PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 25.

9/22/2021 |

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 25. 


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

PHẦN V. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN THẠCH HÀ.

V. Đi tìm mộ Phan Huy Chú (1782-1840).

1/Cứ liệu gia phả.

Hiện nay trong họ và Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 4 gia phả họ Phan Huy. Trước hết tôi xin lưu ý, dòng họ Phan Huy vốn xưa là Phan Văn, đến đời thứ tám là Phan Huy Cận mới đổi thành Phan Huy. Tổ tiên xa nhất gọi là Tiên tổ mà gia phả ghi nhận thuộc thời Lê sơ thế kỷ XV. Dòng họ trước đây ở xã Ngọc Điền (xã Thạch Thượng, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, thị trấn huyện lỵ huyện Thạch Hà hiện nay). Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mới dời về thôn Chi Bông, sau đổi là thôn Hữu Phương (xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Đời thứ bảy, dòng trưởng là Phan Văn Canh dời từ thôn Hữu Phương về thôn Gia Thiện (xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh), dòng thứ vẫn ở Hữu Phương. Dòng họ Phan Huy định cư tại Gia Thiện cho đến nay.

Đời thứ sáu là Đô đốc Vinh Lộc hầu Phan Văn Kính có hai người con gái là Phan Thị Nẫm được tuyển chọn làm cung tần chúa Tây Đô vương Trịnh Tạc (1657-1682) và Phan Thị Lĩnh làm cung tần chúa Định vương Trịnh Căn (1682-1709). Hai phi tần này đã từng về xã Thuỵ Khuê (thôn Thuỵ Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) tu sửa chùa Hoa Phát, chùa Bối Am (chùa Một Mái), dựng đền thờ Một Mái thờ cha gọi là “Phan Đô đốc từ” trong đền tạc tượng thờ, đúc chuông và mở ao vườn làm ao công của làng gọi là Ao Gạch… Nhưng đến đời thứ tám, Tiến sĩ Phan Huy Cận (1722-1789) mới nhập cư ở Thuỵ Khuê và được coi là Tổ của chi phái Sài Sơn, trong gia phả thường gọi là Sơn phái tức chi phái ở Sơn Tây. Họ Phan Huy có nhiều chi phái ở nhiều nơi nhưng vào cuối thời Lê trung hưng và đầu thời Nguyễn, tức thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, chi phái Sài Sơn phát đạt nhất.

Hiện nay dòng họ còn lưu giữ được 4 bản gia phả. Tại Gia Thiện-Hà Tĩnh lưu giữ được 2 bản đều mang tên “Phan gia công phả”, một bản đầy đủ 167 trang, một bản thiếu một số trang (1). So sánh nội dung thì hai văn bản cơ bản giống nhau, gần như sao chép từ một văn bản chung trước đó. Chi phái Sài Sơn trước đây cũng lưu giữ 1 văn bản gia phả do cụ Phan Huy Diêu giữ và tôi đã có dịp được mượn về nhà xem, sao chụp lại một số phần cần thiết. Tiếc rằng sau khi cụ Phan Huy Diêu mất, bản gia phả này bị thất lạc và cho đến nay vẫn chưa tìm ra. May thay Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được 2 văn bản gia phả họ Phan Huy do Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (EFEO) sưu tầm. Đó là “Phan gia thế tự lục” do Phan Huy Quýnh (1775-1844) soạn tại Sài Sơn năm Bính Tuất niên hiệu Minh Mệnh thứ 7 tức năm 1826 (2) và “Phan tộc công phả” do Phan Huy Dũng (1842-1912) soạn với bài dẫn viết năm Canh Dần niên hiệu Thành Thái tức năm 1890 và bài tựa tân biên năm Duy Tân thứ nhất tức năm 1907 (3). EFEO thu thập hai gia phả này tại chi phái Sài Sơn. Giữa 4 gia phả trên có một ít khác biệt, nhưng về cơ bản là thống nhất và bổ sung cho nhau. Về hành trạng của Phan Huy Chú thì “Phan tộc công phả” của Phan Huy Dũng và “Phan gia công phả” của dòng họ Phan Huy ở Gia Thiện-Hà Tĩnh chép tương đối đầy đủ nhất và hoàn toàn thống nhất.

Theo tư liệu gia phả thì Phan Huy Chú (1782- 1840) thuộc đời thứ chín, là con trai thứ ba của Tiến sĩ Phan Huy Ich (1750-1822) và mẹ là Ngô Thị Thục (1750-1792), con gái cả của Tiến sĩ Ngô Thì Sĩ. Cuộc đời thi cử và làm quan của Phan Huy Chú gặp nhiều trắc trở, hai lần đi thi (năm 1807, 1819) chỉ đỗ Tú tài, 12 năm làm quan (từ 1821 đến 1833) cũng không được tin cậy khi thăng khi giáng, có khi bị khiển trách, ghép tội và bãi chức, cách chức. Chí hướng và tâm huyết của ông giành cho đọc sách, khảo cứu và trước tác. Năm 1833 sau chuyến công cán ở Giang Lưu Ba (Batavia tức Jakarta, Indonesia hiện nay) về, ông lấy cớ đau chân, xin trí sĩ, trở về cuộc dời dạy học và sáng tác thơ văn (4).

Phan Huy Chú có hai vợ. Bà chánh thất là  Nguyễn Thị Vũ, người làng An Lũng (Hoài Đức, Hà Tây), con gái Thượng thư Bộ lại Nguyễn Thế Lịch (1748-1817) và cháu ngoại Đại vương Nguyễn Quý Đức làng Đại Mỗ (Từ Liêm, Hà Nội). Nguyễn Thế Lịch còn có tên là Nguyễn Gia Phan, đỗ Tiến sĩ cùng khoa với Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm (khoa thi năm 1775), cùng theo Tây Sơn và cùng bị vua Gia Long sai đánh đòn trước Văn Miếu. Bà sinh 4 con trai là: Phan Huy Uyên, Phan Huy Chuẩn, Phan Huy Triệt, Phan Huy Hàm và 1 con gái là Phan Thị Cơ. Bà thứ thất, người làng Thanh Mai (Ba Vì, Hà Tây), gia phả không ghi họ tên. Bà sinh 1 con trai là Phan Huy Nhuận. Theo gia phả, sau khi nghỉ hưu, Phan Huy Chú về dạy học tại quê bà vợ thứ và mất tại đây vào năm Minh Mệnh thứ 21 tức năm 1840. Theo “Phan tộc công phả” thì khi mất, mộ Phan Huy Chú táng tại Thanh Mai. Trong số 5 con trai của Phan Huy Chú thì:

– Phan Huy Uyên, tục gọi Cả Khế, mất sớm.

– Phan Huy Chuẩn tục goi Hai Kế, nhập tịch làng Đại Mỗ để lo thờ cúng tổ tiên bên ngoại là bà ngoại họ Ngô ở làng Tả Thanh Oai,   mẹ họ Nguyễn ở làng An Lũng và ông ngoại ở làng Đại Mỗ.

–  Phan Huy Triệt tục gọi Ba Mai, nhập tịch làng Thanh Mai.

– Phan Huy Hàm sinh 1 con gái và mất sớm.

– Phan Huy Nhuận cũng nhập tịch làng Thanh Mai.

Như vậy tư liệu gia phả cung cấp hai căn cứ quan trọng:

– Hai người con trai của Phan Huy Chú nhập tịch tại Thanh Mai và lập thành một chi phái họ Phan Huy ở đây.

– Vào cuối đời, Phan Huy Chú dạy học và sống 7 năm tại Thanh Mai rồi năm 1840 mất và mộ táng tại đây.

Đấy là những cứ  liệu trong gia phả cho phép định hướng đi tìm mộ Phan Huy Chú tại làng Thanh Mai.

2/Điều tra thực địa.

Làng Thanh Mai tục gọi là Kẻ Mơ, thuộc tổng Thanh Mai, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây, nay là thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (5).


Ngày 19 tháng 4 năm 2001, tôi cùng gia đình và ông Phan Huy Dục thuộc chi phái Sài Sơn tìm về làng Thanh Mai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Chúng tôi gặp Đảng uỷ và UBND xã Vạn Thắng, trong lãnh đạo xã cũng có người thuộc dòng họ Phan Huy. Các đồng chí rất vui vẻ tiếp chúng tôi và cho biết tại Mai Trai chỉ có một dòng họ Phan với tên lót là Phan Huy hay Phan Văn. Chúng tôi về thôn Mai Trai gặp một con cháu và vị cao tuổi trong họ Phan Huy. Tất cả hậu duệ đều khẳng định là con cháu của một chi phái họ Phan Huy nhưng không nhớ tên vị tiên tổ đến đây đầu tiên. Gia phả chữ Hán đã bị đốt cháy năm 1948 khi quân Pháp nhảy dù xuống Bạch Hạc rồi càn quét cả vùng này. Qua ký ức lưu truyền con cháu chỉ biết vị tiên tổ gốc ở làng Thầy (tức Sài Sơn), về đây dạy học, thường gọi là Ông Sứ hay Ông Chánh Sứ. Điều vui mừng là các cụ cho biết mộ tổ họ Phan Huy vẫn còn và mới được con cháu xây lại năm 1994. Các cụ cũng cho biết sau con cháu ít người học hành đỗ đạt mà phần lớn làm ruộng và buôn bè trên sông Đà, một nghề phổ biến ở vùng này.

Chúng tôi đi thăm mộ tại xứ Nội Ngân thuộc địa phận thôn Mai Trai. Ngôi mộ rõ ràng mới xây và có ghi rõ ngày xây là 20-12-1994. Mộ hình khối vuông, trên cùng có mái hình chóp bốn cạnh rồi tiếp đến bốn mái hiên. Trong mộ có bia viết chữ quốc ngữ  “Mộ tổ họ Phan”, dưới ghi ngày “Kỵ 22-1”.

Chúng tôi tin rằng đây là mộ Phan Huy Chú, nhưng cần xác minh thêm. Điều băn khoăn nhất của tôi là ngày giỗ theo một cuốn gia phả do Phan Huy Long và Phan Huy Uẩn biên soạn ở Sài Gòn năm 1963 là ngày 27 tháng 4 (6) mà mộ chí lại ghi là 22 tháng 1.

Trở về Hà Nội, tôi tìm đến gặp cụ bà Phan Huy Diêu (1917-2002) là người cao tuổi nhất trong chi phái họ Phan Huy ở Sài Sơn, năm 2001 đã 84 tuổi và đã từng buôn bán ở vùng Thanh Mai. Cụ cho biết, dân buôn bè sông Đà rất vất vả, phải lo làm ăn cho đến cuối tháng chạp mới về nhà ăn lo chuẩn bị ăn tết và thường sau Tết, trong tháng giêng mới làm lễ cúng tổ tiên. Do đó, ngày giỗ 22-1 có thể là ngày giỗ Tổ của con cháu theo tập quán làm ăn của dân buôn bè. Đấy là một giả thuyết giải thích sự khác biệt về ngày giỗ chép trong gia phả và ngày giỗ con cháu thực hiện  trong cuộc sống thực tế.

Ngày 21 tháng 1 năm Bính Tuất-2006, tôi lại cùng gia đình và ông Phan Huy Khang và ông Phan Huy Dục thuộc chi phái Sài Sơn về cúng giỗ cùng bà con họ Phan Huy ở Thanh Mai. Lần này chúng tôi may mắn được gặp rất nhiều con cháu của hai chi ở Thanh Mai và Đại Mỗ đều là hậu duệ trực tiếp của Phan Huy Chú cùng một số chi phái khác.

Theo gia phả có thể tóm lược thành sơ đồ con cháu chi phái họ Phan Huy ở Thanh Mai và Đại Mỗ như sau (xem sơ đồ).


 Với sự có mặt khá đông của con cháu hai chi ở Thanh Mai và Đại Mỗ, trong buổi trao đổi, nhiều thông tin liên quan đến việc xác minh mộ Phan Huy Chú được tập hợp đầy đủ hơn. Cả hai chi này đều không giữ được gia phả chữ Hán, đó là điều đáng tiếc. Nhưng qua trao đổi, con cháu hai chi trực hệ của Phan Huy Chú, theo ký ức lưu truyền trong dòng họ đều thống nhất ghi nhớ: Tiên tổ là một thày giáo từ Thầy (tức Sài Sơn) đến dạy học tại quê vợ ở Thanh Mai, gốc từ Hoan Châu (tức Nghệ Tĩnh), thường gọi là Ông Sứ hay Ông Chánh Sứ. Những thông tin này hoàn toàn phù hợp với quê quán và cuộc đời của Phan Huy Chú:

–  Quê ở Thầy tức Sài Sơn là chi phái họ Phan Huy do Tiến sĩ Phan Huy Cận khai lập mà Phan Huy Chú là cháu gọi bằng ông nội.

–  Quê gốc ở Hoan Châu là họ Phan Huy ở Gia Thiện-Hà Tĩnh hiện nay, trước thuộc Hoan Châu hay Nghệ An.

–  Làm nghề dạy học vì từ sau khi xin nghỉ hưu, Phan Huy Chú về quê bà vợ thứ ở Thanh Mai dạy học.

–   Thường gọi là Ông Sứ hay Chánh Sứ vì trong thời gian làm quan cho triều Nguyễn, Phan Huy Chú ba lần được cử đi sứ nước ngoài: năm 1824 được cử làm Phó sứ sang triều Thanh, năm 1830 cũng làm Phó sứ sang triều Thanh, năm 1832 được cử đi công cán ở Giang Lưu Ba tức Batavia (Jakarta ở Indonesia hiện nay) (7).

Con cháu không nhớ tên vị tổ thứ nhất, nhưng lại nhớ khá rõ các vị tổ về sau thuộc thế hệ thứ ba, thứ tư của Phan Huy Chú như sự ghi chép của gia phả. Tất cả thông tin đó tổng hợp lại cho phép khẳng định Phan Huy Chú đúng là vị tổ của chi họ Phạn Huy ở Thanh Mai và Đại Mỗ.

Về ngôi mộ Phan Huy Chú, các cụ cao tuổi cho biết thêm, ngôi mộ đã di chuyển lần thứ nhất vào năm 1967 và năm 1994 chuyển đến vị trí hiện nay rồi xây dựng lại. Các cụ còn nhớ khi đào lên thấy hài cốt đã cải táng, đặt trong một nồi đất to, trên úp một viên gạch cổ. Cải táng trong nồi đất là tập quán phổ biến ở vùng Ba Vì và thường dùng nồi đất của lò gốm Phú Nhị gần thị xã Sơn Tây hiện nay.

Con cháu còn ghi nhớ, ngoài ngôi mộ tổ họ Phan Huy, còn hai mộ tổ đời thứ hai ở Thanh Mai. Đối chiếu với phả hệ, đời thứ hai là Phan Huy Triệt và Phan Huy Nhuận.

Như vậy đối chiếu tư liệu gia phả với ký ức con cháu thuộc hậu duệ của Phan Huy Chú ở Thanh Mai và Đại Mỗ, có thể đi đến kết luận là ngôi mộ tổ họ Phan còn được bảo tồn ở Thanh Mai, nay là thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, tình Hà Tây là mộ Phan Huy Chú.

Vấn đề duy nhất cần xác minh thêm là ngày mất của Phan Huy Chú. Trên ngôi mộ hiện còn ở Mai Trai ghi là 22-1, do con cháu mới ghi lại năm 1994 nhưng trên cơ sở ngày giỗ tổ hàng năm vẫn được tổ chức vào ngày này. Ngày mất 27-4 năm Canh Tý (1840) là theo bản “Gia phả họ Phan” do Phan Huy Long và Phan Huy Uẩn biên soạn năm 1963, nhưng cho đến nay bản gốc bằng chữ Hán vẫn chưa tìm thấy, còn các bản gia phả chữ Hán đang được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán-Nôm và tại họ Phan Huy ở Gia Thiện-Hà Tĩnh thì không ghi ngày mất của Phan Huy Chú. Vấn đề này xin lưu lại để tiếp tục tra cứu, xác minh sau và có hai khả năng: thứ nhất, ngày mất của Phan Huy Chú là ngày 27-4 và con cháu tổ chức giỗ tổ vào ngày 22-1 theo tập quán làm ăn của dân buôn bè; thứ hai, ngày mất của Phan Huy Chú đúng là ngày 22-1 và ghi chép của bản gia phả mới biên soạn năm 1963 đã nhầm lẫn. Trong lúc chờ đợi sự xác minh, tôi đề nghị nên chấp nhận ngày giỗ 22-1 mà lâu nay hằng năm con cháu chi phái trực hệ của Phan Huy Chú ở Thanh Mai và Đại Mỗ vẫn tổ chức giỗ tổ Phan Huy Chú.

Trên cơ sở xác định mộ Phan Huy Chú, con cháu trong họ cùng Sở Văn hoá thông tin Hà Tây có căn cứ khoa học để lập kế hoạch bảo tồn, tôn tạo chuẩn bị cho kỷ niệm 225 năm sinh của danh nhân vào năm 2007.

Chú thích:

Hai bản gia phả Phan tộc công phả này hiện nay do ông Phan Huy Xương bảo quản tại Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam của Viện Việt Nam học và khoa học phát triển thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, đang dịch và xuất bản cuốn gia phả này kèm theo bản chụp nguyên bản chữ Hán.

Phan gia thế tự lục, Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2691

Phan tộc công phả, Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2963

Phan Huy Lê, “Phan Huy Chú-cuộc đời và sự nghiệp”, trong Tìm về cội nguồn, NXB Thế giới, Hà Nội 1999, T. II, tr. 693-712

Các tổng trấn xã danh bị lãm, bản dịch Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1989, tr. 41. Đồng Khánh địa dư chí lược, tỉnh Sơn Tây, bản in và dịch, NXB Thế giới, Hà Nội 2003, T.I, tr. 907.

Gia phả họ Phan do Phan Huy Long, Phan Huy Uẩn soạn, Sài Gòn1963, bản đánh máy.

Phan Huy Chú, Hải trình chí lược/Recit sommaire d´ un voyage en mer, Phan Huy Lê, Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp dịch và giới thiệu, Paris 1994.

Phan Huy Lê.


3/Phan gia công phả.

TS. NGUYỄN NGỌC NHUẬN

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

(Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (78) 2006; Tr.10-20)

Theo cuốn “Phan gia công phả” còn ghi lại: “nghe nói trước kia tiên tổ dòng họ ta nguyên quán ở xã Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, thuộc ty Giáo phường, quen nghề làm ruộng và am tường âm nhạc. Đến niên hiệu Quang Thuận, Hồng Đức đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), phụng chỉ cho coi việc giáo phường làm phân trưởng của đình ở huyện, lúc đó mới nhập  tịch vào phía Tây xứ Trằm Vịt, thôn Chi  Bồng (sau đổi là Hữu Phương) xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc cho nên người trong ấp thường gọi tiên tổ họ ta là ông Trằm, mụ Trằm…” (tờ 7a). Có thể nói ông Trằm là ông tổ đầu tiên của họ Phan ở Thạch Châu, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Vào đời Lê Sơ, tổ tiên dòng họ Phan vốn có nghề làm ruộng lại giỏi âm nhạc do ty giáo phường quản lý và được phân về giữ đình (đình Môn) các xã trong huyện.

Tổ tiên họ Phan vốn ở xã Ngọc Điền huyện Thạch Hà, do quy định trên đã phụng chỉ chuyển về thôn chi Bồng, sau đổi là thôn Hữu Phương, xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tĩnh Hà Tĩnh) . Thạch Châu nguyên xưa là thuộc làng chi Bồng xã Thu Hoạch tổng Canh Hoạch – huyện Thiên Lộc – phủ Đức Quang. Nơi đây là một miền đất khai phá từ lâu. Đến năm Khải Định thứ 6 (1021) chia tổng đoàn vào huyện Can Lộc và huyện ấy lại tách hai tổng Vĩnh Luật và Canh Hoạch về Thạch Hà cho đến đời thứ 10 trong dòng họ Phan có người là Trùm huyện là chức sắc trong giáo phường, một tổ chức của hát ca từ thời phong kiến ở nước ta.

Từ Ngọc Điền chuyển về thôn chi Bồng tức Hữu Phương, vào đời thứ bảy, họ Phan phân làm hai chi phái: Đại Tôn ở thôn Gia Thiệu và Tiểu Tôn ở Hữu Phương, nay đều thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Với lịch sử hơn 400 năm qua 15 thế hệ con cháu (tính từ cụ tổ) Dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu – Thạch Hà - Hà Tĩnh đã lan tỏa ra nhiều huyện trên đất Hà Tĩnh, nhiều tỉnh thành trong cả nước và thậm chí đang có số ít sinh sống ở nước ngoài. Đến đời cụ Phan Huy Cận dòng họ Phan Huy có một nhánh ra dòng họ Thuỵ Khê (Hà Tây). Riêng ở Thạch Châu, Thạch Hà, Hà Tĩnh dòng họ Phan Huy đã rất phát triển.

Theo cuốn “Phan Gia công phả” cả phần dịch và chữ Hán dày 308 trang do Nguyễn Ngọc Nhuận dịch và giáo sư  Phan Huy Lê hiệu đính, từ thế kỷ XVI  đến cuối thế kỷ XIX trải qua 13 đời như sau:

Đời 1: Tiên tổ khảo, tên Thụy là Đôn Dụ phủ quan.

Đời trước có nói rằng: Cao cao tổ tên là ông Trằm, Cao cao tổ tên là mụ Trằm (vào mùa thu năm Mậu Thân niên hiệu Bảo Thái đời Lê (1728), tăng quận công cùng các vị Quý Tần về bản quán có đặt đàn, bày lễ, truy tiến các vị gia tiên đã ghi như vậy).

Đời 2:Phan Lệnh Công tên Thuỵ là trang chiêu phủ quân, tên huý là Phan Văn Lâu.

Đời 3:Phan Lệnh Công, tên thuỵ là thuần mục phủ quân tên, huý là Phan Văn Đài 

 Đời 4:Phan Văn Nguyên: Ông là con trưởng của cụ Thuần Mục Công, vào năm Nguyên Hòa đời vua Lê Trang Tông (1533 - 1548) lúc đầu đi theo viên quân nhiều lần được thăng quan cơ cai làm vũ huân tướng quân, phong tước hầu, sau khi đánh giặc có công, được tấn phong tước quận công. Ngày tháng 3 niên hiệu Khải Định thứ 2 (1917) được gia phong Quang Ý trung  đẳng thần. Niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) được gia tặng là trắc vĩ thượng đẳng thần.

Đời 5: Cụ Phan Văn Lan:con trưởng của cụ Phan Văn Nguyên. Vào niên hiệu Quang Hưng (1578 - 1599) thời Lê Thế Tôn (1573 – 1600), ông làm cai cơ dần dần thăng tả thăng đốc, được phong tước hầu.

Đời 6:Cụ Phan Văn Kính: con đầu cụ Phan Văn Lan, vào niên hiệu cảnh trị đời Lê Huyền Tôn (1663 - 1671) ông theo nghiệp binh làm cai cơ, sau dần dần được thăng chiêu nghị tướng quân, đô đốc đồng tri, đến đời Lê Cảnh Hưng năm thứ 47 (1786) được phong tặng là Trấn quốc thượng tướng quân, Hữu đô đốc vinh lộc hầu trụ quốc thượng liệt. Tháng 5 Thành Thái thứ 6 (1894), triều Nguyễn, ông được phong Đoan túc bảo trung hưng tôn thần, chuẩn cho hai thôn phụng thờ. Ngày tháng 10 năm Duy Tân thứ 3 (1909) lại được gia phong, Chuẩn cho hai thôn phụng thờ. Năm Khải Định thứ IX (1924) được gia tăng Quang Ý trung  đẳng tôn thần.

 Đời thứ 7:Dòng họ chia ra thành Đại tônTiểu tôn.

Trưởng là Vũ Tường Hầu (Phan Văn Canh) thuộc đại tôn, nhập tịch ở Gia Thiện.

Thứ là Tăng Quận Công (Phan Văn Tĩnh), thuộc  tiểu tôn vẫn ở Hữu Phương.

Từ đây gia phả chép các thế thứ theo hai dòng đại tôn và tiểu tôn.

Đại tôn:

Đời thứ 7Phan Văn Canh: Tên tự là  Như Thành, tên Thuỵ là Thuần hậu phủ quân. tuổi Đinh Mùi  (1667) thọ 65 tuổi sinh được hai người con trai  (trưởng là Côn Thọ Bá, thứ  hai là Văn Kiều) .

Đời thứ 8:Chánh ngũ phẩm giữ  chức thiêm sự tại sự viện, Côn Thọ Bá Phan Quý Công, tên tự là Như Phương, tên Thuỵ là Thanh Trực. Con trưởng cụ Phan Văn Canh, sinh năm Quý Dậu (1693), thọ 68 tuổi.

Sinh hạ được 6 con trai là: (Châu, Điền, Tuyên, Gia, Điền).

Đời thứ 9:Phan Huy Châu: Là chánh ngũ phẩm giữ chức thiên sự tại thiên sự viện là con trưởng của Côn Thọ Bá. Ông sinh năm Nhâm Thìn (1712), thọ 59 tuổi.

Sinh hạ 4 con trai (trưởng Bĩnh, thứ hai là Quan, thứ ba là Điền, thứ tư là Tôn).

Đời thứ 10:Phan Văn Bỉnh là con trưởng của cụ thu lộc hầu Phan Văn Châu, sinh năm Kỷ mão (1959), thọ 60 tuổi. Ông là quan viên tử kiêm trùm huyện tức là người đứng đầu ty giáo phường cấp huyện.

Sinh hạ được 4 con trai là: Xán, Án, Đồng, Lương.

Đời thứ 11: Phan Văn Xán là con trưởng cụ trùm huyện Phan Văn Bỉnh, ông sinh năm Kỷ Mão, thọ 60 tuổi. Ông là quan viên tôn kiêm tướng sĩ lang giữ chức tri sự thừa hoa điện.

Sinh hạ được 2 con trai con trưởng là , con thứ là Minh.

Đời thứ 12:Phan Văn Vĩ tên chữ là Mân, là con trưởng cụ tri sự Phan Văn Xán, ông thọ 70 tuổi.

Sinh hạ được 3 người con trai: Con trưởng là Lãng, con thứ hai là Phổ, con thứ ba là Tiến.

Đời thứ 13:Ông trưởng là Phan Văn Lãng. Sinh hạ được một con trai, mất sớm.

Ông thứ hai là Phan Văn Phổ. Sinh hạ được một con trai.

Ông thứ ba là Phan Văn Tiến.

Tiểu tôn:

Đời 7:Phan Văn Tĩnh sinh năm Tân Hợi niên hiệu Cảnh Trị thời Lê (1671), con thứ cụ Phan Văn Kính và bà á thất là Phạm Đặng lệnh nhân. Vào ngày mùng 5 tháng 9 năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ ba (1734) ông mất khi đương chức, thọ 64 tuổi.

Sinh hạ được 9 người con trai (Công, Diễn, Đính, Hạo, Đôn, Cận, Vị, Kiêm, Trì), 10 người con gái, chỉ biết hai người là thị Chỉnh, thị Đang, còn lại không rõ.

Đời thứ 8:

- Phan Huy Công con trưởng cụ Phan Văn Tĩnh.

- Phan Huy Diễn con thứ hai cụ quận công Phan Văn Tĩnh, sinh hạ được một người con gái.

- Phan Huy Đình con thứ ba cụ Phan Văn Tĩnh. Sinh hạ được một người con trai tên là Trị hai người con gái là thị Hán, thị Bình.

- Phan Huy Hạo con thứ 4 cụ Phan Văn Tĩnh. Sinh hạ được 1 người con trai là Kiển.

- Phan Huy Đôn là con thứ 5 cụ Phan Văn Tĩnh.

- Phan Huy Cận Con thứ 6 cụ Phan Văn Tĩnh.Ông Sinh giờ Thìn mồng 2 tháng 2 năm Nhâm Dần, niên hiệu Bảo Thái Triều Lê năm thứ 3 –(1722), mẹ là Tự Phu Nhân. Lúc đầu được nuôi ở nhà nhũ mẫu thôn Cầu Trì, khi 6 tuổi được Tu Nghi nuôi trong phủ Nhân Vương. Vương yêu quí vì thông minh dĩnh ngộ, cho hầu trong nội cung. Đến khi cụ Quận Công (Phan Văn Tĩnh) vào Trấn thủ ở Nghệ An, ông tối quân thứ hầu hạ, đựơc thụ nghiệp tiến sĩ Nguyễn Tuấn. Năm Giáp Dần (1734), khi đã xong việc tang cụ  Phan Văn Tĩnh, lại đến kinh theo học Tiến sĩ  Nghiêm Bá Đĩnh. Khoa Qúy Hợi (1743), ông phải cư tang, cùng Vũ Công Trấn (Tiến sĩ), Đỗ Huy Kỳ (Thám Hoa) giao du, về lý số, từ nguyên, ông đã đạt đến chỗ tinh túy. Đến khoa Đinh Mão (1747), niên hiệu Cảnh Hưng, khi đó 26 tuổi, thi Hương trúng giải nguyên, năm Giáp Tuất (1754) thi hội trúng hội nguyên, vào Điện thì được ban Đồng Tiến sĩ đệ tứ.

Sinh được 5 ngươì con trai là: Ích ,Thự , Ôn, Sảng, Tân; 4 con gái: Anh, Trân, Uyển, Toại.

-        Phan Huy Vị con thứ 7 cụ Quận Công Phan Văn Tĩnh.

-        Phan Huy Kiêm con thứ 8 cụ Phan Văn Tĩnh.

-        Phan Huy Trì con thứ 9 cụ Phan Văn Tĩnh.

Đời thứ 9: Lấy con của Phan Huy Cận làm đại diện.

- Phan Huy Ích :Ông sinh giờ thìn, ngày 12 tháng 12 năm Canh Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 11 (1750), là con đầu cụ Bình Chương (Phan Huy Cận), lúc nhỏ rất thông minh dĩnh ngộ.

Khoa Tân Mão (1771) ông thi Hương đậu giải nguyên, khi đó ông 22 tuổi. Năm Nhâm Thìn (1772), khảo khoa 4 kỳ đều ưu cả, đến mùa đông năm đó thi Hội 4 trường đều có phân số. Năm Quý Tỵ (1773) được nghị thưởng một bậc, cho làm Thừa Ty Sơn Nam, không bao lâu ông xin về. Năm Giáp Ngọ (1774) phụng mệnh khảo hạch tuyển chọn học trò huyện Đông Quan. Khoa thi hội năm Ất Mùi (1775), ông đỗ hội nguyên, được ban cho là Thiếu Tuấn khoa đồng Tiến sĩ đệ thất. Tháng 2 mùa xuân, ông lên kinh ứng khảo, đặc phê ứng chế đệ nhất, được thưởng 10 quan thanh tiền, được trao chức Hàn Lâm hiệu Thảo, sau đó giữ chức Thị giám sát Ngự Sử tỉnh Thanh Hoá…. Ông  đã có nhiều đóng góp cho triều Tây Sơn, ông mất vào giờ Tuất ngày 20 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1822) niên hiệu Minh Mệnh, thọ 73 tuổi.

Sinh hạ 6 con trai là: Quỳnh, Thực, Chú,Thanh, Ly, Mãn; 8 người con gái là: Bích, Ngôn, Điền, Xuân, Thiều, Quán, Đại, Lương.

- Phan Huy Thự: Là con thứ hai cụ Bình Chương (Phan Huy Cận), sinh năm Quy Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thời Lê (1753). Khoa Tân Mão (1771) đậu hương cống, lúc đó 19 tuổi, năm Kỷ Hợi (1779) thi hội trúng tam trường. Lúc đầu ông giữ chức tự thừa, đến năm Đinh Mùi (1787)được cử làm Hiến sát phó sứ. Mùa hạ năm Tân Hợi (1791) thời Tây Sơn ông về trú xã Bảo Triện Kinh Bắc, bị kẻ cướp giết hại (ông mất lúc 39 tuổi).

Sinh hạ được hai con trai là: Phái, Điền; hai con gai là: Ái, Tuyên.

- Phan Huy Ôn: con thứ 3 cụ Bình Chương (Phan Huy Cận), sinh năm Ất Hợi niên hiệu Cảnh Hưng (1755) , mất tháng 11 năm Bính Ngọ (1786), thọ 32 tuổi.

Sinh hạ được 2 trai là: Đạm, Hoàn ; 3 gái là: Hoãn, Lịch, Viên.

- Phan Huy Sảng là con thứ tư cụ Bình Chương (Phan Huy Cận) sinh năm Giáp Thân (1764). Khoa Kỷ hợi (1779) đậu Hương Cống (năm 16 tuổi), thi hội nhiều lần trúng tam trường. Lúc đầu ông giữ chức tự thừa, đến thời Tây Sơn được triệu ra bổ chức Hiệu lý Viện Hàn Lâm; phái Lộc Bá. Mùa thu năm Mậu Ngọ (1798) ông lĩnh chức Hữu quản lý huyện Thạch Thất. Sau đó đổi tên Giám, tự là Thúc Minh, rồi về Cổ Nhuế dạy học, đặt niên hiệu là phục Am Công. Ông mất ngày 24 tháng Giêng năm Tân Mùi (1811) niên hiệu Gia Long, thọ 48 tuổi. Sinh được 1 con gái là: Cự.

- Phan Huy Tân sinh năm Giáp Thân (1764), con thứ 5 cụ Bình Chương (Phan Huy Cận). Khi trẻ giỏi võ nghệ, được theo cụ Bình Chương đi trấn thủ ở Động Hải, được làm võ úy quân đội Hữu Chấn, Tể võ bá. Nhà Lê mất, ông không chịu làm tôi nhà Tây Sơn đã nổi quân chống lại nhưng bị thua phải đi trốn, đến năm Quý Sửu (1793) niên hiệu Quang Trung, ông bị Trấn Quan bắt được rồi giết chết, thọ 30 tuổi. Bà vợ sinh được một con trai là:Thẩm.

Đời thứ 10: Lấy con của Phan Huy Ích làm đại diện gồm:

- Phan Huy Quýnh hiệu Tố Am, sinh giờ Mão ngày 19 tháng 6 năm Ất Mùi (1775) là con trưởng của cụ Dụ Am Hầu (Phan Huy Ích), ở nhà dạy học. Ông mất ngày 17 tháng 5, thọ 70 tuổi. Có 3 người con trai là: Khiết, Phương, Trừng, và 1 người con gái.

   - Phan Huy Thực là con thứ hai cụ Phan Huy Ích, sinh giờ tý, ngày 5 tháng 10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39 (1778) ông mất vào giờ dần ngày 11 tháng 2 năm Giáp Thìn (1844) thọ 67 tuổi, Có hai con trai là: Vịnh và Lãm, hai người con gái.

  - Phan Huy Chú, sinh năm Nhâm Dần niên hiệu Cảnh Hưng (1782), con thứ 3 cụ Phan Huy Ích. Khoa Đinh Mão (1807) Kỷ Mão (1819) đời Gia Long đều đậu tú tài, tháng giêng năm 2 niên hiệu vua Minh Mạng (1821) ông được bổ…. Hàn lâm viện biên tu, rồi làm phủ Thừa Thiên, Hiệp Trấn tĩnh Quảng Nam. Hai lần phụng mệnh đi sứ phương Bắc, sau đó bị khiển trách, đến năm 15 (1834) được phục hồi làm công bộ tư vụ, bị đau chân xin về nghỉ hưu, dạy học. Sau phụng mệnh đi sứ, thăng thị giảng sung sứ bộ. Ông mất năm Minh Mạng thứ 21 (1840), thọ 59 tuổi. Có 5 người con trai là: Uyên, Chuẩn, Triệt, Hàm, Nhuận, một con gái là Cơ.

   - Phan Huy Thanh con thứ 4 cụ Phan Huy Ích. Ông sinh giờ Dần ngày 15 tháng 9 năm Bính Ngọ (1786), mất ngày 22 tháng 4, thọ 54 tuổi. Có 3 con trai là : Trạm, Tiệm, Thúc; 3 con gái là: Thành, Hoàn, Cư.

   - Phan Huy Lý con thứ 5 cụ Dụ Am Phan Huy Ích, ông sinh năm Tân Dậu (1801), sinh  hạ được 2 con trai là: Nghi, Đàm; 2 con gái.

    - Phan Huy Mãn: Ông sinh năm Nhâm Tuất (1802), là con thứ 6 cụ Phan Huy Ích theo thượng thư Khuê nhạc công( Phan Huy Thực) đi sứ sang Trung Quốc, làm quan đến thông phán, mất ngày 19 tháng 8 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) lúc đó ông 35 tuổi, có 1 con trai là Diên.

      Đời thứ 11:

      Lấy con của Phan Huy Thực làm đại diện gồm 2 người con trai nhưng nổi bật lên là Phan Huy Vịnh.

     Phan Huy Vịnh sinh giờ hợi, ngày 25 tháng Giêng  năm Tân Dậu, niên hiệu Cảnh Thịnh (1801). Ông đậu cử nhân khoa Mậu Tý năm thứ 9 niên hiệu Minh Mạng (1828), năm Tự Đức thứ 6 (1853) được bổ thị Lang, làm chánh sứ sang Thanh, vì đường khó đi phải ở lại 3 năm, đến lúc về được thăng Hữu tham tri bộ hình  và ban cho 8 bài Ngự thi (1 bài thất ngôn, 7 bài ngũ ngôn), một kim khánh (có 4 chữ Cần Lao Khả Lục nghĩa là: chuyên cần lao động đáng ghi nhận), sau thăng về bộ thượng thư trưởng lễ bộ, kiêm trưởng Quốc sử quán tổng tài, bộ hình. Năm Canh Ngọ (niên hiệu Tự Đức) thứ 23 (1870), giáng làm tham tri, cho về hưu, ban cho lụa sâm các loại. Ông mất giờ Sửu ngày 22 tháng 8 năm Tân Mùi  (niên hiệu Tự Đức) thứ 24 (1871), thọ 71 tuổi. Có 7 con trai là: Nguyên, Tảo, Lạc, Tuân, Kỳ, Trăn, Tấu; 4 người  con gái là: Hàm, Trù, Ôn, Bình.

      Đời thứ 12.

     Lấy con của Phan Huy Vịnh làm đại diện gồm:

     - Phan Huy Nguyên con trưởng cụ Phan Huy Vịnh, sinh giờ Mão ngày mồng 1 tháng 9 năm Ất Dậu niên hiệu Minh Mạng (1825), năm Nhâm Tuất (1862) niên hiệu Tự Đức đi lính được thưởng hàm chánh bát phẩm, tháng 7 dẫn  khâm phái thu hồi đuợc phủ thành Quốc Oai, giặc Yên  được thưởng trao hàm thị giảng. Năm Bính Dần (1866), về kinh bổ thụ chức viên ngoại lang, năm Đinh Mão (1867), sung làm Đề điệu trường thi Nam Định, nhân bệnh xin cáo quan về, giỗ ngày mồng 8 tháng 7, thọ 44 tuổi. Có 2 con trai là Đồng, Mai; 1 con gái.

     - Phan Huy Tảo là con thứ 2 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Đinh Dậu (1837), giỗ ngày 18 tháng 4, thọ 47 thuổi. Có 1 con trai là Huyền, 2 con gái là : Thị Anh, Thị Hưởng.

    - Phan Huy Lạc là con thứ 3 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Đinh Mùi (1847), ấm thụ cửu phẩm, làm hậu bổ tỉnh Hưng Hoà, năm ất Dậu niên hiệu Đồng Khánh quyền kinh lịch ở tỉnh, năm Bính Tuất (1886) nhiếp huyện. Có 1 con trai là Kỳ; 3 người con gái.

    - Phan Huy Tuân là con thứ tư cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Kỷ Dậu (1849), tòng tỉnh ấm sinh, năm Giáp Thân niên hiệu Kiến Phúc (1884) làm bang tá phủ vụ. Có 4 con trai là: Tiếp, Thiêm, Tấn, Cán; 2 xon gái là: Thị Nhĩ, Thị Thám.

    - Phan Huy Kỳ là con thứ 3 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Kỷ Mùi (1859), được tặng nghi nhân hàm Tòng ngũ phẩm. Mất ngày 14 tháng 3, thọ 27 tuổi. Có 1 con trai là Cầm.

    - Phan Huy Trăn là con thứ 6 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Canh Ngọ (1870). Năm Nhâm Thìn niên hiệu Thành Thái (1892) được ấm lệ vào học Quốc Tử Giám, khoa Giáp Ngọ niên hiệu Thành Thái thứ 6 (1894), ông đỗ cử nhân xếp thứ 14. Năm Ất Mùi (1895) theo khâm phái được binh bổ đi hậu bố tỉnh Nghệ An, năm Giáp Thìn (1904) được bổ thụ tri huyện Nghi Lộc, năm Ất Tỵ (1905) được thăng thụ tri phủ phủ Quỳ Châu. Sau đó ông bị giáng rồi được bổ dụng làm đến Tư vu Binh bộ Ty, kinh lịch thông phán tỉnh Khánh Hoà. Khi về hưu được trao thị giảng học sĩ, hưu trí vào năm Khải Định thứ 9 (1924). Nhân tiết mừng thọ nhà vua vừa 40 tuổi, ông được cải thụ Quang Lộc tự thiếu khanh. Có 2 con trai là Thung, Đăng; 3 con gái là: Thị Cúc, Thị Liên, Thị Quỳ.

      - Phan Huy Tấu là con thứ 7 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Ất Mùi (1871).

     Từ đời 13 đến nay tất cả các chi họ đều phát triển mạnh sinh sống ở nhiều tỉnh trong cả nước và cả ở nước ngoài, con cháu học rộng, tài cao và ngày càng có nhiều cống hiến quan trọng cho đất nước.

Trải qua hơn 400 năm lịch sử, kể từ đời cụ tổ nhập tịch vào phía Tây xứ Trằm Vịt thôn Chi Bồng (sao đổi là Hữu Phương) xã thu hoạch, huyện Thiêu Lộc nay Thạch Châu- Thạch Hà- Hà Tĩnh , dòng họ Phan Huy đã trở thành một dòng họ lớn có truyền thống hiếu học, yêu nước và con cháu dòng họ đang ngày càng tô điểm thêm truyền thống văn hoá tốt đẹp đó của cha ông.

4/ GIA PHẢ CỦA HỌ PHAN CÓ NGUỒN GỐC Ở THẠCH CHÂU - HÀ TĨNH

Cuốn Phan gia công phả(6) còn ghi lại: “Nghe nói trước kia tiên tổ dòng họ ta nguyên quán ở xã Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, thuộc Ty giáo phường, quen nghề làm ruộng và am tường âm nhạc. Đến niên hiệu Quang Thuận, Hồng Đức đời Lê Thánh Tông (1460-1497), phụng chỉ cho coi việc Giáo phường làm phân trưởng cửa đình ở huyện. Lúc đó mới nhập tịch vào phía Tây xứ Trằm Vịt, thôn Chi Bông (sau đổi là Hữu Phương) xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc. Cho nên người trong ấp thường gọi tiên tổ [họ ta] là Ông Trằm, Mụ Trằm...” (tờ 7a). Có thể nói Ông Trằm là ông tổ đầu tiên của họ

Phan ở Thạch Châu, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Vào thời Lê sơ, tổ tiên dòng họ Phan vốn

có nghề làm ruộng lại giỏi âm nhạc. Theo quy định của triều đình lúc đó những người làm nghề ca nhạc do Ty giáo phường quản lý và được phân về giữ cửa đình (đình môn) các xã trong huyện. Tổ tiên họ Phan vốn ở xã Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, do quy định trên đã phụng chỉ chuyển về thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh)(7). Cho đến đời thứ 10, 11 trong dòng họ Phan còn có người là Trùm huyện, Quan viên tử, Quan viên tôn(8) là các chức sắc trong giáo phường, một tổ chức của hát ca trù thời phong kiến ở nước ta.

Gia phả họ Phan nguồn gốc ở Thạch Châu hiện nay còn lại 4 văn bản, trong đó có 2 văn bản hiện được lưu giữ tại thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; 2 văn bản khác hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, do con cháu của dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn biên soạn.

1. Văn bản thứ nhất:

Phan gia công phả (PGCP) chúng tôi gọi văn bản này là Văn bản A bản gốc hiện được lưu giữ tại thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; gồm 172 trang, chép chữ Hán xen kẽ chữ Nôm, khổ 23x12cm.

Sách gồm 3 phần:

Phần thứ nhất, từ trang 3 đến trang 14 là sơ đồ dòng họ Phan từ đời thứ nhất Đôn Dụ công cho đến đời thứ 13 của chi đại tôn, đời thứ 12 của chi tiểu tôn. Trong đó, từ đời thứ 7 được chia thành hai nhánh, chi trưởng là Vũ Tường hầu Phan Văn Canh thuộc đại tôn nhập tịch vào thôn Gia Thiện; chi thứ là Tăng Quận công Phan Văn Tĩnh thuộc tiểu tôn, đời này vẫn ở thôn Hữu Phương. Đời thứ 8 có Huyện thừa huyện Nông Cống là Phan Huy Công con trưởng Quận công có con cháu một chi về Tả Thanh Oai, một chi về Mao Điền, Cẩm Giàng, Hải Dương. Còn Khuê Phong hầu Phan Huy Cận là con thứ 6 của Tăng Quận công đến cuối đời cũng dời về nhập tịch tại Thụy Khuê, Sài Sơn (nay thuộc tỉnh Hà Tây) lập nên một dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn.

Phần thứ 2, từ trang 15 đến trang 160, đây là nội dung chính của cuốn gia phả dòng họ Phan. Trước khi viết về đời thứ nhất, người chép gia phả đã nhắc tới vị Tổ đầu tiên (sơ tổ) là Ông Trằm, người ở thời Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức (1460 - 1497), sau đó mới giới thiệu về đời thứ nhất: Tiên tổ khảo, tên thụy là Đôn Dụ phủ quân, Tiên tổ tỷ bà chính thất, tên thụy là Từ Thiện nhụ nhân... Có lẽ do thời gian xa cách khá lâu nên đời thứ nhất, thứ hai, thứ ba, người chép gia phả đã không ghi được đầy đủ tên tuổi, hành trạng của các vị này. Nếu đem so sánh với Phan tộc công phả (PTCP) ký hiệu A.2963(9) thì phần này cũng có khác, bản PTCP coi Phan Văn Đài là đời thứ nhất, còn bản PGCP (Văn bản A) coi Đôn Dụ phủ quân mới là đời thứ nhất. Ở đời thứ 3 Văn bản A còn ghi thêm: “Kính xét, theo gia phả dòng họ ở Sơn Tây(10) ghi là đời trước húy Đài (Phan Văn), đời sau húy Lâu (Phan Văn), nhưng khi khảo 3 cuốn gia phả khác thì ghi đời trước húy Lâu (Phan Văn), đời sau húy Đài (Phan Văn), cho nên chép lại để khảo cứu”.

Sau đời thứ 6, đời thứ 8 (tiểu tôn) gia phả còn phụ chép các bà có đức hạnh của dòng họ, trong đó có bà Phan Thị Nẫm và Phan Thị Lĩnh, là con của cụ Phan Văn Kính thuộc đời thứ 6 (ông nội của Phan Huy Cận). Hai bà là cung tần của các chúa Trịnh. Bà Nẫm từng xuất tiền ra sửa chữa chùa Hoa Phát ở xã Sài Khê (Sài Sơn), còn bà Lĩnh được Khang Vương (Trịnh Căn) rất sủng ái. “Vào khoảng niên hiệu Chính Hòa thời Lê (1680-1705), bà theo xe tháp tùng [Trịnh Căn] đi tuần du phía Tây, xem phong cảnh Sài Sơn, nhân đó quyên tiền làm chùa Long Đẩu, ủy cho chánh thần soạn bài văn bia. Sau khi Khang Vương mất, bà trở về gia quán quy định lễ hậu hai làng. Đến năm Vĩnh Thịnh (1705-1719) bà lại lên kinh đô, rồi về trú ở xã Thụy Khuê, mở mang doanh tạo ao vườn (ao đó sau lưu lại cho xã làm ao công, người trong xã thường gọi là Đức Bà Ngạch. Bà lại sửa hai tòa thượng điện chùa Bối Am, khu thờ một mái, một tòa tiền đường, đúc một quả chuông lớn...” (tr.28-29). Như vậy thì có lẽ những người đầu tiên thuộc dòng họ này đặt chân đến Thụy Khuê - Sài Sơn phải là hai người cô ruột của Phan Huy Cận... Có thể do mối quan hệ nói trên mà sau này Phan Huy Cận về nhập tịch Thụy Khê(11).

Các đời tiếp theo đều được PGCP ghi chép đầy đủ chức tước, tên thụy, tên húy, tên tự, là con của vị nào cùng ngày tháng năm sinh, tuổi thọ, ngày tháng giỗ, nơi đặt phần mộ và tên tuổi các bà vợ, tên con trai con gái của chủ hộ... Nhiều nhân vật sinh thời có nhiều đóng góp với xã hội, dòng tộc đã được ghi chép khá tỉ mỉ như trường hợp của ông Phan Huy Cận (thuộc đời thứ 8 là thân phụ của Phan Huy Ích, Phan Huy Ôn) đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1754), Đặc tiến Kim tử Vinh lộc thượng đại phu, Nhập thị Kinh diên Bình chương trọng sự, kiêm Nhập thị Tham tụng Quốc sử quán Tổng tài Khuê Phong hầu, gia phong Trác vĩ Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng tôn thần. Lúc nhỏ “ông tên húy là Cận sau vì kỵ húy với Đông cung nên đổi là Áng, con thứ 6 cụ Quận công và bà Tự phu nhân. Ông sinh giờ Thìn ngày mùng 2 tháng 7 năm Nhâm Dần, niên hiệu Bảo Thái triều Lê năm thứ 3 (1722)... Năm Giáp Tuất (1754) đi thi Hội trúng Hội nguyên, vào Điện thí ông được chấm đồng Tiến sĩ đệ tứ. Năm Ất Hợi (1755) đăng triều nhậm chức Binh khoa cấp sự... Năm Tân Tỵ 1761 triều Thanh sai sứ sang sách phong, ông được đặc mệnh thự Đốc đồng kiêm Thiêm sai tri phiên, ông được tùy nghi sai phái việc quan, công việc đều ổn thỏa. Năm Nhâm Ngọ (1762), ông được phái đi sứ sang Thanh tạ ân, khi về lại giữ nguyên chức Thiêm sai. Ông vốn tính cương trực nên bị quyền thần không ưa, thường hay bị dèm pha... Ông làm phụ chính đã nhiều năm, công việc đều hoàn tất. Đến năm Ất Tỵ ông xin thôi chức Bồi tụng nhưng không được trên chuẩn, được thăng chức Giảng quan Thự Công bộ.

Đến năm Chiêu Thống thứ 2 (1788) ông được ấm phong Lễ bộ Thị lang. Giờ Tỵ ngày 12 tháng 4 năm Kỷ Dậu (1789) ông mất, thọ 68 tuổi, hiệu là Thận Trai, tên thụy là Văn Đạt, phần mộ đặt tại xứ Cây Bằng Thượng Cách, Nhâm sơn Bính hướng (theo hướng bắc nam) (trong nguyên văn tr.46-54).

Sau đó người chép gia phả còn đưa ra lời nhận xét, đánh giá về Tiến sĩ Phan Huy Cận: “Ông là người phát khoa cho họ ta đầu tiên... Ông giỏi địa lý làm nhà thờ, làm hậu miếu cho hai thôn, bên tả thì đặt chợ Phủ, bên hữu thì đào giếng, lại chọn đất làm văn chỉ cho tổng, cho xã và thần từ cho thôn Hữu Phương và phần mộ cho các vị tiên nhân. Xem như vậy ông là người có huân nghiệp chốn triều đình, đức trạch ở họ hàng, khôi khoa hiển hoạn được ghi bia đá nước nhà, đến nay còn hiển hách rạng rỡ” (nguyên văn tr.54-55).

Ở đây Tiến sĩ Phan Huy Cận được xem là người khai khoa, người đỗ Tiến sĩ đầu tiên của dòng họ, mở ra tiền lệ cho thế hệ những người kế tiếp như: Tiến sĩ Phan Huy Ích (đỗ năm 1775), Tiến sĩ Phan Huy Ôn (đỗ năm 1780), Tiến sĩ Mộng Đinh (con của Phồn Khê công Phan Huy Chỉ)...

Đối với Phan Huy Thực là tác giả của tác phẩm Nôm nổi tiếng Tỳ bà diễn âm được PGCP ghi lại như sau: “... Ông tên húy là Thực, tên tự là Vỵ Chỉ, là con thứ hai cụ Dụ Am hầu, ông sinh giờ Tỵ ngày 5 tháng 10, năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39 (1778). Năm thứ 12 niên hiệu Gia Long (1813) ông được ứng triệu cử làm Phó sứ sang Thanh, năm Canh Thìn niên hiệu Minh Mạng thứ nhất (1820) ông làm Hiệp trấn tỉnh Lạng Sơn nửa kỳ, từ đó ba lần làm Thượng thư Bộ Lễ, năm đầu niên hiệu Thiệu Trị (1741) ông xin về nghỉ. Đến năm thứ 2, thánh giá bắc tuần, ông tới yết kiến ở hành điện, nhà vua ban cho một thỏi bạc và một bài thơ... Ông mất vào giờ Dần ngày 11 tháng 2 năm Giáp Thìn (1844), thọ 67 tuổi, phần mộ ở Đường Le, xã Thụy Khuê, đặt theo hướng bắc nam. Năm thứ 11 niên hiệu Tự Đức thời Nguyễn (1858) ông được dự vào đền thờ của các bày tôi hiền lương... Tác phẩm của ông có: Hoa Thiều tập, Tỳ bà diễn âm, Nhân ảnh vấn đáp từ”. (nguyên văn tr.76-77).

Về Phan Huy Chú nhà văn, nhà bác học lỗi lạc, tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị được ghi lại trong PGCP như sau: “... Ông tên húy là Chú, tên chữ là Lâm Khanh, sinh năm Nhâm Dần niên hiệu Cảnh Hưng (1782), con thứ ba cụ Dụ Am hầu, khoa Đinh Mão (1807), Kỷ Mão (1819) đời Gia Long đều đậu Tú tài(12), tháng giêng năm thứ 2 niên hiệu Minh Mạng (1821) ông được bổ thụ Hàn lâm viện Biên tu, rồi làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn tỉnh Quảng Nam, phụng mệnh hai lần đi sứ phương Bắc, sau đó bị khiển trách, đến năm thứ 15 được phục hồi làm Công bộ tư vụ, bị đau chân xin về nghỉ dạy học, sau thăng Thị giảng sung Sứ bộ. Tác phẩm của ông có: Bình Định quy trang, Hoa thiều ngâm lục, Hoa thiều tục ngâm, Dương trình ký kiến, Lịch triều hiến chương (4 quyển)(13). Ông mất năm Minh Mạng thứ 21 (1840), thọ 59 tuổi” (nguyên văn tr.78).

Sau những trang ghi chép theo thế thứ các đời thì đến đoạn Bản tộc hợp tế từ vũ (nguyên văn trang 127- 129), phần 2 của văn bản PGCP đã cho biết việc xây dựng và trùng tu nhà thờ họ Phan ở xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh qua các thời kỳ. Bắt đầu từ thời Cảnh Hưng (vào năm 1779) nhà thờ họ được Tiến sĩ Phan Huy Cận khởi công xây dựng, đến năm Bính Ngọ (1786) do binh hỏa nhà thờ bị cháy... Sau nhiều lần được trùng tu, cho đến năm Bảo Đại thứ 5 (1930) thời Nguyễn, nhà thờ họ được Tiến sĩ Mộng Đinh trùng tu lần cuối.

Trong Bản tộc hợp tế từ tự điển (nguyên văn tr.130-139) của phần 2 người biên soạn gia phả đã ghi lại lệ định trong nội tộc liên quan tới điển lệ thờ cúng và những vị được đưa vào thờ ở gian chính: “... Nếu ai thi đỗ Tiến sĩ, quan văn từ Án sát, quan võ từ Lãnh binh trở lên mới được đưa vào thờ ở gian chính trung, án thứ 2 để biểu dương khuyến khích, cho đến các vị Thị nội cung tần đã đóng góp những điều tốt đẹp cho dòng họ và có công với bản tộc ta được nêu ở hàng trên. Còn như người nào được hiển quý, nhưng không có công đức thì không được liệt vào hàng đó”.

Ở Phần 2, người biên soạn còn chép thêm hai bài văn bia, một ở đền thờ họ tại thôn Gia Thiện với tiêu đề: Tôn Hậu thần lập thường bi ký (Bia ghi việc tôn hậu thần lập ra để thờ cúng lâu dài) do Tiến sĩ khoa Ất Sửu Nguyễn Đổng soạn năm Giáp Ngọ niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 10 thời Lê (1714). Tấm bia thứ 2 có tiêu đề: Đức Quang phủ, Thiên Lộc huyện, Canh Hoạch, Thu Hoạch đẳng xã, Hữu Phương, Gia Thiện đẳng thôn Hậu thần bi ký. (Bia ghi Hậu thần ở các thôn Hữu Phương, Gia Thiện, các xã Thu Hoạch, Canh Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang) do Tiến sĩ khoa Tân Hợi là Đỗ Huy Kỳ soạn vào năm thứ 3 niên hiệu Long Đức (1734).

Cuối Phần 2 còn phụ chép thêm 1 bài tựa do Phan Huy Dũng soạn vào hạ tuần tháng 8 năm Đinh Mùi, niên hiệu Duy Tân năm thứ nhất (1907). Bài tựa này được chép thêm về sau bằng kiểu chữ khác, bút loại khác so với những phần trên. Có thể bài tựa được người sau chép thêm vào từ một cuốn phả do Phan Huy Dũng biên soạn, tương tự như bản Phan tộc công phả mang ký hiệu A.2963 hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm(14).

Phần thứ 3, trong nguyên văn từ trang 161 đến 171, gồm 10 tấm bản đồ vẽ địa thế các khu vực đặt phần mộ của các nhân vật chính trong dòng họ Phan. Như bản đồ ở trang 166 trong PGCP, vẽ hình con cá chép là nơi đặt phần mộ của Tham đốc thần vũ Tứ vệ quân Thiều Quang Quận công(15). Như bản đồ ở trang 167 trong PGCP, vẽ khu đất ở xứ Cồn Mỹ hình vị tiên, nơi đặt phần mộ của Tài Lương hầu Phan Văn Lan (đời thứ năm).

* Về tác giả của văn bản PGCP: có lẽ văn bản PGCP được chép từ một cuốn PGCP trước đó, là gia phả được biên soạn cẩn thận, theo thể thức nhất định của cách viết gia phả. Như chúng ta biết, dòng họ Phan từng có nhiều người học hành, đỗ đạt nên việc viết gia phả để lại cho con cháu mai sau đã sớm được quan tâm, từ đời thứ 8 của dòng họ thời Tiến sĩ Phan Huy Cận (1722-1789) vào những năm cuối đời ông dâng biểu từ chức, “từ đó về sau ông về quê nhà nhàn dưỡng, dạy dỗ con trẻ và soạn gia phả được một quyển”. Bản PGCP có nguồn gốc từ thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, Hà Tĩnh, do không chép bài tựa, bài dẫn, không ghi người biên soạn gia phả nên việc tìm ai là tác giả của bản PGCP cần có thêm những dữ liệu cho việc xác định này.

* Về niên đại của bản PGCP (Bản A): khi đi tìm những chữ viết kiêng húy trên văn bản, chúng tôi thấy ở dòng 3 trang 147, dòng 6 trang 151, chữ “Nhậm” ( ) được viết kiêng húy là “Nhậm” () đây là cách viết kiêng húy thời Tự Đức (1848-1883). Trong nguyên văn chúng tôi còn ghi lại được nhiều sự kiện, thời điểm mà căn cứ vào đó có thể xác định được niên đại sớm nhất của văn bản, như:

- Phủ tá phủ Thái Bình là Phan Văn Sính (đời thứ 10) “Năm Kỷ Tỵ niên hiệu Bảo Đại thứ 4 (1929) cho người cháu ngoại là Hội viên Phạm Khuê gửi bạc về xây mộ ở thôn Vĩnh Lộc, năm đó cụ Mộng Đinh ở Thanh Hóa có khắc đá làm mộ chí đặt trước mộ” (nguyên văn tr.82).

- Bà chính thất của Phồn Khê công Phan Huy Chỉ, là Lê Thị Hòe, năm bà 18 tuổi về làm dâu họ Phan, năm 19 tuổi chồng mất, bà ở vậy nuôi con học hành đỗ đạt. Đến tháng giêng năm Ất Tỵ (1905) phụng chuẩn khâm tứ ban cho tấm biển trên khắc: “Tiết hạnh khả phong”(16), được sơn son thiếp vàng, lại phong cho là: “Tòng tứ phẩm cung nhân”(17). Năm Canh Ngọ niên hiệu Bảo Đại thứ 5 (1930) lại được chuẩn thưởng tấm kim bội hạng nhì (một bên khắc: “Quỳnh giao vĩnh hảo”(18), một bên khắc: “Bảo Đại niên tạo”(19) và cho treo bức thùy anh huyền bội, nội dung ghi: “Quả cư trợ tử hiền hạnh khả gia”(20) để khuyến khích đức hạnh tốt đẹp” (nguyên văn tr.101-102).

- Năm Bảo Đại thứ 3 (1928), cụ Mộng Đinh làm Án sát Thanh Hóa, đã quyên tiền về tu bổ lợp ngói hạ đường, đến năm thứ 5 (1930) lại đem tiền về tu bổ thượng đường và hai bên chái nhà, cả hai lần tu bổ không dưới 400 đồng, gạch gỗ rất kiên cố, quy mô rất mới...” (nguyên văn tr.129).

Với những sự kiện gắn với niên đại đã dẫn chứng ra ở phần trên, cho phép chúng ta xác định được niên đại của PGCP (Văn bản A): đó là một cuốn gia phả xuất hiện không sớm hơn nên hiệu Bảo Đại năm thứ 3 (1930) thời Nguyễn.

2. Văn bản thứ 2:

Phan gia công phả (PGCP) chúng tôi gọi văn bản này là Văn bản B, bản gốc hiện được lưu giữ tại thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, sách gồm 142 trang, chép chữ Hán xen kẽ chữ Nôm, khổ sách 23x12cm.

Khi đem so sánh đối chiếu giữa Văn bản A và Văn bản B chúng tôi nhận thấy 2 văn bản có nhiều điểm giống nhau, tiêu đề sách đều được ghi là: Phan gia công phả, đối chiếu qua các đời hai văn bản được chép giống nhau, nếu có khác nhau chỉ là sự chênh giữa các trang của hai văn bản. Khi đối chiếu vào từng phần, chúng tôi nhận thấy Văn bản B còn lại những trang cuối của phần Phụ lục nữ hạnh (Phụ chép các bà có đức hạnh)(21) và bắt đầu từ đời thứ 7. Văn bản B mất những trang đầu chỉ còn lại phần thứ 2 và phần thứ 3. Văn bản B có thể bổ sung và đính chính một vài chi tiết sai ở Văn bản A khi tiến hành việc dịch nghĩa và chú thích cuốn PGCP. Như trường hợp do Văn bản A nguyên bản trang 70-71 chép thiếu 1 dòng: “Huyện thừa công húy Hằng, Trung úy hầu đệ tam tử kỵ nhật... Mộ tại Đồng Các xứ” (Huyện thừa công, tên húy là Hằng, là con thứ 3 cụ Trung úy hầu, ngày giỗ... Mộ tại xứ Đồng Các) nên dẫn đến sự nhầm lẫn của Văn bản A coi Huyện thừa Phan Văn Tế là thân phụ của Phan Văn Sính và Phan Văn Ngọc.

Trên cơ sở đối chiếu so sánh từng phần giữa Văn bản A và Văn bản B, chúng tôi đưa ra nhận xét bước đầu như sau: hai văn bản trên nội dung tương tự nên có thể được sao chép ra từ cùng một bản gốc có tên là Phan gia công phả được biên soạn trước đó.

 3. Văn bản thứ 3:

Phan tộc công phả (PTCP), chúng tôi gọi văn bản này là Văn bản C, bản gốc hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiệu A.2963), sách viết tay chữ Hán, xen kẽ chữ Nôm, 156 trang khổ 30x21cm, có 1 nguyên dẫn, 1 tựa, 1 phàm lệ, có hình vẽ sơ đồ những khu mộ táng các vị trong dòng tộc (5 trang).

Văn bản PTCP (tờ 4a) cho biết Ông Trằm là sơ tổ của dòng họ tên thuỵ là Đôn Dụ phủ quân “bản tộc nguyên quán ở thôn Chi Bông (Hữu Phương) xã Thu Hoạch, tổng Canh Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh) đời đời làm nghề nông kiêm thanh nhạc, sau này dời sang thôn Gia Mỹ Đoài, xã Canh Hoạch”. Phả này chép từ sơ tổ đến đời thứ 14, bắt đầu từ tổ đời thứ nhất tên húy là Văn Đài, tên thụy là Trang Minh phủ quân(22). Ở từng đời đều ghi tên tuổi, năm sinh, năm mất, hành trạng, về vợ con của mỗi người .

Phần cuối của PTCP còn chép thêm văn bia, văn tế, bài văn mừng thọ Phan Huy Ích 60 tuổi của Ngô Thì Hiệu và Ngô Thì Tính; bài phú Phan Thượng thư quy Sài nham của Cao Bá Quát(23); bài Tiến thư biểu của Phan Huy Chú(24).

Bản PTCP do Phan Huy Dũng(25) biên soạn; ông đã viết bài dẫn và phàm lệ vào mùa xuân năm Canh Dần, niên hiệu Thành Thái (1890); viết bài tựa tân biên năm Duy Tân thứ nhất (1907). Trong bài tựa Phan Huy Dũng nói về quá trình viết cuốn PTCP: “Cuốn Bản tộc công phả do Dũng tôi biên soạn từ những năm trước, về thể tài phàm lệ lời dẫn đầy đủ. Sau đó (thì tôi đi làm việc) khắp vùng đất phía nam, trong suốt 15 năm trời, việc nhà có điều không lo tới được. Nay mới được trên cho về nghỉ hưu. Về quê xét lại trong dòng họ thì thấy tình hình hiện tại so với những điều đã biên soạn từ những năm trước có nhiều sai khác. Đầu tiên, hai đời Tiên công nay mới thêm Thần hiệu. Cha mẹ nhiều lần được vinh hiển ban tặng sắc phong. Tiếp đó có nhiều vị nối nhau mang lại tiếng thơm do thi đỗ trung khoa, tiểu khoa. Người giữ hàm tước trong các viện, người được phong chức tước quận công, người ra làm quan, người ra làm tướng, đó đều là những thay đổi cần được chép vào gia phả, mà phả soạn trước đều chưa có... Tôi bèn căn cứ vào thể lệ chép phả cũ, sửa lại thành một bản phả mới, sau phả chép thêm những người thuộc hàng đời thứ 12, bổ sung những sự việc trong 20 năm gần đây, đặt tên là Công phả tân biên...”

Từ bản PTCP chúng tôi tìm thấy một vài chi tiết có thể bổ sung vào tiểu sử của nhân vật trong dòng họ Phan mà ở các cuốn phả khác còn khuyết. Như trường hợp đời thứ 8 có Phan Huy Ích(26) tên tự là Khiêm Thụ Phủ tên hiệu là Dụ Am là con trưởng của Tiến sĩ Phan Huy Cận, trong văn bản PTCP đã cho biết thêm về sáng tác của ông có: “các bộ sách về Ngâm lục, Văn tập(27) cùng Chinh phụ ngâm diễn âm khúc(28) (Sở soạn hữu Ngâm lục, Văn tập đẳng bộ cập Chinh phụ âm diễn âm khúc) tờ 10a.

4. Văn bản thứ 4:

Phan gia thế tự lục (PGTTL), chúng tôi gọi văn bản này là Văn bản D, bản gốc hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2691, sách viết tay, chữ Hán xen kẽ chữ Nôm, 146 trang, khổ 27x16cm. Sách do Phan Huy Quýnh biên soạn tại Sài Sơn năm Bính Tuất, Minh Mệnh thời Nguyễn (1826). Trong những trang đầu tiên người biên soạn viết: “Đời trước của dòng họ Phan là người thôn Chi Bông xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc theo nghiệp nông lấy âm nhạc làm nghề. Sau dời sang thôn Gia Mỹ Đoài xã Canh Hoạch và nhập tịch ở đó... Tiên tổ hiệu Ông Trằm, tỷ hiệu Mụ Trằm” (tờ 3a).

Cuốn PGTTL tuy không được người biên soạn gọi là thế phả hoặc gia phả, nhưng như chúng ta được biết loại hình thư tịch này ở Trung Quốc ngoài cách gọi là phả còn có các cách gọi khác nhau như: lục, kí, chí, bạ, thặng, điệp, sử, hệ, tập, khảo, biên, truyện... kết hợp với các chữ chỉ dòng họ như: gia, tộc, tông, thế, thế hệ, thế gia, tính, chi, bản chi, thị tộc, thống tông, tông thế... tất cả trên 80 cách gọi khác nhau(29). Cho nên cuốn PGTTL có thể coi là một cuốn gia phả, là nguồn tư liệu quan trọng trong việc nghiên cứu tiểu sử nhân vật, nghiên cứu về dòng họ Phan ở Thạch Châu, Hà Tĩnh và chi họ Phan Huy ở Sài Sơn.

Cuốn PGTTL đã nêu hệ thống các đời của dòng họ Phan, về hành trạng của những nhân vật hiển đạt trong dòng họ. Đặc biệt, cuốn gia phả ghi lại khá đầy đủ về hành trạng và những công tích đối với dòng tộc và đất nước của Tiến sĩ Phan Huy Cận và con trai của ông là Tiến sĩ Phan Huy Ích. Về Khuê Phong hầu Phan Huy Cận, là ông tổ khai khoa của dòng họ đã được PGTTL ghi lại tiểu sử, hành trạng của ông với 22 trang sách (từ tờ 12 đến tờ 22). Còn về Thụy Nham hầu Phan Huy Ích, là con trưởng của Phan Huy Cận, một danh thần đã đóng góp vào việc nội trị và ngoại giao thời Tây Sơn, ông được cuốn PGTTL ghi lại với 45 trang (từ tờ 25b đến tờ 48a). Qua đó người đọc biết được ông đỗ Tiến sĩ năm Ất Mùi (1775) thời Lê làm quan tới chức Hàn lâm thừa chỉ. Sau khi nhà Lê mất, ông được triều Tây Sơn mời ra giao cho trọng trách lo việc bang giao với nhà Thanh và các nước láng giềng. Năm Canh Tuất (1790) ông được sung vào đoàn sứ bộ “Giả vương” sang Thanh chúc thọ Hoàng đế Càn Long. Trở về ông được thăng chức Thượng thư Bộ Lễ, tước Thụy Nham hầu. Khi nhà Tây Sơn mất ông về làng Thụy Khuê làm thơ, viết sách rồi qua đời ở đó, ông thọ 73 tuổi.

Cuốn PGTTL còn cho người đọc biết thêm những chi tiết xung quanh mối quan hệ giữa Tiến sĩ Phan Huy Ích với mưu sĩ của Nguyễn Huệ: “Vào cuối thời Thịnh Vương Trịnh Sâm có người cống sĩ ở Thuận Hóa là Trần Văn Kỷ đến kinh dự kỳ thi Hội, từng gặp gỡ Phan Huy Ích và rất kính phục ông. Đến khi Trần Văn Kỷ làm quan cho Tây Sơn, đã khuyên vua Tây Sơn nên chiêu dụ ông” (tờ 33a)(30). Trong việc bang giao với nhà Thanh, cùng với Ngô Thì Nhậm(31), Phan Huy Ích đã được triều Tây Sơn trọng dụng, điều đó đã được ghi lại trong PGTTL như sau: “Vua Tây Sơn cho rằng bang giao là việc quan hệ rất lớn, đặc biệt uỷ nhiệm cho ông cùng với bá cữu(32) lo việc này” (tờ 34a)(33).

Trên cơ sở đối chiếu, so sánh 4 văn bản: gồm 2 văn bản PGCP (Văn bản A và Văn bản B), (PTCP: Văn bản C), (PGTTL: Văn bản D), chúng tôi chọn PGCP (Văn bản A) làm bản gốc và là bản đáng tin cậy để tiến hành dịch nghĩa, chú thích và công bố sau này.

PGCP (Văn bản A) là một cuốn gia phả quý, được biên soạn theo một thể thức khá chuẩn mực. Cuốn sách được viết một cách có hệ thống từ đời thứ nhất đến đời thứ 13 của chi đại tôn, đời thứ 12 của chi tiểu tôn. PGCP lại có nguồn gốc từ thôn Gia Thiện, xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Xin theo dõi tiếp BÀI 26. Thân ái,dienbatn.
Xem chi tiết…

PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 24.

9/21/2021 |

 PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 24.


Mở đầu : Sau hơn 20 năm điền dã, lăn lộn khắp nơi trong đất Hà Tĩnh( chút xíu nữa làm rể Đức Thọ), dienbatn đã tạm gọi là hiểu biết một chút về một vùng Địa Linh – Nhân Kiệt này.Cái hiểu biết tuy còn thô lậu, song kết hợp với những tư liệu sưu tầm được qua thực tế và qua đọc sách , dienbatn muốn viết lại một chút làm tư liệu , ngõ hầu như muốn có chút nào đó  đền ơn những người dân thật thà, chất phác và rất tình cảm ở đây đã giúp đỡ dienbatn trong những lần điền dã. Cũng một lần nhận lỗi với một số vị quan chức mà dienbatn đã có dịp phục vụ là dienbatn đã sử dụng tiền các vị đưa cho , sử dụng cho những người nghèo khổ thì nhiều mà thực ra sử dụng cho các vị đó thì ít. May mà những vị đó ngày nay đều thành công ,thành danh. Vậy thì mọi chuyện coi như xí xóa nhé.Chỉ mong những người con Hà Tĩnh khi thành công ,thành danh thì luôn đoàn kết thương yêu nhau , quan tâm giúp đỡ những người dân quê hương mình và làm được nhiều việc tốt cho đất Mẹ Việt Nam. Xin cảm ơn nhiều lắm thay. Dienbatn.


PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.

PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.

PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.

PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.

PHẦN V. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN THẠCH HÀ.

I.HUYỆN THẠCH HÀ – HÀ TĨNH.

Nếu vùng Thạch Hà xưa có hai dòng họ võ tướng nổi tiếng được người đương thời mệnh danh là “Thạch Hà thế tướng”: họ Ngô (Trảo Nha)'1) và họ Võ Tá ( Hạ Hoàng) thì cũng vùng nam Nghệ An xưa từ Hồng Lĩnh đến Hoành Sơn có bạ dòng họ nổi tiếng cả đất Bắc Hà. Về Văn học, có họ Nguyễn (Tiên Điền), Nguyễn Huy (Tràng Lưu) và Phan Huy (Thu Hoạch).

Ông nguyên tổ Phan Huy (không rõ tên) được phong tước Quận công là Đôn DZụ công. Đời thứ 2, thứ 3, thứ 4 và đời thứ 7 đều được phong tước Quận công. Con Đôn DZụ công được phong tước Trang Chiêu công. Con Trang Chiêu công được phong tước Thuần Mục công. Con Thuần Mục công được phong Thiều Quân công (thường gọi là cụ Thiều Quang). Cháu đời thứ 7 của Đôn DZụ công là Phan Huy Tịnh được phong tước Tăng Quận công. Họ Phan Huy cũng có nhiều người được phong tước hầu: Tài Lương hầu (đời thứ 5), Vinh Lộc hầu (đời thứ 6), Phúc Nhạc hầu (đời thứ 8).

II. HỌ PHAN HUY THU HOẠCH .

Theo “Phan gia công phả” (Gia phả họ Phan Huy ở làng Gia Thiện, xã Thạch Châu) thì họ này nguyên là Phan Văn xã Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, xứ Nghệ An (nay thuộc Thị trấn huyện lỵ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) vào thời Lê sơ, đầu thế kỷ XV. Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) họ này mới dời về thôn Chi Bông, sau đổi là thôn Hữu Phương, xã Thu Hoạch, huyện Thiên / Can Lộc, từ 1921 chuyển về Thạch Hà. Đời thứ 7, tổ dòng trưởng Phan Văn Canh lại từ thôn Hữu Phương chuyển sang ở thôn Gia Thiện cùng xã (nay là xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà). Đời thứ 8, từ Tiến sĩ Phan Huy Cận, họ Phan Văn mới đổi thành họ Phan Huy. Nguyên tổ đời thứ 6 là Đô đốc Vinh Lộc hầu Phan Văn Kính có hai người con gái làm cung tần các chúa Trịnh. Hai bà này đã về xã Thụy Khuê, phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây (nay là thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây), tu sửa các chùa Hoa Phát, Bối Am và ngôi đền Một Mái thờ cha, gọi là “Phan Đô đốc từ. Trong đền có tượng thờ, chuông, xung quanh mở vườn ao...

Cũng theo gia phả, thì các vị Tổ bốn đời đầu họ Phan Văn là các ông Đôn Dụ, Trang Chiêu, Thuần Mục, Thiều Quang . Các đời sau đều có người được phong tước: Tài lương hầu (đời thứ 5), Vinh Lộc hầu Phan Văn Kính (đời thứ 6), Tăng Quận công Phan Văn Tĩnh (đời thứ 7) (thân sinh Tiến sĩ Phan Huy Cận)... Phúc Nhạc hầu (đời thứ 8)...

“. Dòng họ lúc đầu có truyền thống âm nhạc, nhiều đời làm nghề xướng ca, nhất là hát ả đào, một loại hình ca nhạc dân gian. Đội xướng ca của dòng họ thường đi trình diễn tại các làng, các nhà quyền quý và ra tận kinh thành Thăng Long. Nhưng cũng vì thế, theo luật đời Lê, coi “xướng ca vô loại”, cấm con em nhà xướng ca không được đi thi, không được làm quan, không được lấy con nhà quan chức. Đến thời Lê-Trịnh, trong họ có 5 cô gái có nhan sắc và giỏi ca hát, được tuyển làm cung tần chúa Trịnh. Nhờ thế lực của 5 cung tần này, vào thế kỷ XVIII, con cháu dòng họ mới được giải phóng sự phân biệt đối xử với gia đình xướng ca, và từ đó mới được đi thi. Người đỗ tiến sĩ đầu tiên là Phan Huy Cận (1722-1789) được coi là vị tổ khai hoa của dòng họ ” (“Phan Huy Chú (1782-1840), cuộc đời và sự nghiệp”. Tìm về cội nguồn” (Tập II) của GS Phan Huy Lê, NXB Thế giới. H.1999).

Như vậy, họ Phan Văn Ngọc Điền - Chi Bông là dòng họ hát ả đào đầu tiên ở Hà Tĩnh mà đến nay ta được biết Các đào nương họ Phan không chỉ hát ở nông thôn, mà còn đi hát “ở các nhà quyền quý, ra tận Thăng Long”, nhiều người có nhan sắc và hát hay, được các chúa Trịnh tuyển làm cung tần,“Phan tộc công phả” (bản Sài Sơn) chép 5 cung tần phủ Trịnh chúa là:

1. Phan Thị Nẫm, con gái Phan Văn Kính (tổ đời thứ 6), cung tần Tây Đô vương Trinh Tạc (1657-1682).

2. Phan Thị Lĩnh, con gái Phan Văn Kính, cung tần Định vương Trịnh Căn (1682-1709).

3. Phan Thị Ái, con gái Phan Văn Canh (tổ đời thứ 7), cung tần một chúa Trịnh chưa xác định rõ.

4. Phan Thị Diệm, con gái Phan Văn Tĩnh (tổ đời thứ 7), cung tần An Đô vương Trịnh Cương (1709-1729) được phong Tiệp dư rồi Tu nghi.

5. Phan Thị Chỉnh, con gái Phan Văn Tĩnh, cũng là cung tần Án Độ vương Trịnh Cương. Về sau, một số bà cung tần trên đây và nhiều người họ Phan Thu Hoạch được phụ tế tại đền Tổ sư nghề hát Ả đào Phú Lạp (Cổ Đạm, Nghi Xuân, thường gọi đến Xứ) (1).

Chính nhờ địa vị và thế lực của các đào nương này mà cha ông được cất nhắc, phong chức tước to, con cháu được giải thoát khỏi cái luật lệ vô lý “con nhà ca xướng bị phân biệt đối xử”, được đi thi, đỗ đạt, họ Phan Thu Hoạch trở thành dòng họ văn học đời Lê - Nguyễn.

CHÚ THÍCH.

(1)     Bản “Nghệ An, Hà Tĩnh giáo phường ty đệ niên kỳ phúc lễ văn thức” ghi các vị người họ Phan sau đây vào phần “phối hưởng”: Các bà đào nương hiệu Diệu Duyên (chưa rõ bà Nẫm hay bà Lĩnh); hiệu Diệu Thông (bà Diệm) và các ông Phan Văn Kính, Phan Văn tĩnh, Phan Huy Cận, Phan Huy Ích, Phan Huy Ôn, Phan Huy Thực, Phan Huy Vịnh.

Người khai khoa trong dòng họ là Phan Huy Cận!, sau đổi là Phan Huy Anh, hiệu Thận Trại (1722-1789). Ông là bạn đồng song với Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, lúc nhỏ cùng học với thân sinh ông Thám là Hương giải, Tham chính Thái Nguyên Nguyễn Huy Tựu, sau lại cùng thụ giáo với ông Đông các họ Võ, ông Thám hoa họ Đỗ (2). Là một học trò xuất sắc, ông đỗ Giải nguyên khoa Đinh mão, năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747) lúc 26 tuổi, rồi đỗ Hội nguyên, Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Giáp tuất, Cảnh Hưng thứ 15 (1754). Hai con trai ông đều học giỏi, đỗ sớm. Phan Công Huệ, vì kiêng húy vợ chúa Trịnh Sâm nên đối là Phan Huy Ích, tự Khiêm Thụ Phủ, Chí Hòa, hiệu Dụ Am, Đức Hiền (1751-1822), 22 tuổi đỗ Giải nguyên khoa Tân mão, đời Cảnh Hưng (1771), đỗ Hội nguyên tam giáp đồng tiến sĩ khoa Bính thân (1775), lại đỗ đầu ứng chế. Ông là con rể Hội nguyền Hoàng giáp Ngô Thì Sỹ (1726-1780) và là em rể Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm (1746-1803) ở Tả Thanh Oai.  Phan Huy Ôn, lúc nhỏ tên là Khuông, lớn lên đổi là Uông, thi đỗ mới đổi là Ôn, tự Trọng Dương, hiệu Nhã Hiên, lại tự Hòa Phủ, hiệu Chỉ Am (17551786). Năm Giáp tý (1774), 20 tuổi, thị trường Giáo (Phủ), trường Đốc (Trấn) và thi hương đều đỗ đầu. Năm 25 tuổi, đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ khoa Kỷ hợi đời Cảnh Hưng (1779).

Trong nhiều bài thơ, Phan Huy Ích tỏ niềm tự hào về nền nếp học hành của nhà mình: “Áo gấm về làng đây là lần thứ ba” (ba cha con cùng đỗ tiến sĩ); “nhà có khoán ước thi đỗ..” (Cha con, anh em đều đỗ đạt); “Dòng văn để lại đủ cửu nguyên” (Người bên nội bên ngoại chín lần đỗ đầu).

CHÚ THÍCH.

(1) Phan Huy Cận là tên ghi trong “Đăng khoa lục” còn trong một văn bản chính tay ông viết, bài tựa bộ “Ngũ kinh toàn yếu đại toàn” (của Nguyễn Huy Oánh), là Phan Cận.

(2) Cũng trong bài tựa trên, ông viết: “Dư, ấu thụ nghiệp vụ Lai Thạch Lam chính Nguyễn tiên sinh... dự (Thám hoa công) đồng chiên trường, hưu đồng du vụ Võ Động các, Đỗ Thám hoa lưỡng tiên sinh môn...”.

Ba cha con đầu làm quan dưới triều Lê Hiển Huy Cận giữ chức ở các trấn Hải Dương, Cao Bằng và đồn Động Hải (Đồng Hới), về triều làm Nhập nội Bồi tụng Hữu thị lang bộ Công kiêm Thị giảng Quốc tử giám, đến năm Bính ngọ, được phong tước Khuê Phong bá, trí sĩ. Ít lâu sau, khởi dụng, lĩnh chức Bình chương sự, Nhập thị kinh diện, Nhập thị Bồi tụng, tước Khuê Phong hầu và lần lượt làm Thị lang bộ Binh, bộ Hình, bộ Lễ, kiêm Tổng tài Quốc sử quán. Ít lâu sau, ông lấy cớ tuổi già, xin về, nhập cư làng Thụy Khuê, phủ Quốc Oai, xứ Sơn Tây (nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây - nơi xưa kia hai bà cô về lập đền thờ Phan Đô đốc), trở thành tổ chi họ Phan Huy ở đây.

Hoan lộ của Phan Huy Ích bước đầu khá thuận, năm 1776 bổ Hàn lâm thừa chỉ, năm sau ra Đốc đồng Thanh Hoa, về làm Thiêm sai tri hình phiên ở phủ chúa Trịnh. Nhưng sau vụ án Canh Tý (2), vì là con rể Ngô Thì Sỹ, em rể Ngô Thì Nhậm, nên bị thất sủng. Ông chán nản xin về không được, lại buộc phải vào Thanh Hóa.

Năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trinh, rồi về Nam. Phan Huy Ích lại được Án Đô vương Trinh Bồng, rồi Lê Chiêu Thống triệu ra làm quan, cho đến cuối năm Đinh tị (1787) Vũ Văn Nhậm ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Chiêu Thống chạy sang cầu viện nhà Thanh, ông mới về ở Sài Sơn.

CHÚ THÍCH.

(1) Nguyên chú của Phan Huy Ích trong “Du Am ngâm lục”; “Phụ thân tôi thị Hương, thi Hội hai lần đỗ đầu (lưỡng nguyên); bố vợ tôi thì Hội, thi Đình hai lần đỗ đầu (lưỡng nguyên); tôi thi Hương, thị Hội, thi ứng chế ba lần đỗ đầu (tam nguyên); cậu Hy Doãn (Ngô Thì Nhậm) và chú Nhã Hiên (Phan Huy Ôn) đỗ đầu thi Hương. Tất cả cộng lại được chín lần đỗ đầu, gọi là “Cửu nguyên”. (2) Năm Canh tý (1780) chúa Trịnh Sâm bỏ con trưởng Trịnh Tông, lập con thứ Trịnh Cán. Phe Trịnh Tông chống lại, nhưng yếu thế, phe Đặng Thị Huệ, mẹ Trịnh Cán thắng, nhiều người bị giết, Ngô Thì Sỹ tự tử, Ngô Thì Nhậm phải bỏ trốn

Năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ ra Bắc, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích cùng một số văn thận hưởng ứng lời kêu gọi cầu hiền, được triệu vào Phú Xuân, Ngô và Phan bị đục tên trên bia Tiến sĩ ở Thăng Long. Nhưng từ đây, ông được tân chúa trọng dụng, phong làm Tả thị lang bộ Hộ, Thị lang bộ Binh, tước Thụy Nham hầu. Sau chiến thắng năm Kỷ Dậu (1789), ông được cử vào sứ bộ của vua Quang Trung (giả) sang chúc thọ vua Càn Long với cương vị là trọng thần hàng văn. Trở về, ông được phong chức Thị trung Ngự sử ở tòa Nội các. Vua Quang Trung mất, tuy thấy tình thế không thể cứu vãn, nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn bàn ông ở lại giúp Quang Toản, cho đến lúc nhà Tây Sơn mất. Ngô và Phan đều bị bắt rồi bị đánh thị nhục ở Văn Miếu. Cuối 1803 ông về ẩn ở Sài Sơn. Từ 1814 đến 1819, ông về quê Thiên Lộc dạy học, rồi lại ra ở Sài Sơn cho đến lúc mất.

Phan Huy Ôn sau khi đỗ, làm Đốc đồng Sơn Tây và Thái Nguyên, về làm Thiêm sai tri công phiên một thời gian rồi mất tại chức ở tuổi 32, được tặng chức Thị giảng, tước Mỹ Xuyên bá.

Người con thứ năm là Phan Huy Trấn (?-1793), khác với hai anh, đã dấy quân chống lại nhà Tây Sơn (1791), sau trốn vào rừng đến mùa hè năm Quý Sửu (1793) bị quan trấn Nghệ An bắt đem về xử chém. Phan Huy Ích lúc về quê thăm mộ ông, làm bài thơ, có câu, Hoàng Tạo dịch:

“Bởi lời giáo hối lâu xa cách

Nên khí hiên ngang bụng giữ giàng.”

Dưới triều Nguyễn, họ Phan Huy chi Hữu Phương – Gia Thiện ở Thạch Hà, Hà Tĩnh chỉ có Phan Huy Tùng (1878-?) đỗ Cử nhân khoa Bính ngọ năm Thành Thái thứ 18 (1906) ở trường Nghệ An và đỗ Đồng tiến sĩ khoa Quý Sửu năm Duy Tân thứ 7 (1913), làm đến Lang trung bộ Hình, thăng hàm Thượng thư, trí sự . Chi Sài Sơn có nhiều người thành đạt đếu là con cháu Phan Huy Ich.

Dòng họ Phan Huy Thu Hoạch vốn có tiếng về khoa hoạn lại nổi bật về văn chương. Phan Huy Cận và con cháu ông nhiều người là danh sĩ đương thời. Phan Huy Ích để lại rất nhiều tác phẩm thơ văn Hán-Nôm (khoảng 600 bài thơ và 400 bài văn) được tập hợp trong hai bộ “Dụ Am ngâm lục” và “Du Am lăn tập”. Ông còn là người diễn âm cuốn “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn mà nhiều nhà nghiên cứu có xu hướng cho là bản hiện hành. Sách “Năm thế kỷ văn Nôm người Nghệ” xếp Phan Huy Ích là một trong sáu nhà viết văn Nôm người Nghệ tiêu biểu nhất, làm nên diện mạo văn Nôm xứ Nghệ (1). Phan Huy Ôn có “Khoa bảng tiêu kỳ”, “Thiên Nam lịch triều liệt truyện đăng khoa bị khảo” (Phan Huy Sáng chỉnh lý bổ sung), “Nghệ An tạp ký”, “Chỉ Am thi tập”. Ông còn được coi là nhà toán học với “Chỉ minh tập thành toán pháp”. Phan Huy Quýnh tự Viễn Khanh, hiệu Tổ Am (1775-1844), con trưởng Phan Huy Ích, “nổi tiếng văn chương, không ra làm quan, ở nhà dạy học chuyên tóm lược gọn các sách Kinh, Truyện, Lịch sử làm thành sách riêng nhà họ Phan” (“Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”). Ông là người biên soạn “Lịch đại điển yếu”,

CHÚ THÍCH.

(1) Thái Kim Đỉnh biên soạn, NXB Nghệ An - 1994. Sách xếp Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Hữu Chỉnh, Phan Huy Ích, Nguyễn Công Trứ là 6 nhà thơ Nôm người Nghệ tiêu biểu nhất.

“Kinh sử toát yếu”, “Phan gia thế tự lục” (soạn tại Sài Sơn năm 1826). Phan Huy Dũng là tác giả sách “Phan tộc công phả” có bài dẫn viết năm Canh Dần đời Thành Thái (1890) và bài tựa tân biên viết năm đầu Duy Tân (1907) (“Từ điển nhân vật lịch sử...”, SĐD, chép: “Phan tộc công phả”, cũng gọi “Phan gia thế phả” là sách “hợp soạn” của Phan Huy Quýnh và Phan Huy Dũng). Phan Huy Thực có “Hoa thiều hợp vịnh”, “Khuê Nhạc thi văn tập” (Hán), “Tỳ bà hành diễn âm”, “Nhân ảnh vấn đáp”, “Bần nữ thần” (Nôm). Ông còn được vua Minh Mệnh sai làm Tổng tài soạn bộ “Thực lục” phần “Liệt Thánh”. Vua thường nói: “Văn học không ai bằng (Hà Tông) Quyền, chính sự không ai bằng (Hà Duy) Phiên, Điển lệ quốc gia không có Phan Huy Thực thì không được”. Con ông, Phan Huy Vịnh viết không nhiều, chỉ có hai tập “Như Thanh sứ trình” và “Nhân trình tùy bút thi tập”... lời thơ nhẹ nhàng thanh thoát, một số bài tả cảnh đạt đến trình độ những bức họa sinh động” (Trần Thị Băng Thanh).

Tiếng tăm nhất là Phan Huy Chú. Tác phẩm của ông có “Hoa thiều ngâm lục” (2 quyển), “Hoa trình tục ngâm”, “Hải trình chí lược” (còn có tên “Dương trình ký biến”, “Hoàng Việt địa dư chí” (?), “Điền trần tứ sự tấu sớ”, “Bình định quy trang” (chưa tìm thấy sách). Quan trọng hơn cả là bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” 49 quyển, biên soạn trong 10 năm, là một công trình biên khảo công phu và có giá trị. “Chỉ một bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” cũng đã đủ nâng ông lên hàng nhà bác học” (“Từ điển nhân vật lịch sử”, SĐD). Bộ sách dâng lên, ông được vua Minh Mệnh ban thưởng 1 cặp áo sa, 30 lạng bạc. Nhưng do sách được biên soạn với thái độ khách quan nên bị vua chê: “Sách này soạn thuật dẫu khéo, nhưng lập ngôn thường thường bênh vực họ Trịnh, thì kiến thức cũng quê” (!). Phan Huy Chú là một nhà thơ, nhà văn nhưng trước hết, ông là một nhà khảo cứu, một nhà bác học.

Thời hiện đại, hai chị họ Phan Huy Thu Hoạch (Gia Thiện - Thạch Châu), Thụy Khuê (Sài Sơn) vẫn có nhiều người học hành thành đạt, tiêu biểu hiện nay là Giáo sư sử học Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.

Họ Phan Văn Chi Bông vào thế kỷ XV là dòng họ bình dân, nổi tiếng trong giới ca công xứ Nghệ, từ thế kỷ XVIII trở thành họ Phan Huy Thu Hoạch lại nổi tiếng cả nước là dòng họ khoa bảng - văn chương suốt hơn hai thế kỷ. Đây cũng là một dòng họ văn hóa tiêu biểu ở Hà Tĩnh trong lịch sử.

( Hà Tĩnh – Đất văn vật Hồng Lam – Thái Kim Đỉnh).

III. Danh nhân mang họ Phan Huy.

Phan Huy Cẩn (1722 - 1789) - Bình Chương Đô đốc - Quốc sứ quán tổng tài (chi Hà Tĩnh).

Phan Huy Ích (1750 - 1822) - Thị lang Bộ Hộ tước Thụy Nham hầu (chi Hà Tĩnh).

Phan Huy Ôn (1754 - 1786) - Hàn lâm thị giảng tước Mỹ Xuyên hầu (chi Hà Tĩnh).

Phan Huy Thực (1778 - 1844) - Thượng thư bộ Lễ (chi Hà Tĩnh).

Phan Huy Chú (1782- 1840) - Nhà bác học (chi Hà Tây).

Phan Huy Vịnh (1800 - 1870) - Thượng thư bộ Lễ (chi Hà Tây).

Phan Huy Tùng - Tiến sĩ (1913) (chi Hà Tĩnh).

Phan Huy Quát (1911 - 1979) - Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa (chi Hà Tĩnh).

Phan Huy Lê (1934 - 2018) Giáo sư sử học (chi Hà Tĩnh).

IV.Nhà thờ thọ Phan Huy.



Vị trí: Nhà thờ họ Phan Huy thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, xưa là làng Thu Hoạch, tống Canh Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An.

Cổng vào nhà thờ của họ Phan Huy.

Nhà thờ Phan Huy Chú hiện toạ lạc tại quê nhà Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.

Nhà thờ Phan Huy Chú, nơi Tổng thư ký Liên Hợp Quốc về thăm vào chiều 23/5. Ảnh: Phương Hòa.

Nhà thờ thọ Phan Huy thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, xưa là làng Thu Hoạch, tổng Canh Hoạch, huyện Thiên Lộc. Nhân dân ở đây từ xưa đã nổi tiếng hiếu học, mặc dù đời sống gặp nhiều khó khăn nhưng lúc nào cũng có người học hành đỗ đạt cao. Tiêu biểu nhất là dòng họ Phan Huy có bề dày lịch sử và truyền thống hiếu học có nhiều ngưòi cống hiến xuất sắc cho đất nước qua các thời kỳ lịch sử.

Nhà thờ họ Phan Huy được xây dựng vào năm 1779, gồm 3 toà Hạ, Trung và Thượng điện, cấu trúc theo kiểu chữ Tam (º),ngoảnh hướng Tây Namn, xung quanh có tường bao và một khuôn viên rộng có trồng các loại cây cảnh và cây ăn quả.

Nhà Hạ điện gồm 3 gian bằng gỗ lim, 4 vì kèo, lợp ngói âm dương, trong đó có treo bức đại tự “Diệc thế tải đức” (tích thiện thành đứct) và nhiều câu đối có ý nghĩa như câu:

“Tích thiện tư gia cơ sở đặc

Đồng hưu giữ quốc cổ kim vinh

Nhà Trung điện được kết cấu đơn giản gồm 3 gian nhà gỗ lim lợp ngói âm dương, tại đây có đặt bàn thờ kích thước lớn sơn thon thiếp vàng chạm khắc công phu.

Nhà Thượng điện cũng gồm 3 gian 4 vì kèo bằng gỗ lim lợp ngói âm dương trên có bàn thờ và di ảnh truyền thần của 2 ông Phan Huy Cẩn và Phan Huy Ích.

Xin theo dõi tiếp BÀI 25. Thân ái.dienbatn.

Xem chi tiết…

THỐNG KÊ TRUY CẬP

LỊCH ÂM DƯƠNG

NHẮN TIN NHANH

Tên

Email *

Thông báo *