Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 32.
PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.
PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.
Hai trăm năm trước, cuối thế kỷ XVIII, Cửa Sót còn chảy phía Nam núi Nam
Giới. Sách “Nghệ An ký” của Bùi Dương
Lịch viết “sông Hà Hoàng đi qua các xã Hoa Mộc và Dương Luật rồi chảy ra biển”.
Sách “Thiên Lộc huyện phong thổ chí”
cũng viết “Ngày xưa núi Mộc Sơn (Hòn Mốc) tức là Hữu Nam Giới(1). Cửa bể ở phía
Nam núi ấy, nhưng sau sống bể đổi dời, dòng nước lấn lên phía Bắc”. Các cụ già
địa phương cũng kể lại rằng xưa kia lạch sông đi qua các xã Thạch Đỉnh, Thạch
Bàn, Thạch Hải bây giờ. Hiện nay còn có khe nước chảy qua xã Thạch Bàn có thể
đó là lòng sông cũ (2) . Như vậy cách đây chưa lâu lắm, doi đất Kim Đôi còn
dính liền với ngọn Long Ngâm. Cử nhân Lưu Công Đạo từng viết “Đạo tôi đã có lần
đi từ làng Kim Đôi qua núi Long Ngâm” và ông mô tả trong “Thiên Lộc huyện phong thổ chí” rằng “Bên hữu cửa bể là núi đất Kim
Đôi, một dải đất vàng từ núi Côn Bằng chảy ngang qua cửa bể. Trên khúc sông ấy
có đến binh, có chợ, thuyền bè san sát, bếp thuyền bốc khói tỏa mờ mặt sông.
Chiều đông mặt trời sắp xuống khỏi núi đàng Tây, mặt sông đèn lửa đều nổi lên lập
lòe. Chập tối, thuyền đánh cá dong buồm về bến, nhìn quang cảnh ấy, kẻ có tâm hồn
thường ứng họa, trong lòng cảm thấy thư thái. Vua Lê Thánh Tông qua đây làm bài
thơ có hai câu:
“Sáng qua tỉnh mộng giang hồ,
Cưỡi bè những muốn lên xô cửa trời”, ( TKĐ
dịch.)
Có lẽ nhà vua cảm xúc cảnh đẹp nơi đây mà thốt ra những lời như vậy...
“Cảnh làng Kim Đôi xưa là như vậy.
CHÚ THÍCH.
(1) Hai ngọn núi nhỏ giữa xã Thạch Đỉnh và
Thạch Hải thường gọi là Hòn Mốc, Có thể ngọn núi này là mốc phía đông biên giới
Việt - Chiêm ở thế kỷ X (907981). Từ đó dãy Quỳnh Sơn cũng được gọi là núi Nam
Giới.
(2)
Đồng bào địa phương đã phát hiện được những tấm ván dưới đáy sâu vùng rái tối
bây giờ,
Còn núi Nam Giới ngọn Long Ngâm cũng được ông J. Info tả: Ở cái gò tên
là Mai Phụ (gò Mai) trên núi này có đền thờ Vũ Mục vương ( 1). Núi vươn dài ra
tận biển tựa như bức bình phong. Ở vách núi có hang đá, gió cuốn sóng trào xọ đẩy
ra như một cái miệng lớn nhả suốt không ngừng, tiếng nước, vỗ đá ầm ầm, nghe đều
như tiếng trống cầm Canh, vì thế đền Vũ Mục gọi là đền Linh Cổ (trống thiêng)
và chỗ núi ấy cũng gọi là núi Linh Cổ. Đứng trên núi trông suốt được bên cảnh
sơn thủy thật đáng sánh với những nơi danh thắng như Động Đình, Nhạc Dương..”.
Bùi Dương Lịch cũng viết trong “Nghệ
An ký” là “Ngon núi cao nhất ở phía đông Bắc hình như trán rồng. Liền dưới
có một dải sông núi hình như vòi rồng, hai bên Tả Hữu có hai tảng đá tròn hình
như mắt rồng, dưới núi có một cái ao lộ thiên rộng độ vài mẫu và rất sâu, hình
như miệng rồng, xung quanh toàn là cỏ rậm bùn lầy, không thể vào được. Hai bên
có hai nhánh núi ôm quặt lại hình như hai chiếc râu rồng. Nước ao chảy quanh có
trong núi, ra bế, Ngoài biển lại nổi lên một ngọn, chắn ngang, Sóng kêu ầm lầm
như sấm động”.
Người xưa nhìn núi non và tưởng tượng ra như vậy. Ngày nay như ta biết
thì phần bắc dãy Nam Giới là hòn Lố và ngọn Long Ngâm, cách nhau một eo núi
sâu, lúc triều lên thì ngập nước, gọi là eo Lói. Ở đây có nhiều hòn đá hình thù
kỳ dị, được dân gian gọi tên đá Trồng, đá Hến, đá Nhọn, đá Giường, đá Trứng Gà.
Bên hòn Lố còn có hòn Mối nối lộ ra mặt nước như mái nhà, hòn Tượng đá chồng
cao trên có khe Nghiêng nước chảy róc rách; đá Am, đá Lố, đá Ngựa Chìm... đều nằm
dưới mặt nước. Đá Ngựa cách mũi Lố không xa, hồi chiến tranh chống Mỹ đã bẩy được một
tàu chiến của Mỹ - Ngụy. Hòn Trống, hòn Mái giống hình đuôi hươu, sách xưa chép
là “đá Hươu” hay “Hươu Đá”, nằm trước cửa bể, lúc triều lên thì ngập, thuyền bè
đi lại thường bị tai nạn. Bên ghềnh Long Ngâm lại có hai hòn đá Lộng và đá Khơi
rất nguy hiểm cho ghe thuyền nên được gọi là “đá thiêng”. Ai vô ý để thuyền chạm
vào thì phải lễ cúng sám hối... Trên đỉnh hòn Lố, trong hai cuộc chiến tranh là
nơi đặt đài quan sát của dân quân, bộ đội và bây giờ là ngọn đèn biển soi đường
vào Cửa Sót cho thuyền bè.
CHÚ THÍCH.
(1) Vũ Mục vương tức Chiêu Trung đại vương Lê Khôi,
Phía Tây ngọn Long Ngâm là đền Chiêu Trưng (hay đến Võ Mục). Phía Đông
núi, theo sách “Nghệ An ký” trên bờ
cao có hai nền nhà, tương truyền đời Hùng Vương Chử Đồng Tử và nàng Tiên Dung
tu tiên đắc đạo ở đó, gọi là núi Quỳnh Viên. Quỳnh Viên, Quỳnh Sơn chính là tên xưa nhất của núi Nam Giới. Thơ
Lê Thánh Tông: “Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh
Viên” (Ngọn núi nổi tiếng ngày xưa còn gọi là núi Quỳnh Viên).
Mặt trước dãy Nam Giới - Quỳnh Viên lấn ra tận bờ biển Đông, có đoạn
sóng vỗ ào ào lên bờ đá, nhưng có đoạn là dãy cát hẹp có thể là bãi tắm lý tưởng.
Ở mỏm cuối, giáp đất Dương Luật (Thạch Hải) có ngôi miếu nhỏ thờ Thánh Mẫu như
một chứng tích của cửa bể ngày xưa.
Mặt sau, phía Tây con sông Sót (đoạn cuối của con sông Hà Hoàng) chảy
sát chân núi. Theo triền sông tiếp giáp với ngọn Long Ngâm là ngọn Nam Sơn.
Trên núi có ngôi đền Thánh Mẫu, thường gọi là đền Nam Sơn. Đến không lớn nhưng
cảnh quan thật là đẹp. Ngọn Hỏa Hiệu thấp nhỏ, cách ngọn Nam Sơn không xa, xưa
là nơi đốt lửa khi có giặc dã. Dưới núi là “Áng Cát” và trên núi có ngôi miếu
nhỏ thờ thần Cá Voi “Nhân Ngư linh ứng”.
Cùng với đền Chiêu Trưng, hai ngôi đền, miếu này đã tạo nếu tinh đẹp ở
đây, nhất là khi đi thuyền dưới sống trông lên, Ngọn cao nhất 373 m nằm chếch về hướng Đông, thường gọi là “đỉnh
Treo Cờ" vì thời Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) và hổi Cách mạng thắng
8/1945 dân Kim Bôi đã dựng cờ đỏ lên đỉnh núi. Từ đây núi thấp dần về phía Nam
cho đến địa phần các xã Thạch Bàn, Thạch Hi. Ven núi, tận bờ sông, có những địa
danh lạ tai: Ảng Cát, Ảng Vôi, Hang Đạ, “gành Troộc Men", có đủ Rùa” một tảng
đá trông giống như con rùa nổi trên mặt sông. Trên núi có nhiều khe suối cùng đổ
xuống sông Sót: Khe Su (sâu), khe Máng (dân địa phương bắc măng tre ra tận bờ
sông để thuyền ghé vào lấy nước ngọt), khe Sư... nhưng nổi tiếng nhất là khe
Hau Hau, vì nước tốt nhất trong vùng. Nước khe không chảy lộ thiên mà xuyên ngẩm
trong đá đến một chỗ trũng xuống như cái ao , nước có màu xanh lơ, uống vào ngọt
mát. Xưa kia, vua đi qua Nghệ An (Nghệ Tĩnh) đến đây bắt dân sở tại phải lấy nước
khe này đem tiến. Thời thuộc Pháp, trước khi đặt ống dẫn nước từ núi Nhật Lệ về
tỉnh lỵ, dân làng Kim Đôi cũng phải chở nước lên cung đốn cho các công sở, coi
như một thứ thuế đặc biệt. Họ cũng chở nước lên bán cho dân phố và các vùng dân
quê hiếm nước ngọt.
Đầu mùa hè năm Đinh Tỵ (1797) cụ Bùi đã đến tắm ở khe Hau Hau và có làm
bài thơ “”Tự thuyết “ về dòng khe
này. Đúng 130 năm sau, ngày 15/4/1927, nhà thơ Tản Đà cũng về thăm Cửa Sót. Hôm
đó trời mưa nhà thơ không thể tắm mà “sang tới núi, trèo lên uống chơi mấy khẩu
nước rồi đứng xem phong cảnh...” (Giấc mộng
lớn). Sau đó nhà thơ nhắc lại trong bài thơ “Ngày xuân nhớ cảnh nhớ người
xưa”:
“Một đêm ngủ lại Hoàn thành,
Nẻo sang Hà Tĩnh, sông xanh non Hồng.
Nước núi Sót mát lòng ưu ái,
Trận mưa thu dầm tưới quan san...”.
Quỳnh Sơn Nam Giới với núi khe, đền miếu, với cửa biển lạch sông, với bến
thuyền, chợ cá, với những truyền thuyết lịch sử (về vua Lê Thánh Tông và tướng
Lê Khôi, về cuộc huyết chiến của chiến thuyền Trịnh - Nguyễn, với những huyền
thoại dân gian (về Chử Đồng Tử, về bà chúa Liễu Hạnh), từ xưa đã thu hút vô số
du khách và rất nhiều tạo nhân mặc khách đã để lại những bài thơ lưu truyền mãi
mãi trong nhân gian. ( HÀ TĨNH – Đất văn
vật Hồng lam – Thái Kim Đính ).
II. ĐỀN THIÊNG CỬA SÓT.
1/GIỚI
THIỆU VỀ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN LÊ KHÔI .
" Trong
cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược , thế kỷ 15 , đã xuất hiện những dũng
tướng tài ba thao lược , trong đó có Lê Khôi , người đã giúp Lê Lợi trong sự
nghiệp " Bình Ngô " . Ông Lê Khôi vốn xuất thân trong một gia
đình dòng dõi , phong lưu , phú quý tại làng Lam Sơn - Huyện Thụy Nguyên -
Thanh Hóa ( Nay thuộc Huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa ) . Thân phụ của ông là
Lê Trừ , anh thứ hai của đức Vua Lê Thái Tổ ( tức Lê Lợi ) . Ngay từ nhỏ , ông
vốn là người thông minh , nhân hậu , có dũng khí . Lớn lên , khi Lê Lợi dấy
quân khởi nghĩa ở Lam Sơn vào mùa Xuân năm 1418 , thì Lê Khôi là người đầu tiên
đứng dưới cờ khỏi nghĩa . Ông là người có công giúp Lê Thái Tổ kháng chiến
chống giặc Minh , giúp Lê Nhân Tông trấn thủ Nghệ An , được nhân dân thương yêu
, quý trọng . Để ổn định biên giới phía Nam của nước Đại Việt , dưới thời
Vua Lê Nhân Tông năm 1443, Lê Khôi được cử thống lĩnh đại quân đánh giặc . Sau
khi thắng trận trở về , chẳng may ông bị ốm và mất chân núi Nam Giới , mộ táng
tại chóp Long Ngâm .Năm 1487 , Vua Lê Thánh Tông truy tặng ông là " Chiêu
Trưng Đại Vương " . Để tưởng nhớ công đức của ông , nhân dân đã lập
Đền thờ dưới chân núi Long Ngâm nơi ông mất . Đền gồm 3 tòa chính : Thượng
điện , Trung điện , Hạ điện .Trước là Tam quan , cột nanh có Nghê chầu , sau là
lăng nhị hầu . Tòa Trung điện , kiến trúc chạm trổ tinh vi : Cá hóa Rồng , Bát
Tiên , Tiên múa ,Tiên đánh cờ , Tiên cưỡi hạc .... Quần thể di tích này
còn có bãi trước , bãi sau ,khe Hau hau , cồn Cóc , đền cá Voi , đền thờ Mẫu ,
đền thờ vọng Lê Khôi .. Ngày nay du khách đến thăm di tích đền Lê Khôi ,
không chỉ để tưởng nhớ đến ông mà còn chiêm ngưỡng nghệ thuật kiến trúc độc đáo
của ngôi đền . Cùng hòa nhập trong cảnh non xanh nước biếc , một vùng thật
hấp dẫn cho ngành du lịch tỉnh Hà Tĩnh . " ( dienbatn Chép tại đền Lê Khôi ) .
2/ ĐỀN THỜ VÀ KHU MỘ LÊ KHÔI.
“Nhờ sự trợ duyên của ngài Bùi Quốc Hùng (Dienbatn) và ngài Thọ Văn, tôi vừa có dịp thăm thú, du khảo non nước đền đài danh thắng Hà Tĩnh. Xe chạy từ Hà Nội lúc 15h ngày thứ Sáu. Đi suốt đêm, vừa đi vừa nghỉ đến Hà Tĩnh. Dọc đường thấy lại những cảnh xưa của những chuyến giang hồ cũ, mà tưởng như vẫn chưa xa lắm. Này là núi Non Nước (Núi Chim Trả Tắm, Núi Tắm Chim) ở Ninh Bình, này là đền Sòng Bỉm Sơn. Mỗi nơi đi qua lại nhớ đến các ngài Chuyết Chuyết, Thiền Phong hóm hỉnh duyên dáng mà không kém cay xè khi công kích nhau, rồi lại thêm nhớ ngài Bái Mai Tử tận tình ân cần đãi đằng trong chuyến đi Như Thanh hồi tháng 5 Tây mới rồi.
Chuyến giang hồ này là để chiêm bái chùa Hương Tích, Đền Lê Khôi và Đình
Tam Lang…Dọc đường thấy gì ghi nấy, câu chữ vụng về, cũng cứ đem trình cả ra
đây, cúi mong các bậc thức giả chớ chê cười kẻ vụng về quê kệch…
Chiều nay đến Đền Lê Khôi, là một chốn danh thắng linh thiêng mà tôi mới
chỉ biết qua sử sách.
Tôi biết Lê Khôi là một tướng tài của Lê Thái tổ có công bình Ngô. Lại biết đền
thờ Ngài là một nơi linh thiêng, mà năm xưa, cụ Phan Lê Phiên người làng Đông
Ngạc khi đi đánh dẹp phương Nam cũng ghé vào chiêm bái, cảm được sự linh ứng mà
xin chân hương về thờ ở đình Đông Ngạc. Đình Đông Ngạc thuộc huyện Từ Liêm, ven
Thăng Long là nơi thờ phụng ba vị thần. Nhân thần là Lê Khôi; Thiên thần là Độc
Cước, chính là hai vị thần mà Phan Lê Phiên đi dẹp phương Nam rước chân hương
về thờ. Thổ thần của làng Đông Ngạc là thần Thổ địa.
Đền Lê Khôi thuộc địa phận xã Thạch Đỉnh huyện Thạch Hà, nhưng lại do dân 3 xã
Thạch Kim, Mai Phụ và Thạch Bằng huyện Lộc Hà thờ cúng. Ấy cũng chính vì sự cắc
cớ như vậy mà khi cấp bằng Di tích Lịch sử văn hoá đền thờ và lăng mộ Lê Khôi
(Chiêu Trưng Đại Vương) thì các ngài ở Bộ VHTT phải viết vào tờ bằng rằng Di
tích thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh mà không ghi rõ thuộc xã nào.
Đền Lê Khôi cách thị xã Hà Tĩnh (nay là thành phố Hà Tĩnh) chừng non hai chục
cây số, nhưng dọc đường khi cách đền 8.6 km là một con đường rợp bóng phi lao
dọc theo bờ biển, non xanh nước biếc, sơn thuỷ hữu tình. Một bên là biển Đông
ầm ầm sóng vỗ, một bên là núi Nam Giới (Giới hạn phía Nam của Đại Việt xưa
chăng?) xanh thẫm uy nghiêm một dáng hình thanh thản, còn bên trên là vi vút
tiếng gió thổi trên ngọn phi lao như khúc nhạc ngàn năm. Đúng ra, theo hành
trình thì muốn vào đền Lê Khôi, thường phải đi đò khoảng vài cây số, nhưng hôm
nay có sóng dữ, nên ngài Lê Phong người địa phương phải đích thân đưa chúng tôi
đi đến đền bằng đường bộ.
Đền nằm sát bên bờ biển Cửa Sót, một vị trí rất hiểm địa. Nơi ấy có đồn biên
phòng Cửa Sót nép mình bên đền.
Đền Lê Khôi dựa lưng vào núi, mặt hướng ra biển, dường như là lấy Bằng Sơn (núi
Chim Bằng) làm tiền án từ phía biển xa xa. Quanh năm sóng vỗ, bọt tung trắng
xoá như khúc ca hùng tráng của đội quân của vị tướng cầm quân năm xưa.
Từ chân sóng biển dẫn vào cổng đền là một đôi voi đá tuy mới được tạo tác nhưng
nét khắc rất thuần thục, vừa uy vệ, vừa hiền hoà chầu ngay bên đền, qua miểu
Chúa Sơn là những bậc đá đưa chân du khách lên đền chính. Những hàng cột trụ uy
nghi như lồng vào mây trắng. Câu đối từng đôi nét còn sắc với bút pháp thanh
nhã đầy đặn ca ngợi uy linh và công nghiệp của Lê Khôi. Qua tam quan là những
nhà bia xinh xắn. Một bên là tấm bia khắc bài thơ của Lê Thánh Tông ca ngợi uy
đức của Lê Khôi; còn bên kia là tấm bia khắc lời Nguyễn Như Đổ viết về Ngài,
được rút ra từ sử sách, tuy tấm bia mới được khắc lại vào năm 1984, nhưng dáng
vẻ của rùa của bia cứ như từ xa xưa lắm! Đủ thấy người thời nay, nếu cứ thành
tâm, cầu toàn thì cũng học được theo cổ nhân vậy!
Đền có quy mô không lớn, nhưng vào đến bên trong những người có tấm lòng với
văn hóa cổ truyền tưởng như đã được thoả tâm nguyện cầu tìm vốn cổ. Dường như
mỗi bức đầu dư, mỗi một quá giang, ván gió của nội thất đền là mỗi một tác phẩm
nghệ thuật điêu khắc hoàn hảo mà những người thợ xưa đã dốc hết tâm nguyện và
tài khéo để dâng lên thần. Trong đền không có nhiều ánh sáng. Vẻ u linh hình
như càng vì thế mà thêm trầm mặc.
Chúng tôi cùng dâng lễ trước điện, thành tâm thành kính. Ngài Dienbatn mới xin
âm dương một quẻ thì được ngay. Bấy giờ cùng đi vào đền chụp ảnh, chiêm bái
trong cung cấm. Cả một kho báu cổ mỹ thuật hiện ra, khiến cả hội bất ngờ sững
sờ, nào chữ Hán viết đại triện những đôi câu đối, nào rồng mây, phượng múa, bức
nào cũng dụng công lắm lắm. Ngài Thọ Văn mới chỉ cho tôi một đôi chân cột có
khắc hai phỗng Chàm trông rất ngộ nghĩnh.
Nhưng mà tôi thắc mắc lắm! Sao không thấy bức chạm cảnh múa hát ca trù mà tôi
đã từng giới thiệu trong sách Lịch sử và Nghệ thuật ca trù. Bức chạm quý báu ấy
là một minh chứng rất hùng hồn về nghệ thuật ca trù của thế kỷ 18, của múa ca
trù, của sự có mặt ca trù tại miền trung từ hàng mấy trăm nay. Trước đây các
ngài Du Chi ở Viện Mỹ thuật đã từng chiêm ngưỡng, đã làm bản rập; rồi đến các
ngài Hải Phong, Đức Bình cũng ở Viện ấy đã đến tận nơi, lại vẫn làm bản rập. Và
năm trước, ngài Đặng Hoành Loan cũng đã cùng một đoàn tuỳ tòng chẳng quản non
nước xa xôi vào tận nơi mà chụp ảnh ghi hình để đưa vào Hồ sơ Hát ca trù trình
với UNESCO. Vậy mà nay bức chạm ấy ở đâu? Tôi bèn hỏi cụ thủ từ, cụ cũng không
biết. Lạ quá! Cụ mà cũng không biết thì chúng cháu làm sao mà biết. Bấy giờ mới
mượn cụ cái đèn rọi.
May quá, đây rồi! Cảm xúc vui tươi tràn ngập lòng tôi. Thế là lại đua nhau chụp
hình, như sợ rằng nó sẽ biến mất ngay trước mặt vậy.
Chiêm bái thưởng ngoạn thoả lòng, bèn ra trước tấm biển gỗ đề bài thơ của Lê
Thánh Tông ngự đề mà ngâm lên sảng khoái. Cụ thủ từ khen tôi là người biết chữ
Nôm.
Rồi lại cùng quay ra xem bài thơ chữ Hán khắc trên đá trong nhà bia. Nét khắc
trên bia ghi rõ việc khắc bài thơ vào năm Duy Tân. Tôi bèn xin phép cụ để làm
bản rập. Cụ lại quay vào đền xin âm duơng. Lại được ngay tức thì. Hình như Ngài
cũng chiếu cố cảm tất thông, cầu tất ứng vậy!
Đây là lần đầu tiên chiêm bái đền Lê Khôi, mà lòng tôi đã chủ tâm từ trước.
Thoả nguyện chiêm bái đền thiêng, thoả nguyện tìm dấu xưa nghệ thuật ca trù,
cũng thỏa nguyện tìm gặp những nét hoa văn của tiền nhân trên từng thớ gỗ, nét
chạm. Lại thoả nguyện đứng giữa núi xanh biển biếc giao hoà, tai nghe thanh âm
khúc hát thiên nhiên ngàn thưở, tiếp ứng khí lành của Đức Thánh chung đúc tú
khí non sông, “khí thế lừng lẫy về trước, anh linh còn mãi về sau”.( Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện )
MỘT SỐ CÂU ĐỐI TRƯỚC CỬA ĐỀN.
LONG NGÂM SÓT HẢI TÀNG BIA ĐÁ .
PHƯƠNG VŨ BẰNG SƠN VỖ CÁNH VÀNG .
CHÍNH KHÍ LẪM NHƯ SINH ĐỘNG HỒ , PHONG LÔI, HẠO NHẬT NGUYỆT.
DƯ LINH TRƯỜNG BẤT TỬ. TĨNH VI
SƠN NHẠC, LƯU GIANG HÀ .
Tạm dịch :
Chính Khí còn đây ! Động thì gió thổi , sấm vang , sáng vầng Nhật Nguyệt .
Linh thiêng bất tử ! Tĩnh tựa núi lớn , gò cao ,
chảy như sông biển .

Tấm bia đá có khắc bài thơ Nôm của Vua LÊ THÁNH
TÔNG như sau
:
Thánh Tôn Hoàng đế ngự
thi đề.
Nam Giới Long Ngân.
Linh Từ lỗ liệt vu tá.
Dẹp yên tám cõi mới buông tay ,
Rỡ rỡ Thai tinh một đóa mây .
Tể tướng bếp tàn ,mai lạnh vạc ,
Tướng quân Dinh vắng liễu chau mày .
Phong lưu phú quý ba đời thấy ,
Sự nghiệp huân danh bốn bể đầy .
Thương ít , tiếc nhiều bao xiết kể ,
Miếu đường hầu dễ cột nào hay .
瑋煌祖国創民南
塊据山河烤坦报
Vĩ hoàng Tổ quốc sáng dân Nam.
Khối cư san hà khảo thản báo.
Bản đồ khu vực nhìn từ vệ tinh .
Bãi biển cạnh đền Lê
Khôi.
Hai
tấm bia ở hai bên cổng đền .
Bên hông đền.
Miếu
thờ.
Bên trong đền thờ Lê Khôi.
Câu đối có dạng chữ Triện .
Những nét
điêu khắc tuyệt vời trên những khúc gỗ nguyên khối trong đền thờ Lê Khôi .
PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 31.
PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.
PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.
Huyện Lộc Hà nằm ở phía đông bắc tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh
khoảng 18 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
Phía Đông giáp Biển Đông
Phía Tây giáp huyện Can Lộc
Phía Nam giáp huyện Thạch Hà và thành phố Hà Tĩnh
Phía Bắc giáp huyện Nghi Xuân.
Huyện Lộc Hà có diện tích tự nhiên là 118,31 km2, dân số năm 2007 là
86.213 người, mật độ dân số đạt 729 người/km2. 16,4% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Địa hình của khu thị trấn Lộc Hà tương đối bằng phẳng, có thể chia làm 3
dạng địa hình chính như sau:
Vùng núi cao: Núi Bằng Sơn, có cao độ tự nhiên từ
(+17,8 +230,0)m và độ dốc nền từ (1,0 – 7,5)%.
Vùng đồng bằng: Có địa hình tương đối bằng phẳng, dố thoải
về phía của Sót, cao độ tự nhiên (+1,65+6,5)m và độ dốc nền từ (0,01 – 0,05)%.
- Vùng đất trũng: Nằm ven
sông Cửa Sót, chủ yếu nuôi thuỷ hải sản và vùng cát nằm về phía Biển Đông, cao
độ nhiên từ < 0,80m và độ dốc nền < (0,01%.
Địa hình huyện Lộc Hà tương đối bằng phẳng, thấp dần về phía biển, có một
số núi thấp như:
Núi Bằng Sơn (Rú Bờng): cao khoảng 230 m, trên núi có chùa Kim Dung
Núi Tiên Am: cao khoảng 100 m, thuộc xã Thịnh Lộc, trên núi có chùa Chân
Tiên, dưới chân núi có Bầu Tiên.
Tên huyện Lộc Hà được ghép từ chữ Lộc từ tên huyện Can Lộc và chữ Hà từ
tên huyện Thạch Hà.
Ngày 17 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/NĐ-CP. Theo
đó, huyện Lộc Hà được thành lập trên cơ sở một phần diện tích và dân số của hai
huyện Can Lộc và Thạch Hà, với diện tích 11.830,85 ha đất tự nhiên, dân số
86.213 người, 13 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 7.579,8 ha cắt từ 7 xã của
huyện Can Lộc với 43.204 nhân khẩu và 4.251,05 ha cắt từ 6 xã của huyện Thạch
Hà với 43.009 nhân khẩu. Huyện lỵ đặt tại xã Thạch Bằng.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết
số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà
Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Thành lập thị trấn Lộc Hà, thị trấn huyện lỵ huyện Lộc Hà trên cơ sở
toàn bộ diện tích và dân số của xã Thạch Bằng
Sáp nhập hai xã An Lộc và Bình Lộc thành xã Bình An.
Huyện Lộc Hà có 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay.
Huyện Lộc Hà có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn
Lộc Hà (huyện lỵ) và 11 xã: Bình An, Hộ Độ, Hồng Lộc, Ích Hậu, Mai Phụ, Phù
Lưu, Tân Lộc, Thạch Châu, Thạch Kim, Thạch Mỹ, Thịnh Lộc.
Làng Thu Hoạch, xã Thạch Châu là quê hương của nhà sử học Phan Phu Tiên nhà nghiên cứu văn học và
nhà giáo nổi tiếng đầu đời Lê. Đây còn là quê hương của dòng họ Phan Huy, một dòng họ văn hóa của thế kỷ XVIII và XIX, mở rộng
ra cả Bắc Hà. Dòng họ này có các tên tuổi lớn như: Bình Chương Đô đốc Phan Huy Cận, Thượng thư Phan Huy Ích, nhà bác học Phan Huy Chú, các nhà thơ Phan Huy Thực, Phan Huy Ôn,Phan Huy Vịnh,
Phan Huy Thàng, Thủ tướng Phan Huy
Quát, Giáo sư sử học Phan Huy Lê,
Thừa chính sứ kiêm Quản đô lực sĩ Nguyễn
Tông Tây (1436-?)...
Làng Đại Yên, xã Thạch Mỹ là quê hương của dòng họ Phan Trọng, một dòng họ văn hóa của thế
kỷ XV mở rộng ra cả Hà Tây. Dòng họ này có các tên tuổi lớn như: Danh tướng khởi
nghĩa Lam Sơn Phan Trọng Búp, Bình Chương
sự kiêm tri Quốc Tử Giám tư nghiệp Phan
Trọng Lê Phiêu, Tri phủ Hoài Đức Tiến sĩ Kỷ Mão(1879) Phan Trọng Mưu, Quan khâm sứ triều đình Phan Trọng Hoa, Quan nha môm Phan
Trọng Dung sau ra ở Hà Tây,, nhà thơ cao dao Phan Trọng Bàng, Phó thủ tướng Phan
Trọng Tuệ, Chiến sĩ cánh mạng Phan Trọng Bình, Chiến sĩ cánh mạng Phan Trọng Quảng, Giáo sư Phan Trọng Luận...; Tiến sĩ Phạm Tông Tây.
Làng Ích Hậu là quê hương của Hoàng giáp Đông các hiệu
thư Trần Đức Mậu đời Lê Thánh Tông
(đền thờ đã bị đổ nhưng sắc phong hiện còn), Tam nguyên Hoàng giáp, Tể tướng Nguyễn Văn Giai mở đầu thời Lê Trung
Hưng (hiện còn đền thờ và một tấm bia lớn dựng ngay sau khi ông mất), và dòng họ Nguyễn Chi nổi tiếng về truyền
thống yêu nước, văn chương và khoa bảng. Dòng họ Nguyễn Chi (tức họ Nguyễn Đức,
cháu chắt trực hệ Trần Đức Mậu) sinh
ra những tên tuổi lớn như: nhà giáo và chí sĩ Nguyễn Hiệt Chi người đồng sáng lập Công ty Liên Thành và Trường Dục
Thanh theo tinh thần Duy Tân ở Phan Thiết, lãnh tụ phong trào chống thuế Nghệ
Tĩnh Nguyễn Hàng Chi, Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi Thứ trưởng Bộ Y tế thời
kháng chiến chống Pháp và Đại biểu Quốc hội bốn khóa I-IV, Giáo sư nhà văn hóa
học Nguyễn Đổng Chi, Giáo sư dân tộc
học Nguyễn Từ Chi, Giáo sư cổ văn học
Nguyễn Huệ Chi, Phó giáo sư chuyên
gia mỹ thuật cổ Nguyễn Du Chi...
Ngoài ra, cũng ở Ích Hậu còn có nhà cách mạng tiếng tăm Lê Viết Lượng.
Xã Thạch Vinh có Tiến sĩ Thiêm đô Ngự sử Nguyễn Phi Hổ thời Lê Uy Mục; Hồng Lộc
có Hoàng giáp Tể tướng Phan Đình Tá
dưới triều Nhà Mạc, Tiến sĩ Giám sát ngự sử quyền tham chánh Bùi Đăng Đạt thời Lê Trung Hưng (mộ phần
táng tại Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh); Phù Lưu có võ tướng Nguyễn Biên giúp Lê Thái Tổ chống giặc
Minh khôi phục đất nước, được truy tặng Thái phó Nghiêm Quận công (1425), truy
phong thần tích Đại vương; thời hiện đại có nhà thơ Chính Hữu...
Những người nổi tiếng ngày nay gồm có: Doanh nhân Phạm Nhật Vượng và Phạm Nhật
Vũ, quê gốc xã Phù Lưu...
Huyện Lộc Hà có hàng chục ngôi đền chùa miếu mạo, trong đó có 10 di tích
lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, 30 di tích được công nhận là di
tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Chùa Chân Tiên: Chùa nằm trên núi Tiên Am, xã Thịnh Lộc.
Chùa nhìn xuống Bầu Tiên, tương truyền xưa là nơi tiên xuống tắm và còn lưu dấu
chân trên đá. Mỗi mùa lễ hội du khách các vùng đến dự rất đông để cầu phúc lộc,
nam nữ thì đến cầu duyên.
Chùa Kim Dung: trên núi Bằng Sơn.
Chùa Xuân Đài: ở thị trấn Lộc Hà là một ngôi chùa ở đồng bằng duy nhất
còn sót lại của thị trấn sau chính sách phá bỏ chùa chiền của những năm 60 thế
kỷ trước.
Chùa Long Hội.
Đền Cả: còn có tên là đền Lớn hoặc Tam tòa Đại
Vương thuộc xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà. Đền thờ 3 vị: Lý Nhật Quang (hoàng tử thứ
8 của vua Lý Thái Tổ), Lý Đạo Thành và Lý Thế Giai (là 2 vương hầu của Nhà Lý).
Đình Đỉnh Lự ở xã Tân Lộc: Di tích lịch sử thế kỷ XV. Đây là nơi để nhân
dân quanh vùng tưởng nhớ công ơn của võ tướng Nguyễn Xí thời Lê Sơ. Thời kỳ chống
Pháp, các chí sĩ yêu nước đã lấy đình làm trụ sở. Đình Đỉnh Lự là nơi thành lập
Chi bộ ĐẢng cộng sản đầu tiên của Hà Tĩnh.
Đền thờ Tể tướng Hoàng giáp Nguyễn Văn
Giai ở xã Ích Hậu.
Mộng Thương thư trai và Chi gia trang: Thư viện lớn bậc nhất xứ Nghệ của
dòng họ Nguyễn Chi ở xã Ích Hậu, có từ cuối thế kỷ XIX. Hiện nằm trong nhà thờ
Nguyễn Đức Lục Chi, xã Ích Hậu.
Nhà thờ họ Phan Huy ở xã Thạch Châu: Di tích văn hóa thế kỷ
XVIII.
Nhà thờ họ Phan Trọng Búp ở xã Thạch Mỹ (Danh tướng Khởi nghĩa Lam
Sơn):Di tích văn hóa thế kỷ XV.
Đình làng Ngọc Mỹ, nơi thờ Đặng Dung, Đặng
Tất ở xã Phù Lưu.
Nhà thờ Nguyễn Đức Mậu ở xã Phù Lưu
Miếu Biên Sơn ở xã Hồng Lộc
Chùa Đại Bi ở Xã Hồng Lộc
Đền thờ Nguyễn Đình Sỹ, di tích lịch sử nhà thờ họ Nguyễn Đình
xã Hộ Độ.
Danh lam thắng cảnh.
Bãi tắm Cửa Sót.
Núi Bằng Sơn tức Rú Bờng, là ngọn núi có Chùa Kim Dung. Chùa nằm giữa
núi, xã Thạch Bằng và Thạch Mỹ. Chùa được xây dựng vào thời Trần, thờ Phật Tổ,
Ngọc Hoàng và Thánh Mẫu. Do dòng họ Phan Hữu xây dựng nên đứng đầu là ông Quyền
Quang thời kỳ chống Pháp, các chí sĩ yêu nước đã lấy chùa làm trụ sở. Mỗi mùa lễ
hội du khách các vùng đến dự rất đông để cầu phúc lộc, nam nữ thì đến cầu
duyên. Trên núi có mộ tổ Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh.
( Theo https://vi.wikipedia.org/).
II.VÀI NÉT VỀ ĐỊA CHẤT – THỦY VĂN. ( Tư liệu dienbatn sư tầm ).
Đặc điểm địa chất công trình.
Căn cứ vào tài liệu khảo sát địa chất do Công ty CP Tư vấn Xây dựng Kỹ
thuật hạ tầng Bắc Hà Nội thực hiện 07/2007, kết quả khảo sát ở khu vực phía Cửa
sông Sót cho thấy từ trên xuống địa tầng được chia thành các lớp sau:
+ Lớp 1: Là lớp đất đắp có thành phần là cát pha, đất sét màu xám vàng,
xám xanh. Kết cấu chặt, trạng thái nửa cứng. Lớp có chiều dày từ 3.0m đến 3.5m.
+ Lớp 2: Thành phần là đất sét pha nhẹ, màu xám đen, kết cấu chặt, trạng
thái dẻo mềm chứa hữu cơ, vỏ sò. Chiều dày lớp từ 0.5m đến 2.3m.
+ Lớp 3: Thành phần là đất cát
pha màu xám đen, kết cấu chặt, trạng thái bão hoà nước, chứa hữu cơ, vỏ sò.v.v.
+ Lớp 4: Cát hạt vừa đến hạt nhỏ màu xám vàng, xám sáng, xám đen kết cấu
chặt trạng thái bão hoà nước.
5. Địa chất thuỷ văn:
Mực nước ngầm trong khoảng 0,4 - 1,0m, sâu dưới 12m thường bị nhiễm mặn.
Tài nguyên khoáng sản:
Có nhiều loại đá quý, các mỏ kim loại có trữ lượng lớn và chất lượng cao
đặc biệt là mỏ sắt Thạch Khê với trữ lượng 540 triệu tấn, Mangan, Sắt - Mangan
trữ lượng vài trăm triệu tấn với diện tích khoảng 1194 ha.
1.7. Địa chấn:
Nằm trong vùng động đất cấp 6. Khi xây dựng công trình cao tầng cần tính
đến kháng chấn.
Theo thống kê, từ năm 1954 đến năm 1990 có 62 cơn bão và áp thấp nhiệt đới
đổ bộ vào bờ biển khu vực Thanh Hoá - Nghệ An - Hà Tĩnh.
Bão đổ bộ vào Hà Tĩnh từ cấp 9
trở lên có tần suất 44% tương ứng với thời kỹ xuất hiện lại là 23 năm. Với bão lớn hơn hoặc bằng cấp 12 xuất hiện với
tần suất 10% với chu kỳ xuất hiện lại là 10 năm. Như vậy, trung bình khoảng 10
năm thì có một trận bão có tốc độ gió bằng hoặc trên cấp 12 đổ bộ vào Hà Tĩnh
tác động vào bờ biển, hệ thống đê biển và đê cửa sông.
Trong vùng biển Cửa Sót do không có trạm đo sóng do đó có thể tham khảo
số liệu điều tra khảo sát thu thập tài liệu về sóng của Viện khoa học và kinh tế
thuỷ lợi tại vùng Cửa Ròn. Theo kết quả quan trắc cho thấy trong mùa đông, sóng
tiến vào bờ chủ yếu theo hướng Đông với độ cao lớn nhất phổ biến từ 1.20m đến
1.75m với tần suất lớn hơn 50%, chu kỳ sóng khoảng 4 đến 5 giây và theo các hướng
Đông-Bắc, Đông-Nam chiếm 15%. Đợt khảo sát gió mùa Đông-Bắc tháng 12/1992 cho
thấy độ cao sóng có thể đạt Hmax=2.93m và chu kỳ khoảng T=10 giây vào ngày
16/12/1992. Về mùa hè, hướng gió Đông-Nam có tần suất lớn hơn 60% với độ cao
sóng phổ biến là 0.3m đến 0.6m. Đợt quan trắc tháng 8/1993 đã xác định
Hmax=0.8m đến 1.56m.
1/ ĐỀN THỜ VÀ MỘ LÊ KHÔI.
" Trong cuộc kháng chiến chống quân
Minh xâm lược , thế kỷ 15 , đã xuất hiện những dũng tướng tài ba thao lược ,
trong đó có Lê Khôi , người đã giúp Lê Lợi trong sự nghiệp " Bình Ngô
" . Ông Lê Khôi vốn xuất thân trong một gia đình dòng dõi , phong lưu ,
phú quý tại làng Lam Sơn - Huyện Thụy Nguyên - Thanh Hóa ( Nay thuộc Huyện Thọ Xuân
- Thanh Hóa ) . Thân phụ của ông là Lê Trừ , anh thứ hai của đức Vua Lê Thái Tổ
( tức Lê Lợi ) . Ngay từ nhỏ , ông vốn là người thông minh , nhân hậu , có dũng
khí . Lớn lên , khi Lê Lợi dấy quân khởi nghĩa ở Lam Sơn vào mùa Xuân năm 1418
, thì Lê Khôi là người đầu tiên đứng dưới cờ khỏi nghĩa . Ông là người có công
giúp Lê Thái Tổ kháng chiến chống giặc Minh , giúp Lê Nhân Tông trấn thủ Nghệ
An , được nhân dân thương yêu , quý trọng . Để ổn định biên giới phía Nam của
nước Đại Việt , dưới thời Vua Lê Nhân Tông năm 1443, Lê Khôi được cử thống lĩnh
đại quân đánh giặc . Sau khi thắng trận trở về , chẳng may ông bị ốm và mất
chân núi Nam Giới , mộ táng tại chóp Long Ngâm .Năm 1487 , Vua Lê Thánh Tông
truy tặng ông là " Chiêu Trưng Đại Vương " . Để tưởng nhớ công đức của
ông , nhân dân đã lập Đền thờ dưới chân núi Long Ngâm nơi ông mất . Đền gồm 3
tòa chính : Thượng điện , Trung điện , Hạ điện .Trước là Tam quan , cột nanh có
Nghê chầu , sau là lăng nhị hầu . Tòa Trung điện , kiến trúc chạm trổ tinh vi :
Cá hóa Rồng , Bát Tiên , Tiên múa ,Tiên đánh cờ , Tiên cưỡi hạc .... Quần thể
di tích này còn có bãi trước , bãi sau ,khe Hau hau , cồn Cóc , đền cá Voi , đền
thờ Mẫu , đền thờ vọng Lê Khôi .. Ngày nay du khách đến thăm di tích đền Lê
Khôi , không chỉ để tưởng nhớ đến ông mà còn chiêm ngưỡng nghệ thuật kiến trúc
độc đáo của ngôi đền . Cùng hòa nhập trong cảnh non xanh nước biếc , một vùng
thật hấp dẫn cho ngành du lịch tỉnh Hà Tĩnh . " ( Chép tại đền Lê Khôi ) .
2/Chùa Chân Tiên.
Chùa nằm trên núi Tiên Am, xã Thịnh Lộc. Chùa nhìn xuống Bầu Tiên, tương
truyền xưa là nơi tiên xuống tắm và còn lưu dấu chân trên đá. Mỗi mùa lễ hội du
khách các vùng đến dự rất đông để cầu phúc lộc, nam nữ thì đến cầu duyên.
3/Chùa Kim Dung: trên núi Bằng Sơn.
Chùa Xuân Đài: ở thị trấn Lộc Hà là một ngôi chùa ở đồng bằng duy nhất
còn sót lại của thị trấn sau chính sách phá bỏ chùa chiền của những năm 60 thế
kỷ trước.
5/ BÃI BIỂN THẠCH KIM – THẠCH BẰNG – THỊNH
LỘC.
6/ VÙNG NÚI CHÂN TIÊN.
6/ NGHĨA TRANG TẠI CHÂN NÚI BẰNG SƠN.
7/ BẢN ĐỒ QUY HOẠCH.
8/ MỎ SẮT THẠCH KHÊ.
9/ GIAO THÔNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐO THỊ.
10/ ĐÁNH GIÁ CHUNG.
Lộc Hà có lợi thế địa lý rõ rệt, có tọa độ thuộc vùng trung tâm của tỉnh
Hà Tĩnh, là một thế mạnh, tiềm năng đáng kể, có nhiều triển vọng phát huy và
mang tính đặc thù rõ rệt của huyện. Huyện nằm trên trục đường quốc lộ biển Bắc
- Nam, liền tuyến với Thành phố Vinh (Nghệ An), bãi biển Xuân Thành và khu lưu
niệm Đại thi hào Nguyễn Du (Nghi Xuân), khu mỏ sắt Thạch Khê và bãi biển Thiên
Cầm (Cẩm Xuyên), nằm sát liền Thành phố Hà Tĩnh về phía biển, có đường giao
thông thuận tiện nối với Cửa khẩu Cầu Treo. Trên cơ sở các tuyến hành lang phát
triển đã và đang định hình, gồm tuyến đường vành đai nối quốc lộ 1A đến mỏ sắt
Thạch Khê, tuyến nối Thành phố Hà Tĩnh với biển và tuyến quốc lộ chạy dọc bờ biển,
nổi bật lên khả năng Lộc Hà trở thành một trung tâm kết nối phát triển của tỉnh.
Huyện có bãi biển dài 12
km, cát phẳng và thoải rộng, là một nguồn tài nguyên quan trọng cần được khai
thác. Ngoài tài nguyên cát là những loại vật liệu xây dựng tốt, bãi biển Lộc Hà
còn có khả năng phát triển các bãi nghỉ dưỡng, khu du lịch.
Cửa Sót một cửa biển quan
trọng của cả tỉnh, có tiềm năng phát triển lớn do có vùng bãi ngập mặn nước lợ
700 ha cho phép nuôi trồng các loại hải sản như tôm, cua, cá nước mặn,… có thể
mở rộng và phát triển từ một cảng cá thành cảng biển có thể đón tàu 500 tấn. Cảng
Hộ Độ có khả năng tiếp nhận tàu và sà lan 200-500 tấn.
Thạch Kim là một trung
tâm đánh bắt, chế biến, thương mại, dịch vụ có truyền thống của tỉnh Hà Tĩnh,
là một lợi thế không nhỏ để phát triển thành khu hậu cần cung cấp nguồn thực phẩm
cho huyện lỵ mới và các khu du lịch.
Lộc Hà lại có nguồn tài
nguyên văn hóa - du lịch đáng kể. Truyền thống lịch sử - văn hóa, tính cách con
người, các di tích văn hóa, bao gồm đền chùa và lễ hội, của huyện khá phong phú
và có nhiều nét bản sắc độc đáo. Cộng với cảnh quan biển và rừng, những tài
nguyên đó tạo cho huyện lợi thế ban đầu rất quan trọng để phát triển ngành du lịch.
Vị trí trung tâm kết nối của Lộc Hà càng làm nổi bật hơn lợi thế này.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao 10%/năm đã góp phần cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân, là tiền
đề tốt để phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Cơ sở hạ tầng của huyện
cũng đã có những cải thiện đáng kể. Hệ thống giao thông nông thôn, thủy lợi, mạng
lưới điện, các cơ sở y tế - giáo dục, v.v. được nâng cấp, đến nay đã phủ khắp
các xã, cơ bản đáp ứng các yêu cầu hiện tại. Một số dự án hạ tầng lớn (công
trình thủy lợi Đò Điệm, tuyến đường vành đai từ Quốc lộ 1 đến mỏ sắt Thạch Khê,
tuyến đường nối Thành phố Hà Tĩnh với bờ biển Lộc Hà, quốc lộ ven biển) đang được
triển khai, mở ra những triển vọng mới.
Các công trình thủy lợi hậu
Ngọt hóa sông Nghèn đảm bảo cấp nước tưới tiêu quanh năm cho toàn huyện Lộc Hà,
sản xuất nông nghiệp chủ động, tạo sự ổn định lâu dài.
Xin theo dõi tiếp BÀI 32. Thân ái, dienbatn.