lộc Hầu.Trấn thủ trấn Nghệ
An,tước Vĩnh Lộc Hầu, được mệnh danh “Nam diện trường thành”,mất trước ngày Mạc
Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (trước 1527).
Thuỵ hiệu :Nghệ An xứ Đô Tổng binh sứ ty Đô tổng binh sứ, tặng phong
Thái Bảo, Ngô Tướng công, thuỵ Trung Túc
phủ quân.
Sinh Ngô Cảnh Hựu.
Đời 25. Ngô Cảnh Hựu
(1520-1596 ).
Thái bảo Thế Quận công. Có tên Ngô
Phúc Trừng (vì kỵ huý ,đổi một thời gian).Có nhiều chiến công đánh Mạc xếp
hạng Nguyên công,phong”Luỹ đại công thần
dữ quốc đồng hưu”.
Thuỵ hiệu: Phụ quốc Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tây
quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thiếu bảo Thế Quận công, gia phong Thái bảo Thượng
Trụ quốc Thượng tướng quân, Bật nghĩa Doanh Ngô Tướng công, tự Minh Trứ,thuỵ
Đôn Hậu phủ quân.Ông xin về trí sĩ năm 1594.
Mất ngày 25 tháng 5 năm Bính Thân 1596,mộ ở
thôn Chi Lễ xã Thái Hà.
Có ba bà:Từ Quang,Diệu Hằng,Trịnh Thị
Diệu Minh, sinh :
-Ngô Phúc Tịnh - Tứ Quận công,
-Ngô Phúc Hoành - Hoành Phố Hầu, họ Chỉ Châu,Hà Tĩnh
-Khang Trạch Hầu - Họ Cổ Bái,Hà
Tĩnh
-Câu Kê Hầu - Họ Thạch Mỹ,Hà Tĩnh
-Ngô Đăng Khản - Họ
Hà Linh,Hà Tĩnh
-Ngô Thuận Tâm - Họ
Trần, Vỵ Xuyên,Nam Định
-Ngô Thị
Ngọc Nguyên -Thứ phi Chúa
Trịnh Tùng
Đời 26 . Ngô Phúc Tịnh.
Thái bảo Tứ Quận công.
Thuỵ hiệu:Hiệp mưu Dương võ Công
thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân,Nam quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Tứ Quận
công,gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc,tự Minh Triết,thụy Đức Long phủ quân.
Bà chính thất Quận Chúa Trịnh Thị
Ngọc Mai con Triết vương Trịnh Tùng không có con,
Bà Lê Thị Đệ là vợ trước, đem con
ra ở nhà riêng nhường ngôi chính thất
cho Quận chúa,sinh :
-Tào Quận công Ngô Phúc Vạn,Vỵ Quận công không rõ tên, và hai con gái.
Đời 27 .Ngô Phúc Vạn
(1577-1652).Phó tướng Thái bảo Tào Quận công.
Có tên là Phúc Mại,tự Tử Hán,hiệu Huân Dương Chân nhân,người đương thời tôn xưng Phật Thái bảo. Thuỵ hiệu: Dương võ Uy dũng Công thần,Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân,Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Chưởng phủ sự, Trung nhuệ Quân doanh, Phó tướng Thiếu uý Tào Quận công, gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc,Ngô Tướng công, tự Hùng Thao, thuỵ Mỹ Thiện phủ quân.
Ông sinh giờ Dần,ngày 20 tháng 5 năm Đinh Sửu 1577,mất ngày 15 tháng 8
năm Nhâm Thìn 1652,mộ táng trên đồi
Nghèn,nay thuộc thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh,huyệt sâu 17 mét.
Năm 1993 đền và mộ đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá.
Bà chính thất là Quận Chúa Trịnh
Thị Ngọc Uyên,con gái Bình An Vương Trịnh Tùng. Ông có tất cả 7 bà, sinh 10
con trai,15 con gái (có hai người là Cung tần).
10 con trai nay thành 10 chi :
-Nhuận Quận công Ngô Phúc Thiêm,chi
trưởng.
-Hàn Quận công Ngô Phúc Đang,
chi 2.
-Đằng Quận công Ngô Phúc Hạp,
chi 3.
-Đáng Quận công Ngô Phúc Tân,chi
4.
-Phương Quận công Ngô Phúc Hộ,
chi 5.
-Kiêm Lộc Hầu Ngô Phúc Điền,
chi 6.
-Hào Mỹ Hầu Ngô Phúc Liêu ,
chi 7.
-Vân Lĩnh Hầu Ngô Phúc Phổ, chi 8.
-Toản Võ Hầu Ngô Phúc Trị ,
chi 9.
-Khanh Tương Hầu Ngô Phúc Triều
, chi 10.
Không rõ tên huý,bà là Quận chúa họ Trịnh, sinh hai con trai:
-Diên Quận công , không rõ tên huý,bà là Quận chúa họ Trịnh nay là thuỷ
tổ họ Tam Đa,Xã Quang Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh;
-Lý Quận công ,không rõ tên huý, thất truyền.
PHÂN CHI
Dòng Ngô Nước phân chi lần thứ nhất vào đời
thứ 24:
Ngô Phúc Thanh ở
Trảo Nha là dòng trưởng,
Ngô Phúc Điền ở Hưng Phú là dòng thứ.
Phân chi lần thứ 2 vào đời thứ 26:
Ngô Phúc Tịnh ở Trảo Nha,
Ngô Phúc Hoành ở Chỉ Châu,
Khang Trạch Hầu ở Cổ Bái,
Câu Kê Hầu ở Thạch Mỹ,
Ngô Đăng Khản ở Hà Linh,
Ngô Thuận Tâm
con cháu ở Vỵ Xuyên.
Phân chi lần thứ 3,vào đời 28:
Các con trai Ngô Phúc Vạn
phân thành 10 chi mới, ở khắp các tỉnh Trung Nam Bắc.
Xã Trảo Nha huyện Thạch Hà,nay thuộc thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh
Hà Tĩnh.
Dòng dõi Tào Quận công Ngô Phúc Vạn chia làm 10 chi,Từ đường đặt tại Trảo
Nha, nay thuộc thị trấn Nghèn huyện Can
Lộc tỉnh Hà Tĩnh.
CHI TRƯỞNG .
Đời 28.
Ngô Phúc Thiêm (1628-1662).Nhuận
Quận công.
Con trưởng Tào Quận công Ngô Phúc
Vạn và Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Uyên.
Chính thất Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Mai,con gái Thanh Đô Vương Trịnh
Tráng,ông ly dị khi chưa có con.
Bà thứ Lê Thị Điều, tục gọi là Bà
Thượng cũng không có con,vì vậy phả cũ chép là vô tự.
Tào Quận công từ trần,di chúc giao hương hỏa cho Hàn Quận công Ngô Phúc Đang,con thứ hai lên thế trưởng.
Mấy trăm năm sau đến gần đây có hai dòng họ tìm về nhận Tổ,mới biết là Ngô Phúc Thiêm còn có hai con trai nối
dòng đến ngày nay.
Trong thời kỳ bị biếm ở Thăng Long,ông có bà thiếp họ Nguyễn,sinh một
con trai Ngô Phúc Thiên.
Sau khi được lệnh cầm quân vào Nghệ An trở ra,Ngô Phúc Thiêm từ trần.Bà họ Nguyễn đã đem con trai về Hải Dương,
trở thành chi họ Ngô ở xã Chi Lăng Bắc huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương (thuộc
trấn Hải Dương cũ).
Sau ngày chiến thắng ở bờ nam sông Lam ,được phục hồi chức tước đóng
quân tại huyện nhà,ông có lấy thêm bà thiếp họ Mai,người làng Hàm Anh (nay thuộc
xã Tân Lộc huyện Lộc Hà tỉnh Hà Tĩnh).Vừa
lúc ông từ trần, bà sinh một con trai Ngô
Phúc Tiến,sinh sống tại quê Hàm Anh.Người con trai ấy trở thành Thủy tổ chi
họ Ngô –Hàm Anh ngày nay.Thụy hiệu Nhuận
Quận công:
Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tham đốc thần vũ Tứ vệ, tặng Nam
quân Đô đốc phủ Đô đốc Thiểm sự Nhuận Quận công, Thượng Trụ quốc, Ngô Tướng
công tự Chân Thể, thuỵ Thận Ý phủ quân.
Thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh.
Chi 28 .Ngô Phúc Đang .Hàn Quận công.
Con Tào Quận công Ngô Phúc Vạn .
Sinh:
-Huân Cơ Hầu . Ngô Phúc Huân,
-Trạc Võ Hầu, Ngô Phúc Kỳ,
-Thuật Võ Hầu , Ngô Đôi.
CHI III
HỌ NGÔ CHÂU ĐỐC.
Đời 28 .Ngô Phúc Hạp .Đằng Quận công.Con trai thứ ba Tào Quận
công Ngô Phúc Vạn.
Sau ngày Tào Quận công từ trần(1652),ông là Chân Kỳ Hầu khi mới 25 tuổi,là
tướng trẻ có tài,được Chúa Trịnh giao cầm quân vào đất Chiêm Thành cũ,đánh sau
lưng quân Chúa Nguyễn.Đi quá sâu vào Châu Đốc,vợ con Ông ở lại đó không trở về
quê củ Trảo Nha.
Nay thành một chi họ Ngô ở ấp Châu Thới 2,Thị xã Châu Đốc,đã ra liên lạc nhận gốc Tổ.
Chi họ hiện nay chưa ghi chép thế thứ.
Đời 28. Ngô Phúc Tân - Đáng Quận công .Con thứ tư Tào Quận công Ngô Phúc Vạn.
Mới trên 20 tuổi tước Khiêm Cung Hầu,ông cầm quân vào đánh Điện Bàn thuộc
trấn Quảng Nam.Tương truyền ba anh em (Đằng Quận công Ngô Phúc Hạp,Đáng Quận công Ngô
Phúc Tân,Khanh Tương Hầu Ngô Phúc
Triều-Tồn nghi) bị sa cơ trong chiến đấu,không trở về được,phải ở lại.Tước
Quận công là tước phong tặng sau này.
Người anh lấy tên Ngô Hân,người
em tên Ngô Chúng cùng ở huyện Phù
Ly,sau chia thành hai huyện là Phù Mỹ và Phù Cát.Người em sinh Ngô Thị
Dũng, hai cha con di cư vào nam Phú Yên,rồi qua Gia Định,còn tồn
nghi,đến nay chưa xác định được cụ thể.
CHI V HỌ NGÔ -TRẢO NHA.
Thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh.
Đời 28. Ngô Phúc Hộ (1634-1704)
,Phượng Quận công.Con trai thứ năm Tào Quận công Ngô Phúc Vạn .
Con cháu phân chi đi nhiều địa phương,ở Trảo Nha còn lại phái trưởng và
phái 4.Ông sinh các con trai:
-Ngô Phúc Thụ,Vinh Quận công, phái trưởng;Tuấn Đức Hầu,ở
phủ Quảng Trạch huyện Bình Chánh,nay là huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình.
Phái 2 : -Vỵ Phái Hầu,phả cũ ghi chú là ở
Lang Điền,huyện An Sơn,nay là xã Thụy
Phương,huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội.
Phái 3: -Thuyên Phái Hầu, ở Trảo Nha,nay là thị
trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh,
Phái 4: -Suyên Cung Hầu thất truyền.
Đời 29. Ngô Phúc Thụ - Vinh Quận công sinh:
-Nhuệ Võ Hầu Ngô Phúc Đẩu ,Hạo
Quận công (vô tự),Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân ,sau khi về nghỉ hưu lại
được triệu ra khởi phục Cai cơ Đô chỉ huy sứ Thượng Trụ quốc,tước Hạo Quận
công,ban thụy Dũng Tuệ.Sau khi mất nhân dân địa phương thờ ở đền Linh Nha trên
núi Nghèn.
-Phổ Quận công , truy phong Đại vương,bà họ Dương,người làng Canh Họach,chị
ruột bà Dương Thị Hoan mẹ đẻ Chúa Trịnh
Khải.Ông bị hại trong vụ Bính Tý 1780.
-Cảnh Quận công,(không rõ húy).
Đời 30 .Ngô
Phúc Đẩu (1668-1718) -Nhuệ Võ Hầu sinh Ngô
Phúc Chánh.
Đời 31. Ngô Phúc Chánh -Lãng Phương Hầu,Quả cảm tướng quân Chánh
Vệ úy,bà Mai Thị Vượng sinh Ngô Phúc
Phương,Ngô Phúc Bích.
Đời 32. Ngô Phúc Phương (1710-1804) -Đại tư đồ Hòanh Quận công,
Tây quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc quyền phủ sự,quản Thủ hiệu Nhất đẳng đội , Mật điện
Nội sát kiêm Phụ dực Nội điện. Húy Túc.
Bà cả Vũ Thị Liên người làng Hạ
Hòang huyện Thạch Hà mất sớm chưa có con truy phong Phu nhân,
Bà thứ họ Trương người Gia Lâm đã có con,ra ở chùa sau ngày ông lấy
Phương Huệ Quận chúa.
Bà thứ ba là Phương Huệ Quận chúa, con gái thứ tám Chúa Trịnh Cương,trở
thành Chính thất,sinh năm con trai:
-Ngô Phúc Trọng .Trọng Võ Hầu,con
trưởng.
-Ngô Phúc Giám , Khóat Võ Hầu,
nay là phái Yên Viên,huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội.
-Ngạn Trung Hầu .tử trận chưa
có con,
-Thuần Trung Hầu, bà là con gái Án Đô Vương Trịnh Bồng,tử trận
không có con,
-Ngô Phúc Diễn , Diễn Võ
Bá,nay là phái nội thành Hà Nội.
PHÁI 2 CHI V .
Tuấn Đức Hầu .Họ Ngô huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình
Chưa có thế thứ.
Vỵ Phái Hầu, Họ Ngô -Hương Lang xã Thụy Phương huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội
Chưa có thế thứ.
PHÁI 4 CHI V .
Thuyên Phái Hầu (không rõ tên húy), họ Ngô Trảo Nha,huyện Thạch Hà,nay
thuộc thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh.
Đời 29. Thuyên Phái Hầu.
Con thứ tư Phượng Quận công Ngô
Phúc Hộ .
Sinh:
-Phái Trung Hầu (không rõ tên
húy),
-Phan Thọ Bá ( không rõ tên
húy,phái Hưng Nguyên).
Đời 30. Phái Trung Hầu.
Sinh:
-Nhiệm Phái Hầu (không rõ tên húy).
-Diễn Phái Bá,Ngô Phúc Diễn.
Xã Xuân Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh
Đời 28. Ngô Phúc Điền.Kiêm Lộc Hầu.Con trai thứ sáu Tào Quận
công Ngô Phúc Vạn ,Cẩm y vệ thự vệ,Chánh
cai đội.
Sinh: Trân Định Hầu, Ngô Phúc Tiệm
CHI VII
Hào Mỹ Hầu Ngô Phúc Liêu.
Đời 28. Ngô Phúc Liêu. Hào Mỹ Hầu .
Con trai thứ bảy Tào Quận công Ngô
Phúc Vạn,
Sinh hai con trai :
-Ngô Văn Cang,
-Ngô Thuần Cẩm.
Dòng Ngô Văn Cang thiên cư vào Quảng Nam;
Dòng Ngô Thuần Cẩm phụng sự Vua Lê,khi Vua Lê thất thế con cháu về ngụ ở
xã Thổ Quan ,nay thuộc phường Thổ Quan quận Đống Đa thành phố Hà Nội.
Thôn Vinh Ba xã Hòa Đồng huyện Tây Hòa tỉnh Phú Yên.
Đời 28. Ngô Phúc Phổ,Vân lĩnh
Hầu ,lúc nhỏ có tên là Bạc, con trai thứ 8 Tào Quận công, phả cũ chép thất truyền,mấy
năm gần đây chi họ Ngô chợ Rạng huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An về nhận tổ,chưa
có thế thứ .
Gần đây lại có họ Ngô Văn ở thôn
Vinh Ba xã Hòa Đông huyện Tây Hoà tỉnh Phú Yên nhận là dòng Ngô Phúc Phổ.
Hiện chưa thể khẳng định được, về niên đại thế thứ và tương truyền cần
nghiên cứu thêm. Tuy còn là tồn nghi, nhưng thể theo lòng thành của cả họ nên
chép vào đây để sưu tầm xác định sau.
Chi IX
Tỏan Võ Hầu Ngô Phúc Trị.
Đời 28. Ngô Phúc Trị (1643-…) .Toản Võ Hầu con trai thứ 9 Tào Quận công,
khi mới 10 tuổi bố đã từ trần, quân Chúa Nguyễn lấn chiếm đất Nghệ An đến bờ
sông Lam, trong cơn binh hoả lạc mẹ được bà bảo mẫu nhận làm con đem về nuôi ở
xã Ngọc Sơn, sau ngày ổn định trở về quê ở làng Phù Việt lấy vợ. Thi võ ở phủ, trúng cách ra làm Quản quân, dòng
dõi quân thần được phong tước Hầu, làm Lực sĩ Ty lực sỹ hiệu uý, sau được thăng
Đô Chỉ huy sứ ty Chỉ huy Đồng tri, Thượng Trụ quốc, sinh Ngô Phúc Bình.
Đời 29 . Ngô Phúc Bình , Dật Võ Hầu, có hai Bà, sinh Ngô Phúc Tân, Ngô Phúc Lạng, Ngô Phúc
Sùng,Ngô Phúc Lâm.
Chi X
Khanh Tương Hầu Ngô Phúc Triều.
Huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
Đời 28 .Ngô Phúc Triều, Khanh Tương Hầu ,con trai thứ 10 Tào Quận
công trấn thủ Bến Trọng Đồng Hới ,vợ con ở lại không về, sinh ba con , con trưởng
trở về Trảo Nha, truyền đến đời 33 Ngô
Phúc Duyện.
Đời 33. Ngô Phúc Duyện ,sinh Ngô Viến,
Đời 34 .
Ngô Viến ,có vợ và con trai nhưng đã mất vào những năm 80.
DÒNG THỨ HAI CHI X.
Dòng Khanh Tương Hầu Ngô Phúc Triều
về sau theo đạo Thiên chúa, truyền đến đời 33.
Đời 33 . Ngô Đình Niệm .(có bản chép Ngô Đình Dinh), sinh Ngô
Đình Khả
Đời 34 . Ngô Đình Khả
(1857–1923),Thượng thư, Phụ Đạo đại thần triều Đồng Khánh,Phụ chánh đại
thần,sinh:
Ngô Đình Khôi (1885-1945),Tổng đốc Quảng Nam.
Ngô Đình Thị Giao tức bà Thừa Tùng ,
Ngô Đình Thục (1897-1984),
Ngô Đình Diệm(1901-1963),
Ngô Đình Thị Hiệp (1903-2005) tức bà Nguyễn Văn Ấm thân mẫu
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận ,
Ngô Đình Thị Hoàng tức bà Cả Lễ (Nguyễn Văn Lễ),
Ngô Đình Nhu(1911-1963),
Ngô Đình Cẩn (1912-1964),
Ngô Đình Luyện (1914-1990).
DÒNG THỨ BA CHI X.
Dòng thứ 3 ở lại Lệ Thủy, truyền đến nay đời 36, trưởng phái là Ngô Thôn.
Ngô Đức Thắng,Chi 5 họ Trảo Nha Thạch Hà,(
nay thuộc thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh).
Nước Việt ta,gia phả đã có từ xưa,để ghi chép sự tích tổ tiên,thế thứ nối
tiếp truyền lại đời sau.
Mỗi nhà mỗi họ đều có tập gia phả,coi như của báu thiêng liêng lưu giữ đời
này quađời khác.Mỗi nhà lo bảo quản chu đáo,mặc dầu trải qua năm tháng,gián nhấm,mối
xông,thiên tai địch họa,nhưng các nhà coi như báu vật thiêng liêng cố gắng bảo
vệ cho tốt.
Cho nên nhà nào cũng giữ được,có đi sơ tán thì cũng ưu tiên mang theo
gia phả,người vào Nam mang gia phả theo vào Nam,kẻ sang Mỹ cũng mang theo gia
phả sang Mỹ.Ấy là biểu hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn từ ngàn đời nay của
người dân Việt.
Nhưng mà,sang nửa thế kỷ 20,nổi lên sự kiện chống mê tín dị đoan quá cực
đoan trong một thời gian khá dài,phá họai đền chùa,biến từ đường nhiều dòng họ
thành kho thóc hợp tác xã,từ đó quan niệm “ẩm thủy tư nguyên” trong đầu óc nhiều
thế hệ bị xóa bỏ, gia phả các nhà không còn được cất giữ,bảo quản như xưa,phần
bị hủy đốt,phần bị biến thành giấy vụn…nên mất mát,thất lạc khá nhiều,làm cho
việc sưu tầm nghiên cứu, chắp nối thế phả các dòng họ gặp nhiều khó khăn.
Sau ngày chiến thắng ngọai xâm,nước nhà được thống nhất,một phong trào vấn
tổ tìm tông tự phát rộng rãi khắp các dòng họ,mà đỉnh cao vào những năm 90 của
thế kỷ 20. Họ Ngô chúng ta đã liên lạc chắp nối được trên 200 chi họ trong cả
nước,gồm hàng triệu nhân khẩu,cùng chung một cụ Tổ đã trên 40 thế hệ.Tuy có một
số chi họ chưa xác định được là thuộc vào dòng nào,nhưng vẫn có những dấu
tích,tài liệu cho biết từ cùng một gốc thuộc dòng Lý Thường Kiệt hoặc Ngô Từ.
Cũng có hàng chục họ Ngô,do đổi từ họ khác sang họ Ngô,hoặc do thiên cư từ
Trung Quốc sang Việt Nam đã nhiều đời ,chúng ta đều phân biệt được rõ ràng
không bị nhầm lẫn.
Trong gần 30 năm sưu tầm nghiên cứu,khỏang 10 năm đầu mờ mịt như đáy biển
mò kim.Nhờ tổ tiên anh linh,được ông Ngô Trung Tín họ Trảo Nha có nhớ lại tư liệu
ông đã ghi chép lại được từ Thần phả trong đền thờ Lý Thường Kiệt ở Thanh Hóa
và mang về nhà,gặp hồi chỉnh đốn tổ chức phải dấu kín trong kèo tre trên nóc
nhà, giờ khui ra còn nguyên vẹn trao lại cho,đấy là vào tháng 6 năm 1982,30 năm
sau ngày ông Tín ghi chép được.
Lại một may mắn khác là qua ông Ngô Uyên họ Ngô Tam Sơn,Đông Ngàn phát
hiện được trong phả nhà ông có ghi:Thanh Quốc công Ngô Khế lục nam cư biệt
quán…Qua mấy năm tìm tòi để giải hai nút thắt này,cho đến năm 1988 mới tạm sắp
xếp thế thứ một số chi họ,tổng hợp biên sọan lại và dựng nên biểu đồ một họ Ngô
thống nhất, được bổ sung dần đến ngày nay,tuy vẫn còn những khiếm khuyết,nhưng
đối với tôi tâm nguyện nhiều năm đã trở thành hiện thực.
Tập Lược sử họ Ngô Việt Nam đã tương đối hòan chỉnh trước giờ bước sang
thế kỷ 21. Bản thảo gần xong thì vừa lâm trọng bệnh,phải dừng lại để điều trị gần
một năm,nhân đó chờ tài liệu một số họ chưa làm xong để bổ sung.Mặc dầu bệnh
tình diễn biến thất thường, cũng vẫn cố sức để hòan thành chế bản.
Sang thế kỷ 21,tất nhiên các ngành khoa học sẽ có nhiều sáng tạo mới,gia
phả học có thể cũng có nhiều đổi mới về quan niệm,về phương pháp,về nội
dung.Tôi nghĩ,từ trước có nhiều thiếu sót lớn về cách ghi chép,do coi nặng chế
độ phụ hệ nên chỉ dùnghọ bố mà không dùng họ mẹ.Hiện thời vai trò phụ nữ ngày
càng quan trọng không kém gì nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,gia
phả học cũng phải có sự thay đổi về quan điểm cho thích ứng với thời đại mới.Nên
có cách chuyển hóa dần.
Từ nay về phái nữ,nếu là con gái thì chép lấy chồng là ai,tóm tắt ba đời:ông
bà,cha mẹ và tên chồng.Con cháu sinh ra cũng chép 3 đời.Nếu là con dâu chép lai
lịch năm đời:can,cụ,ông,bà ,cha mẹ và bản thân. Từ nay mỗi gia đình không đông
con cái như xưa nên việc ghi chép như thế không mấy khó khăn.
Xã hội ngày càng phát triển,mỗi họ không còn chỉ cư trú trên một địa bàn
nhất định trong một nước,mà có thể ở rải ra nhiều quốc gia trên nhiều lục địa.Vì
vậy,để tiện liên lạc cần đưa gia phả lên mạng Internet,cần có cách trình
bày,phương pháp viết phù hợp với điều kiện mới,có thể mỗi người nên có ảnh chân
dung.Cách tổ chức ghi chép tùy theo trình độ mỗi họ,nhưng nên thành lệ như “vào
làng”,”vào họ”trước đây(được ghi tên vào sổ tọa thứ).
Trên đây là mấy lời thô thiển kính cáo với bà con trong họ và một vài đề
xuất bước đầu cùng những người ghi chép phả mai sau,có gì sơ xuất mong được lượng
thứ.
Hà Nội,tháng 4 năm Mậu Dần 1998.
Họ Ngô Cổ Bái Tự Cường,Xã Thạch Ngọc huyện Thạch Hà,tỉnh Hà Tĩnh
Đời 26 Khang trạch Hầu,thuỵ Mai Trai, không rõ huý,con thứ Thế
Quận công Ngô Cảnh Hựu.Đặc tiến Phụ
quốc Thượng Tướng quân Đô Chỉ huy sứ ty Đô Chỉ huy sứ,sinh Vân lộc Hầu và Ngô Phúc Đường (phả Cổ Bái ghi thất
truyền,có thể đổi tên về ở Đỉnh Lự).
Đời 27. Vân lộc Hầu . Không rõ huý, Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng
quân Cấm y vệ Đô Chỉ huy sứ ty Đô Chỉ huy sứ,sinh Tín vũ Hầu,Vinh thái Hầu .
Đời 28. Tín vũ Hầu Chánh đội trưỏng, sinh ba con trai thành
ba chi:
Ngô Phúc Hy chi Tự Cường sinh Ngô Phúc Tân,Ngô Đức Cương,
Ngô Phúc Anh chi Cổ Bái,
Ngô Phúc Thiên chi Mỹ Đại nay chỉ còn vài gia đình.
(Cả ba chi chưa có thế phả đầy đủ).
Đời 28. Ngô Phúc Khê Vinh thái Hầu (thất truyền).
Đời 29 . Ngô Phúc Hy Con trưởng Tín vũ Hầu,con cháu sang ở
làng Tự Cường,nay thuộc huyện Can Lộc,sinh Ngô
Phúc Tân,Ngô Đức Phương.
Đời 30 . Ngô Phúc Tân sinh 4 con trai,trưởng Ngô Đức Bích.
Đời 31. Ngô Đức Bích bà Đặng Thị Len sinh 9 con, trưởng là
Thanh.
Đời 32 .Ngô Đức Thanh sinh 6 con, trưởng là Tôn
Đời 33. Ngô Đức Tôn sinh 9 con, trưởng là Cánh
Đời 34 Ngô Đức Cánh .sinh 6 con, trưởng là Dòng 34 Ngô Đức
Dân sinh 9 con, trưởng là Hợi.
Đời 34 .Ngô Đức Đại sinh 5 con, trưởng là Hải
Đời 34 .Ngô Đức Nam sinh 5 con, trưởng là Nam
Tiếp theo mỗi đời đều đông con cháu chưa ghi chép hết.
Như vậy Tiên tổ họ Ngô Cổ Bái là Ngô Phúc
Anh (đời 29),con Tín Vũ Hầu (đời 28),cháu Khang Trạch Hầu Ngô Phúc Mai.
Ngô Đức Thắng,Chi 5 họ Trảo Nha Thạch Hà,( nay thuộc thị trấn Nghèn huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh).
Xin theo dõi tiếp BÀI 23. Thân ái,dienbatn.