Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 35. BÀI CUỐI.
PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.
PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.
( Bài này dienbatn đã viết trên
Tuvilyso.com trước khi đặt mộ đại tướng Võ Nguyên Giáp.)
Trăm năm còn có gì đâu ?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.
(Truyện Kiều, Nguyễn-Du)
1/ NHỮNG LỜI BÀN TRƯỚC KHI ĐẶT MỘ. (dienbatn
chép lưu lại )
“Nếu việc chọn nơi an táng cụ Giáp là quyết định thì ta chỉ được bàn
thôi, nếu việc chọn hay giới thiệu nơi an táng cụ Giáp là lãnh đạo tỉnh Quảng
Bình thì cần xem xét lại. Mồ mã ngay cả khi chôn rồi sau đó người ta cũng phải
bốc dời đi nơi khác nếu có động huống hồ là còn mấy ngày nữa mới hạ huyệt. Nếu
không phải ý nguyện về quê là của cụ Giáp thì nhân dân muốn cứ đặt cụ đâu quanh
Hà nội là phù hợp. Nhưng nếu về quê là ý nguyện của Cụ thì chắc phải là Lệ Thủy
bởi nhiều lý do. Quê phải là nơi có ông bà tiên tổ an nghỉ, hiện còn có họ hàng
bà con nội tộc và còn có nhà thờ họ để người trong họ tộc thay nhau hương khói.
Lệ thủy dọc đường Hồ Chí Minh có nhiều cuộc đất tốt để chọn nơi âm phần, trong
đó động An Mã có thể nói là vùng đất thiêng với thế đất hội đủ các yếu tố làm
nơi âm phần tốt. Hiện ở nơi này có lăng mộ của Thần hầu Nguyễn Hữu Cảnh cũng là
một bậc vĩ nhân thời trước. An Mã là nơi hầu hết các gia tộc lớn ở Lệ thủy từ
xưa đến nay chọn làm nơi âm phần, cảnh trí nhìn bằng mắt thường nơi này cũng rất
hùng vĩ, có đầu gối lên núi mắt nhìn xuống phá Hạc Hải và ra tận cửa Nhật Lệ. Ở
đây gần sát làng An xá, được đi lại thì Nam- Bắc quá thuận tiện.
Về vùng đất Vũng Chùa - Đảo yến rõ ràng có nhiều yếu tố không hợp lẽ để
chọn làm nơi âm phần. Trước hết đây là đây là nơi quá xa Làng An xá quê tổ của
cụ Giáp, xa họ tộc để hương khói theo quan niệm truyền thống người Việt. Có thể
bằng mắt thường nhìn Vĩng Chùa - Đảo Yến hiện giờ có cảnh trí đẹp vì còn hoang
sơ và sát biển. Tủy nhiên quan niệm phong thủy gối sơn hướng thủy không có
nghĩa là cứ phải sát mép nước như vậy. Điều quan trọng đững trên khoa học quy
hoạch phát triển mà xét thì rất không ổn. Nếu xem lại tài liệu quy hoạch phát
triển KT-XH Quảng Bình và các quy hoạch Cảng Hòn La, Quy hoạch Khu công nghiệp
Hòn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nay đang hình thành. Với định hướng
phát triển cảng và phát triển khu công nghiệp lớn của Quảng Bình thì tương lai
đây chắc chắc là một vùng ô nhiễm, đặc biệt sự ồn ào cơ học. Phân mộ mà chọn
nơi sẽ bị ô nhiễm ồn ào là không hợp vì như vậy là không hợp về mặt phong thủy.
Phần mộ phải đặt nơi yên tĩnh không bị ồn ào quấy động vì nó là động tới sự yên
nghỉ của vong linh và làm quấy động long mạch. Rõ ràng đứng trên quan điểm quê
quán, gia tộc cũng như trên quan điểm phong thủy và chiều hướng phát triển thì
vũng Chùa - Đảo Yến là nơi không hề phù hợp để đặt mộ so với nhiều nơi khác
trên quê hương cục Giáp.”( Viết bởi Ô
Châu Bày tỏ thôi)
“Mộ phần này tuyệt đối không phải là 1 nơi có phong thủy tốt, về
ruột còn về vỏ mới nhìn tưởng tốt nhưng thực chất cũng chả phải. Theo ý kiến cá
nhân của mình, mộ tốt nhất phải tụ khí, có gió nhẹ thì hay nhưng gió quá mạnh
thì lại tán khí thì k tốt. Đây chính là điều tốt kỵ vì mộ quá sát biển (tán
khí).”
“ Theo tuyên bố của anh Võ Điện Biên trước báo
giới : ”Nhưng chắc chắn sẽ không phải là huyện Lệ Thủy” thì địa điểm Đảo Yến,
Vũng Chùa ở Quảng Trạch gần như đã được chọn, vì anh không biết vị trí nào
khác. Việc đó trái với đạo lý và nhân cách Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Về mặt đạo lý. Cha ông ta xưa nay
đều nói rằng:” Lá rụng về cội”. Cội rễ của Võ Nguyên Giáp là mảnh đất linh kiệt
Lệ Thủy đã sinh ra ông và bao nhiêu người tài giỏi trên đời này. Thứ hai lá “rụng
về cội” còn có nghĩa con về với cha mẹ, bà con làng xóm, để sớm hôm lúc nào
cũng có người qua lại viếng thăm. Tôi biết anh Võ Điện Biện có mấy chục héc-ta
đất ở Hòn La ( vùng Đảo Yến, Vũng Chùa ấy) được tỉnh Quảng Bình cấp cho gần chục
năm nay với lý do là trồng rừng, nhưng thực chất là dể xây dựng Khu du lịch. Tỉnh Quản Binh
đang xây dựng Hòn La thành một khu công nghiệp –cảng biển lớn . Nên ý định anh
Võ Điện Biên định đưa bố mình về nằm ở đây rõ ràng là nhắm mục tiêu :”Lợi dung
Danh tiếng Võ Nguyên Giáp để kinh doanh du lịch, làm giàu “ ! Đó là việc trái với
đạo lý và không phù hợp với nhân cách, đức độ của Đại tướng. Hơn nữa vùng Đèo Ngang ( Vũng Áng- Hòn La)
là một tử huyệt về quân sự mà bao lâu nay Trung Quốc đã dòm ngó. Nếu chúng xâm
lăng Việt Nam thì đây là vị trí bị tấn công đầu tiên để cắt đôi nước Việt Nam.
Nên tuyệt đối không nên an táng Đại tướng ở đó. Đừng để ông phải chịu đựng hòn
tên mũi đạn một lần nữa. Đời ông khổ với quân thù và khổ với “đồng chí” nhiều rồi.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Đại tướng của lòng dân. Nhân dân còn sống với
đại tướng của mình hàng ngàn năm sau nữa. Hãy để cho nhân dân vẫn được đến với Đại tướng hàng ngày sau khi
ông qua đời. Mai táng ông ở Hòn Yến- Vũng Chùa ấy thì chỉ có các đại gia, khách
du lịch xịn mới có điều kiện ghé được.
Còn cán bộ lãnh đạo thì chỉ một năm một
lần viếng ông vào Ngày thương binh liệt sĩ (27-7). Còn nhân dân cả nước, nhân
dân Quảng Bình và đặc biệt bà con thân thuộc của Đại thướng, bà con nông dân Lệ
Thủy nghèo thì không bao giờ đến được để thăm viếng, thắp nhang trong những
ngày Tết Nhất, giỗ chạp. Đó là sự phi lý không thể chấp nhận được.
Với tư cách là một người lính của
Tướng Giáp, tư cách một nhà văn Việt Nam sinh ra ở Lệ Thủy, tôi đề nghị Lãnh đạo
tỉnh Quảng Bình phải kiên quyết bàn với ông Võ Điện Biên để đưa Đại tướng về an
táng ở Lệ Thủy( có thể lại Mai Thủy hay An Mã đều là những địa điểm tốt, thuận tiện giao thông). Đó là địa điểm thích
hợp nhất. Đại tướng Võ Nguyên Giáp về nằm với quê hương sinh ra mình, nhưng
nhân dân cả nước Việt Nam, cả tỉnh Quảng Bình , nhân dân và bạn vè quốc tế kính
yêu, ngưỡng mộ Đại tướng có điều kiện để viếng thăm bất cứ lúc nào. Khách du lịch
đến với tỉnh Quảng Bình hàng năm nhờ uy danh của Đại tướng chắc chắn sẽ cao hơn
, đông hơn ở Vũng Chùa- Đảo Yến.” - Theo
Bảo Đăng - Hà Thành (Tiền Phong).
“An táng ở đâu sau khi mất là nguyện vọng khi còn sống của người quá cố
và ý định của thân nhân ( vợ con người quá cố ) Trong trường hợp này nếu không
an táng ở Mại Dich ( theo qui định của nhà nước ) mà đưa về Quảng Bình thì theo
cá nhân tôi đúng nhất cả về tình và lý là an táng ngay nơi chôn nhau cắt rốn
nơi có phần mộ tổ tiên ông bà cha mẹ của người quá cố . Mảnh đất nơi người đó cất
tiếng chào đời và đặt những bước chân lẩm chẩm đầu tiên . Xin hãy thận trọng
cân nhắc trước khi quyết định cuối cùng . Bởi vì việc hệ trọng này khi " sự
đã rồi " thì không còn cơ hội để sửa sai và hệ lụy của nó là rộng lớn và
dai dẳng nhiều chục năm có khi hàng trăm năm . Nếu quyết định sai thì rõ ràng
là mất nhiều hơn đươc”. (Viết bởi Bạn đọc
)
“Khi nghe tin : Bác Giáp sẽ về quê , mình rất ngưỡng mộ . Một quyết định
đáng kính phục . Nhưng khi nghe Bác được an táng tại Vũng Chùa Hòn Yến . Mình lại
nghĩ chắc là Bác chọn . Không nghỉ gì nữa nhưng thấy lạ . Nhưng khi đọc bài :
Bác phải được an táng tại Lệ Thủy thì ra : Đây không phải la nơi Bác chọn từ
trước mà là kết quả thương lương của con trai của Bác là Võ Điện Biên với lãnh
đạo QB thì mình rơi vào thất vọng !” (Viết
bởi Hồ Ngọc Cư)
“Nếu sinh thời, ông đã chọn ở đâu thì nên (có thể nói là phải) thì an
táng ở đó. Ý nguyện người đã khuất phải được tôn trọng. Nếu ông không chọn, gia
đình toàn quyền quyết định.
Bộ Chính trị và Tỉnh ủy không nên, và không được can thiệp, gò ép.
Làng quê, khu mộ cha mẹ là địa điểm nên ưu tiên, nếu có cân nhắc.
Tôi đồng ý với một phần ý kiến anh Võ Văn Tạo
Còn nhà thơ Ngô Minh nói rằng
"anh Võ Điện Biên định đưa bố mình về nằm ở đây rõ ràng là nhắm mục
tiêu :”Lợi dung Danh tiếng Võ Nguyên Giáp để kinh doanh du lịch, làm giàu “ !
Đó là việc trái với đạo lý và không phù hợp với nhân cách, đức độ của Đại tướng",
và nhà thơ Ngô Minh cũng dùng 2 chữ "phẫn nộ" để nói lên tình cảm của
bản thân cùng người dân Lệ Thủy trong việc chọn nơi an tán cụ Giáp không phải
là Lệ Thủy... Thiết nghĩ có quá lời như vậy không. Cả đời cụ Giáp là vì nước vì
dân rồi, các con của cụ có quyền quyết trong chuyện này, nếu, lý do mà con cụ
chọn nơi Hòn La để cha mình yên nghỉ, dù bất luận sâu xa gì, không ai có quyền
phản bác. Tôi tin họ có nhân cách, vì họ là con đại tướng Giáp, chúng ta mất vị
đại tướng, nhưng họ mất người chồng, cha, ông. Nỗi đau thương của họ lớn hơn
chúng ta nhiều, bởi là nỗi đau thương máu mủ. Sao nhà thơ không nghĩ đại tướng
muốn Hòn La trở thành điểm thu hút khách du lịch đến với đất mẹ QB nghèo khó,
Hòn La trở thành lũy thép khi quân thù muốn lấn từ khơi vào? Hãy để linh hồn
Người yên nghỉ, đâu cũng là quê mẹ, quê cha trên dãi đất QB, đừng vì cục bộ địa
phương mà nói những điều quá trong suy nghĩ, dẫu biết đâu cũng xuất phát từ
tình cảm với Người.” (Viết bởi Minh Tâm).
“Tất yếu bởi sau gần một thế kỉ biền
biệt xa quê phụng sự Tổ quốc, đã đến lúc ông về với làng quê của mình.
Ông về để sống với đất, với rừng quê hương
nơi ông gắn bó từ thủa thiếu thời.
Ông về với bà con, anh em, bạn bè, họ
hàng, tiên tổ đang chờ đón ông.
Ông về với dòng sông Kiến Giang, với lúa đồng
và với hàng cây dâm bụt giản dị, thân quen nơi đầu ngõ.
Ông về còn để báo cáo với quê hương, với tổ
tiên sau bao năm xa cách những gì ông đã làm cho Tổ quốc non sông.
Ông về với những người nông dân lam lũ
thôn quê đang ngày đêm mong mỏi được chiêm ngưỡng, dù chỉ là vong linh người
con ưu tú của quê nhà.
Ông về quê mẹ bởi ông là người Việt Nam,
dù đi đâu về đâu thì quê hương “mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi”.
Ông về quê vì ông xứng đáng nhận được sự
chờ đợi của quê hương hay nói cách khác, bởi ông đã làm rạng danh cho quê hương
mình.
Ông về quê còn như một thông điệp với thế
hệ tương lai rằng mỗi con người dù đi đâu và làm gì khi mất đi hãy ngẩng mặt về
với quê hương.
Hãy đưa ông về quê hương lệ thủy “ (Viết
bởi cong hoa ).
“Kính gửi nhà thơ Ngô Minh
Tôi đồng cảm với nhà thơ
Bác đã không ở Hà Nội, đó là một quyết định sáng suốt, một quyết định
không phải nhất thời, mà từ trong thẳm sâu những năm tháng thăng trầm của Bác,
một nỗi đau mà khi đã chết đi rồi quyết không một vấn vương, một đoạn tuyệt,
nói lên một cách nhìn khác về thời cuộc. Rất tuyệt vời.
Nhưng sao Bác không về với Lệ Thủy, nơi chôn rau cắt rốn, nếu Bác về thì
tuyệt vời biết mấy. Ai đã từng sinh ra lớn lên ở làng quê Việt Nam mới thấy hết
tình cảm gắn bó làng nước, xóm giềng.
Nếu Bác về với Lệ Thủy là Bác trở về với tổ tiên, với cha với mẹ, với chị,
với em, với bà con bên nội, bên ngoại, với làng với nước, ấm cúng vô cùng,
thiêng liêng vô cùng, là mốc son trong sự nghiệp lẫy lừng của Bác.
Bác ở hòn đảo trùng khơi, có thể con Bác bây giờ có phương tiện, tài
chính để thăm viếng Bác. Nhưng liệu sau này có còn đủ tiền thuê một chuyến đò
sang với Bác không? Không có gì bất biến, cuộc đời thăng trầm, lên xuống không
ai ngờ, chẳng có cái gì mãi mãi. Tiếc là con của Bác không ngộ ra điều ấy.
Tôi không ở Lệ Thủy, nhưng tôi biết người dân Lệ Thủy buồn biết chừng
nào, thất vọng biết chừng nào khi Bác không về quê. Cho dù có Bác về hay Bác
không về họ không ảnh hưởng chi mấy trong cuộc sống. Ở chỗ là bà con dân làng
yêu Bác, kính trọng Bác, tự hào về Bác, người con tuyệt vời của Lệ Thủy.
giá như Bác về với Lệ Thủy thì tuyệt vời biết mấy.
Tôi chỉ cầu mong cho Bác bình yên, chết là hết.” (Viết bởi KÔNG Tôi đồng cảm với nhà thơ).
“HÃY ĐỂ ĐẠI TƯỚNG YÊN NGHỈ TẠI LỆ THỦY !
Nguyện vọng của Đại tướng là được an táng tại quê nhà -tất cả mọi người
đều hiểu đó là Lệ Thủy -Quảng Bình chứ không phải là khu vực Vũng Chùa - Đảo Yến
(xã Quảng Đông, H.Quảng Trạch) Tên tuổi, gia tộc dòng họ, cả ngôi nhà nơi Đại
tướng sinh ra đều ở Lệ Thủy -nơi đó mới chính là quê hương đã ăn vào máu thịt của
Người. Thưa gia đình, Thưa Anh võ Điện Biên hãy để những gì thiêng liêng cao đẹp
nhất của vị danh tướng tài đức vẹn toàn mãi mãi sống trong lòng dân tộc nói
chung, người dân Qbinh nói riêng. Nếu An táng tại đảo yến - huyện Quảng Trạch sẽ
mất ý nghĩa. Đành rằng như anh nói ; Ỏ đâu trên đất nước VN này cũng là quê
hương. thà rằng Đại tướng yên nghỉ tại Hà Nội, còn nếu về quê thì phải đúng
nghĩa là Lệ Thủy -QBinh .Tôi không tin như dư luận nói rằng Anh muốn an táng ở
đảo yến vì ở đó có khu du lịch của Anh. vì hơn ai hết anh hiểu rằng cái giá trị
kinh doanh du lịch ở đó có thu lại hàng tỉ đô la chăng nữa cũng không thể nào
đánh đổi được ước nguyện cuối đời đầy đạo lý và chất nhân văn của một bậc hiền
tài. Là một người con QB tôi tha thiết mong gia đình và Anh hãy vỉ cái đại cuộc
lớn lao hơn. Có gì không phải mong được lượng thứ. một lần nữa xin hãy để Đại
tướng trở về với Lệ Thủy bên dòng Kiến Giang xanh” (Viết bởi Nguyễn Văn HÃY ĐỂ ĐẠI TƯỚNG YÊN NGHỈ TẠI LỆ THỦY ).
“Đảo Yến như đảo hoang.
Để chứng thực lời kể, chúng tôi theo một ngư dân bản địa ra đảo. Khoảng
ba mươi phút, thuyền máy đã cập bờ. Trên hòn đảo này hiện trú ngụ 6 công nhân của
Tổng công ty yến sào Khánh Hoà.
Trước thực trạng hàng chục ngàn chim yến rời đảo không về trong hai năm
qua, UBND xã có tờ trình và được UBND tỉnh chấp thuận hợp tác với tổng công ty
yến sào Khánh Hoà đưa máy móc, thiết bị, kỹ thuật, cũng như kinh nghiệm ra đảo
Yến “dụ” yến về lại tổ. Một công nhân nói, đã hai tháng nằm trên đảo Yến, cả tổ
chỉ dụ được 6 cá thể yến.
Hòn đảo 32 ha từng là thiên đường yến lớn nhất khu vực Bắc Trung Bộ nay
chỉ còn vài cá thể yến khiến ai nấy không thể tưởng tượng được bàn tay con người
đã làm biến mất hoàn toàn một gia tài quý giá mà ông cha để lại.
Ngư dân tên N.kể: “Thời bao cấp,
quá đói, nhiều khi bắt chim non về ăn với khoai thay cơm. Thời đó yến bay đen kịt
đảo, chừ ra đảo thấy hoang vắng bóng yến mà thấy mình ác quá, chừ nghe đến công
dụng yến sào mà thấy mình ngu, sống gần mỏ “vàng” mà không biết giữ để rồi tiếc
cũng không có được như xưa”.
Ông Võ Quang Đạt tiếc nuối: “Phải chi trước đây xã có những ràng buộc bảo
vệ bằng định chế từ các xóm thôn thì chắc bây giờ không xót lòng. Nay bằng mọi
giá, chúng tôi kêu gọi người dân không hành xử như trước mà tôn trọng yến, cùng
chung tay tạo môi trường cho yến về lại với đảo Yến”.
Về Quảng Đông, nói chuyện đảo Yến vắng chim yến, người dân ai cũng cho rằng,
một thời nhận thức kém đã dẫn đến sự ra đi gần như bặt tăm một loài chim quý. Họ
ngậm ngùi vì chính bàn tay họ đã đẩy một đảo Yến quý giá thành nơi chim yến
không thể tự tin bay về.. ".
Lời bàn của dienbatn : Thấy nhiều vị mà một người bạn của
dienbatn làm ở VTV1 khoe là những bậc Đại Phong thủy sư của nước Việt , đi cùng
anh Võ Điện Biên Tầm Long Tróc Huyệt suốt mấy năm nay và kết quả ra vị trí Vũng
Chùa - Đảo Yến như hiện nay. Ai cũng ca ngọi nào là " Long cuộn - Hổ nằm -
ý quên - Hổ ngồi " , nào là " Minh đường thủy tụ " , nào là
" Tàng phong thủy tụ " vv và vv. Nghe xong ai nấy đều mừng rỡ. Hóa ra
sở học của các Đại Phong thủy sư của nước Việt giỏi đến thế cơ đấy. Như mà ,
nghe xong, dienbatn chỉ thở dài. Phen này con cháu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
sẽ khó khăn đây . Đọc đi đọc lại hoa cả mắt cuối cùng tìm được những dòng sau -
Đây mới chính là thuật Tầm Long - Điểm Huyệt chưa bị tuyệt chủng :
" Trong ba loại : Thường
nhân, Thần nhân và Thánh nhân thì cách táng có khác nhau. Thường nhân thì táng
lấy phúc cho con cháu dòng họ, Thần nhân thì táng lấy phúc cho địa phương, cho
quốc gia, dân tộc. Thánh nhân táng lấy "gương" cho nhân loại hướng tới
chân, thiện, mỹ.
Tướng Giáp được xếp vào Thần nhân, uy danh
cũng như ảnh hưởng của ông sẽ còn được lưu lại trong lịch sử của Việt Nam mãi
mãi. Nơi an nghỉ của ông sau này sẽ là nơi mọi người Việt tới cúng cầu nên sau
này sẽ có tính chất như miếu, đền.
Miếu, đền, chùa cần tọa lạc nơi sát khí mạnh
thì Thần nhân sẽ dễ hiển linh để hộ quốc. Chọn nơi đây an táng theo nguyện vọng
quả hợp ý trời! Đại long còn chưa dừng bước chớ nói tới chuyện kết huyệt. Phá
quân hộ sa chi cước sắc nhọn, che chắn nơi gió to sóng cả sát khí của sơn của
thủy thật ứng với Thần nhân nhưng con cháu có phần thua thiệt.
Ôi An mã xưa vì một chút hồ đồ mà làm mất
đi một nơi linh khí. Người đứng đầu làm việc này đã gặp quả báo rồi. Nhiều người
nói sao cụ không đập bàn thì sự thể có đổi khác chăng? Ai biết được do thấu hiểu
An Mã xưa đã không vẹn toàn thì đành ôm chữ "nhẫn", đúng là "Thời
thế, thế thời phải thế"!
Mấy bác chém gió thành bão! huyệt kết phải
thỏa mãn mấy chục điều kiện, nơi đây không thỏa mãn điều kiện nào cả. Nghịch kết
ngoài mấy chục điều trên còn thêm năm điều kiện nữa thế nên xưa nay đặt vào
"huyệt" nhiều mà kết phát chẳng bao nhiêu.
Thấy các bác đụng tới vấn đề lớn cực chẳng
đã phải xuất hiện viết mấy dòng trên. ASVN ".
Lời bàn của dienbatn :
Khu vực này xưa nay hoang vắng, dân cư thưa thớt, nghèo đói , cỏ cây khô
cằn, núi đá tua tủa, nhọn hoắt , cố kiếm được nơi kết Huyệt khó tựa như với sao
trên Trời. Mặt khác như bài trước đã viết : Làm sao để biết được Khí Mạch đi? Hễ
thấy chỗ nào đất gỗ cao lên, nước đổ về hai bên, tức có mạch dẫn đi ở bên Sách
nói: “Thủy phân bát tự, tất bữu lai Long” (Nước phân chữ bát hai bên, tức có
Long mạch đi lại). Đó chỉ là hình bên ngoài, còn biết khí bên trong vượng suy
thì phải xem cây cỏ, xanh tươi hay úa héo; nước vùng đó nhiều ít, khô cạn.Nước
Việt Nam những vùng núi non như Phan Rang, Phan Rí, dọc đường Quốc lộ 1A, núi
đá cằn cỗi khô khan, không có cây gì mọc được; chứng tỏ bên trong khí tuyệt;
cho nên cư dân nơi đây nghèo khó thưa thớt.
Khu địa Huyệt này chỉ có thể sử dụng vào việc lập Đình, Chùa, Miếu, Đền
, có tác dụng trấn giữ Long mạch như cách người xưa thường làm mà thôi .
Ngày xưa, khi Chúa Nguyễn Hoàng được Trạng trình Nguyện Bỉnh Khiêm bày
cho kế sách : " Hoành sơn nhất đái - Vạn đại dung thân ". Cũng may mà
Chúa Nguyễn Hoàng hiểu được rằng, một dải Hoành sơn là một thành lũy tự nhiên
che chắn, ngăn chặn sự tấn công sau này của Vua Lê - Chúa Trịnh mà đưa những
người dân Thuận Hóa vào Nam khai phá lập nghiệp , lấy đất Chiêm Thành và Thủy
Chân Lạp mở nên bờ cõi phía Nam rộng lớn. Nếu Chúa Nguyện Hoàng mà dùng Hoành
sơn làm căn cứ địa, chắc giờ này bờ cõi Việt Nam mới chỉ đến Châu Ô, Châu Rí.
Khu địa Huyệt mày cũng là một phần của thành lũy bảo vệ giang sơn của "
Hoành sơn nhất đái " mà thôi .
Tới đây chúng ta có thể có những kết luận
như sau về cuộc đất này :
1/ Khu vực này do đang trên đường hành Long của Đại Long mạch, khí thế ào ạt, hùng dũng, Khí đi như thác đổ, triều dâng , khó lòng kết Huyệt. Quan sát địa thế ta thấy sát khí mạnh mẽ vô cùng, khí vận chuyển không ngừng , không nghỉ. Nhìn vào hình thể đất đá , cây cối ta thấy khô cằn . Dưới lòng núi là hang động do núi đá vôi bị bào mòn ( hang yến là một ví dụ ). Hình thế hiểm trở , khó bề tiến thoái.
Trong cả quá trình lịch sử, khu vực này không hề yên tĩnh , hàng năm bão
từ biển Đông ồ ạt tràn vào , bom rơi đạn lạc triền miên , dân cư nghèo đói đến
độ phải ăn cả chim yến thay cơm, tận diệt gần như hoàn toàn một thiên đường của
loài Yến . Một khu vực như vậy chỉ có thể dùng cho những căn cứ quân sư hay thờ
cúng , trấn yểm mà thôi.
2/ Tới đây, chúng ta thấy có hai lựa chọn
:
Một là : Nếu gia đình Đại tướng muốn con cháu
sau này hiển đạt , vinh quy, gia đạo hưng long, thịnh phát thì nên chọn khu vực
khác, có thể tại quê nhà Lệ Thủy ( có thể tại Mai Thủy hay An Mã ) là nơi Địa
linh, Nhân kiệt đã sinh ra nhiều người tài giỏi ( Đây là quê hương của Sùng
Nham hầu Dương Văn An, Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh,
Kim tử Vinh Lộc Đại phu Đặng Đại Lược, Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ, Sư bảo Nguyễn
Đăng Tuân, Vũ Đăng Phương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng thống Việt Nam Cộng
hòa Ngô Đình Diệm. ). Lệ thủy còn là nơi như một người con của Lệ thủy đã viết
:
" Tất yếu bởi sau gần một thế
kỉ biền biệt xa quê phụng sự Tổ quốc, đã đến lúc ông về với làng quê của mình.
Ông về để sống với đất, với rừng quê hương
nơi ông gắn bó từ thủa thiếu thời.
Ông về với bà con, anh em, bạn bè, họ
hàng, tiên tổ đang chờ đón ông.
Ông về với dòng sông Kiến Giang, với lúa đồng
và với hàng cây dâm bụt giản dị, thân quen nơi đầu ngõ.
Ông về còn để báo cáo với quê hương, với tổ
tiên sau bao năm xa cách những gì ông đã làm cho Tổ quốc non sông.
Ông về với những người nông dân lam lũ
thôn quê đang ngày đêm mong mỏi được chiêm ngưỡng, dù chỉ là vong linh người
con ưu tú của quê nhà.
Ông về quê mẹ bởi ông là người Việt Nam,
dù đi đâu về đâu thì quê hương “mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi”.
Ông về quê vì ông xứng đáng nhận được sự
chờ đợi của quê hương hay nói cách khác, bởi ông đã làm rạng danh cho quê hương
mình.
Ông về quê còn như một thông điệp với thế
hệ tương lai rằng mỗi con người dù đi đâu và làm gì khi mất đi hãy ngẩng mặt về
với quê hương."
" Nếu việc chọn nơi an táng cụ Giáp là quyết định thì ta chỉ được
bàn thôi, nếu việc chọn hay giới thiệu nơi an táng cụ Giáp là lãnh đạo tỉnh Quảng
Bình thì cần xem xét lại. Mồ mả ngay cả khi chôn rồi sau đó người ta cũng phải
bốc dời đi nơi khác nếu có động huống hồ là còn mấy ngày nữa mới hạ huyệt. Nếu
không phải ý nguyện về quê là của cụ Giáp thì nhân dân muốn cứ đặt cụ đâu quanh
Hà nội là phù hợp. Nhưng nếu về quê là ý nguyện của Cụ thì chắc phải là Lệ Thủy
bởi nhiều lý do. Quê phải là nơi có ông bà tiên tổ an nghỉ, hiện còn có họ hàng
bà con nội tộc và còn có nhà thờ họ để người trong họ tộc thay nhau hương khói.
Lệ thủy dọc đường H-C-M có nhiều cuộc đất tốt để chọn nơi âm phần, trong đó động
An Mã có thể nói là vùng đất thiêng với thế đất hội đủ các yếu tố làm nơi âm phần
tốt. Hiện ở nơi này có lăng mộ của Thần hầu Nguyễn Hữu Cảnh cũng là một bậc vĩ
nhân thời trước. An Mã là nơi hầu hết các gia tộc lớn ở Lệ thủy từ xưa đến nay
chọn làm nơi âm phần, cảnh trí nhìn bằng mắt thường nơi này cũng rất hùng vĩ,
có đầu gối lên núi mắt nhìn xuống phá Hạc Hải và ra tận cửa Nhật Lệ. Ở đây gần
sát làng An xá, được đi lại thì Nam- Bắc quá thuận tiện.
Về vùng đất Vũng Chùa - Đảo yến rõ ràng có nhiều yếu tố không hợp lẽ để
chọn làm nơi âm phần. Trước hết đây là đây là nơi quá xa Làng An xá quê tổ của
cụ Giáp, xa họ tộc để hương khói theo quan niệm truyền thống người Việt. Có thể
bằng mắt thường nhìn Vĩng Chùa - Đảo Yến hiện giờ có cảnh trí đẹp vì còn hoang
sơ và sát biển. Tủy nhiên quan niệm phong thủy gối sơn hướng thủy không có
nghĩa là cứ phải sát mép nước như vậy. Điều quan trọng đững trên khoa học quy
hoạch phát triển mà xét thì rất không ổn. Nếu xem lại tài liệu quy hoạch phát
triển KT-XH Quảng Bình và các quy hoạch Cảng Hòn La, Quy hoạch Khu công nghiệp
Hòn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nay đang hình thành. Với định hướng
phát triển cảng và phát triển khu công nghiệp lớn của Quảng Bình thì tương lai
đây chắc chắc là một vùng ô nhiễm, đặc biệt sự ồn ào cơ học. Phân mộ mà chọn
nơi sẽ bị ô nhiễm ồn ào là không hợp vì như vậy là không hợp về mặt phong thủy.
Phần mộ phải đặt nơi yên tĩnh không bị ồn ào quấy động vì nó là động tới sự yên
nghỉ của vong linh và làm quấy động long mạch. Rõ ràng đứng trên quan điểm quê
quán, gia tộc cũng như trên quan điểm phong thủy và chiều hướng phát triển thì
vũng Chùa - Đảo Yến là nơi không hề phù hợp để đặt mộ so với nhiều nơi khác
trên quê hương cục Giáp."
Hai là : Trong lịch sử Việt Nam, có vị tướng Trần
Hưng Đạo đã trở thành một vị Thánh tướng , được nhân dân khắp nơi thờ tự , và
trở thành một tín ngưỡng " Trần triều "của đất Việt .
Nói như nhà sử học Lê Văn Lan : " (VTC News) – Giáo sư sử học Lê
Văn Lan cho rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hóa thân từ Nhân Tướng thành Thánh
Tướng khi từ giã cõi đời này.
Theo tiêu chuẩn thời xưa, các vị tướng được đánh giá theo cấp bậc như
sau: trước tiên là bậc Dũng Tướng, sau đó đến bậc Trí Tướng, cao hơn nữa là bậc
Nhân Tướng và cuối cùng, cao cả nhất là bậc Thánh Tướng.
Duy nhất có một danh tướng trong quá khứ của dân tộc đã đạt được tới
hàng Thánh Tướng là vua Trần Hưng Đạo.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp chắc chắn là Dũng Tướng, Trí Tướng, Nhân Tướng
rồi, nhưng giờ đây rất may, chúng ta đang được chứng kiến một hiện thực - sự
chuyển hóa, hóa thân từ vị trí cao trong hàng danh tướng, Đại tướng đang dần trở
thành Thánh Tướng.
Với việc những cựu chiến binh trên 90 tuổi lập đền thờ, người dân khắp
nơi sùng kính, tôn thờ Đại tướng bằng mọi hình thức thiêng liêng, thánh thiện,
rõ ràng đó là sự chuyển hóa của Đại tướng từ chỗ Nhân Tướng thành bậc Thánh Tướng
ở thời đại chúng ta.
Như vậy, lịch sử đã có thêm một vị Thánh Tướng nữa. "
" Kể từ khi nghe tin Đại tướng qua đời, hàng chục vạn người con ở
khắp mọi miền Tổ quốc, thậm chí ở nước ngoài đã đến số nhà 30 Hoàng Diệu để viếng
người anh hùng dân tộc này. Sự thành kính với tất cả tấm lòng đã chứng tỏ Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã hóa Thánh Tướng . Tôn vinh bằng bia đá, bảng vàng thì
cũng có lúc bia đá, bảng vàng mòn đi, nhưng sự tôn vinh của lòng dân thì vĩnh cửu,
đẹp đẽ và mạnh mẽ nhất."
" Trong một cuốn sách được xuất bản tại Anh năm 2008 mang tựa đề
Great Military Leaders and Their Campaigns (Những nhà lãnh đạo quân sự lớn và
những chiến dịch của họ). Một cuốn sách bề thế, dày hơn 300 trang khổ lớn, với
hơn 500 tấm ảnh màu minh hoạ của Nhà xuất bản Thames & Hudson dành để giới
thiệu 59 nhân vật danh tiếng nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh của thế giới
trong 2.500 năm qua, thứ tự được xếp theo trình tự thời gian từ cổ đến kim. Đại
tướng Võ Nguyên Giáp được lựa chọn là nhân vật thứ 59, tức là nhân vật nổi bật
nhất kể từ sau Thế chiến thứ hai cho tới hiện nay (xếp thứ 58 là Đô đốc Nimitz
của Hoa Kỳ, người chỉ huy mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến II), và Võ
Nguyên Giáp cũng là người duy nhất trong 59 nhân vật vẫn còn sống khi cuốn sách
được xuất bản ".Khi còn tại thế Đại tướng có một câu nói bất hủ : "
Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó " . Vậy nên khi ông ra đi
mãi mãi , hãy để ông trở hành hồn thiêng của sông núi Việt nam, để cho toàn dân
tôn thờ ông như Trần Hưng Đạo Đại vương. Và như vậy, khu Mộ của ông đã không
còn là của riêng dòng họ Võ - Vũ ( là một dòng họ đã phát nổi danh khoa bảng
hàng ngàn năm qua ), cũng không phải chỉ riêng của Tỉnh Quảng Bình nữa mà là của
toàn thể dân tộc Việt Nam. Nơi đây phải là nơi quy tụ Tâm linh của cả dân tộc
Việt Nam , là nơi hội tụ của " Hồn thiêng sông núi " , là nơi tất cả
lòng của dân Việt Nam hướng về.
Nếu nhìn nhận theo chiều hướng như vậy, thì địa danh Vũng Chùa - Đảo yến
hoàn toàn đáp ứng được điều đó.
Tại Quảng Bình, ngay dưới chân Nam đèo Ngang , có Đền thờ " Thánh Mẫu
Liễu Hạnh " - Một trong " Tứ Bất tử " đã có khoảng hơn 500 năm ,
nhân dân hương hoa thờ cúng thành kính suốt bao năm. Đền nằm dưới chân núi Đèo
Ngang, ở một khu đất khá bằng phẳng, sát đường thiên lý Bắc - Nam trước đây,
phía sau đền là dãy Hoành Sơn, ngay trước mặt là hồ nước ngọt của xã Quảng
Đông, mặt đền quay hướng Nam cũng là hướng biển. Đền thờ Liễu Hạnh công chúa ở
Đèo Ngang, Quảng Bình vừa có sự tích riêng, vừa là hình tượng Mẫu Liễu Hạnh
chung trong đời sống tâm linh của nhân dân ta. Đền thờ như một minh chứng cho sự
tích Liễu Hạnh công chúa ở Đèo Ngang, trong truyền thuyết dân gian có từ lâu đời
đã trở thành một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa cộng đồng đối với nhân
dân Quảng Bình nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Vì vậy, di tích đền Liễu
Hạnh công chúa, xét về quy mô, phong cách và vị trí của nó trong lịch sử phát
triển của dòng tín ngưỡng dân gian Việt .
Tại Huyện Lệ Thủy - Quê hương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng có khu
lăng mộ của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tại Thác Ro, Lệ Thủy. Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảnh sinh trưởng trong tình huống nước nhà đang nạn Trịnh Nguyễn phân
tranh, Ông lại thuộc dòng dõi danh tướng nhà chúa Nguyễn, nên sớm trở thành người
tài giỏi, võ nghệ siêu quần. Từng là sư tổ của môn võ, danh hiệu "Bạch hổ
sơn quân phái’’ được nhiều người kính phục. Được chúa trọng dụng ban tước Lễ
Thành Hầu và cử giữ chức Cai Cơ. Thành hầu Nguyễn Hữu cảnh đã có công lớn trong
việc khai phá miền Nam :
- Khai hoang mở cõi
- Dàn xếp biên cương
- Bảo vệ chủng dân và vùng đất mới
- Thiết lập cơ sở hành chính thôn xã có quy củ
- Lập phủ Gia Định và chính thức cho sát nhập vào bản đồ Đại Việt
- Đề xuất công trình chiêu mộ lưu dân và khuyến nông.
Như vậy khu lăng mộ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để có thể quy tụ Tâm
linh của Việt Nam, để có thể trở thành một nơi thiêng liêng, lòng dân quy tụ, để
có thể trở thành một tín ngưỡng thờ cúng thì quy mô của nó phải vượt lên một
ngôi mộ của gia đình, một nghĩa trang của dòng họ Võ , mà phải thực sự là MỘT
NGÔI ĐỀN LINH THIÊNG THỜ VÕ TƯỚNG QUÂN, một vị “Thánh Hộ Quốc - An dân " .
Tuy nhiên xét toàn bộ lịch sử từ xa xưa,
khu vực này là một Tử Huyệt của miền trung, các triều đại trước đều biết vậy
nên tập trung nhiều binh lực để trấn giữ bảo vệ . Ngày nay , cũng cần phải tập
trung nhiều binh lực, phương tiện, vũ khí hiện đại và sự cảnh giác cao độ để bảo
vệ .Một công đôi việc, vừa để trấn giữ Tử Huyệt , đề phòng sự tráo trở của ông
bạn tốt ,vừa để tôn thêm sự linh thiêng của Đền thờ và mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp.dienbatn mong lắm
thay.
dienbatn đã gặp nhiều vị tướng nhưng duy nhất và có lẽ cuối cùng chỉ có
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là có sức quy tụ lòng dân đến như vậy. Ông đã thật sự
là bậc Thánh nhân và nơi ông yên nghỉ cũng phải đúng ý nghĩa của nơi một vị
Thánh nhân trị vì.
3/ KẾT LUẬN VỀ KHU MỘ ĐỊA.
Theo như những phân tích ở phần trên, chúng ta đưa ra kết luận về khu mộ
địa chuẩn bị táng Đại tướng Võ Nguyên Giáp như sau :
Khu mộ địa này hình thế hiểm trở, khí của Long mạch đi ào ạt, dòng Khí
cuồn cuộn chảy , do vậy Đại Long chưa dừng kết Huyệt tại nơi này. Nếu như những
người bình thường táng tại khu vực này, do Sát Khí xung phá, con cháu khó lòng
được yên. Về lịch sử, vùng đất này cũng không hề bình an, trải qua rất nhiều
sóng gió. Hàng năm có hàng chục cơn bão đổ vào đất này, từ trước đến nay, khu vực
này còn là nơi hứng chịu hàng ngàn tấn bom đạn , là nơi chôn dấu rất nhiều mìn
trong các cuộc kháng chiến. Dân cư khu vực này nghèo đói và thưa thớt , cây cối,
đất đai cằn cỗi không có biểu hiện kết Huyệt. Vùng này là một vùng Linh địa, chỉ
giành riêng để thờ phụng Thánh , Thần và những bậc vĩ nhân, anh hùng dân tộc.
Với kinh nghiệm của người xưa, những khu vực Địa linh như thế này , thường
dùng các Đền, Chùa, Đình, Miếu để trấn áp và gìn giữ Long mạch.
Ngày trước , Đại tướng và phu nhân có hiến cúng một quả chuông để tại lầu
chuông trên Núi Thọ gọi là Đại Hồng chung Vũng Chùa :
" Cái Tôi hoàn lại đất Trời.
Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh "
Có lẽ câu này đã ứng nghiệm chằng ?
Từ lý lẽ này, mặc dù khu vực không có kết Huyệt, nhưng ta cũng phải chọn
những phương vị hợp nhất, phân kim điểm hướng tốt nhất để mau chóng kết tụ Linh
Khí về nơi địa Huyệt.
Một thi sĩ Trung Hoa họ Phạm đã viết một bài thơ nói lên thân phận sinh
ra làm một kiếp người của mình để rồi không ăn thì đói, không mặc thì lạnh...
Ông Trời vô cớ sinh ra ta làm gì mà phải sống, phải chết một cách vô nghĩa như
thế này?
Tích ngã vị sinh thời
Minh minh vô sở tri
Thiên Công hốt sinh ngã
Sinh ngã phục hà vi?
Vô y sử ngã hàn
Vô phạn sử ngã cơ
Hoàn nhĩ Thiên sinh ngã
Hoàn ngã vị sinh thời.
Hai câu cuối có thể dịch là:
Trả
Ông Trời cái tôi mà Ông sinh ra.
Trả
lại cho tôi cái thời tôi chưa sinh .
(Cái tôi hoàn lại Đất Trời,
Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sinh),
Nghĩa là nhà thơ không muốn sinh ra làm thân phận vô nghĩa của một kiếp người,
nên chỉ muốn trở về phi hữu. Theo Phật giáo thì nhà thơ này thuộc loại chấp
không hoặc là đoạn kiến xuất phát từ phi hữu ái nên không những không thể thoát
được thân phận làm người mà còn chuốc thêm cái khổ tâm lý nữa (Khổ khổ trong Khổ
đế). Rất nhiều người tuy tu theo Đạo Phật nhưng cũng cầu mong trở về phi hữu,
vì họ hiểu lầm Diệt đế tức hủy diệt tất cả, mà vô tình rơi vàođoạn kiến, khi
không hiểu đúng chân lý vô ngã. Chính cái ta ảo tưởng mới muốn hủy diệt (phi hữu)
hoặc muốn thường hằng (hằng hữu) mà tạo ra phiền não khổđau, luân hồi sinh tử.
Diệt đế chính là diệt cái ta ảo tưởng lăng xăng tạo tác để không phải trở về
phi hữu mà là trở về với thực tánh muôn đời không sinh không diệt của pháp ngay
trong thực tại đang là. ( VIEN MINH HOA
THUONG )
TỔNG KẾT PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH.
Có thể nói, giá trị văn hóa đặc trưng đầu tiên của con người Hà Tĩnh là
hiếu học và học giỏi, có nhiều người đỗ đạt thành danh. Lần theo chiều dài lịch
sử, chúng ta thấy thời nào Hà Tĩnh cũng xuất hiện những anh hùng, chí sĩ, danh
nhân văn hóa. Chỉ tính từ thời Trần đến thời Nguyễn, Hà Tĩnh có 148 vị đại
khoa, trong đó người đỗ Tiến sĩ trẻ nhất, lúc 18 tuổi là Nguyễn Tử Trọng (Hương
Sơn), người đỗ Tiến sĩ cao tuổi nhất, lúc 52 tuổi là Nguyễn Văn Suyền (Thạch
Hà) và người được khắc tên vào bia cuối cùng tại Văn Miếu Quốc Tử giám (bia số
82) là Phan Huy Ôn, năm 1779.
Đặc biệt, Hà Tĩnh có nhiều gia đình, dòng họ có truyền thống học hành
khoa bảng: Hoàng giáp Nguyễn Văn Giai có 13 con trai đều đỗ từ Hương cống trở
lên; cha con Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy đều đỗ Trạng nguyên đời Trần; dòng họ
Nguyễn (Tiên Điền), dòng họ Nguyễn Huy (Trường Lộc) có nhiều người đỗ đạt,
thành danh; Làng Đông Thái (Tùng Ảnh) có gần 1.000 giáo sư, tiến sĩ... Nhiều
tên tuổi người Hà Tĩnh đã làm rạng danh đất nước như: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Huy Tự, Đặng Tất, Đặng Dung, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp, Lê Hữu Trác,
Phan Đình Phùng, Trần Phú, Hà Huy Tập...
Sau Cách mạng tháng Tám 1945 lại nay, Hà Tĩnh có trên 130 giáo sư, trên
500 phó giáo sư và trên 1.500 tiến sĩ, văn nghệ sĩ nổi tiếng làm việc trong và
ngoài nước, chiếm khoảng 11% trí thức bậc cao của cả nước(1). Đây là con số
không nhỏ so với diện tích và dân số của một tỉnh miền Trung nhỏ bé. Trong số
này, nổi lên nhiều tên tuổi lớn trên nhiều lĩnh vực như: Nguyễn Phan Chánh, Điềm
Phùng Thị (lĩnh vực nghệ thuật); Lê Văn Thiêm, Nguyễn Đình Tứ, Phan Đình Diệu,
Đào Vọng Đức, Hà Huy Khoái (lĩnh vực Toán, Lý); Trần Vĩnh Diện (lĩnh vực Hóa học),
Võ Quý, Phan Nguyên Hồng (lĩnh vực Sinh học); Phạm Khắc Quảng, Lê Kinh Duệ, Phạm
Song, Nguyễn Viết Tiến (lĩnh vực Y học), Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn
(lĩnh vực Sử học); Nguyễn Đổng Chi, Lê Khả Kế, Xuân Diệu, Huy Cận, Hà Xuân Trường,
Hoàng Trinh, Vũ Ngọc Khánh, Hoàng Ngọc Hiến (lĩnh vực văn hóa, văn học)… Những
tên tuổi này đã đúc kết được những phẩm chất cơ bản làm nên cốt cách hiếu học,
cần cù, có chí tiến thủ và ý thức lập nghiệp của người Hà Tĩnh. Truyền thống đó
đang được tiếp tục phát triển trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Nếu lấy khoa bảng làm mốc thì Diễn, Hoan chậm hơn Thăng Long và phụ cận
tới 200 năm. (Người đỗ đại khoa đầu tiên ở châu Diễn là Trạng nguyên Bạch Liêu khoa Bính Dần đời Trần Thánh Tông (1266).
Người đầu tiên đỗ Trạng nguyên ở châu Hoan là Đào Tiêu, khoa Ất Hợi đời Trần Thánh Tông (1275) và Trạng nguyên Sử Hy Nhan đỗ khoa Quý Mão đời Trần Dụ
Tông (1363). Như vậy, cuối đời Trần, vùng Bắc Hà Tĩnh bây giờ, chủ yếu là hai
huyện Chi La, Phi Lộc, việc học đã khá thịnh.
( Bạch Liêu (1263-1315) người làng
Nguyễn Xá, châu Diễn; sau khi đỗ không làm quan, chỉ là môn khách của Thượng tướng
Trần Quang Khải. Các sách chép về sau ông về sống và dạy học ở Nghĩa Lư, Hải
Đông (Hải Dương). Theo chúng tôi thì ông về xã Nghĩa Liệt, nay là xã Hưng Phú,
huyện Hưng Nguyên (Nghệ An). Hiện ở làng Vệ Chính, Hưng Phú có nhà thờ ông và
các chi họ Bạch ở Hưng Lam (Kẻ Sét, Nghĩa Liệt cũ), Tường Xá và một số xã ở Đức
Thọ. là dòng dõi của ông. Mộ ông táng dưới núi Hồng Lĩnh, địa phận xã Thiên Lộc,
huyện Can Lộc, được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1993.)
Người Hà Tĩnh cũng giàu truyền thống yêu quê hương, đất nước, kiên cường,
dũng cảm trong chống giặc ngoại xâm, tạo nên bản sắc văn hóa vùng miền rất rõ
nét.
Sinh ra trên vùng đất được mệnh danh là “chảo lửa, túi mưa”, thiên nhiên
khắc nghiệt, luôn phải đối mặt với thiên tai, địch họa nên người Hà Tĩnh bản
tính cần kiệm, cương trực, chân tình, chung thủy. Cố học giả Đặng Thai Mai từng
đúc rút về người Nghệ Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh): “Can đảm đến sơ suất, cần cù đến
liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan và tằn tiện đến… cá gỗ”.
Địa hình phức tạp, đất đai phần nhiều rắn, xấu, ít bằng phẳng, ruộng núi
thì cao khô, ruộng gần biển thì chua mặn, bạc màu, mùa nắng thường đại hạn, mùa
mưa thường bão lụt nên người Hà Tĩnh thường phải sống cần kiệm mới có cái ăn,
cái mặc. Người Hà Tĩnh thường dạy con cháu yêu lao động, không được “siêng ăn,
nhác làm”; phải tiết kiệm, “được mùa chớ phụ ngô khoai”; phải biết “tích cốc
phòng cơ, tích y phòng hàn”. Cần kiệm đã trở thành một tập quán, thói quen, một
tính cách của người Hà Tĩnh.
Cũng do yếu tố địa văn hóa đặc trưng nên người Hà Tĩnh cương trực, thẳng
thắn và cởi mở, biểu lộ tình cảm chân tình, không khách sáo; thủy chung, trọn
tình, trọn nghĩa trong kết giao. Thẳng, thật, thô mộc nhiều khi đến vụng về, dễ
mất lòng người nhưng bù lại là bản tính chân tình, có trước, có sau của người
Hà Tĩnh lại quy tụ được lòng người. Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tế
cũng như kho tàng văn hóa, văn nghệ của người Hà Tĩnh trong tục ngữ, ca dao:
“Đã thương thì thương cho chắc, đã trục trặc thì trục trặc cho luôn”, “Mất lòng
trước, được lòng sau”, “Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau”… Điều đó cũng
chính là sự lý giải vì sao rất nhiều văn nghệ sỹ nổi tiếng trong cả nước sáng
tác nhiều tác phẩm nổi tiếng, tràn đầy tình cảm về vùng đất này. (Baohatinh.vn)
“Cộc cằn, thô bạo, coi trời bằng vung, ngạo mạn và thực dụng đến sững sờ
là chất Nghệ. Bởi khổ quá, nghèo quá nên cái gì cũng phải tính, phải đong.
Trong con mắt của đa số dân Nghệ, bầu trời nhỏ hơn cái lá rau má rất nhiều. Chẳng
hạn, ngồi ở quán uống nước chè chát nhưng bàn về nhân sự của chính phủ Mỹ cứ
như là chuyện ở trong nhà. Bạn đừng vội nhảy dựng lên. Hãy ngẫm mà xem nó đúng
đến mức nào? Ngay cả tôi, mặc dù, biết mình sai nhưng cũng đã không ít lần qua
cầu rút ván. Tôi đã từng kể một câu chuyện điển hình trên mục Chào buổi sáng của
báo Thanh Niên tháng Sáu mới đây trong bài Mẹ, bố, con và mùa thi. Chuyện nói rằng
tôi thi trượt tốt nghiệp, may nhờ có Thầy Nguyễn Tài Đại, Trưởng Ty Giáo dục
Nghệ An xét khả năng học văn của tôi nên cho đỗ đặc cách. Ơn Thầy chẳng bao giờ
tôi quên nhưng cho đến nay chưa một lần nói một câu cảm ơn thầy! Tất nhiên, sẽ
có nhiều người Nghệ không tệ như tôi bởi ở đâu cũng có người tốt, kẻ xấu nhưng
đây là tôi muốn nói đến cái đặc trưng, cái phổ biến nhiều hơn. Có những câu tục
ngữ, thành ngữ biện giải cho tôi chuyện này (những câu Nghệ 100%). “Qua truông
trật lọ cho khái”, “Nốt mưa đấy (đái) ra mấn”, “Khun như troi” (khôn như con
giòi), “Béo như con trân mấn” (Béo như con rận trong cạp váy), “Cả tỷ”, “Phút mốt”,
“Ngứt trôốc cho chó ăn chừ”…
Một trong những thói xấu điển hình của người Nghệ là bảo thủ đến mức hơn
cả gàn. Cái hay của nó là đúng sai rõ ràng, chính kiến hay tà kiến, chính tâm
hay tà tâm đều có quan điểm rạch ròi. Đã không thích, không ưng là “nói ngay trửa
mặt” chứ không biết che dấu, vòng vo như người nơi khác. Cái cứng nhắc trong
quan niệm đã làm cho người Nghệ bị thua thiệt khá nhiều trong cuộc đời. Điều lạ
là mặc dù biết rất rõ nhưng chẳng ai thay đổi được. Tôi lấy ví dụ. Nước chấm để
chấm bánh mướt của xứ Nghệ là ngon “nhất làng”. Bởi vì nó biết kết hợp giữa
thái dương (ớt cay) với thái âm (chanh) trong cái hành thổ (nước mắm ngon) tạo
nên vị ngọt đặc biệt đậm đà. Mọi cách pha chế như bỏ đường thêm vào như ở trong
nam đều dở. Giá như người xứ Nghệ biết sống trên đời giống như làm nước chấm
thì hay biết bao nhiêu!...
Chuyện cái xấu và cái tốt là chuyện của muôn đời. Có lẽ mỗi dân tộc bên
cạnh một cái tốt bao giờ cũng đi kèm một thói xấu. Có phải vì thế chăng mà bước
chân Nghệ từ bao đời nay cứ luôn chống chếnh, nhọc nhằn. Quả là đáng lạ, đáng
phải ngẫm suy nơi mảnh đất tài năng nhiều như thế, thiên linh, địa kiệt, nhân
hùng như thế mà bao lâu rồi chưa thể thoát khỏi đói nghèo. Ước gì chúng ta đồng
lòng hơn một chút, uyển chuyển thêm chút nữa và luôn nghĩ đến bản sắc đặc biệt
của giống nòi để luôn tự tin hơn, sáng tạo và mạnh mẽ hơn thì chắc hẳn sẽ tuyệt
vời hơn biết bao nhiêu…” (http://vusta.vn/)
“Thẳng tính, không lươn lẹo úp mở chi hết, nhưng mà nhiều lúc lại thẳng
quá đâm ra thô.
- Có tính thần quê hương cao, luôn hướng về cội nguồn và chú ý gìn giữ
truyền thống, nhưng nhiều lúc thái quá trở thành cục bộ, địa phương, thiếu dân
chủ.
- Tính độc lập cao, luôn tự thân vận động, vượt khó, nhưng cũng nhiều
lúc thái quá trở thành thiếu tinh thần đoàn kết.
- Giáo điều sách vở, rất nặng về hình thức, tư duy xơ cứng
- Bảo thủ
- Tính tự ái, cái tôi quá to
Nói đến người Nghệ Tĩnh thì có lẽ phải nói ngay đến chuyện học hành. Là
cư dân của mảnh đất khô cằn và nghèo nàn nên tất cả mọi hi vọng thường đặt vào
con đường học vấn. Học vấn ở Nghệ Tĩnh thường được nâng lên mức hàng đầu khi đánh
giá tiêu chí thành công của con người. Khác với một số nơi khác, người Nghệ
Tĩnh khoe khoang không phải là có bao nhiêu nhà lầu xe hơi hay chức trọng quyền
cao mà chỉ là nhà có mấy đứa con đi đại học. Nhà càng nghèo mà có nhiều con đi
đại học thì lại càng khiến cho thiên hạ lác mắt và ngả mũ kính phục. Do cái sự
trọng học đến mức cực đoan nên nghề giáo dục có lẽ là danh giá nhất ở xứ này. Ở
Nghệ Tĩnh, từ nông thôn cho đến thành thị, một ông giáo khổ thường được tôn trọng
hơn là một tay thương gia lắm tiền nhiều của (trớ trêu thay, ông giáo chỉ có thể
học hết bậc trung cấp 10+2 và gõ đầu lũ trẻ mũi nước tèm lem, trong khi đó nhà
doanh nhân có thể có cả mảnh bằng MBA trong tay). Cái chất gàn của "ông đồ
Nghệ" có tài nhưng bất đắc chí thì đã nổi danh toàn cõi từ muôn đời nay.
Người Nghệ Tĩnh tính khí hiền lành nhưng cộc cằn, nhẫn nhịn nhưng cũng rất
dễ nổi đoá. Đặc biệt, ngwưòi NT thường rất dị ứng với việc bị ngoại bang sai bảo.
Đặc điểm này đã được các nhà cầm quyền nước Việt từ cổ chí kim khai thác triệt
để. Vua Trần đã rung đùi ngâm thơ:
Cối Kê việc(chuyện) cũ người nên nhớ
Hoan Diễn còn kia chục vạn quân
Thực là vô lễ và bất kính với những người con trên mọi miền Tổ quốc đã
ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống ngoại bang Pháp, Mĩ, Căm bốt, Tàu nhưng
thiết tưỏng cũng nên trích một câu vè nổi tiếng giữa lính cựu Bắc Việt:
Nam (Định) chuồn, Hà (Nội) trốn, Thái Bình
quay
Còn anh Nghệ Tĩnh quyết ra tay...
Maú nhuộm 30-31 tưởng cũng là một biểu tượng đặc trưng cho cái tính quật
cường pha lẫn lì lợm và hoang dã của người Nghệ Tĩnh.
Một đặc điểm dễ nhận thấy khác của dân Nghệ là tính đoàn kết địa phương
đến mức cực đoan, trở thành cục bộ. Anh chị em nào học đại học ở Hà Nội những
năm 96,97 trở về trước hẳn còn nhớ dân sinh viên Nghệ quậy cỡ nào và dây dưa với
một chú sv Nghệ Tĩnh nguy hiểm ra sao; có thể dẫn đến việc cả trăm sv NT từ nhiều
trường đổ đến để săn lùng một vài nhóm sv đối đầu khác tỉnh. Do đó, tỉ lệ sv NT
bị đuổi học luôn đứng đầu các trường ở HN. Tôi đã từng chứng kiên khoảng một
trăm sv NT (có rất nhiều nữ mới ghê) hò hét đuổi đánh ầm ĩ sv một tỉnh miền Bắc
(cũng có vẻ thứ dữ), náo loạn cả trường ĐHKT vào năm 1995. Thậm chí công an quận
cũng phải bó tay trước những trận mưa chai lọ, gạch đá ào ào. Trật tự chỉ được
vãn hồi khi công an thành phố vào cuộc với dùi cui cao su quất thẳng cánh. Sau
đợt đó cũng có non chục chú về quê ôn thi đại học lại, trong đó có cả hai thằng
bạn của tôi. Một bac già lấp ló sau tường xem và chỉ chép miệng: "Nghệ An
Xô viết vẫn là Nghệ An". Kể cũng xấu hổ phần nào.
Cái bệnh cục bộ này tưỏng chỉ ở trong nước hoá ra ra nước ngoài vẫn cứ
thế. Còn nhớ báo An Ninh Thế Giới cỡ năm 98-99 có đăng một bài về chuyện
"chiến đấu" giữa "Quân Khu 4-NT" với liên quân Hà Nam Ninh,
"quân khu Hải Phòng" và "quân khu Thủ đô" trên đất Đức. Tay
nhà báo cũng có chút tài múa bút đã miêu tả những trận thư hùng dành lãnh địa
và mối bán hàng giữa dân xa xứ NT và một "liên quân miền Băc" hùng hậu
mà kết quả là người tám lạng kẻ nửa cân. "Đơn độc giữa bầy sói" thế
mà vẫn tranh giành quyền bá được, đúng là cũng phải dành cho người xứ Nghệ một
sự kính phục.
Điều kì lạ là khi ra khỏi quê cha đất tổ người Nghệ Tĩnh thương nhau thế
nào thì ở trong tỉnh lại choành choẹ nhau thế vậy. Nói một cách thẳng thắn là
những người NT có tài thường gặp rất nhiều khó khăn khi làm việc ở quê nhà. Điều
này giả thích tại sao có rất nhiều ngưòi NT thành danh ở mọi lĩnh vực mà lại ở
HN, SG hay các thành phố khác. Nếu có dịp hỏi, tôi chắc rằng rất nhiều trong số
họ sẽ kể về những bức xúc gặp phải khi còn ở quê, cái lí do chính khiến họ ra
đi, và do đó thành công ở nơi khác.
Trong số những người Nghệ Tĩnh đọc những dòng này, có ai không đồng quan
điểm với tôi?
(http://nghe-online.org/forum/showthread.php?t=313&page=2)
“Ở một miền nào khác, vẫn có từng nhân vật này, và là nhân vật có cuộc sống
độc lập, riêng nhau. Người xứ Nghệ là cả
ba nhân vật hòa lại. Trong hoàn cảnh nào đó, có thể nhân vật này vươn lên vai
trò chủ thể, nhưng rồi vẫn có khoảnh khắc hay thời gian bất chợt, những nét của
hai nhân vật kia lại xuất hiện, hòa đồng. Ba nhân vật: Một kẻ bình dân khốn chạc,
một người chữ nghĩa văn chương và một chiến sỹ tiên phong cách mạng. Cả ba đều
có sẵn trong một con người xứ Nghệ, suốt cả một quá trình từ trước đến nay. Ba
nhân vật và bốn đặc điểm chung nhau, dù ở nhân vật nào cũng đậm đà dấu ấn! Dấu ấn
ấy khi thì hiển hiện ở một góc cá tính, khi thì sâu lắng ở một cử chỉ nghĩa
tình, khi thì bền bỉ ở một suy nghĩ hành động, khi lại độc đáo đến ngỡ ngàng ở
một nét phong cách hay hay: Đó là Cái chất lý tưởng trong tâm hồn, sự trung
kiên trong bản chất, sự khắc khổ trong sinh hoạt, sự cứng cỏi trong giao lưu.
Ông quan hay nhà nho, kẻ giàu hay kẻ nghèo, người sinh hoạt bình thường hay người
suốt đời hy sinh phấn đấu trên đất xứ Nghệ Folklore (và xứ Nghệ nói chung cũng
đều mang theo trong mình những đặc điểm ấy) ( http://vanhoanghean.com.vn).
Riêng với dienbatn, qua hơn 20 năm lăn lộn điền dã nơi này, có thể nói
là thuộc đến từng thửa ruộng, dienbatn luôn trân trọng và yêu quý những người
dân nơi này, yêu quý tính cách của họ. dienbatn đã từng chứng kiến những người
cha tại Hà Tĩnh nhà rất nghèo, đã phải đem cầm sổ hưu hay sổ thương binh của
mình để lấy tiền cho con vào Đại học. Cũng đã từng chứng kiến cảnh ngày Rằm
tháng Giêng ngoài đồng vui như lễ hội, xe 80 biển xanh đỗ la liệt. Ngày này là
ngày giỗ Tổ tất cả các dòng họ của Hà Tĩnh. ( dienbatn cũng không biết vì sao ?
).
Tại Đức Thọ, đặc biệt Phụ nữ rất đẹp và có tài , từng giúp cho các đức
ông chồng thành đạt , thăng tiến trên đường công danh. Phụ nữ ở đây đa phần
mình dây , da trắng , tóc dài , nói tiếng rất dễ nghe , dễ cảm. Ở đây có câu :
" Vợ ngoan lo Quan cho chồng ". Đằng sau sự thành công của các Danh
nhân xuất phát từ đất này , đều có công không nhỏ của những người Phụ nữ .
Dienbatn đã biết bao lần ngồi xem các O, các mợ ngồi đãi hến sông La,
con hến nhỏ xíu mà tạo nên những món ăn tuyệt vời.
Với những người Hà Tĩnh : Lúc trẻ thì cố gắng nhịn ăn , nhịn mặc lo cho
con cháu học hành , đỗ đạt . Lúc trung niên đi tứ xứ về thì cố gắng xây được
cái nhà khang trang. Lúc về già thì lo việc mồ mả, Từ đường và viết Gia phả.
Không một nơi nào trên đất Việt này lại chuộng các Thày Địa lý như ở Hà
Tĩnh. Ngày xưa, các Thày đồ Nho tại đây rất giỏi về Nho – Y – Lý- Số. Sau cải
cách ruộng đất, rất nhiều Thày đồ Nho bị
mang ra đấu tố, bắn giết. hầu như toàn bộ sách vở về Nho – Y – Lý- Số đều bị tịch
thu đốt vì bị coi là tác phẩm của Phong kiến thối nát, của văn hóa phản động.
Hiện nay tại Hà Tĩnh và cũng là tại cả nước Việt này, đều gặp tình trạng khủng
hoảng thiếu những người học Nho – Y – Lý- Số giỏi. Một phần lớp già cũ đã bị mất
đi, sách vở về Nho – Y – Lý- Số đều bị tịch thu đốt, một phần lớp trẻ hiện nay
chưa đủ thời gian đọc sách, chiêm nghiệm và điền dã. Để có một nhà Địa lý có hiểu
biết tạm được , cần phải trải qua trên 50 năm liên tục, chăm chỉ, thậm chí chấp
nhận nghèo khổ, điên dồ đọc sách, chiêm nghiệm và điền dã. Những cuốn sách quý
ngày xưa đã bị đốt, những cuốn sách mới in xuất bản bây giờ toàn sao chép , chắp
vá lung tung. Đọc những cuốn sách đó không bị Tẩu hỏa nhập ma mới là lạ. Nhưng
cái khó nhất trong khi học Địa lý Âm trạch là những khẩu quyết , cần phải có
Thày giỏi chỉ dẫn từ ly từng tý một . Sai một ly – Đi một dặm. Và cái quan trọng
nhất là do không được chỉ dẫn cặn kẽ nên khi tác nghiệp dễ phạm sai lầm .” Nhất
nhật vi sư – Tam niên khất thực “. Làm thày Địa lý Âm trạch vô cùng khó khăn ,
cực khổ. Nếu không kỷ và hiểu biết thì một ngày làm Thày, ba năm con cháu đi ăn
mày. Âu cũng là cái NGHIỆP.
Trong loạt bài viết này, chủ yếu là tư liệu sưu tầm được bởi rất nhiều
nguồn, nhiều chỗ lâu quá quên không ghi nguồn.Dienbatn mong các vị có bài chép
trong loạt bài này chưa ghi nguồn lượng thứ.Thân ái, dienbatn trong mùa Covis
Vũ Hán.
PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 34.
PHẦN III . HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN.
PHẦN IV. PHONG THỦY VÀ DANH NHÂN HUYỆN CAN LỘC.
Thạch Hà là một huyện nằm ở trung
tâm của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.
Huyện có địa giới hành chính:
Phía Đông giáp biển Đông.
Phía Tây giáp huyện Hương Khê
Phía Nam giáp huyện Cẩm Xuyên
Phía Bắc giáp huyện Lộc Hà, Tây Bắc giáp huyện Can Lộc
Thành phố Hà Tĩnh nằm xen giữa huyện Thạch Hà, chia huyện thành hai nửa
phía Tây và phía Đông của thành phố.
Địa hình huyện cơ bản là đồng bằng duyên hải, đất phù sa, đất cát ven biển.
Các sông ngòi lớn là sông Nghèn, sông Rào Cái đổ ra Cửa Sót, hồ Kẻ Gỗ nằm ở
phía Tây Nam huyện. Thạch Hà có trữ lượng sắt lớn tại mỏ sắt Thạch Khê.
Phía Tây, liền với vùng núi Hương Khê là dải núi đồi thấp, rìa ngoài của
rặng Trường Sơn Bắc, kéo dài 24 km từ động Sơn Mao (Thạch Ngọc) đến ngọn Báu
Đài (Thạch Lưu), Nhật Lệ (Thạch Điền). Vùng bán sơn địa này rộng khoảng 11000 –
12000 ha chiếm 25% diện tích toàn huyện (Theo tài liệu điều tra của Tổng cục Thủy
sản). Các núi đều ở độ cao trung bình 200 – 250m, trừ ngọn Nhật Lệ (416m). Phía
Đông huyện có nhiều núi nhỏ, thấp và dãy Nam Giới với ngọn Quỳnh Sơn (373m) vốn
là những hòn đảo trong vũng biển xưa. Đồng bằng Thạch Hà có diện tích khoảng
29000ha, trong đó có khoảng 13000ha đất thịt và 10000ha đất cát pha. Ven biển
có khoảng 6000ha, chiếm 12,5% diện tích, trong đó có khoảng 1000ha là núi đá,
còn lại là cát biển (TLĐD). Do cấu tạo bằng phù sa núi và cát biển, đồng điền
tương đối bằng phẳng nhưng ít màu mỡ.
Thạch Hà có mạng lưới sông ngòi khá dày, 10 km/1 km². Tổng lưu vực hứng
nước rộng gần 800 km². Các sông suối, trong đó có ba sông chính (sông Dà – Hà
Hoàng, sông Cày, sông Rào Cấy) mỗi năm đổ ra cửa Sót 36 – 40 triệu m3 nước và 7
vạn tấn bùn, cát. Bờ biển dài khoảng 20 km với tổng diện tích vùng đặc quyền
kinh tế là 3310 km² (TLĐD).
Thạch Hà xưa nay vẫn là một huyện nông nghiệp. Hiện toàn huyện có
13.757,33 hecta đất nông nghiệp; 8.315,39 hecta đất lâm nghiệp; 815,56 hecta đất
nuôi trồng thủy sản,; 84,3 ha đất làm muối; 5,11 ha đất nông nghiệp khác.
2/VĂN HÓA.
Làng Hà Hoàng, tổng Thượng Thất, huyện Thạch Hà, phủ Hà
Hoa, trấn Nghệ An (nay là xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) là quê
hương của dòng họ Vũ Tá nổi tiếng đời
nhà Hậu Lê, với các danh tướng: Vũ Tá Đức,
Vũ Tá Kiên, Vũ Tá Sát, Vũ Tá Lý, Vũ Tá Dao...
Làng Phong Phú, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay là xã Thạch
Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) quê hương của Đông cung tùy giảng thị nội …Trương Quốc Kỳ, thi đỗ đầu hương cống
Khoa thi Quý Dậu (1753). Ông được vua Lê Hiển Tông trao trọng trách dạy Thái tử
Lê Duy Vỹ, cũng đồng thời là ông nội Đông Các Đại học sĩ Trương Quốc Dụng. Thị
độc học sĩ Trương Quốc Bảo, cha của Đông các Trương Quốc Dụng, Cử nhân quan chủ sự Trương Quốc Quán (con Trương
Quốc Dụng), Tiến sĩ Thừa hoa sứ Nguyễn
Tôn Tây, Phó bảng Bùi Thố, võ tướng
Dương Khuông... Nơi đây đã một thời
có giọng hò điệu ví của thôn Nam Khê làm nức lòng người, được Huy chương vàng
giải văn nghệ quần chúng tổ chức tại Hà Nội.
Thạch Hà cũng là quê hương của Phan Liêu; Tiến sĩ Trần Danh Tố (triều Hậu Lê); Trần
Danh Bính; Quốc tử giám Tế tửu Phan Ứng
Toản (1446-1515); Thượng thư Bộ Binh kiêm Hàn lâm viện Học sĩ Nguyễn Hộc (1412-?) Giám sát Ngự sử Trần Sảnh (1431-?);; anh hùng Lý Tự Trọng.
Xã Thạch Hội có làng nghề trống Bắc Thai lâu đời, buôn
bán trống khắp các tỉnh thành miền trung và nghề nấu rượu truyền thống.
Ngày nay có: Trung tướng Phạm Văn
Long, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam; Trung tướng,
PGS, TS Trần Đình Nhã, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội; Thiếu tướng Hồ Trọng Ngũ, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng An ninh của Quốc hội;
Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tân, Đại biểu
Quốc hội Khoá 12, Giám đốc Công an Hà Tĩnh (2000 - 2013), trung tướng Trần Xuân Ninh quê quán: xã Thạch Đài;
giám đốc học viện lục quân Đà Lạt.
III/ ĐÈO NGANG.
Đèo ngang
xưa..
Toàn cảnh
Đèo Ngang nay..
Đèo Ngang nằm trên quốc lộ 1A ở ranh giới xã Kỳ Nam huyện Kỳ Anh tỉnh Hà
Tĩnh và xã Quảng Đông huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, trên dãy Hoành Sơn .Đèo
Ngang là một thắng cảnh của miền Trung Việt Nam, nổi tiếng qua bài thơ Qua Đèo
Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.Từ năm 2004 Hầm đường bộ Đèo Ngang được xây dựng,
thay thế đoạn đường đèo vượt núi Hoành Sơn.
Hoành Sơn là đoạn dãy Trường Sơn chạy ngang ra biển Đông. Đèo dài 6 km,
đỉnh cao khoảng 250 m (750 ft), phần đất phía Quảng Bình (tức phần phía Nam)
thuộc xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, phần đất phía Hà Tĩnh (tức phần phía Bắc)
thuộc xã Kỳ Nam,thị xã Kỳ Anh. Đèo Ngang cách thị xã Ba Đồn 24 km, cách bờ sông
Gianh (một giới tuyến Bắc-Nam khác trong lịch sử Việt Nam về sau này) 27 km,
cách thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình 80 km về phía Bắc (Đồng Hới ở phía Nam
đèo Ngang), cách thành phố Hà Tĩnh tỉnh Hà Tĩnh 75 km về phía Nam (Hà Tĩnh ở
phía Bắc đèo Ngang). Mới đây, Đèo Ngang được nhà nước Việt Nam lấy làm ranh giới
giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Còn xưa kia, Đèo Ngang là ranh giới giữa Đại
Việt (và trước đó là Đại Cồ Việt, nhà Tiền Lê đào sông Nhà Lê nối từ Hoa Lư tới
Đèo Ngang) với Chiêm Thành, từ sau khi người Việt giành được độc lập (năm 939,
thời nhà Ngô) và trước thời kỳ Nam tiến của người Việt (năm 1069, thời nhà Lý).
Thời Pháp thuộc đèo có tên trên bản đồ là Porte d'Annam.
Ảnh Hoàng
Sơn Quan xưa.
Hoành Sơn
Quan nay.
Hoành Sơn
Quan nằm tại thôn Vĩnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Đây được biết tới là một điểm du lịch lịch sử nằm trên đỉnh đèo Ngang. Hoành
Sơn Quan xây dựng từ năm 1833, trải qua hàng trăm năm lịch sử trở thành những dấu
ấn ghi lại về những bước thăng trầm sử ký Việt Nam.
Năm 1833, vua Minh Mạng cho xây Hoành Sơn Quan (cửa Hoành Sơn) ở đỉnh
Đèo Ngang, cao hơn 4m, hai bên có thành đăng dài hơn 30m, ở trên cửa đắp nổi ba
chữ Hoành Sơn Quan. Hai phía Hoành Sơn Quan đào núi thành 1000 bậc. Nay Hoành
Sơn Quan vẫn còn, không nguyên vẹn nhưng vẫn uy nghi, phong trần nơi đầu núi
góc biển.
Đứng trên đỉnh đèo Ngang phóng mắt ra tầm xa nhìn con đèo uốn lượn quanh
núi đồi, ngắm trọn núi rừng trên dãy Hoành Sơn, nơi con đèo vắt ngang, và cũng
là một nhánh của dãy Trường Sơn hướng về phía biển Đông. Phía xa xa biển cả là
vịnh Hòn La, điểm du lịch sinh thái biển rất nổi tiếng.
Phong cảnh
nhìn từ Đèo Ngang xưa.
Nhánh núi
của dãy Trường Sơn đâm ra biển.
Phong cảnh
nhìn từ Hoành Sơn Quan thời xưa.
Vẻ đẹp Đèo
Ngang là nguồn cảm hứng bất tận của bao thi nhân.
(công ty
du lịch Thám Hiểm Phong Nha.).
“Sách Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn), quyển 4 - Đạo Hà
Tĩnh chép về Hoành Sơn và đèo Ngang như sau: “Hoành Sơn: Ở địa phận xã Hoằng
Lễ về phía nam huyện Kỳ Anh, là chỗ phân chia địa giới giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và
Quảng Bình, một dải núi liên tiếp chắn ngang đến biển; phía Đông có núi Đao, đường
quan đi qua trên núi, xưa là chỗ phân định địa giới giữa Giao Chỉ và Chiêm
Thành, ở đây có thành bằng đá”.
“Đường quan đi trên núi” như trong sách chép chính là đèo Ngang. Con đèo
này có chiều dài 6km, cao 256m so với mực nước biển, đường dốc quanh co, hiểm
trở, rất khó đi. Khởi nguyên, đèo Ngang qua dãy Hoành Sơn được xây dựng năm
992, dưới sự chỉ đạo của Ngô Tử An, một quan đại thần thời tiền Lê. Trong lịch
sử, đèo Ngang từng nhiều lần là nơi giao chiến giữa hai quốc gia Đại Việt và
Chăm Pa.
Đèo Ngang và dãy Hoành Sơn còn gắn liền với việc tiên chúa Nguyễn Hoàng
nghe lời sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, vượt dãy Hoành Sơn vào trấn
thủ Thuận Hóa (năm 1558), mở mang bờ cõi và lập nên nhà Nguyễn sau này. Trong
thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh giữa Đàng Ngoài - Đàng Trong (1570 - 1786),
sông Gianh thuộc Quảng Bình là ranh giới phân chia Nam - Bắc, nhưng chốt án ngữ
quan trọng của quân Trịnh ở bờ bắc chính là đèo Ngang.
Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lập nên triều Nguyễn và đóng đô ở Phú Xuân
(Huế) thì đèo Ngang với dãy Hoành Sơn vẫn là một điểm trấn thủ quan trọng ở mặt
Bắc. Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Vua cho xây Hoành Sơn quan trên đỉnh đèo
Ngang. Cùng với Hải Vân quan ở mặt Nam (trên đèo Hải Vân - ranh giới giữa Huế
và Đà Nẵng) và Trấn Hải thành ở mặt Đông (cửa biển Thuận An), Hoành Sơn quan ở
mặt Bắc là biểu tượng của cửa ngõ vào đất Kinh sư. Năm Mậu Tuất, Minh Mạng thứ
19 (1838), Vua cho đúc 9 đỉnh đồng lớn (cửu đỉnh) đặt ở Đại Nội (Huế), hình tượng
Hoành Sơn - đèo Ngang được chọn khắc vào “Huyền đỉnh”.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở thế kỷ XX, đèo Ngang là trọng điểm
đánh phá ác liệt. Đây là nơi chứng kiến bao cuộc chiến đấu anh dũng, kiên cường
của lực lượng thanh niên xung phong và bộ đội công binh ngày đêm bám trụ để giữ
cho mạch máu giao thông thông suốt. Mặc dù có lịch sử bi hùng nhưng đèo Ngang vẫn
được coi là con đèo đậm chất thi ca lãng mạn nhất Việt Nam, là cảm hứng của bao
văn nhân thi sĩ, trong đó có bài thơ Qua đèo Ngang nổi tiếng của Bà huyện Thanh
Quan...”( HÀ THÀNH).
“ Hoành Sơn là biên giới tự nhiên của hai nước Việt – Chiêm xưa, nay là
địa giới hành chính giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đồng thời đó cũng là
ranh giới khí hậu: Hà Tĩnh thuộc khí hậu Bắc, mùa đông có gió mùa Đông Bắc mạnh
còn mùa hè thì gió Lào nóng dữ dội. Lượng mưa ở Hoành Sơn rất lớn, 3000mm/năm
và bão cũng rất nhiều. Trong khi đó, Quảng Bình chỉ cách hơn 10km đã mang rõ đặc
điểm của khí hậu Nam: gió Đông Bắc rất yếu.
Đèo Ngang có khe Đá Bàn (Bàn Thạch) chảy về sườn núi phía Nam vào đất Quảng
Bình. Còn khe Đá Hạt (Hạt Thạch) thì đổ xuống sông Trí, chảy ra cửa Khẩu và chảy
ra biển Đông. Từ khi người Chămpa lập quốc vào khoảng Thế kỷ thứ II, Hoành Sơn
trở thành biên giới tự nhiên hai nước Việt – Chàm và Đèo Ngang là cửa quan hiểm
yếu, là ranh giới giữa hai nước. Người Lâm Ấp lập đồn đắp lũy dọc theo đỉnh núi
dài tới 30km từ Xuân Sơn (Kỳ Lạc) qua Thần Đầu đến Ngưu Sơn (Kỳ Nam bây giờ).
Theo các sách xưa thì “lũy cổ Lâm Ấp” có thể do chúa Chiêm là Phạm Văn xây dựng
vào khoảng những năm 345-357. Về sau, người Chàm, người Việt đều sửa chữa lại,
đến nay vẫn còn nhiều đoạn thành đá cao.
Suốt trong một thời gian dài, người Lâm Ấp – Chiêm Thành thường ra cướp
bóc, bắt người ở vùng Bắc Hoành Sơn. Năm 803, quân Hoàn vương tràn sang đánh đuổi
quân đô hộ nhà Đường, chiếm hai châu Ái Hoan (Thanh Nghệ Tĩnh bây giờ). Đến năm
808, tướng nhà Đường là Trương Chu làm Đô hộ Giao Châu mới đánh đuổi quân Hoàn
vương lùi sâu vào vùng Nam – Ngãi bây giờ. Một thế kỷ sau, khoảng 907-910, người
Chiêm Thành lại lấn sang chiếm đóng từ Đèo Ngang ra đến Nam Giới – Thành
Sơn,thuộc huyện Thạch Hà ngày nay đặt quan cai trị ngót 70 năm, cho đến năm
981, Vua Lê Đại Hành mới đem quân vào giải phóng khu vực này cho nước Việt.
Trong hai cuộc nội chiến dưới triều Lê, Đèo Ngang vẫn là nơi hiểm yếu,
lúc quân Mạc hoặc quân Lê, lúc quân Nguyễn hoặc quân Trịnh chiếm giữ. Từ tháng
5/1648 đến tháng 5/1655, nhà Trịnh lập đồn Hữu trấn dinh (trấn Nghệ An) ở Đèo
Ngang, sai Đông Quận công Lê Hữu Đức và Vũ Lương lĩnh một vạn quân đóng giữ. Đợt
thứ 5 cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài 4 năm (1655-1658), Đèo Ngang là
nơi tranh chấp quyết liệt, có lúc trở thành chiến địa đẫm máu. Mãi đến năm
1661, Dương Quận công Đào Quang Nhiêu làm Trấn thủ Nghệ An đóng ở Dinh Cầu,
trên Đèo Ngang có đồn binh án ngự bảo vệ trấn lỵ từ phía Nam.
Đời Tây Sơn, ở Đèo Ngang có đội quân của Đô đốc Dương Văn Tào đóng giữ.
Triều Nguyễn vẫn đặt đồn phòng thủ kiểm soát người qua lại đường đèo. Năm Quý Tỵ
(1833), Vua Minh Mạng cho xây dựng cửa quan trên đỉnh đèo, gọi là “Hoành Sơn
Quan”. Theo sách “Hà Tĩnh địa dư” thì
cổng cao 10 thước (4m) hai bên có tường trụ dài 75 thước (30m). Nhưng sách “Đại Nam nhất thống chí” lại chép cửa
quan xây dựng bằng đá dài 11 trượng 8 thước (47,2m), cao 5 thước (2m), khoảng
giữa là cửa quan, phía tả và hữu đắp tường dài 75 trượng (300m), cao 4 thước
(1,6m), về mặt tả mặt hữu và mặt hậu tường dài 12 trượng 2 thước (48,8m).
Hiện nay chỉ còn lại cổng chính cao khoảng 4m, còn các bức tường đã bị sụp
đổ. Đường thiên lý đi qua dưới cổng, hai phía ghép đá, phía ngoài vào 980 bậc,
phía trong ra 900 bậc, nay đã bị cây cỏ, đất đá phủ lấp. Đường quốc lộ bây giờ
đi vòng phía dưới, cách Hà Nội 423km. Năm Mậu Tuất, Minh Mạng thứ 19 (1838) đúc
9 đỉnh đồng lớn đặt ở nội thành Huế, hình tượng Hoành Sơn – Đèo Ngang được chọn
khắc vào “Huyền đỉnh”.
Ngót một thế kỷ thời cận hiện đại từ lúc thực dân Pháp xâm lược đất Hà
Tĩnh (1885) cho đến hết thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1975), vùng Đèo
Ngang luôn luôn là “điểm nóng”, là phòng tuyến, là chiến địa của nhân dân ta.
Quả thật thiên nhiên ở đây là một kiệt tác của tạo hóa: Non nước Hoành Sơn cảnh
trí tuyệt vời, hùng vĩ và thơ mộng. Lịch sử cũng để lại dấu ấn đậm nét trên mặt
đất và trong ký ức con người Hà Tĩnh. Từ bên “phế lũy Lâm Ấp” một nghìn sáu
trăm năm tuổi trên đỉnh núi nhìn xuống đám “xóm chài mái lá”, “ruộng lạc triều
dâng” lúc vua Lê Thánh Tông qua đây vào thế kỷ XV, ta sẽ gặp những làng xóm
đông vui, đồng lúa, đồng tôm hứa hẹn và cả một thị tứ Mũi Đao đang hình thành…”
( Trần Hải Hưng ).
Gần ngay chân đèo khoảng 600 m là đền thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh, nằm trong
cụm di tích, danh thắng đèo Ngang. Ðền được dựng từ năm 1557, sau đó bị hư hỏng
nhiều, nay đã được phục hồi theo nguyên mẫu. Cách đèo Ngang khoảng 3 km là Vũng
Chùa - đảo Yến, nơi yên nghỉ của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp , mỗi năm đón cả triệu
lượt người đến dâng hương, viếng thăm.
Người xưa làm rất nhiều thơ ca ngợi cảnh hùng vĩ của Đèo Ngang.
Qua Ninh công lữ hoài cổ.
(Thơ Vũ Tông Phan.)
Nhược tương thử địa phân Nam Bắc,
Hà sự kinh niên động giáp bào?
Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm,
Nhân vi cô lũy diệc đồ lao.
Doanh thâu để sự không di chủng,
Sát phạt dư thanh đái nộ đào.
Vũ trụ như kim quy nhất thống,
Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.
QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA.
(Thơ Vũ Tông Phan.)
Đất này ví thử phân Nam, Bắc
Hà cớ năm dài động kiếm dao?
Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm,
Người xây chiến lũy tổn công lao.
Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ,
Thù hận dư âm rợn sóng đào.
Thiên hạ nay đà quy một mối
Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.
Người dịch: Vũ Thế Khôi..
Bàn Độ Sơn – Nghệ Tĩnh Sơn Thủy vịnh.
(Thơ Dương Thúc Hạp)
“Sơn tòng Vọng Liệu tằng loan hạ,
Địa
thị Kỳ Anh lục thụ đa.
Phiếu
Diếu cao phong lâm cự hải,
Sà
nga liệt bích chướng trường sa”
(Tạm
dịch: Núi non tầng tầng lớp lớp từ Vọng Liệu đi xuống/ Đất Kỳ Anh cây rừng rợp bóng
xanh um/ Những ngọn núi cao chất ngất kéo ra tận biển lớn/ Như những bức thành
chót vót dăng bủa trên bãi cát dài).
IV/VỀ PHONG THỦY CỦA DÃY HOÀNH SƠN.
“Địa hiểm nơi khúc ruột miền Trung. So với những con đèo nổi tiếng khác
trên đất Việt, đèo Ngang được cả huyền sử lẫn chính sử nhiều lần nhắc đến. Có lẽ
là do cảnh đẹp và cái thế đắc địa của con đèo này chăng. Tôi thì vẫn luôn nghĩ
vậy. Theo dòng lịch sử, ngay từ hồi thế kỷ thứ II, khi người Chămpa lập quốc
đèo này đã trở thành biên giới tự nhiên của hai quốc gia Đại Việt và Lâm Ấp. Để
bảo vệ quốc gia của mình, người Chiêm Thành đã không ngừng đắp đồn lũy dọc theo
đỉnh núi, từ Xuân Sơn (Kỳ Lạc) qua Thần Đầu đến Ngưu Sơn (Kỳ Nam), dài khoảng
30 km. Kể từ thời đó cho đến các triều đại phong kiến sau này “Lũy cổ Lâm Ấp”
không ngừng được các thế lực chính trị của người Chăm và người Việt gia tăng củng
cố. Dấu tích của một vùng biên ải ngày ấy bây giờ vẫn còn được hiển hiện qua những
bức tường thành chỗ còn chỗ mất rêu phong còn sót lại trên đèo mặc cho nắng
gió, phong trần nơi đầu non góc bể.
Vương quốc Lâm Ấp một thời thịnh
trị với biết bao dấu tích vàng son đã không ngừng đem quân xâm chiếm, cướp phá
Đại Việt. Khi ấy, đèo Ngang chắc chắc là một nơi giao tranh đầy máu lửa. Thế rồi,
thế gian biến cải. Để bảo vệ sự bình yên của Đại Việt, để tăng cường mối quan hệ
bang giao của hai quốc gia mà những cuộc
Nam chinh và cả những cuộc hôn nhân chính trị (thời Trần) đã không ngừng diễn
ra. Theo đó, biên giới phương Nam của người Việt cũng đã được mở rộng dần xuống
dải đất phương Nam, bằng chứng là châu Ô và châu Lý đã được vua Chiêm là Chế
Mân dâng cho nhà Trần vào hồi thế kỷ XIII, khi được vua Trần gả con gái Trần
Huyền Trân.
Chưa hết, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, để tránh mưu sát của chúa Trịnh,
Nguyễn Hoàng đã nghe theo lời dạy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành sơn
nhất đái, vạn đại dung thân”, nghĩa là: “Một dải núi ngang có thể dung thân
muôn đời được” mà đã nhờ chị xin với Trịnh Kiểm cho mình được vượt đèo Ngang
vào trấn thủ ở Thuận Hóa. Không biết thực hư của giai thoại vừa kể ra sao nhưng
quả thực Nguyễn Hoàng vào trấn thủ ở Thuận Hóa đã tránh được sự tận diệt của
nhà Trịnh, đồng thời cũng bắt đầu mở ra một trang sử mới cho nhà Nguyễn. Kể từ
đây, nếu như sông Gianh trở thành ranh giới của Đàng Trong và Đàng Ngoài thì
đèo Ngang đã trở thành vùng đất tiền đồn của nhà Trịnh. Và gần đây nhất, thời
chiến tranh chống Mỹ, vùng đất đèo Ngang cũng đã trở thành một trong những
phòng tuyến bị kẻ thù đánh phá ác liệt. Một lần nữa mảnh đấy hữu tình ấy đã trở
thành chiến địa của quân dân ta. Cái chiến địa ấy cũng đã một thời làm cho nhà
thơ Lê Anh Xuân phải khắc khoải, lo lắng: “Tôi đau đớn Mỹ dội bom tàn phá/ Tất
cả những gì tôi quí, tôi yêu/ Dù đèo Ngang tôi chưa từng đến/ Thơ bà huyện
Thanh Quan tôi đã thuộc lòng/ Hoa lá cỏ cây có bị bom cháy xém?/ Mái nhà kia dưới
núi có còn chăng?” …
Thế đấy, cái địa thế hiểm yếu của
đèo Ngang đã khiến cho vùng đất này bao đời nay là một địa bàn chiến lược quan
trọng của đất nước, từ các triều đại phong kiến cho đến tận ngày nay. Chẳng thế
mà ngay từ thời xa xưa, các thế lực chính trị của người Chăm hay người Việt đều
rất quan tâm, coi trọng cái vị trí chiến lược này. Họ đã từng cho xây đắp những
chiến lũy và bày đặt đồn binh trên đỉnh đèo để kiểm soát và ngăn chặn binh biến.
Có lẽ vậy, năm 1842, khi ngự giá Bắc tuần, vua Thiệu Trị đã khắc thơ vào đá ca
ngợi Hoành Sơn Quan:
“Gìn Nam giữ Bắc chia nghiêm cửa,
Suốt
cổ về kim chốt chặt đàng”.
Và rồi đến năm 1838, vua Minh Mạng cho đúc chín đỉnh đồng để đặt trong nội
thành Huế, nhà vua vẫn không quên cho khắc cảnh vật của Hoành Sơn – Đèo Ngang
vào Huyền đỉnh. Bây giờ núi sông đã liền một dải từ địa đầu Lũng Cú cho tới
chót mũi Cà Mau nhưng chiến lũy và Hoành Sơn Quan vẫn còn đó trên đèo như thể
là một minh chứng cho cái vị thế địa hiểm của con đèo trong suốt một trường kỳ
khói lửa binh đao. Bây giờ, cái vai trò vùng biên ải hay tiền đồn của đèo Ngang
không còn nữa. Nó đã được hoán đổi thành vai trò cầu nối. Đèo Ngang (hay hầm đường
bộ xuyên đèo Ngang) đã trở thành một chiếc cầu nối giữa hai vùng đất Bắc - Nam.
Chiếc cầu nối ấy có người ví như chiếc đòn gánh để gánh hai đầu đất nước. Một
bên nạm Bắc là “Hà Tĩnh mình thương” - vùng đất địa linh quê hương của Nguyễn
Du và một bên mạn Nam là “Quảng Bình quê ta ơi” có biển Vũng Chùa đang an giấc
ngàn thu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi trăm tuổi trở về với đất mẹ. Chỉ lược qua vậy thôi, cũng đủ để cho ta thấy giá trị của cái vị trí chiến
lược hiểm yếu mà đèo Ngang đã từng đảm đương trong suốt trường kỳ của dân tộc:
hôm qua, hôm nay và cả ngày mai.” (Giang
Hiền Sơn ).
“Theo các nhà viết sử có uy tín
như Trần Trọng Kim thì “núi Hoành sơn tức núi Đèo Ngang ở Quảng Bình” vốn là một
nhánh của dãy Trường Sơn đột nhiên kéo đâm ra sát biển. Đứng từ đỉnh cao nhất của
Hoành Sơn (khoảng 250m) nhìn bao quát sẽ thấy hiện lên dưới tầm mắt màu xanh
ngút ngàn của rừng núi phía Tây, biển rộng mênh mông trải dài như tấm thảm xanh
về phía Đông, thấp thoáng những hòn đảo nhỏ nhô lên mặt nước như đang chầu về
“sơn lâm”.
Con đường xuyên Đèo Ngang thời trước nằm trên đường thiên lý, cách Đồng
Hới khoảng 80 cây số, chạy ngoằn ngoèo qua các sườn đồi cheo leo, men theo vực
sâu, đưa người hành trình theo chiều dọc từ hướng Bắc vào Nam. Nhìn dưới góc độ
phong thủy, Hoành Sơn đi vào các tài liệu nghiên cứu về địa lý xưa và cả thời
nay.
Ngay các tác giả người nước ngoài như học giả Léopold Cadière, chủ bút tạp
chí Bulletin des Amis du Vieux Hue, khi luận về các chi tiết phong thủy ứng dụng
xây kinh thành Huế đã nhắc đến “Hoành Sơn che chở” từ xa đối với nhà Nguyễn. Những
nhà sử học, địa lý học khi viết đến lịch sử triều Nguyễn đều nhắc đến “Hoành
Sơn” thời khởi nghiệp.
Nhà phong thủy học Cao Trung khi luận về long mạch trong Tả Ao địa lý
toàn thư đã đưa “Hoành Sơn” vào nội dung phân tích và nêu rõ hai phần trong
khoa địa lý gồm: Loan đầu và Lý khí. Phần Loan đầu là những gì mắt ta nhìn thấy
trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết, hoặc một dòng nước thuận nghịch, một
thế núi quanh co.
Nếu cơ nghiệp Chúa Trịnh mở đầu với mối liên hệ về một cuộc đất thuộc
vùng “thủy” (nước), thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mở đầu với mối liên hệ thuộc vùng
“sơn” (núi). Nói về “sơn”, cụ Tả Ao diễn giải nếu thấy núi hình thành theo dạng
“một vòng bọc lại” (nhất trùng bão khóa) rồi “một vòng mở ra” (nhất trùng khai)
thì ở đó có đất công hầu.
Nếu lại thấy một dạng núi “vòng ôm” (nhất sơn loan bão) rồi “ngoảnh lại”
(nhất sơn cố) là ở đó có đất công khanh. Trong tập “Địa lý gia truyền”, cụ Tả
Ao cũng chỉ rõ nếu thấy núi cao bao quanh một vùng thì hãy tìm huyệt ở chỗ thấp
(chúng sơn cao tầm đê) – còn chung quanh đều thấp thì hãy tầm huyệt ở chỗ cao
(chúng sơn đê tầm cao).
Đối chiếu và liên tưởng tới trường hợp “Hoành Sơn”, những chỉ dẫn phong
thủy và địa lý nêu tổng quát ở trên cũng cho ta thấy qua phần “loan đầu” (có thể
nhìn trực tiếp bằng mắt để đoán định), sau đó đến phần “lý khí” (liên quan đến
lý học, thiên văn) chắc hẳn những gì nêu trong “Thái ất thần kinh” đã được vận dụng bởi nhà văn hóa, nhà tiên tri lừng
danh nhất trong lịch sử Việt Nam: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhờ vậy, cộng
với khả năng thiên phú, Trạng Trình đã chỉ đúng con đường phải đi cho chúa Nguyễn.”
(Theo kienthuc.net.vn).
Dương Văn An miêu tả trong Ô châu
cận lục: “Núi này chạy dài từ núi tổ, thế như rồng cuốn hổ ngồi, trùng
trùng điệp điệp kéo mãi ra đến tận biển. Vách đứng cao vạn nhận (cứ 8 thước là
1 nhận) nom giống như bức tường thành, án ngữ cả một vùng phương Nam”.
Mộ tổ của dòng họ Nguyễn Đức Cao tại Đèo
Ngang Hà Tĩnh -Quảng Bình .
Là một vị quan trấn ải tại Đèo Ngang từ thời nhà Nguyễn đã có sắc phong
là "Thái Bảo Trung Quốc Công" . Ông là người gốc Hải Phòng nhưng lại
yên nghỉ tại đỉnh Đèo Ngang Hà Tĩnh - Quảng Bình , mộ ông nằm ngay bên cổng
Hoành Sơn Quan đã hơn 400 năm nơi đây từng có nhiều người qua lại và mỗi người
một nắm đất ,viên đá bồi đắp cho ngôi mộ nhờ đó mà ngôi mộ tổ này còn tồn tại đến
ngày nay.
V/MỘT CHÚT KIẾN THỨC PHONG THỦY CỦA ĐÈO
NGANG.
Hoành Sơn là loại Long mạch kiểu Hoành Long. Cần lưu ý không nhầm lẫn với trường hợp Hồi Long cố tổ.
LONG PHÁP HỘI NGHỊCH.
Phàm Địa chẳng nghịch thời chẳng lung kết, nghịch thời sơn hồi thủy chuyển,
Âm Dương giao thiệp mà huyệt sinh thành, nghịch càng xa thời lực càng trong hậu.
Có dại nghịch, tiểu nghịch, hoành nghịch. Nghịch long là trên hết, mạch nghịch,
sa nghịch làm thứ.
Nói Long nghịch là “Hối long cố tổ” kết tác, ấy bảo là Hội long uyển
chuyển tơ lưỡi câu, chưa tác huyệt mà trước đã tác Triều An, Triều sơn đều là
trong tổ sơn, chẳng kể ngàn dặm xa xôi mà đến, lấy cố tổ xa làm thương cách, gần
cổ sơn làm thứ. Xa thời cục càng lớn, đường cục rộng, sơn củng thủy triều, đều
là hữu dụng cho nên vậy.
Còn như long nhỏ trong tổ ở xa, thời đường khí chẳng thâu, nếu gần được
nơi quan tỏa thì mới hay. Long lớn mà trồng về tổ sơn ở gần, thời Tam Môn
(Thiên môn) chật hẹp bức bách, phải có ngoại đường rộng thì mới dẹp; duy cần
theo nơi chính giữa, của tinh phong hội nghịch đó, chuyển ngang kết huyệt, thể
đi lại phải hùng dũng, chẳng nên hội nghịch vội vàng. Hoặc yêu lạc một tinh
phong, hoành lại nghịch thủy, như Tý Ngọ lại long, mà Mẹo Dậu đắc huyệt.
Mạch nghịch là long tinh đều thuận, mạch cùng thế hơi nghịch, như trực lại
hoành thọ, hoành lại trực thọ vậy.
Sa nghịch là như tả lại hữu chuyển, hữu lại tả chuyển, lấy quan tỏa thâu
khí. Sách rằng: Huyệt thuận long kết tất nghịch; huyệt nghịch long kết tất thuận,
đó là lý tự nhiên. Thuận sơn thuận thủy thời có Âm không Dương, tất không dung
kết. Sách rằng: “Đắc thủy trên hết”, lời nói là quý chỗ nghịch vậy.
Tuy Long và Mạch nghĩa lý tách bạch hẳn hoi, mà thực tế hai cái không rời
nhau ra, vì có Long là có Mạch, dầu là khí vượng hay suy. Có Mạch đương nhiên
phải có Long, không thì Mạch trú ngu vào đâu?
Làm sao để biết được Khí Mạch đi? Hễ thấy chỗ nào đất gỗ cao lên, nước đổ
về hai bên, tức có mạch dẫn đi ở bên Sách nói: “Thủy phân bát tự, tất bữu lai
Long” (Nước phân chữ bát hai bên, tức có Long mạch đi lại). Đó chỉ là hình bên ngoài,
còn biết khí bên trong vượng suy thì phải xem cây cỏ, xanh tươi hay úa héo; nước
vùng đó nhiều ít, khô cạn.Nước Việt Nam những vùng núi non như Phan Rang, Phan
Rí, dọc đường Quốc lộ 1A, núi đá cằn cỗi khô khan, không có cây gì mọc được; chứng
tỏ bên trong khí tuyệt; cho nên cư dân nơi đây nghèo khó thưa thớt.
Hoành Long từ mặt bên mà kéo dài ra, khí thế như nghịch chuyển trông rất
hào hùng.
Hoành Long nhập thủ thì sách luận rằng: Sau địa huyệt của Hoành lòng nhất
định phải có Quỷ sơn và Lạc Sơn che chở hậu đầu, phải tương ứng với long sơn đứng
sừng sững phía sau.
Hoành Long : Long từ Tổ sơn đi xuôi theo dòng nước rồi
bỗng quay ngang với chiều nước chảy và kết Huyệt.
Hồi Long cố tổ : Thế mạch này núi uốn lượn trở lại , đầu
đuôi nhìn nhau tựa như một con Rồng uốn mình quay lại . Hồi Long là đệ nhất
Long kết Huyệt , an táng sẽ đại cát. Hồi long: còn gọi là Hồi Long cố tổ, Long
Hoài cổ, Thần Long Bái Vĩ, tức là dạng Long đang đi ngon trớn, chợt quay đầu lại
nhìn về chốn quê xưa, như “liếm đuôi”, như bái lạy cái đuôi. Đây là dạng Long Mạch
rất quý, Tả Ao tiên sinh đã liệt nó vào hàng ‘thứ tư’: Thứ nhất khai khẩu, thứ
nhì nhũ Long, thứ ba mạch thắt cổ bồng, thứ tư Sơn chỉ Hồi Long càng tài. Sơn
chỉ Hồi Long là Long dừng rồi hồi (quay ngoặt lên).
"Hồi long cố tổ" phải căn cứ vào hai điều kiện cần và đủ sau :
1- Lấy thân long làm án hoặc chí ít là triều án.
2- Thân long đồng thời là hạ sa thu khí và thuỷ.
"Hồi long cố tổ" là long cỡ bé thôi, nhưng quý do vậy chỉ có
căn cứ vào phụ mẫu sơn thôi ( trước có hiếu với Cha Mẹ sau có hiếu với Tổ
Tiên).
Không nên nhầm với long "hoành kết" mà cho là "hồi long cố
tổ". Hoành kết là long đang đi quay ngang kết huyệt còn nó khác khác với
"Hồi long cố tổ".
Hồi long cố tổ là kiểu đất có long mạch chạy vòng ngược lại hướng long đang
đi và kết huyệt. Long thuận thường được đánh giá không cao bằng long nghịch
(hay là Hồi long cố tổ) vì chỉ có long mạch có lực lớn thì mới có khả năng kết
huyệt ngược chiều theo hướng mạch chạy.
Theo quan niệm cổ, có mấy thế đất (địa thế) không tốt cần lưu ý sau: dạng
dắt trâu, chữ bát, cung ngược, nhảy ngược…
Dạng cung ngược: Lưng hình cung của con sông hoặc đường đi nằm ở phía
trước nhà, trong phong thuỷ gọi là địa hình cung ngược, không tốt.
VỀ 2 CHIỀU CỦA CHỮ VẠN.
Chữ Vạn nhà Phật . Chữ Vạn có chiều quay đồng chiều kim đồng hồ, tức là theo chiều tương sanh trong Ngũ Hành. Dùng hình tượng này khi Phát Khí.
Chữ Vạn có chiều quay ngược chiều kim đồng hồ, đây cũng là chiều quay tự
nhiên của các quả địa cầu quanh mặt trời và cũng là chiều tự quay của nó. Dùng hình tượng này khi Thu Khí.
Như vậy ta thấy dãy Hoành Sơn Khí tụ về mạn
Hà Tĩnh và khí tán tại phía Quảng Bình.
VI/SO SÁNH 2 PHÍA CỦA ĐÈO NGANG.
1/Tại Huyện
Thạch Hà - Hà Tĩnh :
Hoành Sơn là biên giới tự nhiên của hai nước
Việt – Chiêm xưa, nay là địa giới hành chính giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng
Bình. Đồng thời đó cũng là ranh giới khí hậu: Hà Tĩnh thuộc khí hậu Bắc, mùa
đông có gió mùa Đông Bắc mạnh còn mùa hè thì gió Lào nóng dữ dội. Lượng mưa ở
Hoành Sơn rất lớn, 3000mm/năm và bão cũng rất nhiều.
Thạch Hà có mạng lưới sông ngòi khá dày,
10 km/1 km². Tổng lưu vực hứng nước rộng gần 800 km². Các sông suối, trong đó
có ba sông chính (sông Dà – Hà Hoàng, sông Cày, sông Rào Cấy) mỗi năm đổ ra cửa
Sót 36 – 40 triệu m3 nước và 7 vạn tấn bùn, cát.
Làng Hà Hoàng, tổng Thượng Thất, huyện Thạch Hà, phủ Hà
Hoa, trấn Nghệ An (nay là xã Thạch Hạ, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) là quê
hương của dòng họ Vũ Tá nổi tiếng đời
nhà Hậu Lê, với các danh tướng: Vũ Tá Đức,
Vũ Tá Kiên, Vũ Tá Sát, Vũ Tá Lý, Vũ Tá Dao...
Làng Phong Phú, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay là xã Thạch
Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) quê hương của Đông cung tùy giảng thị nội …Trương Quốc Kỳ, thi đỗ đầu hương cống
Khoa thi Quý Dậu (1753). Ông được vua Lê Hiển Tông trao trọng trách dạy Thái tử
Lê Duy Vỹ, cũng đồng thời là ông nội Đông Các Đại học sĩ Trương Quốc Dụng. Thị
độc học sĩ Trương Quốc Bảo, cha của Đông các Trương Quốc Dụng, Cử nhân quan chủ sự Trương Quốc Quán (con Trương
Quốc Dụng), Tiến sĩ Thừa hoa sứ Nguyễn
Tôn Tây, Phó bảng Bùi Thố, võ tướng
Dương Khuông... Nơi đây đã một thời
có giọng hò điệu ví của thôn Nam Khê làm nức lòng người, được Huy chương vàng
giải văn nghệ quần chúng tổ chức tại Hà Nội.
Thạch Hà cũng là quê hương của Phan Liêu; Tiến sĩ Trần Danh Tố (triều Hậu Lê); Trần
Danh Bính; Quốc tử giám Tế tửu Phan Ứng
Toản (1446-1515); Thượng thư Bộ Binh kiêm Hàn lâm viện Học sĩ Nguyễn Hộc (1412-?) Giám sát Ngự sử Trần Sảnh (1431-?);; anh hùng Lý Tự Trọng.
Xã Thạch Hội có làng nghề trống Bắc Thai lâu đời, buôn
bán trống khắp các tỉnh thành miền trung và nghề nấu rượu truyền thống.
Ngày nay có: Trung tướng Phạm Văn
Long, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam; Trung tướng,
PGS, TS Trần Đình Nhã, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội; Thiếu tướng Hồ Trọng Ngũ, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng An ninh của Quốc hội;
Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tân, Đại biểu
Quốc hội Khoá 12, Giám đốc Công an Hà Tĩnh (2000 - 2013), trung tướng Trần Xuân Ninh quê quán: xã Thạch Đài;
giám đốc học viện lục quân Đà Lạt.
2/ Tại Huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
.
Quảng Trạch là một huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Quảng Trạch có sông Gianh nổi tiếng trong lịch sử thời Trịnh-Nguyễn phân
tranh và sông Ròn đổ ra Biển Đông.
Trong khi đó, Quảng Bình chỉ cách hơn 10km đã mang rõ đặc điểm của khí hậu
Nam: gió Đông Bắc rất yếu.
Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu
của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt:
+ Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm
1.500 - 2.000mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11.
+ Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24oC - 25oC. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8.
Nằm ở dải đất hẹp, uốn theo hình vòng cung của đất nước, khí hậu Quảng
Bình mang những nét đặc trưng của miền khí hậu Đông Trường Sơn. Tuy có chế độ
mưa ẩm phong phú nhưng nằm trên hành lang chịu ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt
đới của biển Đông và Thái Bình dương nên thường xuyên bị bão lũ và mùa hè thường
có gió Lào khô nóng gây ra hạn hán.
Danh Nhân :
Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng
Bộ Xây dựng, nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng, người gắn bố lâu năm với con đường Trường Sơn huyền thoại.
Nhạc sĩ Nguyên Nhung, tác giả các ca khúc nổi tiếng: "Bài ca bên
cánh võng", "Chim yến bay", "Cô dân quân làng Đỏ",
"Chiếc đàn môi", "Từ trên đỉnh núi"....
Ở giữa vùng cát khá bằng phẳng và được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đồng
bộ, nhiều năm nay, trung tâm của huyện Quảng Trạch (Quảng Bình) không có dân và
các dịch vụ thương mại thiết yếu, ngoại trừ duy nhất một cây xăng. Đây cũng là
huyện duy nhất ở tỉnh không có thị trấn huyện lỵ.
Vùng cồn cát ven biển chạy dọc theo đường bờ biển từ chân Đèo Ngang (Quảng
Trạch) đến Mũi Lạy (Lệ Thuỷ) có chiều dài 126 km. Diện tích vùng cát khoảng
32.140 ha chiếm 4% diện tích tự nhiên. Dải cồn cát này có độ cao từ 2-3m đến
30-40m, nơi rộng nhất đến 7km, có độ dốc lớn, chịu tác động mạnh bởi quá trình
hoạt động của gió và nước dẫn đến hiện tượng cát bay, cát lấp vùng đồng bằng
ven biển. Nhìn chung đất ở Quảng Bình nghèo dinh dưỡng, tầng đất
mỏng và chua, diện tích đất phù sa ít.
Sách Ô Châu cận lục của Tiến sĩ Dương Văn
An đời nhà Mạc viết:
“ Núi Hoành sơn: Núi ở Châu Bố
Chính gần xã Sơn Tiêu (thuộc huyện Quảng Trạch ngày nay). Núi này chạy dài từ
núi Tổ, thế như rồng cuốn hổ ngồi, trùng trùng điệp điệp kéo mãi ra tận biển.
Vách đứng cao vạn nhận nom giống như bức trường thành, án ngữ cả một vùng
phương Nam.
Núi Lỗi Lôi ở Châu Bố Chính gần cửa biển Di Luân ( thuộc huyện Quảng Trạch
ngày nay). Núi này cùng với vịnh Chùa tả hữu đối nhau, có khe nước rất ngọt.
Thuyền bè qua lại thường đậu lại nơi này. Leo lên cao phóng tầm mắt nhìn bốn
phía chỉ thấy trời nước hoà hợp một màu, tưởng như ngọn núi thần mọc trên biển
vậy.
Núi Đâu Mâu ở huyện Khang Lộc, gần xã Viễn Tuy ( Quảng Ninh ngày nay), đỉnh
núi vươn rất cao và nhọn hoắt như hình mũ Đâu Mâu. Tục truyền trên núi có giếng,
trong giếng có giống cá lạ. Trên núi có dòng sông lớn, có loài cua ngon sinh sống
ở đây.
Núi Thần Đinh ở xứ Thạch Giang huyện Khang Lộc (Rào Đá, huyện Quảng Ninh
ngày nay). Núi này có tên Bất Nghĩa, bởi vì các ngọn núi ở đây đều chạy theo
cùng một hướng Đoài (hướng Tây), riêng ngọn núi này chạy theo hướng ngược lại,
nên gọi như vậy.
Núi Mã Yên ở đầu nguồn huyện Lệ Thuỷ. Thế núi cao lớn, dáng hình uốn lượn,
chỗ đứt đoạn chỗ liên tục, chỗ đổ xuống chỗ ngóc lên, trông như hình cái yên ngựa,
có chỗ như ký mã thong dong, có chỗ như tuấn mã hăm hở. Tinh thần phong phú,
khí tượng dồi dào.
Núi Liên Sơn ở địa phận huyện Lệ Thuỷ, trong núi có hẻm đèo, có con đường
lớn chạy dọc theo, xen với rừng cây um tùm, phong cảnh kỳ thú. Dòng nước trong
chảy vòng róc rách như tiếng ngọc, giọt đổ xuống tính tang nghe tựa tiếng đàn.
Xuân sang đượm màu xanh ngắt, oanh hót véo von; hè về rợp bóng râm, ve kêu ra rả.
Trăng thu vằng vặc, ngàn cây nhuốm rực màu son; ngày đông tuyết dày, muôn cành
phủ toàn sắc trắng…”
Quảng Bình là vùng đất nối hai đầu đất nước, nơi giao thoa của những điều
kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội của hai đầu Bắc- Nam. Quảng Bình có vị trí chiến
lược quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong lịch sử,
đây là nơi mở đầu cho công cuộc mở cõi về phương Nam mà dân tộc ta đã theo đuổi
suốt gần 7 thế kỷ. Lịch sử khai thiết vùng đất Quảng Bình là lịch sử đấu tranh
với thiên nhiên khắc nghiệt để tồn tại và phát triển; là lịch sử của các cuộc đấu
tranh xã hội và chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền và vùng
lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.