Home
»
Blog chuyên nghiên cứu và chia sẻ văn hóa phương Đông - phong thủy - tâm linh - đạo pháp - kinh dịch...
EMAIL : dienbatn@gmail.com
TEL : 0942627277 - 0904392219.PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 8.
PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.
PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. ( Tiếp theo bài 7 ).
Đôi bờ sông La - Ảnh Huy Tùng.
2. LONG MẠCH VÀ DANH NHÂN 3 HUYỆN PHÍA TÂY HÀ TĨNH ( HƯƠNG KHÊ – VŨ QUANG VÀ HƯƠNG SƠN).
Ba Huyện HƯƠNG
KHÊ – VŨ QUANG VÀ HƯƠNG SƠN cùng nằm ở phía Tây Hà Tĩnh và có biên giới chung với
nước Lào. Long mạch vùng này đều bắt nguồn từ dãy Bắc Trường Sơn và nhánh vào
Hà Tĩnh là hệ núi Giăng Màn. Triều Đông dải Trường Sơn Bắc ( Trường Sơn Bắc là Sơn hệ nằm trên biên
giới Việt – Lào), phía Tây Hà Tĩnh, bắt đầu từ ngọn Pu Lai Leng – 2286 m tại
Hương Khê, kéo dài tời vùng Quy Đạt – Quảng Bình, do vậy cũng được gọi là Pu
Lai Leng – Rào Cỏ , xưa còn gọi là vùng núi Na Pê),từ biên giới Việt – Lào, tỏa
xuống địa bàn 3 tỉnh phía Tây Hà Tĩnh , bao phủ một thảm rừng già, dưới xuôi
nhìn lên như một tấm màn xanh thẳm nên gọi là Rú Giăng Mản ( Khai Trướng Sơn ).
Đồng hành
cùng các dãy núi cao hùng vĩ của Giăng Màn, có các hệ thống sông luôn cùng sát
cánh là các sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Ngàn Trươi cùng hàng trăm khe suối nhỏ tiếp
nước vào các dòng sông lớn.
Ta hãy nhìn vào phác đồ sau :
Hình trên
là một phác đồ kết Huyệt của các Long mạch.
Giai đoạn 1 : Ở phần bên trái là Tổ Sơn hay Thiếu Tổ sơn, đa phần các đỉnh núi đều nhọn hoắt, Khí lực Long mạch hùng mạnh , song hành cùng với núi là hệ thống sông ngòi có địa hình hiểm trở. Phần này là Long đang xuất phát và thường là không có Huyệt kết hoặc chỉ có những Huyệt kết nhỏ ở các khe núi.
Giai đoạn 3 : Long mạch tiếp tục hành Long nhưng tốc độ chậm dần lại. Các dãy núi bắt
đầu tròn đầu dần như hình bát úp, sông suối to hơn và ít hiểm trở hơn. Lúc này
là Long mạch đã muốn dừng. Khu vực này bắt đầu có kết Huyệt khá nhiều nhưng
chưa lớn và lâu dài.
Giai đoạn 4 : Khi long mạch bắt đầu chuyển thành bình dương và lặn qua từ 1 tưới 2
con sông hay là nơi giao hội của 2 hay nhiều con sông thì bắt đầu Long mạch dừng
lại và kết Huyệt rất nhiều. Thường thì khu vực này có nhiều Huyệt Lớn và lâu dài.
Trong thực tế tại Hà Tĩnh: Bắt đầu từ Giai đoạn 2.
Giai đoạn 2 : Vùng núi
cao nằm ở phía Đông của dãy Trường Sơn, địa hình dốc bị chia cắt mạnh, tạo nên
thành những thung lũng nhỏ hẹp chạy dọc theo các triền sông lớn của hệ thống
sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu và Rào Trổ.
Dãy
Pulaileng – Rào Cỏ , một phần của Trường Sơn Bắc, chạy dọc biên giới Việt –Lào
suốt 143 km, giữa hà Tĩnh và Khăm Muộn với những đỉnh cao phía Tây : Toóc nác
léc ( 1041 m ),Bà Mụ ( 1367 m), Giang màn ( 936 m). Rú Bành ( 646 m) ở Hương
Sơn ; Cẩm Lĩnh ( 973 m ) ở Vũ Quang; Rú Hóp ( 936 m ), và cao nhất là ngọn Rào
Cỏ (2286 m) ở Hương Khê. Núi trải rộng và thấp dần về phía Đông, đến tận Tả ngạn
sông Ngàn Sâu, kết thúc ở mút cuối dãy Đại Hàm , có độ cao trung bình 400-500
m. Phủ lên núi đồi là thảm rừng già bốn mùa xanh thẳm nên được gọi là núi Giang
Màn ( Khai trướng Sơn ).
Từ Giăng
Màn đổ ra hàng nghìn khe suối ,đầu nguồn của các Rào,các nậm, của các sông Ngàn
Phối, Ngàn Trươi,Ngàn Sâu.Thiên nhiên Giang Màn hùng vĩ và là kho tài nguyên vô
giá. Khu vực này thuộc về Giai đoạn 2. Long mạch ( Sơn và Thủy ) tiếp tục hành
Long một khoảng cách xa nữa, các dãy núi thấp dần, các dòng chảy lớn dần nhưng
vẫn còn khá hiểm trở . Trong khu vực này cũng chỉ đâu có có kết Huyệt nhưng
không lớn và lâu dài.
Giai đoạn 3 :Là phần Thượng nguồn sông Ngàn Phố và Ngàn Sâu. Long mạch ( Sơn và Thủy
) tiếp tục hành Long một khoảng cách xa nữa, các dãy núi thấp dần, các dòng chảy
lớn dần nhưng vẫn còn khá hiểm trở .
Trong khu vực này cũng chỉ đâu có có kết Huyệt
nhưng không lớn và lâu dài. Trong khu vực này chú ý nhất là khu vực Phố Châu.
Phường Ngàn Phố ( Nay là thị trấn Phố Châu
), khu căn cứ Đỗ Gia của Nghĩa quân Lam Sơn ( TK XV ), quê hương của Đại danh y
Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Bên nhánh
sông Ngàn Sâu : Sông La bắt nguồn từ núi Giăng Màn. Các khe suối đổ vào Rào Săn
ở Bản Giàng, chảy theo hướng Nam, rồi quanh co chuyển sang Đông, gọi là Thâm
Nguyên ( Ngàn Sâu ). Đến Phúc Lộc ( Nay là Xã Phúc Trạch ), sông chuyển sang hướng
Bắc, có Rào Cháy bên Hữu ngạn, Rào Tiêm, Rào Trúc ( Hay Rào Nổ ) bên Tả ngạn đổ
vào. Tiếp đó, sông chảy theo triền núi, uốn mình 9 lần, dân gian gọi là “ Chín
khúc Huội Nai “ . Các sách có chép “ Cửu khúc Hội lai “ hay “ Cửu khúc Giang “,
lại có tên “ Thanh Long Giang , vì dòng chảy lượn như con rồng xanh. Đến cuối
Xã Bảo Khê , có sông Ác ( Ngàn Trươi ) từ tả ngạn đổ vào. Sông chảy tiếp lên hướng
Bắc, hội với sông Ngàn Phố ở ngã ba Phủ ( Tam Soa ). Long mạch tiếp tục hành Long nhưng tốc độ
chậm dần lại. Các dãy núi bắt đầu tròn đầu dần như hình bát úp, sông suối to
hơn và ít hiểm trở hơn. Lúc này là Long mạch đã muốn dừng. Khu vực này bắt đầu
có kết Huyệt khá nhiều nhưng chưa lớn và lâu dài.
Long mạch
đi theo sông Ngàn Phố có hướng Tây Bắc – Đông Nam. Tọa Càn
– Hướng Tốn.
1/ Tại Huyện Hương Sơn xưa kia thuộc phủ Đức Quang (gồm Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc, Nghi
Xuân, Thanh Chương, Nghi Lộc) được xem là vùng đất học của xứ Nghệ. Trong thời
kỳ phong kiến, Hương Sơn có khoảng 20 vị đỗ đại khoa (từ phó bảng, tiến sĩ, tạo
sĩ trở lên) với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Đinh Nho, Tống Trần, Hà
Huy, Lê Khánh, Nguyễn Khắc, Đào Duy, Lê Xuân, Văn Đình, Đặng Đình, Trần Đình …
và các làng giàu truyền thống văn hoá như: Hữu Bằng, Tuần Lễ, Gôi Mỹ, Thịnh
Xá... Ngày nay có nhiều người thành đạt ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nước
ngoài.
Hương Sơn
là quê hương của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Hiến sát sứ Nguyễn Kính
Hài (1448-?), Đô Ngự sử Nguyễn Tử Trọng (1485-?); Hoàng giáp, Thượng thư Nguyễn
Văn Lễ (1604-?); Hiến sát sứ, Tiến sĩ Nguyễn Thủ Xứng (1642-?) ; Hiến sát sứ,
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vịnh (1679-1750?); Tiến sĩ Đinh Nho Công; Hoàng giáp, Phó Sứ
Đinh Nho Hoàn; Tiến sĩ, Thượng thư, Nghĩa quận công Tống Tất Thắng; Tổng binh đồng
tri Đinh Nho Côn; Tiến sĩ Đinh Nho Điển; Hoàng giáp Phạm Huy ((1811 - ?)); danh
sĩ Lê Hầu Tạo; Thượng thư Đào Hữu Ích; Đốc học Nguyễn Xuân Đản; Hoàng giáp Nguyễn
Khắc Niêm; Phó bảng Lê Kim Thiển; Cử nhân Lê Khánh Lam (Tham tri bộ Lễ); nhà
văn hóa Nguyễn Khắc Viện, nhà báo- liệt sĩ Trần Kim Xuyến, nhà cách mạng Hà Huy
Giáp; Lê Xuân Đồng, Lý Chính Thắng, Lê Bình...; các danh tướng Nguyễn Tuấn Thiện,
Nguyễn Lỗi, Văn Đình Dận, Cao Thắng, Lương Hiển...
Hà Huy
Giáp (1908–1995) là nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Phó Trưởng ban Ban Tuyên
giáo Trung ương ĐCSVN, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa II (dự khuyết), khóa III,
Lê Xuân
Tùng: nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Giáo sư Kinh tế-Chính
trị học, quê quán: xã Sơn Lễ;
Lê Minh
Hương (1936-2004): nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Thượng tướng, Bộ trưởng Bộ Công
an, quê quán: xã Tân Mỹ Hà;
Trần Cẩm
Tú: Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng
CSVN, Tiến sĩ Kinh tế, quê quán: xã Sơn Bằng, sinh quán: xã Sơn Ninh;
Lê Minh
Hưng: Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khoá XII, khóa XIII, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng CSVN, nguyên Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quê Tân Mỹ Hà
Đoàn Minh
Huấn: PGS., TS., Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá
XII (dự khuyết), khóa XIII, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản Việt Nam, quê Sơn
Ninh.
Phạm Song:
nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, Giáo sư, Viện sĩ y học, quê quán: xã Sơn Long;
Lê Đức
Thúy: nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quê quán: xã An Hòa Thịnh;
Đinh Nho
Liêm: nguyên Ủy viên Trung ương Đảng CSVN, nguyên Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại
giao, quê quán: xã An Hòa Thịnh;
Hà Học Hợi:
nguyên Phó Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa TW, quê quán: xã An Hòa Thịnh;
Đặng Quang
Phương: Tiến sĩ luật học, Phó chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, quê quán: xã An
Hòa Thịnh;
Tống Trần
Đào: nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp, quê quán: xã An Hòa Thịnh;
Phan Tâm:
nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, quê Tân Mỹ Hà
Trần Việt Thanh:
Tiến sĩ, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, quê An Hòa Thịnh
Lê Xuân Lựu:
Giáo sư, trung tướng, cựu giám đốc Học viện Chính trị Quân sự, quê quán: xã Sơn
Lễ;
Nguyễn Đường:
Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Tài chính/ Bộ Quốc phòng, nguyên Ủy viên Ủy
ban Kế hoạch Nhà nước, quê quán: xã An Hòa Thịnh;
Lê Minh
Hùng: Trung tướng, Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý tạm giam, tạm giữ và thi
hành án hình sự tại cộng đồng, Bộ Công an, quê Sơn Long
Trần Xanh:
Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng
không-Không quân (Việt Nam).
Tống Trần
Thuật: Thiếu tướng tình báo quốc phòng, quê quán: xã An Hòa Thịnh;
Lê Viết
Anh: Thiếu tướng, nguyên Phó Chính uỷ Trường Sỹ quan Lục quân 1
Hà Tân Tiến:
Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 4, quê An Hòa Thịnh
Phạm Xuân
Thuyết: Thiếu tướng -Tư lệnh Quân đoàn 4, quê Sơn Ninh
Hồ Quang
Tuấn: Thiếu tướng, Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc
phòng Việt Nam, quê Sơn Bằng
Lương Việt
Hùng: Chuẩn đô đốc, Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân Việt Nam, quê Sơn Bằng
Thiếu tướng
Thái Vinh Tú, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý kỹ thuật nghiệp vụ mật mã, Ban Cơ yếu
Chính phủ
Thiếu tướng
Nguyễn Xuân Lý: nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường Bộ Công an
Thiếu tướng
Nguyễn Khắc Ngọ, nguyên Phó cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị
QĐNDVN, quê Sơn Trà
Đinh Xuân
Lâm: Giáo sư sử học, quê quán: xã Tân Mỹ Hà;
Lê Kinh Duệ:
Giáo sư y học, quê xã An Hòa Thịnh;
Lê Khả Kế:
Giáo sư, nhà ngôn ngữ học, quê quán: xã Sơn Bằng
Hà Huy
Khoái: Giáo sư, viện sĩ toán học, cựu viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, quê
quán: xã An Hòa Thịnh;
Lê Xuân
Anh: Giáo sư, TSKH Toán Cơ học, giảng viên Trường Đại học Bách khoa Saint
Petersburg - Liên bang Nga, quê quán: xã An Hòa Thịnh;
Lê Khánh
Châu: Giáo sư, TSKH Cơ học, giảng viên trường Ruhr-Univesity Bochum, Cộng hòa
Liên bang Đức;
Nguyễn
Quang Đỗ Thống: Giáo sư, TSKH Toán học, giảng viên Trường Đại học
Franche-Comté, Bretagne-Pháp
Cù Xuân Dần:
Giáo sư, TSKH Nông nghiệp, Nhà giáo Nhân dân, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học
Nông nghiệp 1 Hà Nội;
Đinh Quang
Báo: Giáo sư, TS Sinh học, nguyên hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội;
Hà Huy
Cương: Giáo sư, TSKH Cầu đường, nguyên Trưởng Khoa Công trình Quân sự, Học viện
Kỹ thuật Quân sự, quê An Hòa Thịnh
Nguyễn Khắc
Phi: Giáo sư Văn học, Nguyên giảng viên trường Đại học Hà Nội, Nguyên Tổng biên
tập nhà xuất bản giáo dục Việt Nam quê quán: xã An Hòa Thịnh
Nguyễn Hữu
Dư: Giáo sư TSKH Toán học, nguyên Phó Hiệu Trưởng Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cao cấp Về
Toán, quê quán: Xã Sơn Ninh
Đinh Nho
Hào: Giáo sư, TSKH Toán học, Trưởng phòng tại Viện Toán học Việt Nam, quê An
Hòa Thịnh;
Nguyễn Huy
Bằng: Giáo sư, Tiến sĩ Vật lý, Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh, quê Sơn Tiến
Nguyễn Huy
Thông, Nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Tĩnh
Đinh Xuân
Việt, Nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Tĩnh
Nguyễn
Thanh Việt: Chủ tịch HĐQT kiểm TGĐ Intracom Group, quê xã...
Phạm Lê
Hùng: Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đầu tư thương mại và Khai thác khoáng sản
Thăng Long,quê quán Sơn Tiến
Nguyễn Chí
Linh (Nguyễn Khắc Linh) chủ tịch Tập đoàn Lioa quê quán xã An Hòa Thịnh.
Phan Nhật
Duy: Huy chương Vàng Toán quốc tế dành cho học sinh phổ thông năm 2017, quê Sơn
Tiến
2/ Tại Huyện Vũ Quang .
Bốn trạng
nguyên là: Sử Hy Nhan, Sử Đức Huy, Trần Thành Đốn, Trần Tiết Việt đang được thờ
ở xã Ân Phú. Mộ và gia phổ của cha con trạng Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy đang
ở trên Ân Phú và do hậu duệ của các ông bảo quản và thờ tự.
Binh bộ
thượng thư Cù Ngọc Xán: Ông quê xã Ân Phú. Ông là Binh bộ thượng thư đời nhà
Lê, là phu quân của bà Ngô Thị Ngọc Điệp, Nhà Lê ban quốc tính họ Lê, đời Khải
Định có sắc phong thần hiệu là "Tiền Lê Đô chỉ huy sứ Lê Ngọc Xán"
Nhà thơ
Huy Cận: Tên thật là Cù Huy Cận (Sinh 31/5/1919, mất 19/2/2005), quê xã Ân Phú,
dòng dõi Binh bộ thượng thư Cù Ngọc Xán. Ông là Nhà thơ nổi tiếng, Nhà hoạt động
Văn hóa xuất sắc. Ông nguyên là Bộ trưởng Bộ Canh nông đầu tiên của Chính phủ
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Bộ trưởng đặc
trách văn hóa nghệ thuật, Chủ tịch ủy ban toàn quốc Hội liên hiệp văn học nghệ
thuật Việt Nam, nguyên Đại biểu Quốc hội nhiều khóa. Ông là Nhà thơ Việt Nam đầu
tiên vinh dự được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Thơ thế giới (được bầu năm
2001). Ông được Nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ
thuật (đợt 1), Huân Chương Sao Vàng và nhiều Huân chương cao quý khác...
Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chính phủ Việt Nam nhiệm kỳ 2011-2016, Nguyễn Minh
Quang: người xã Đức Lĩnh.
Tiến sỹ Trần
Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam - Bộ Khoa học và Công
nghệ
3/ Tại Huyện Hương Khê .
Địa hình của
huyện có nhiều đồi núi, cao nhất là núi Rào Cỏ (2.235 m). Có sông Ngàn Trươi chảy
qua đổ vào sông Ngàn Sâu. Đất phần lớn là feralit núi. Khoáng sản chủ yếu là
than đá.
Khoảng
17h45 ngày 14/10/2016, nhà máy thủy điện Hố Hô (giáp ranh giữa Quảng Bình và Hà
Tĩnh) bất ngờ xả lũ ồ ạt khiến hàng nghìn hộ dân huyện Hương Khê ngập sâu trong
biển nước. Việc xả lũ ồ ạt với lưu lượng 1.800 m3/s trong 4 giờ kèm theo mưa lớn
khiến mực nước lên rất nhanh. Nhiều người dân không kịp trở tay, nước dâng ngập
lút nóc nhà, nhấn chìm nhiều tài sản.
Các danh
nhân.
Nguyễn Thị
Kim Lai (Quê quán: xã Phú Phong, Hương Khê, Hà Tĩnh): Được mệnh danh là O Du
kích nhỏ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Phan Xuân
Biên (Quê quán: xã Hòa Hải, Hương Khê, Hà Tĩnh): Phó Giáo sư - Tiến sĩ – Giám đốc
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Thành ủy viên – Phó Trưởng ban Thường
trực Ban Tư tưởng – Văn hóa Thành ủy giữ chức vụ Trưởng ban Ban Tư tưởng – Văn
hóa Thành ủy.
Vũ Khoan
(Khoan Vũ) (Quê quán: xã Hương Bình, Hương Khê, Hà Tĩnh): Nhà sáng lập Viefox
Inc. , lập trình viên, nổi tiếng với phần mềm: Viefox Book, Viefox Morse,
Viefox Pro,...
Ngô Đăng
Minh (Quê quán: xã Hà Linh, Hương Khê, Hà Tĩnh): một danh nhân lịch sử dưới thời
Lê Trung Hưng. Ông là một vị tướng cầm quân đi đánh Bồn Man ở biên cương.
Trần Phúc
Hoàn (Quê quán: xã Hương Vĩnh, Hương Khê, Hà Tĩnh): Đã có công phủ dụ một địa
bàn hành chính rất rộng lớn ở miền núi có nhiều bộ tộc khác nhau quy một mối về
triều đình nhà Lê. Khai thông, nâng cấp con đường Trìm - Trẹo từ chỗ là đường
mòn trong rừng rậm, trở thành một đường giao thông quân sự và kinh tế giữa Việt
Nam và Lào thời Trung đại.
Hồ Tế:
nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam (1992-1996);
Trong 3
Huyện này ta cần trừ đi các danh nhân trong Huyện Hương Sơn như Đức Thọ, Can Lộc,
Nghi Xuân, Thanh Chương, Nghi Lộc vì địa giới hành chính ngày xưa ghép cả vào.
Thực tế chỉ còn Huyện Hương Sơn hiện nay.
2. LONG MẠCH VÀ DANH NHÂN HUYỆN ĐỨC THỌ. ( Thuộc Giai đoạn 4 ).
Phía Đông
giáp Huyện Can Lộc và Thị xã Hồng Lĩnh
Phía Tây
giáp Huyện Hương Sơn và Huyện Vũ Quang
Phía Nam
giáp Huyện Hương Khê
Phía Bắc
giáp Huyện Nam Đàn và Huyện Hưng Nguyên, Tỉnh Nghệ An.
Huyện Đức
Thọ có diện tích 20.904 ha, dân số năm 2009 là 104.536 người. 11% dân số theo đạo
Thiên Chúa.
Đây cũng
là địa phương có dự án Đường cao tốc Thanh Hóa – Hà Tĩnh và dự án Đường cao tốc
Hà Tĩnh – Quảng Bình đang được xây dựng đi qua.
Huyện Đức
Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh cách Thủ đô Hà nội khoảng hơn 300 Km về phía Tây Nam. Nếu bạn
xuất phát từ Hà Nội bằng xe hơi thì sau khoảng 5 tiếng là tới. Qua Thành phố
Vinh và đi qua sông Lam , đi thêm chừng 30 Km rẽ phải là đến Đức Thọ. Đi tiếp
khoảng 10 Km nữa là tới Bãi Vọt và Thị trấn Đức Thọ. Thị trấn Đức Thọ mới được
xây dựng thời gian gần đây. Tại ngã tư trước khi vào Thị trấn Đức Thọ , có một
con đường từ Hà Nội lên và đi thẳng lên cửa khẩu Cầu Treo sang nước bạn Lào. Một
đường vào Thị trấn và một con đường mới làm rất đẹp dẫn vào Linh Cảm. Con đường
này có từ khi mộ của Tổng Bí thư Trần Phú được khánh thành. Huyện Đức thọ - Tỉnh
Hà Tĩnh là một vùng đồng bằng rộng lớn , tuy nhiên dân cư trong khu vực này còn
thưa thớt. Toàn bộ Huyện Đức Thọ được ôm bởi dãy Thiên Nhọn , có xuất phát từ
dãy Trường Sơn và con sông La hiền hòa hình vòng cung bao bọc. Cũng theo
khảo cứu này, thì quá trình hình thành vùng dân cư ở Tùng Ảnh muộn nhất cũng phải
vào khoảng cuối thời Trần, đầu thời Lê, tương ứng với khoảng cuối thế kỷ XIV, đầu
thế kỷ XV, tức là cách đây khoảng 600 năm. Căn cứ vào gia phả các dòng họ lâu đời
nhất của làng thì ông Thủy tổ đều thuộc thời Trần hoặc đầu thời hậu Lê. Ví dụ
như thủy tổ Phan Hách của dòng họ Phan Tùng Mai từng giữ chức Vương Phó sư thời
Trần. Các ông Phan Đán, Lê Bôi, Nguyễn Lộng, Bùi Bị đều là các tướng lĩnh của
Khởi nghĩa Lam Sơn, cho đến nay con cháu trong làng vẫn giữ được mộ tổ, lập nhà
thờ họ, quanh năm hương khói.
Trong chuyến
đi điền dã của mình , dienbatn đã phát hiện và khảo sát một vùng quê hẻo lánh
nhưng đã là khởi nguồn của nhiều vị Vua , Công hầu , Khanh tướng , các vị Đại
Thần thuộc loại Tứ trụ Triều đình. Vùng này là một tập hợp nhiều Long mạch lớn
đã - đang và sẽ kết phát lên nhiều vị Hoàng đế , nguyên thủ Quốc gia. Đây là một
tập hợp những Long mạch điển hình của Việt Nam , hiện nay Khí vận còn đang rất
mạnh. Nơi mà dienbatn muốn nói đến chính là vùng quê xung quanh xã LINH CẢM -
HUYÊN ĐỨC THỌ - TỈNH HÀ TĨNH.
Con sông
La và một nhánh của nó ôm vòng lấy một cánh đồng rất rộng - Trong đó có khu địa
Huyệt . Sông La và nhánh của nó chảy tới đây lững lờ như quyến luyến không muốn
đi . Nhánh của sông La chảy nghịch Thủy , tạo thêm sinh khí rất mạnh cho toàn
khu vực . Đây là một Long mạch rất lớn , bắt đầu từ dãy Trường sơn , có chi
Long chạy về khu vực Đức Thọ - Hà Tĩnh ( Trong đó có đỉnh 30/4 ) .
Con sông
La bắt đầu từ hai con sông Ngàn Sâu , Ngàn Phố từ dãy Trường Sơn , gặp nhau tại
Linh Cảm bến Tam Soa , chạy thêm chừng
20 km nữa lại đổ vào sông Lam tại chợ Tràng ( Gần chợ Củi - Nơi có Đền thờ ông
Hoàng Mười ) . Khu vực này là một vùng có Long Khí rất mạnh , nơi phát tích nhiều
đời Vua , Quan thuộc loại Tứ trụ Triều đình . Nơi đây đặc biệt Phụ Nữ rất đẹp
và có tài , từng giúp cho các đức ông chồng thành đạt , thăng tiến trên đường
công danh. Phụ nữ ở đây đa phần mình dây , da trắng , tóc dài , nói tiếng rất dễ
nghe , dễ cảm. Ở đây có câu : " Vợ ngoan lo Quan cho chồng ". Đằng
sau sự thành công của các danh nhân xuất phát từ đất này , đều có công không nhỏ
của những người phụ nữ Đức Thọ.
Trong các
làng thuộc Huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh , làng Đồng Thái là làng được xem là có nhiều
người thành đạt nhất từ xưa cho đến nay. Làng này có khoảng 200 hộ dân , với
khoảng 600 khẩu. Trong làng nổi lên nhiều dòng họ đã cung cấp nhiều bậc vĩ nhân
cho đất ngước như : Họ Phan ( Có PHAN ĐÌNH PHÙNG , PHAN TRỌNG TUỆ , PHAN ANH ,
PHAN MỸ... ) ; Họ Mai ( MAI THÚC LOAN ) , Họ Hoàng ( HOÀNG CAO KHẢI.. ); Họ Bùi
( BÙI DƯƠNG LỊCH ) , họ Trần ( TRẦN PHÚ...); Họ Kiều ( KIỀU CÔNG TIỄN ) ; Họ
Đinh ( ĐINH LIỆT , ĐINH LỄ ) , Họ Lê ( LÊ BÔI ) ; Họ Nguyễn ( NGUYỄN BIỂU )
......
Còn như tiến
sĩ, khoa bảng, danh nhân chí sĩ thời nào cũng có, kể không hết được. Một cách
hình tượng, về Tùng Ảnh, nhà thờ họ còn nhiều hơn nhà dân! Là bởi họ nào cũng lớn,
cũng bề thế, uy nghi. Ở vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa như thế, địa linh
sinh nhân kiệt cũng là phải.
Xã Tùng Ảnh
- Chính từ hình ảnh bóng cây tùng soi xuống dòng sông La mà thành địa danh Tùng
Ảnh. Xa nữa là dãy núi Thiên Nhẫn, nơi ẩn cư của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp (Đức
Thọ xưa cũng thuộc phủ La Sơn). Ngay tại bến Tam Soa này đã diễn ra nhiều trận
đánh ác liệt của cả thủy quân lẫn bộ quân của nghĩa quân Lam Sơn chống giặc
Minh xâm lược. Đến thời thực
dân Pháp xâm lược, đóng đồn tại Linh Cảm kiểm soát cả một vùng rộng lớn. Tuy
nhiên, ở giai đoạn này, Đức Thọ nói chung và Tùng Ảnh nói riêng ít bị bom đạn
tàn phá bởi triều đình cho rằng đây là vùng thuần nông, đất đai trù phú, tiện
cho việc truyền đạo. Có lẽ vì thế mà người dân nơi đây được yên ổn làm ăn, học
hành? Đích thân vua Bảo Đại đã từng "Bắc tuần" đến Đức Thọ. Chuyện rằng hồi
ấy các cô gái theo đạo được chọn làm người tặng hoa. Còn trai tráng khỏe mạnh
không theo đạo thì được lựa chọn và phải luyện tập nghi thức trước hàng tháng,
rất vất vả. Lại nữa, vì chen lấn, xô đẩy để xem vua đến dự lễ khánh thành sân vận
động Đức Thọ, tường bị đổ, một em học sinh chết và nhiều người khác bị thương.
Đến nay vẫn
còn những vần thơ chế giễu (Phan Điện?): "Xiếc trò Đức Thọ có hay
không?/ Ếch nhái phen ni thấy được rồng/ Gái đạo phát tài cười tủm tỉm/ Trai
lương phải tội chạy long đong/ Mề đay xiết kể ơn Hoàng đế/ Tường đổ thương ôi
lũ tiểu đồng".
Địa danh Quần Hội nghe đâu cũng bắt nguồn từ đấy,
trước kia là làng YÊN VIỆT ; sau đổi thành Châu Phong , rồi Đức Phong và cuối
cùng là Tùng Ảnh. Từ thời xa xưa cho đến ngày nay , Xã Tùng Ảnh luôn có người học
giỏi , thi đậu cao , rất nhiều người có bằng cấp Tiến sĩ. Làng Đồng Thái - Xã
Tùng Ảnh - Huyện Đức Thọ , trước kia là Phủ Đức Thọ - Tổng Việt Yên. Đứng trên đồi Quần Hội có thể bao quát
toàn bộ bến Tam Soa, nơi hội tụ của con sông Ngàn Sâu chảy qua Hương Khê, Vũ
Quang và nhập với Ngàn Phố từ Hương Sơn đổ về thành dòng sông La thơ mộng. Tam
Soa từ nghĩa địa phương tức là 3 dải lụa. Xuống dưới nữa, sông La lại nhập với
sông Cả thành dòng sông Lam. Đứng từ nơi an táng Tổng Bí thư Trần Phú nhìn ra,
chếch bên tay phải là ngọn Tùng Lĩnh.
Làng này
tuy ở một vùng quê hẻo lánh song rất trù phú , đường là được lát bê tông , nhà
cửa khang trang , đẹp đẽ.
Bên cạnh
làng Đồng Thái có một làng nhỏ tục tên gọi là làng Nồi. Địa hình của làng này
như một cái nồi úp trên mặt nước vì bốn phía là sông và cánh đồng . Làng này từ
xưa đã truyền tụng câu : " Đầu làng là Tụng , Giữa làng là Họa , cuối làng
là bần ". Bởi vì những hộ của phần đầu làng có truyền thống kiện tụng lâu
dài , giữa làng thì xẩy ra rất nhiều tai họa quái gở , cuối làng vì cờ bạc nên
nghèo mạt rệp. Hai xóm Yên hội Đông và Yên Hội Tây chuyên sống bằng nghề cờ bạc.
Tuy nhiên
, rất ít người , kể cả người của làng Đồng Thái biết rằng : Những dòng họ của Đồng
Thái phát mạnh mẽ và lâu dài đến như vậy không phải do đất Đồng Thái.
Xã Tùng Ảnh
( là hình bóng của cây thông in trên núi ) , trước kia là làng YÊN VIỆT ; sau đổi
thành Châu Phong , rồi Đức Phong và cuối cùng là Tùng Ảnh. Từ thời xa xưa cho đến
ngày nay , xã Tùng ảnh luôn có người học giỏi , thi đậu cao , rất nhiều người
có bằng cấp Tiến sĩ. Làng Đồng Thái - Xã Tùng Ảnh - Huyện Đức Thọ , trước kia
là Phủ Đức Thọ - Tổng Việt Yên.
Làng này
tuy ở một vùng quê hẻo lánh song rất trù phú , đường là được lát bê tông , nhà
cửa khang trang , đẹp đẽ.
Trở lại với vùng quê Đức Thọ. Xung quanh các dãy núi
của Linh Cảm , hiện nay Nhà nước đã đầu tư kinh phí rất lớn để xây dựng và tôn
tạo lại mộ của PHAN ĐÌNH PHÙNG và của TRẦN PHÚ. Một con đường rất đẹp được hoàn
thành từ ngã tư Đức Thọ vào Linh Cảm. Mộ của PHAN ĐÌNH PHÙNG được đặt trên một
quả núi đất ( Nhánh Thanh Long ) , có địa thế rất đẹp. Đồng thời với mộ của
PHAN ĐÌNH PHÙNG , mộ của Cao Tăng và mộ của vợ PHAN ĐÌNH PHÙNG cũng đang được
tôn tạo ( Các bạn coi hình ở trên ). Mộ của TRẦN PHÚ cũng được xây dựng rất
đẹp.
Trong khu Từ đường của dòng họ Kiều , tại làng Đồng
Thái , có một ngôi mộ của con trai Quan Đại thần HOÀNG CAO KHẢI là HOÀNG TÍCH
TRÍ. Hiện nay ngôi mộ này đang bị sụp lở nghiêm trọng , không người thờ cúng.
Chỉ đôi khi dòng họ Kiều tế lễ , họ mới thắp cho vài nén nhang. Hiện nay ,
không biết thân nhân của họ Hoàng ly tán đi đâu , nếu đọc được những dòng này ,
xin liên hệ với dienbatn để tìm cách tôn tạo lại.
Mộ Hoàng Tích Trí.
Vùng đất này còn sản sinh ra nhiều nhân tài cho Đất
nước về sau này. Vì lý do giữ những Huyệt vị kết phát cho Đất nước , người viết
xin không phân tích cụ thể hình thế và vị trí cụ thể của Long Huyệt này , chỉ
biết rằng Long Huyệt này sẽ còn kết phát lâu dài và sản sinh ra nhiều Nhân tài
cho nước Việt.
Cổng làng khoa bảng Đông Thái, xã Tùng Ảnh.
Ảnh: Đức Hùng.
Ở làng Đông Thái và một số làng khác, đường
bê tông được con em thành đạt góp sức xây mới, cây cối luôn được cắt tỉa gọn
gàng. Ảnh: Đức Hùng.
Ở thôn Châu Nội, nhiều gia đình không xây bờ rào bê tông mà trồng
cây giới và cây chè mạn hảo, cắt tỉa công phu. Đây là nét độc đáo rất khó gặp ở
các làng, xã ngày nay.
Tùng Ảnh.
Mỗ Phan Đình Phùng.
Tuy nhiên
, rất ít người , kể cả người của làng Đồng Thái biết rằng : Những dòng họ của Đồng
Thái phát mạnh mẽ và lâu dài đến như vậy không phải do đất Đồng Thái.
Thực chất , đất của làng quê Đồng Thái chỉ là được
hưởng những khí chất tốt đẹp của một vùng đất gần núi , nơi là nghĩa trang
chung của cả làng. Vùng đó chính là làng TRINH NGUYÊN , nơi đã hội tụ tất cả
những Linh khí của cả vùng Đức Thọ. Nơi đây cũng là nơi có phần mộ của Tổng Bí
thư Trần Phú. Nhìn chung Long mạch của vùng này , là nơi dùng chân của hành
Long , xuất phát từ Tây Tạng của Trung Quốc , vượt miền Tây Bắc , theo dọc dãy
Trường Sơn , một chi Long theo hai con sông Ngàn Sâu , Ngàn Phố về hợp lưu tại
bến Tam Soa - Linh Cảm. Nhìn chung địa hình vùng này , tất cả các núi đều đã
tròn đầu , có hình dáng xinh tươi , đẹp đẽ ( Thường các bạn cứ để ý sẽ nhận
biết được rằng : Khi mà các dãy núi đang hành Long thì có dạng nhấp nhô liên
tục , đỉnh thường nhọn . Khi mà núi thưa dần và tròn đầu , hình dáng đẹp , cây
cối xanh tốt là nơi mà Long mạch sắp dừng và kết Huyệt ). Long mạch vùng Linh
Cảm cũng vậy , tất cả các núi đều tròn và cách quãng theo từng đốt ( Mỗi đốt sẽ
kết phát cho một Đời ). Phía Thanh Long có rất nhiều vòng ôm vào cuộc đất kết
phát Long Huyệt. Tuy nhiên đầu Thanh Long lại có chiều hướng duỗi ra xa , nên
đàn ông ( Thanh Long là Dương , chủ về đàn ông ) phải ly Quê mới có thể thành
tựu công danh được , những người ở lại tuy học vấn uyên thâm , nhưng bất quá
chỉ là một anh Đồ làng. Nhánh Thanh Long có tới chín đốt , nên Long Huyệt này
có thể kết phát tới 9 đời.Tuy nhiên , hiện nay vì tình trạng khai thác đất làm
đường ( đất đỏ ) , quá tràn lan mà vô tình người ta đang tàn phá Long mạch này
một cách trầm trọng.
Nhánh Bạch Hổ bao gồm nhiều quả núi đất hình dáng tròn
trịa như những trái Châu , lại có xu hướng ôm cuộn vào Long Huyệt . Bạch Hổ là
tượng Âm , tượng trưng cho phái nữ. Do vậy , Phụ nữ ở vùng Linh cảm - Đức thọ ,
vừa đẹp , vừa giỏi lại rất đảm đang.
Chính giữa của Tiểu Minh đường có một hồ nước rộng và
rất đẹp ( Các bạn xem hình ở trên ). Trung Minh đường và Ngoại Minh đường là
một vùng đất rộng lớn , xanh ngát màu của những ruộng lúa. Phía ngoài lại có nhiều
sông lớn bao bọc hình vòng cung , chảy nghịch thủy , đem lại nhiểu Linh khí cho
Long Huyệt.
Dienbatn
xin chép thêm một bài nói về Phong thủy của Đức Thọ sưu tầm được Tuy chưa chính
xác hoàn toàn và không nhớ nguồn:
“Đức Thọ
sinh lắm nhân tài. Long mạch phát nguyên từ tổ sơn Hymalaya kẹp giữa biển Đông
và sông Mekông chạy qua Trung Quốc, Lào đi vào Việt Nam. Tổ sơn Long Lâu Bảo Điện,
Thiếu tổ có dạng Thuỷ Tinh dẫn mạch chạy xuống phía nam bắt đầu phân nhánh.
Nhánh Thứ nhất uốn lượn chạy về cuối tỉnh Thanh Hoá rồi vào Nghệ an phân nhánh
kết tại Quỳnh lưu, Thanh Chương và Nam Đàn. Nhánh chính tiếp tục chạy xuống
phía nam rồi phân nhánh lần thứ hai, long mạch của dãy Trường sơn phân nhánh chạy
ra biển ở khu vực đèo Ngang bác hoán chạy ngược theo sông Ngàn Sâu về Tùng ảnh
Đức Thọ kết huyệt. Huyệt này nằm bên Tả ngạn của sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố và
sông La. Tại đây các con sông hợp lưu uốn lượn đẹp như bức tranh thuỷ mạc, nước
sông trong vắt hữu tình nên phụ nữ nơi đây nổi tiếng xinh đẹp với nước da trắng
và mái tóc dài. Xét trên phương diện phong thuỷ đất này có những cách hay sau:
1- Long mạch
quí Long Lâu Bảo Điện bác hoán sinh chi cước song nghênh song tống. Long dẫn mạch
ra tận mép sông Ngàn sâu nên đạt tiêu chuẩn quân bình âm dương.
2- Phía
bên kia sông có một dãy núi đồn khí chầu về tác án
3- Sông
Ngàn Phố uốn khúc chạy từ Hương Sơn về hoà với sông Ngàn Sâu nên đắc cách nghịch
thuỷ uốn khúc chiều đường.
Dãy Trà
Sơn của Hà Tĩnh khởi đầu từ ngọn Tùng Lĩnh - Ngã ba sông Linh Cảm, đi theo hướng
Đông Nam - Tây Bắc, kéo dài trên địa phận 5 huyện: từ Đức Thọ, Can Lộc, Thạch
Hà đến Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và nối với Đèo Ngang. Theo hướng ấy, Trà Sơn bắt đầu từ
đồi núi thấp, càng đi vào núi cao dần, chạy thành nhiều mạch song song. Đến
vùng Truông Bát, dãy núi hạ thấp và qua đoạn ấy, núi lại cao dần. Nếu như ở Đức
Thọ, ngọn Bò Đực chỉ cao khoảng 200m thì núi Bạc ở Cẩm Xuyên, núi Mộc Lèn ở Kỳ
Anh cao đến gần 500m.
Trong dãy
Trà Sơn có rất nhiều danh lam thắng cảnh được sử sách ghi chép, lưu truyền.
Tiêu biểu phải kể đến núi Tàng, núi Vua, núi Am. Bởi ở đây, có những câu chuyện
về sự tích Hoàng hậu Bạch Ngọc rồi 2 cha con Trạng nguyên họ Sử đến khai hoang,
mở đất lập nên làng Huệ Ốc, Phụng Công xưa.
Chữ Đức
trong từ Đức Thọ có nguồn gốc từ Cửu Chân, Cửu Đức, Đức Châu, Đức quang, Đức Thọ.
Huyện Đức Thọ nay đông bắc giáp huyện Hưng Nguyên ngăn cách bởi sông Lam và Huyện
Nam Đàn, Đông giáp huyện Nghi xuân và Huyện Can Lộc, Nam giáp huyện Hương Khê,
Tây giáp huyện Hương Sơn. Huyện có sông La chảy ở phía Bắc huyện ra sông Cả
(sông Lam) ở phía thượng lưu chợ Tràng. Huyện lị trước ở Yên Hồ, nay dời về chỗ
cũ ở cạnh sông La và đường xe lửa. Nay ở Linh Cảm trước có đường quốc lộ 8 chạy
qua nối liền Vinh với nước Lào. Linh Cảm hồi thuộc Pháp là địa lý hành chính của
Tỉnh Hà Tĩnh, nằm ở ngã ba sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu và Sông La. Ngày xưa có đền
thờ Đinh Lễ, đóng quân ở đó hồi kháng chiến chống Minh. Hai xã Vân Tràng và
Trung Lương có nghề rèn được huy động đúc súng kiểu 1874 cho nghĩa quân Hương
Khê. Tại Linh Cảm sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng, Nguyễn Thân
cho dựng bia kỷ công, năm 1918 bị nhân dân đánh đổ. Linh Cảm bị Pháp ném bom
năm 1949 phá trụi đồi thông, làm chết hàng trăm người...
Các nhân vật
sinh ra tại Đức Thọ xưa có: Phan Anh, Phan Điện, Nguyễn Biểu, Đoàn Tử Quang,
Hoàng xuân Hãn, Lê Huân, Lê Thước, Bùi Thúc Kiên, Bùi Dương Lịch, Hoàng Cao Khải,
Phan Trọng Mưu, Trần Phú, Phan Đình Phùng, Lê Văn Quyên, Đào Tiêu, Phan Tam
Tĩnh, Phan Đình Tuyển, Hoàng Trừng, Hoàng Ngọc Phách, Phạm văn Huyến, Thái can,
Phạm khắc Hoè. Trong số những người nổi tiếng hiện nay, từ huyện Đức Thọ có:
Giáo sư, TSKH, Viện sĩ Vật lý Đào Vọng Đức; Nữ luật sư Ngô Bá Thành; Giáo sư
văn học Hoàng Xuân Nhị; Giáo sư văn học, nhà giáo nhân dân Nguyễn Kim Đính;
Giáo sư- nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến; Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Trần
Vĩnh Diệu (anh hùng lao động); Giáo sư, nhà sinh học Võ Quý; Giáo sư lâm nghiệp
Lê Đình Khả; Giáo sư toán học Đinh Văn Huỳnh (Đại học Ohio, Ohio, Hoa Kỳ); nhà
văn hóa Hà Xuân Trường; Giáo sư- nhà Đông Nam Á học Phạm Đức Dương; Võ Hồng
Phúc (Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư); Giáo sư Hà Học Trạc, (Chủ tịch Liên hiệp
các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn
Từ điển bách khoa Việt Nam); Tiến sĩ Hà Học Hợi (Phó Trưởng ban Tư tưởng Văn
hóa Trung ương), Đạo diễn sân khấu Nghệ sĩ Nhân dân Phạm Thị Thành, Nhà báo Phạm
Khắc Lãm (nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam);luật sư Trịnh Hồng
Dương (nguyên Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam) Giáo sư, bác sĩ, Anh
hùng Lao động Trần Quỵ (Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai); Giáo sư Mai Trọng Nhuận
(Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội); Giáo sư, Tiến sĩ, Nghệ sĩ nhân dân, Nhà
giáo nhân dân, Anh hùng lao động Trần Bạch Thu Hà (Nguyên Giám đốc Nhạc viện Hà
Nội), nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị; Nhà nhiếp ảnh Phan Thoan (tác giả bức ảnh O
du kích nhỏ)... và rất nhiều nhà khoa học, nhà văn hóa, chính khách và doanh
nhân nổi tiếng khác.
Đức Thọ có
đặc điểm Phong thuỷ gì mà sinh lắm nhân tài như vây? Long mạch phát nguyên từ tổ
sơn Hymalaya kẹp giữa biển Đông và sông Mekông chạy qua Trung Quốc, Lào đi vào
Việt Nam. Tổ sơn Long Lâu Bảo Điện, Thiếu tổ có dạng Thuỷ Tinh dẫn mạch chạy xuống
phía nam bắt đầu phân nhánh. Nhánh Thứ nhất uốn lượn chạy về cuối tỉnh Thanh
Hoá rồi vào Nghệ an phân nhánh kết tại Quỳnh lưu, Thanh Chương và Nam Đàn.
Nhánh chính tiếp tục chạy xuống phía nam rồi phân nhánh lần thứ hai, long mạch
của dãy Trường sơn phân nhánh chạy ra biển ở khu vực đèo Ngang bác hoán chạy
ngược theo sông Ngàn Sâu về Tùng ảnh Đức Thọ kết huyệt. Huyệt này nằm bên Tả ngạn
của sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố và sông La. Tại đây các con sông hợp lưu uốn lượn đẹp
như bức tranh thuỷ mạc, nước sông trong vắt hữu tình nên phụ nữ nơi đây nổi tiếng
xinh đẹp với nước da trắng và mái tóc dài. Xét trên phương diện phong thuỷ đất
này có những cách hay sau:
1- Long mạch quí Long Lâu Bảo Điện bác hoán
sinh chi cước song nghênh song tống
2- Long dẫn mạch ra tận mép sông Ngàn sâu nên
đạt tiêu chuẩn quân bình âm dương.
3- Phía bên kia sông có một dãy núi đồn khí chầu
về tác án
4- Sông Ngàn Phố uốn khúc chạy từ Hương sơn về
hoà với sông Ngàn Sâu nên đắc cách nghịch thuỷ uốn khúc chiều đường.
5- La tinh đột khởi giữa dòng hãn khí
6- Nội thuỷ là sông Linh Cảm dẫn mạch nhập
dòng hãn khí
7- Sông cắt ngang ôm lấy long mạch khuất khúc
mấy vòng nước trong và sâu hợp với sông La chạy ra biển.
8- Cửa khẩu ngoài có La tinh chấn giữ còn có
Thuỷ Khẩu Sa là núi Hồng lĩnh án ngữ.
9- Dư khí Hồng Lĩnh của long mạch còn kết bàng
huyệt ở làng Tiên Điền chứng tỏ cho sự xung mãn của long mạch. Hòn Ngư ngoài của
biển là chốt chặt cuối cùng minh chứng cho một quí long dù chỉ là hình tượng
Đây là một
cuộc đất rất hoàn mỹ về mặt Phong Thuỷ dù chỉ là một “tiểu tụ” trên dãy Trường
Sơn hùng vĩ. Một chứng nghiệm Phong Thuỷ không thể bàn cãi về cuộc đất nơi sơn
cốc.
Một khu vực
nữa của Huyện Đức Thọ cũng có njhiều Huyệt kết lớn là Xã Đức Hòa – Đức Thọ.
PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 7.
PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.
PHẦN II. PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH. ( Tiếp theo bài 6 ).
Sông Ngàn Sâu.
Theo sách
cổ ( Nghệ An ký,Yên Hội thôn chí,Đại Nam nhất thống chí ) là thượng nguồn Sông
La. Các sách ấy đều chép đại lược ; Sông La bắt nguồn từ núi Giăng Màn. Các khe
suối đổ vào Rào Săn ở Bản Giàng, chảy theo hướng Nam, rồi quanh co chuyển sang Đông,
gọi là Thâm Nguyên ( Ngàn Sâu ). Đến Phúc Lộc ( Nay là Xã Phúc Trạch ), sông
chuyển sang hướng Bắc, có Rào Cháy bên Hữu ngạn, Rào Tiêm, Rào Trúc ( Hay Rào Nổ
) bên Tả ngạn đổ vào. Tiếp đó, sông chảy theo triền núi, uốn mình 9 lần, dân
gian gọi là “ Chín khúc Huổi Nai “ . Các sách có chép “ Cửu khúc Hội lai “ hay “
Cửu khúc Giang “, lại có tên “ Thanh Long Giang , vì dòng chảy lượn như con rồng
xanh. Đến cuối Xã Bảo Khê , có sông Ác ( Ngàn Trươi ) từ tả ngạn đổ vào. Sông
chảy tiếp lên hướng Bắc, hội với sông Ngàn Phố ở ngã ba Phủ ( Tam Soa ).
Sách Đại
Nam nhất thống chí chép là “ Ác Giang “ vì sông này khí lam chướng rất nặng.
Theo tài liệu của Xã Hương Quang , sông Ngàn Trươi bắt nguồn từ Rào Ngang, Rào
Bần ở biên giới, chảy qua cụp Lim Cà Tỏ, Thác Làng , qua các xóm Kim Quang, Kim
Thọ, Tân Quang , có chiều dài 45 km , rồi chảy qua Xã Hương Điền . Lại có Sông
Con từ Khe Công , Khe Sáp qua Rú Mọn Dừa xuống Đá Chông , Đượng Cao , ra Cửa
Trui , nhập vào sông Ngàn Trươi , dài 34 km . Theo bản đồ và tài liệu khác thì
các Khe Sa Vang, Dáo Đồng chảy qua núi Cẩm Lĩnh ( Xã Hương Quang ) có thên là Rào
Rồng , Rào Vực là đầu nguồn sông Ngàn Trươi.
Vào Kỷ đệ
tứ, Hà Tĩnh bấy giờ đã là đất liền, nhưng vùng Hương Khê vẫn là một thung lũng
, một hồ nước bao la. Sau đó khi Lục địa khởi chuyển, tạo nên một đường đứt gãy,
nước hồ chảy qua đây đổ xuống sông Ngàn Cả. Đường thoát nước này chính là sông
Ngàn Sâu. Dấu vết của dãy hồ xưa là Ao Mặn ( Hàm Trì ) ở Bình Bản ( Hòa Hải ),
và lớp than bùn được phát hiên , có nơi khai thác như ở mỏ than Đồng Đỏ. Một phần
của lưu vực sông Ngàn Sâu xưa là đất Tồn Bồn Man của Ai Lao, mới xin phụ thuộc
vào nước ta từ đời Lê Nhân Tông ( 1448 ) , gồm 12 Sách, Động, được đổi thành Châu
Quỳ Hợp.. Đời Nguyễn là Tổng Quỳ Hợp, nay là đất các Xã Hương Lâm, Hương Liên,
Hương Vĩnh, một phần Xã Phú Gia, Hòa Hải ( Huyện Hương Khê ), và Xã Hương Quang
( Huyện Vũ Quang ). Hiện nay còn có các Tộc người Chứt, người Mã Liềng ( Hay A
lem, Cọi, Mày ) ở Bản Giàng I, Bản Giàng II ( Hương Lâm, Hương Vịnh), bản Rào
Tre ( Hương Liên ) và nhiều người Lào ở Xã Hương Quang. Ở Xã Sơn Kim Huyện Hương
Sơn cũng có một nhóm người Cọi, thường gọi là “ Cọi Nác Ngang “, và nhiều nhóm
người Lào. Theo các nhà nghiên cứu thì nhóm người Chút , người Mã Liềng ( Cọi
), có gốc gác từ người cổ Việt – Mường , sống cách ly lâu đời thành người : Thiểu
số “.
Trong các
lưu vực của sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, dưới rừng Giăng Màn xưa là “ Đường Thượng Đạo
“- mạng đường mòn xuyên rừng thời chống Mỹ , đã trở thành đường mòn Hồ Chí Minh
, hiện tại là đường xuyên Việt Hồ Chí Minh. Sang lào, ngoài đường Đèo Keo Nưa (
Cầu Treo ), ngày trước còn có con đường từ thượng nguồn Rào Tiêm, qua Trìm, Trẹo,
do Vinh Quận công Trần Phúc Hoàn mở đời Lê Cảnh Hưng . Dây là con đường thông
hiếu và buôn bán quan trọng giữ Quy Hợp và Lạc Hoàn trong nhiều thế kỷ, nhưng rất
hiểm trở . “ Động Trìm, Động Trẹo thì cao – Nác Săn, Mòi Thì nậy biết làm sao hỡi
chàng “. ( Ca dao ).
Vùng Ngàn Trươi
có chiến khu Vụ Quang , nổi tiếng cuối thế kỷ XIX, là “ An toàn khu “- Nơi in
giấy bạc cụ Hồ và sản xuất vũ khí thời kháng chiến chống Pháp ( 1947-1952 ). Ngày
nay , dự án xay dựng công trình thủy lợi Ngàn Trươi – Cẩm Trang đang bắt đầu thực
hiện .
Một kỳ
quan trong dãy Giăng màn là Khe Vũ Môn , hay Thác Vũ Môn, còn gọi là Khe Bộc Bố
, vì từ xa trông như tấm vải giăng, Trong vùng núi cao Trại Trụ , gần biên giới
Việt – Lào, mé Tây Bắc Xã Phú Gia ( Hương Khê ), có một nơi gọi là “ Rào 3 ngọn
“. Đó là nơi hợp lưu của 3 con khe ( Hay Rào ), Khe Trình, Khe Trửa, Khe Cam ,
chảy vào Rào Trụ , tức là thượng nguồn Rào Tiêm. Khe Rình, Khe Cam , một từ ngọn
Đỉnh Trụt ( 1146 m ), một từ ngọn Bắc Thang ( 1295 m ) đổ ra, còn Khe Trửa ( Rào
Trửa ) lần ngược lên Rú Động Cơn Bộp là Thác Vũ Môn.
Thác Vũ Môn. Ảnh: Trần Quốc Bảo
Tên gọi Vũ
Môn ( Cửa Vũ ) và cả truyền thuyết “ Cá hóa Rồng “ đều là điển tích Trung Hoa ,
không rõ được vận dụng vào đây từ bao giờ, mà các sách viết từ thế kỷ XVIII.
XIX đều thấy đã chép “ Thác Vũ Môn 3 cấp nước vọt , đồn rằng chốn ấy bến Rồng “
( Hoan Châu phong thổ ký ), “ Trong vùng cây cối xanh tốt ,có một dải trắng dài
độ vài ba trăm trượng , tục truyền là chộ cá hóa Rồng ” ( Nghệ An Ký ); “ Suối
Vũ Môn ở Huyện Hương Sơn , tương truyền cá lên đây thì hóa Rồng “ ( Lịch triều
hiến chương loại chí ); “ Trên núi có thác ba bậc , mỗi bậc đến vài ba trượng ,
đứng ngoài mấy trăm dặm , trông như một làn khói đứng sững trong núi xanh “ ( Đại
Nam nhất thống chí ); “ Từ ngoài trăm dặm , nhìn lên thấy một dải khói đặc , dựng
đứng giữa sườn núi xanh , màu thẫm. Tương truyền đến ngày 4/4, cà Gáy nhẩy lên
hóa Rồng” ( Đồng Khánh địa dư chí ).
Đầu Thế kỷ
XX, người Pháp đã chú ý đến nguồn lợi kinh tế của Thác Vũ Môn . Đó là nguồn “vàng
trắng “( Huille blanche ), cung cấp điện lực và là nơi khu nghỉ mát chung cho các
tỉnh phía Bắc xứ Trung kỳ.
Ngày nay
Thác Vũ Môn , được coi là một kỳ quan , một danh thắng. Thác ở độ cao 1300 m , đường
lên hiểm trở ,lắm sên, vắt,mòng mòng ,sách cổ cho là “ chưa hề có dấu chân người
“. Thật ra từ lâu , những thổ dân đi tìm Trầm, đi lấy mật ong đã đến đây. Sau này
những công nhân lâm trường Trại Trụ , các chiến sĩ công an Biên phòng ,và cả những
nhà nghiên cứu Trần Văn Quý , Nghiêm Sĩ Sành …đều đã đến đây . Nhà giáo Trần Văn
Quý có những ghi chép khá kỹ về Thác Vũ Môn.
Lần theo
ngọn Khe ( Rào ) Trửa , chảy ngoằn nghèo giữa hai triền núi đá Cù Liên bên trái
Đá Diệp bên phải , ngược lên thì chạm đến bậc 3, bậc cuối của Thác Vũ Môn . Nước
chảy ầm ầm, vách đá dựng đứng không thể bám vào đâu mà leo lên được nữa. Muốn
chiêm ngưỡng toành cảnh , phải vượt qua ngọn Trửa , trèo lên mái Đình Trụt ở độ
cao 700 m trở lên. Khoảng từ 500 m trở xuống , lối đi cỏ ngập đến đầu gối, thấy
có dầu chân nai, hoẵng, khỉ , lợn rừng …nhưng đáng sợ nhất là vắt đen và ruồi
trâu ( Mòng mòng ). Ở độ cao 800 m trở lên ở đỉnh Trụt , nhìn sang tay phải bên
kia ngọn Trửa , khoảng trên 1 km , đã thấy nước thác ở bậc 1 “ Chảy chậm và nặng
như chì “. Lên tới Hác Cạn ( 1000 m ), thấy rõ bậc 2. Xa xa đã thấy hiện ra toàn cảnh Vũ Môn “ Hùng
vĩ như một thành cổ nằm giữa rừng xanh bao la”. Ở đây , cây cối thưa thớt , hầu
như rất ít cây to, không còn rừng tre, nứa, bãi cỏ, mặt đất phủ một lớp rêu và
lá mục …nhưng lại rất nhiều vắt xanh và ong vàng. Đặc biệt ở đây rất mát mẻ, giữa
Tiết Hạ chí , nhiệt độ cũng chỉ 20 độ C. Từ Hác Cạn , men theo sườn Rú Bắc Thang,
đi về hướng Nam thì tới đầu thác . Khu vực này toàn núi đá chập chùng , cao chất
ngất. Hai dòng Khe từ Đỉnh Trụt và Rú Bắc Thang , chảy đổ xuống một vực đá không
sâu rộng lắm. bám vách đá leo xuống bậc 1 . Liền dưới vách đá là một khoảng rộng
khá bằng phẳng, không cây cối , nhưng rợp bóng râm của vách núi , mát rượi. Một
tảng đá rộng như một cái sân, mặt hơi gồ ghề , phủ đầy rêu xanh và một loại cây
người bản xứ gọi là “ Nành Anh “, mọc từng khóm theo các kẽ nút , trông như những
khòm trúc trồng làm cảnh. Tảng đá này có tên là “ Bàn cờ Tiên “. Không gian thoáng
đãng, cỏ cây chen đá, u tịch như sân chùa cổ. Từ bậc 1 này , nước đổ vào lòng máng
, do các tảng đá lớn chồng ghép thành cái ống khổng lồ , vọt mạnh ra đổ vào không
trung xuống bậc 2, rồi lại phóng xuống bậc 3. Đây là hình ảnh mà sách xưa mô tả
“ Như một làn khói sừng sững giữa núi xanh “, “ Như tấm vải treo lơ lửng “ ( Bộc
Bố ). Bậc 3 không còn là thác , mà là dòng khe chảy ngoằn nghèo giữa những tảng
đá nằm ngổn ngang. Đứng ở “ Bàn cờ Tiên “ – Chân bậc 1, hoặc chân bậc 2 nhìng
sang trái , thấy dãy Bắc Thang dựng đứng
, cao ngất, với mái đá nặng nề…trấn ngự toàn cảnh khu Vũ Môn. Dưới mái đá treo
lơ lửng những vệt đốm đốm. Đó là những tổ ong mật rộng như những chiếc chiếu,
nhưng từ bậc 2 nhìn lên chỉ thấy bằng bàn tay. Dân đi mật , nối dâi song ( Mây
rừng ) , thòng từ đỉnh núi , theo dây leo xuống đánh đu , bám vào tổ ong lấy mật.
Xin theo dõi tiếp BÀI 8. Thân ái. dienbatn.
PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 6.
PHẦN I. PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.
PHẦN II. PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.
I.MỘT SỐ KHÁI NIỆM.
Sau rất nhiều chuyến điền dã khảo sát Phong thủy âm trạch , dienbatn còn
giữ được một số tư liệu về những ngôi mộ cổ do tiền nhân đặt từ xưa . Nay đăng
lại trong Blog này làm tư liệu và mong rằng những Thày Địa lý của Việt Nam hiện
nay nghiên cứu và hy vọng sẽ rút ra được những điều bổ ích cho mình , ngõ hầu
có thể giúp cho những thân chủ của mình một cuộc sống an vui , hạnh phúc.
Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc
sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh
phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng
thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là
con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khí của chính mình.Các Phong Thủy
Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng
linh nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là
Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả
tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm
kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm
căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo
đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện
lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ
quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con
cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ
là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ
phải giành những huyệt Đế Vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì
mà họ chỉ cho ai ?
Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên
theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an
táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu
lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả
trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân, tất phải có Quả; nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm
khi chiêu lấy họa phúc. Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa
táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.
Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng
:"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu
của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể
cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách
Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám
dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không
dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người
xưa dạy quả không sai.
PHONG THỦY.
Phong : Là
Gió.
Thủy :Là
nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh
túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch
chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa
khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với
nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy
rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một
Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là
Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh
Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách
"CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết
:"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng Đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long
môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch
sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ
Nam chuyển hướng lên Đông Bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các
núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất
hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn
phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn
chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc
).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết
thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng
:"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý
châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua
cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành
Linh bảo địa".
Nền Phong
thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên, ông cha truyền khẩu,
bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc.
TÍCH ĐỨC
HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT.
Sách có
câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".
Người người
đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi, nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy
đủ, công danh hiển hách, vợ đẹp con ngoan, Gia đình hạnh phúc. Sách THÔI QUAN
THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần
đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh
khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này
thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc
Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời
);sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu
:"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa
mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có
phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt
lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với
Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà
quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được
hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết
gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những
huyệt Đế Vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai
?
Ví như
Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ
nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành
Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa
linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch
không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người muốn sao bằng
Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất
Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi
ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc.
HÌNH
-LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do
vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức
mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất
ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn
cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn
nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ".
Khi táng
di hài Tổ tiên, chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng, song
song với việc trên , người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ
của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm
tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có
Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân - Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa
phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu
nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ của ông
NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9
đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được
Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được.
Triệu
Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô
phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của
Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải
biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác
tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành
cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám
nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa
dạy quả không sai.
LONG MẠCH
TỔ :
Trong hình
là một tổ Rồng (Tổ Long ).Long mạch lớn nhất có hình được tô mầu chính là Tổ
Long - Dãy Hymalaya (Còn gọi là Hy Mã Lạp sơn ).Dãy Hymalaya tạo nên một vòng
cung dài trên 2400 Km qua các nước : Pakistan,Kashmir,Ấn độ,Tây tạng,Nepal,Sickim,Bhutan
bao bọc một vùng rộng gần 600.000 Km vuông.Đây chính là Tổ Sơn của cả Thế giới.Nước
Việt Nam ta chỉ nằm ở phía đuôi con Rồng này.Con Rồng tôi đề cập đến trong bài
viết chỉ là một con rồng nhỏ,nằm trong Tổ Rồng đó. Trên bản đồ hình một con rồng
rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của
thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và
đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã
kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu
10.800m).
Đó là tấm
sơ đồ Sơn Thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm Thế giới.
Bây giờ
xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt Nam phần Bắc bộ.
Các bạn
hãy đánh dấu vào các địa danh sau :Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh
Lai Châu,Sơn La,Hòa Bình,tới dãy Tam Đảo ,dọc theo sông Tô lịch ngày xưa,đi tiếp
tới Cổ loa,kéo dài đến sông Đuống,sông Thái Bình,ra tới Quảng Ninh và chìm xuống
Vịnh Hạ long.Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường.Đường cong đó chính là
nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ.Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng
Thanh long thuộc Dương.Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương .Các
Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.
Bây giờ ta
tiếp tục đánh dấu những địa danh sau : Xuất phát cũng từ những dặng núi cao
chót vót của các tỉnh Lai Châu,Sơn La,Hòa Bình ,đi tới dẵy núi Ba Vì, đi tiếp
qua Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, dọc theo dãy Trường Sơn Nối các địa danh đó
lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ
thuộc Âm,do vậy Long mạch này có hành khí Âm.Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều
có hành khí Âm . Tại Hà Tĩnh Long mạch chính ( Thiếu Long ) đều xuất nguồn từ dãy
Giang Màn . Một nhánh của Trường Sơn.
Đến đây ta
đã có thể hình dung được hai nhành Thanh Long, Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh
Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao Biền và sau này là sự san ủi của người Pháp
đã bị bế Khí rất nhiều.
Nhánh
Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn,bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ
có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.Ngược
lại ,nhánh Bạch Hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực
hiện,ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh Hóa,Nghệ An có một
con Rồng (Long mạch )nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.Hai nhánh Thanh Long
và Bạch Hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn,nay nhánh Thanh Long bị chặn lại một
phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch Hổ.Theo
nhận xét của người viết,kể từ đó về sau này,Thành Đại La bị mất Dương khí nên
chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng Long được xây dựng dựa
trên khí Âm của nhánh Bạch Hổ.Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng :Trải
qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền,các vị Vua,tướng tài giỏi,các
bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch Hổ
mà ra.Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.
II.LONG MẠCH HÀ TĨNH.
Tại Hà
Tĩnh Long mạch chính ( Thiếu Long ) đều xuất nguồn từ dãy Giang Màn . Một nhánh
của Trường Sơn.
Dãy
Pulaileng – Rào Cỏ , một phần của Trường Sơn Bắc, chạy dọc biên giới Việt –Lào
suốt 143 km, giữa hà Tĩnh và Khăm Muộn với những đỉnh cao phía Tây : Toóc nác
léc ( 1041 m ),Bà Mụ ( 1367 m), Giăng Màn ( 936 m). Rú Bành ( 646 m) ở Hương
Sơn ; Cẩm Lĩnh ( 973 m ) ở Vũ Quang; Rú Hóp ( 936 m ), và cao nhất là ngọn Rào
Cỏ (2286 m) ở Hương Khê. Núi trải rộng và thấp dần về phía Đông, đến tận Tả ngạn
sông Ngàn Sâu, kết thúc ở mút cuối dãy Đại Hàm , có độ cao trung bình 400-500
m. Phủ lên núi đồi là thảm rừng già bốn mùa xanh thẳm nên được gọi là núi Giang
Màn ( Khai trướng Sơn ).
Từ Giăng Màn
đổ ra hàng nghìn khe suối ,đầu nguồn của các Rào,các nậm, của các sông Ngàn Phối,
Ngàn Trươi,Ngàn Sâu.Thiên nhiên Giăng Màn hùng vĩ và là kho tài nguyên vô giá.
Khe Vũ Môn có thác Ba bậc…ngoài trăm dặm trông như một làn khói sừng sững trong
núi xanh, tương truyền hàng năm cứ đến ngày 4/4 cá Gáy vượt qua khe này sẽ được
hóa Rồng.( Đại nam Nhất Tống Chí) ,Ao nước
mặn - Hàm Trì : Chu vi chừng 40 trượng , nước sâu không thể lường,vị nước
rất mặn , là dấu vết của biển từ Đại Cổ sinh . Khe Nước Sốt ( Nậm Chốt ) : “ Nước
hơi đen bốc lên như khói , nóng có thể luộc gà được , là suối khoáng vào loại
nóng nhất (75 độ C), trữ lượng lớn nhất nước ta. Đặc biệt trong vườn Quốc gia Vụ
Quang, còn lại một phần rừng nguyên sinh,cho ta thất cảnh quan đại ngàn thời xa
xưa.
Triều Đông
dải Trường Sơn Bắc ( Trường Sơn Bắc là Sơn hệ nằm trên biên giới Việt – Lào),
phía Tây Hà Tĩnh, bắt đầu từ ngọn Pu Lai Leng – 2286 m tại Hương Khê, kéo dài tời
vùng Quy Đạt – Quảng Bình, do vậy cũng được gọi là Pu Lai Leng – Rào Cỏ , xưa còn
gọi là vùng núi Na Pê),từ biên giới Việt – Lào, tỏa xuống địa bàn 3 tỉnh phía Tây
Hà Tĩnh , bao phủ một thảm rừng già, dưới xuôi nhìn lên như một tấm màn xanh thẳm
nên gọi là Rú Giăng mản ( Khai Trướng Sơn ).
Theo “ Nghê
An ký “ của Bùi Dương Lịch viết về núi Khai Trương : “ Núi này là núi có danh
tiếng ở xứ Nghệ An. Cao lớn ngất trời, trông như một dải màn che …”. Sách “ Đại
Nam nhất thống chí “ cũng viết : “Núi Khai Trướng là danh sơn của tỉnh Nghệ An…núi
non trùng điệp trông như màn chăng nên gọi là Giăng Màn “.
Sách địa lý
hiện đại ghi nhận : “ Núi Giăng Mà ( Khai Trướng ), thuộc đới Trường Sơn, là tên
chung chỉ dãy núi đồ sộ chắn ngang phía Tây, hợp thành khởi điểm của Trường Sơn
Bắc, từ Hữu ngạn sông Lam chạy tới Quảng Bình rồi thấp xuống nối liền với dãy Hoành
Sơn “. (Nghiêm Sĩ Sành – Địa lý Hà Tĩnh ).
Đúng là có
một ngọn núi ở Xã Sơn Kim ( Hương Sơn ), có tên gọi là núi hay động Giăng Màn. “
Nhất cao là động Giăng Màn “. Còn dãy Giăng Màn , xưa nay sách vở cũng như
trong dân gian , đều cho là dãy núi cao ndọc biên giới Việt – Lào, từ Bắc đến
Nam Hà Tĩnh. Có hàng chục ngọn núi chọc trời, với độ cao 900-1800 m. Trong đó có
các ngọn Tốc Nác léc (1041 m ),Bà Mụ ( 1367 m ),Giang Màn ( 931 m), Cẩm Lĩnh
(973 m ),Rú Họp( 936 m ). Có rất nhiều ngọn núi bản đồ không ghi tên cao 1100 –
1780 m. Cao nhất là Rào Cỏ ( 2286 m). Núi hạ thấp dần về phía Đông , với nhiều
ngọn từ 500-800 m, nối với dải núi đồi thấp, kéo ra tận mé Tây sông Ngàn Sâu –
Là đường gianh giớivới dãy Trà Sơn ở bên kia.
Phủ lên lớp
núi đồi xưa kia, là thảm rừng nhiều tầng , nhiều lớp, với hệ thực vật vô cùng
phong phú. Ngày nay ở độ cao 1000 m trở lên trong Vườn Quốc gia Vụ Quang , vẫn
còn những khu rừng nguyên sinh, giữ được một phần quang cảnh xưa. Sinh sống dưới
thảm rừng là một hệ thực động vật vô cùng phong phú. Có nhiều loài được ghi
trong sách đỏ thế giới.
Dưới đại
ngàn Giăng Màn, hệ thống sông suối dày đặc. Riêng ở vùng núi Vũ Quang , cứ 1
km2 đất có 2 km sông suối. Sông Ngàn Phố , Ngàn Sâu đều bắt nguồn từ các dòng
suối trên núi cao hàng ngàn mét đổ xuống.
Thượng nguồn sông Ngàn Phố là Rào Nước Sốt ( Nậm Chốt ) và Khe Nước Sốt trong vùng Động Giăng Màn
và Rú Bành. Dọc đười đi, sông nhận nước của Rào Mắc ( Nậm Mắc ),Rào Qua , Khe
Tre, Khe Thi Lơi, Sông Con,, chi lưu lớn nhất từ vùng núi Tốc Nác Léc, Núi Bà Mụ
và nhiều khe, hói vùng Hương Sơn, rồi đổ ra sông La ở ngã ba Tam Soa.
Đầu nguồn sông Ngàn Phố. Nhìn hao hao giống đầu nguồn sông Tả Trạch ở Huế.
Một địa điểm
đáng chú ý khác là Khe Nước Sốt ( Hay Nước Nóng, Nậm Chốt, sách cổ ghi là Ôn
Tuyền) ở Xã Sơn Kim. “ Suối này từ trong núi chảy ra sông Ngàn Phố, có một quãng
nước đen , hơi bốc lên như khói “ ( Nghệ An ký ). Đây là một con suối khoáng có nhiệt độ 74 độ C, có nguồn phun lên khá sâu
với tốc độ nhanh , thuộc loại suối Sulfuro đơn , có thể dùng chữa bệnh ngoài
da, bệnh về hô hấp, bệnh hen xuyễn. Hiện nay ở đây đã có xí nghiệp sản xuất nước
khoáng “ Sơn Kim “, một sản phẩm được tín nhiệm trên thị trường trong nước.
Xin theo dõi tiếp BÀI 7. Thân ái. dienbatn.
PHÁC THẢO PHONG THỦY HÀ TĨNH. BÀI 5.
PHẦN I.
PHÁC HỌA CHÂN DUNG MỘT VÙNG ĐẤT.
“ Dưới các triều Lý – Trần là thời kỳ phát triển rực rỡ của nền văn hóa Đại Việt . Năm 1070 , vua Lý Thánh Tông lập Văn miếu thờ thánh Khổng phu tử . Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên gọi là khoa “ Tam trường “ , cũng gọi là khoa “ Minh Kinh “ . Năm 1076 Vua mở trường Quốc tử Giám ở Thăng Long cho con em quý tộc và quan chức .
Nếu lấy khoa bảng làm mốc thì đất Diễn , Hoan chậm hơn Thăng Long và phụ
cận tới 200 năm . ( Người đỗ đại khoa đầu tiên ở châu Diễn là Trạng nguyên Bạch
Liêu ( 1263 – 1315 , người làng Nguyễn Xã , châu Diễn . Sau khi đỗ không làm
quan , chỉ làm môn khách của thượng tướng Trần Quang Khải . Sau này ông sống và
dạy học ở Nghĩa Lư – Hải Đông – Hải Dương . Mộ ông táng ở chân núi Hồng Lĩnh
địa phận xã Thiên Lộc – Can Lộc – Nghệ An ). Người đầu tiên đỗ Trạng nguyên ở
châu Hoan là Đào Tiêu , khoa Ất Hợi , đời Trần Thánh Tông ( 1275 ), và Trạng
nguyên Sử Hy Nhan , đỗ khoa Quý Mão đời vua Trần Dụ Tông ( 1363 ) . Như vậy ,
cuối đời Trần ở vùng bắc Hà Tĩnh bậy giờ , chủ yếu ở hai huyện Chi La và Phi
Lộc , việc học hành đã khá thịnh…..
Môi trường tự nghiên nghiệt ngã đến mức giọng nói cũng không thể nhẹ nhàng
, trong trẻo . “ Em thường chê giọng nói quê anh – Cứ nặng trịch như là đá ấy !
Thử nghĩ xem , nếu không là vậy – Thì làm sao dằn được ngọn gió Lào “ ( Thơ TKĐ
). Hoàn cảnh xã hội nhiều lúc cũng hết sức thảm khốc . Theo cuốn “ Tên làng xã
Việt nam đầu thế kỷ XIX “ thì chỉ trong 2 huyền Kỳ Hoa, Thiên Lộc hồi đó đã có
10 xã , thôn trang phiêu bạt vì loạn lạc , đói kém, bệnh tật .
Sống trong một điều kiện tự nhiên và xã hội như vậy , đời này qua đời khác , con người giữ được bản tính chất phác , nhẫn nại , cần cù , tằn tiện , lạc quan , thẳng thắn và trở nên gan dạ , cứng cỏi , tháo vát , khắc khổ mà trượng nghĩa, chung tình . Có điều là cái hay , cái dở đều đậm nét hơn bình thường , đều có phần thái quá , cực đoan . Nhiều khi nhẫn nhục đến tự tin , tằn tiện đến keo kiệt , thẳng thắn đến bốp chát , gan dạ đến liều lĩnh , trung thành đến mù quáng …Không ít những trường hợp biểu hiện thái độ cực đoan ấy . Ví như có vị Cử nhân ghét Tây đến mức không dùng dầu tây ( dầu hỏa ) , giấy Tây , không cho con em đi học chữ Tây , không gả con gái cho người học trường Tây! Nhiều nhà Nho không thừa nhận Vua Đồng Khánh , có người cho đến đời Duy Tân vẫn chỉ dùng niên hiệu Hàm Nghi . Trong ứng xử với người ở đây , cái gì cũng phải minh bạch . Phải trái rõ ràng, yêu ghét rõ ràng . Đã nói là nói thẳng , đã làm là làm đến cùng . Tuy nhiên tất cả những ưu nhược điểm trong tính cách con người cùng Hồng – Lam này đã tạo nên nét nổi bật là đất nghĩa khí và tài năng .
Nghĩa khí trước hết được biểu hiện qua các việc làm trượng nghĩa bình thường của nhân dân .Đã có 1 thư sinh Bùi Cầm Hổ ra du học ở Thăng Long , đến cửa Bộ Hình minh oan cho một người đàn bà bị kết án tử hình vì tội giết chồng . Đã có 1 Ngô Trát thấy dân vất vả khi đi qua núi , bỏ công ghép lát 1645 bậc đá trên 1.300 m đường Truông Vắn , núi Hồng Lĩnh. Một Cố Bá lúc về già , dốc hết của nhà bắc chiếc cầu qua Hói cho dân qua lại . Ngày nay người ta vẫn gọi hai công trình của lòng nghĩa cử ấy là “ Truông Cố Ghép “ , là “ Cầu Cố bá “ . lại có một cố Bu làm giặc chống lại triều đình , nhưng rất thương và hay giúp đỡ dân nghèo . Một Lý trưởng Nguyễn Văn Hiền , giúp cho một toán nghĩa quân thoát khỏi vòng vây của quân triều đình , rồi ra nhận chết chém thay dân làng …” Trại Cố Bu “ ở Hồng Lĩnh và “ Thành Cố Bu “ ở Hương Khê , “ Đền ông Văn Hiền “ ở Nhượng Bạn là 2 chứng tích về 2 con người ấy .
Còn những bậc hào kiệt , anh hùng , đại diện ưu tú nhất của nhân dân thì
đời nào cũng có , nhất là trong sự nghiệp chống kẻ thù xâm lược và đô hộ .
Thời tự chủ , trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc , đời
nào cũng có người ở vùng quê Hồng Lam tham dự .
Tấm bia làng Bình Hà , Huyện Nam Thanh – Hải Dương còn ghi công trạng của
một vị tướng được phong Thần , thờ ở đây là Cao Minh Hựu , người huyện Phi Lộc
( Can Lộc ) , đã tham gia cuộc kháng chiến chống quân Tống do vua Lê Đại H2nh
lãnh đạo , trên sông Hương Đại , Tây nam sông Bạch Đằng.
Thần tích đền An Tân , huyện Gia Phúc , nay thuộc tỉnh Bắc Ninh , chép về 2
vị Thần là “ Trường Tân nhị tướng quân “ , mà sách Việt điện u linh chép lại
như sau : Lê Thạch tự Phúc Sơn , quê La Sơn , và Hà Anh tự Quang Hoa , quê châu
Diễn , khoảng niên hiệu Thiệu Hưng đời Trần Nhân Tông ( Đúng ra là niên hiệu
Thiệu bảo ( 1279-1284 ) và Trùng Hưng ( 1285- 1292 ) , phụng thị ở trong cung
Thái tử lâu ngày , được phong là Chánh , Phó thị đô lang tướng . Năm Nhâm Thân
( 1272 ) , muốn kiếm cớ sang đánh nước ta . Nhà Nguyên sai Ngột Lương ( Uriyang
), sang hỏi về dấu vết cột đồng Mã Viện . Vua Trần cho Hàn lâm hiệu thảo Lê
Kính Phu đi hội khám . Hai tướng Lê , Hà cũng được sai đem 2000 quân đao phủ đi
cùng. Ngột Lương ngạo mạn , hạch sách đủ điều Lê , Hà nói với Kính Phu : Chúng
ta vâng mệnh Vua , không được làm nhục Quốc thể . Việc dùng lý lẽ là do tiên
sinh , chúng tôi là con nhà võ , như mũi tên đã để sẵn trên dây cung , giữ lại
hay phóng đi chỉ tách một cái là xong .Hôm sau , ba người cùng gặp Ngột Lương ,
Kính Phu biện bác qua loa rằng : Cột đồng lâu ngày đã không còn dấu vết , còn 2
tướng thì quắc mắt tỏ ý phẫn nộ , làm cho Ngột Lương sợ hãi , đành phủ dụ vài
câu rồi về .Khi quân Nguyên sang đánh nước ta ( 1285) , hai người xin đi đánh
giặc . Lê Thạch được phong là “ Uy linh thượng tướng quân “ đóng đồn ở Hải Ải
Điểm khẩu. Hà Anh được phong là “ Đông lãm đại tướng quân “ , đóng đồn ở Cao
lâu khẩu . Trong trận An Bác châu , hai ông chém được tướng Nguyễn Triệu Tộ và
Giải Ninh . Nhưng trong trận Phượng Nhãn hai ông bị quân Trương Hằng phục kích
vây bắt . Tướng Toa Đô dụ dỗ , nhưng 2 ông không chịu khuất phục , đều bị giặc
chém vứt xác xuống sông Nguyệt Đức ( Đoạn chảy qua làng Nguyệt Đức ,Bắc Ninh
).Thi thể 2 người trôi về bến Trường Tân , được nhân dân vớt lên chôn ven sông
và lập miếu thờ. Về sau Triều đình ban sắc phong cho Lê Thạch là “Chính trực
đại vương và Hà Anh là “ Cương đoán đại vương “.
Đầu thế kỷ XV , nhà Minh mượn tiếng sang giúp nhà Trần đánh lại nhà Hồ
để cướp nước ta . Vùng đất Hồng – Lam trở thành điểm quy tụ lực lượng
kháng chiến . Những Bà Hồ , Động Choác , Tiên Hoa , Lục Niên …trở thành địa
danh lịch sử gắn với tên tuổi của những anh hùng , nghĩa sĩ .
Đặng Tất ( ?- 1409 ) là cháu nội Thám Hoa Đặng Bá Tĩnh đời Trần, quê làng
Đông Rạng , xã Tả Thiên Lộc ( nay là xã Tùng Lộc – Thiên Lộc ) . Gia phả chép
ông là Cống sĩ , làm quan dưới triều Trần Thuận Tông ( 1388- 1398 ) , Trần
Thiếu Đế ( 1389 – 1400) , đến chức Tri châu Thanh Hóa . Ông đứng về phe ủng hộ
Hồ Quý Ly , nên dưới triều Hồ , được cử làm Đại tri châu Hóa Châu . Nhà Hồ mất
, ông trá hàng nhà Minh để giữ binh quyền Hóa Châu . Tháng 10/1407 , vua Giản
Định khởi binh chống giặc Minh ở Mộ Độ ( Ninh Bình ) . Ông giết quan lại nhà Minh
, đưa quân ra hợp , gả con gái cho Vua , được phong Quốc công , cùng với
Đồng tri khu mật viện Nguyễn Cảnh Chân ra sức giúp rập Giản Định . Nghĩa quân
càng ngày càng lớn mạnh , như sau chiến thắng Bô Cô ( Nam Định ) Vua tôi
có sự bất đồng . Vốn hẹp hòi , đa nghi Vua Giản Định nghe lời ghèm pha đã giết
2 công thân Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.
Đặng Dung ( ? – 1414 ) : là con trưởng của Đặng Tất và 2 em là Đặng Doãn ,
Đặng Thiết đang giữ Hóa Châu , được tin cha bị giết oan , bèn cùng Nguyễn
Cảnh Dị , con của Nguyễn Cảnh Chân , đem quân ra Thanh Hóa đón Trần Quý Khoáng
( cháu vua Trần Nghệ Tông , gọi vua Giản Định bằng chú ) , về Nghê An và tôn
lên làm Vua . Ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Sửu (7/4/1409 ) , Trần Quý Khoáng lên ngôi
ở bà Hồ , huyện Chi La ( nay là xã Yên Hồ - Huyện Đức Thọ ) , lấy hiệu Trùng
Quang , phong Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo , Đặng Dung làm Đồng bình chương sự .
Sau đó vua Trùng Quang tôn vua Giản Định làm Thái thượng hoàng đế , thống nhất
lực lượng kháng chiến .Từ căn cứ Bà Hồ , nghĩa quân tiến ra đánh giặc Minh ở
Bình Than, hàm Tử rồi rút về Nghệ An củng cố lực lượng . Giữa năm 1410, Vua
cùng Nguyễn Cảnh Dị , Đặng Dung lại đưa quân ra Hạ Hồng , phá được quân của Đô
đốc Giang Hạo rồi thùa thắng đuổi giặc đến bến Bình Than . Hào kiệt nhiều nơi
nổi dậy hưởng ứng . Đến giữa năm 1412, Trương Phụ , Mộc Thạnh tiến đánh Nghệ
An. Lực lượng nghĩa quân yếu dần tiến ra Bắc , bị thất bại lại phải về Nghệ An
. năm 1413 lùi vào Hóa Châu .Đặng Dung và Nguyễn Súy đóng giữ kênh Thái Hà ,
đánh úp giặc suýt giết được Trương Phụ . Nhưng khi giặc phản công thì nghĩa
quân tan rã , Vua tôi đều bị giặc bắt đưa về Đông Quan . Dọc đường vua Trùng
Quang , Đặng Dung và Nguyễn Súy cùng nhảy xuống sông tự tận ( 1414 )….
Ngoài ra còn rất nhiều anh hùng hào kiệt : Nguyễn Biên ( Hồng Lộc- Can Lộc
) ; Phan Liêu( Thạch Linh – TP. Hà Tĩnh ); Sử Hy Nhan (? – 1421 ) và Sử Đức Huy
( 1360-1430 ) ( TX. Hồng Lĩnh ); Lê Bôi ( 1730 ? ); Phan Đán ( Tùng Ảnh – Đức
Thọ ); Võ Lộng ; Bùi Cầm Hồ ( Thiên Lộc );Phan Huân ( 1814 – 1864 )( Thiên Lộc
); Lê Ninh ( 1857- 1887 ) ( Đức Thọ ) ;Phan Cát Xu (Tiu ) ( 1846-1886 ) ( Đồng
Thái – Đức Thọ ); Phan Đình Phùng ( 1847-1896 ) ( Đồng Thái – Đức Thọ );Cao
Thắng ( 1864-1893 ) ( Hương Sơn ); Ngô Đức kế (1879 – 1992 ) ( Can Lộc ); Lê
Văn Huân ( 1876-1992 ) ( Đức Thọ ); Nguyễn Hàng Chi (1886-1908 ) ( Can Lộc
)……..
Thông minh , tài năng là đặc điểm nổi bật thứ 2 của con người vùng đất Hồng
– Lam. Thật ra thì nghĩa khí và tài năng là hai mặt liên quan chặt chẽ, không
thể tách rời . Trên đất hà Tĩnh bây giờ, từ xa xưa, đã có những con người “
truyền thuyết “ mà tài năng được nhiều người biết đến . Một người con gái
đất Phổ Minh , hát giỏi mà bạc mệnh , mất tích trong một lần vào Ngàn Hống lấy
củi , đã trở thành “ Thần hát ví “ . Một chàng trai bên bờ sông Phố , giỏi nghề
thợ dác , đi theo nghĩa quân Lam Sơn , ngày thắng lợi trở về , tiếp tục hành
nghề . Khi mất được dân dựng miếu thờ và gọi là “Tiên Dác “ . Một Võ Đức Huyền
là “ Thánh Địa lý Tả Ao “ . Một Lê mai ở Kẻ Thượng là “ Thần Y “ . Một Nguyễn
Cảnh ở Tiên Điền là “ Thánh Y “ . Một Sáu Ngại – Nguyễn Huy Ngại , được dân thợ
mộc Thái Yên gọi là “ Á Thánh “ sau Thánh thợ Lỗ Ban . dân gian còn truyền một
“ ông kẻ bề “, có tài vật bách chiến bách thắng , có tên lạ là “ Ông Ồ “ . Một
bà mụ người làng Lạc Dị , giỏi nghề hộ sinh , được Khái ( Hổ ) đến cõng vào
rừng đỡ đẻ cho Khái mạ ( Hổ mẹ ), nên dân gian trong vùng gọi là “ Mụ Khái “
.Một Trần Hồ , vạn chài , có tài lặn bắt cá dưới nước , được vua lê Thánh Tông
ban cho tên “ Thám Hồ “ . và những người có tài khôi hài thì dân xứ Nghệ gọi là
“ Trạng “..
Chuyện người tài trong dân gian thì phải kể đến hàng tháng , hàng năm . Ở
đây chỉ nói đến một số nhân tài lỗi lạc , tiêu biểu nhất cho tài năng của nhân
dân ta .Họ là con em của vùng đất núi Hồng – Sông Lam văn vật , và là những người
góp công tạo nên đất văn vật Hồng – Lam. Đó là những ông Trạng, ông bảng , ông
Thám , ông Nghè , ông Cử là những trí thức tân học hiện đại.
Thời Lý – Trần , Thăng Long và vùng phụ cận , Nho học đã phát triển mạnh
mẽ, thì Thanh , Nghệ còn là đất trại xa xôi .nếu lấy khoa cử làm mốc thì việc
học ở đây chậm sau 2 thế kỷ , và Nghệ Tĩnh so với Thăng Long cũng chậm hơn một
bước. Nhưng từ cuối thời Trần , nhất là dưới hai triều Lê – Nguyễn , xứ Nghệ
nổi tiếng là đất học , có nhiều người chăm học và học giỏi .
NGHI XUÂN BÁT CẢNH : Là tám cảnh đẹp ở huyện Nghi Xuân . Theo sách “ Nghi
Xuân thông chí – Quyển hạ “ thì nguyên trước kia có 01 cảnh , nhưng Hoàng
Giáp Bùi Dương Lịch đã dọn bớt chỉ để lại 8 cảnh .
Tám cảnh được sắp xếp theo thứ tự từng cặp đối với nhau . Mở đầu là hai bức
tranh :
* Hồng Sơn liệt chương ( Núi Hồng thành dựng ).
* Đan Nhai quy phàm ( Bờ son buồm về ).
Hồng sơn tức là Hồng Lĩnh , tục gọi là Ngàn Hống , xưa được coi là 1 trong
21 danh sơn nước Việt , cùng với sông lam là biểu tượng xứ Nghê . Núi Hồng 99
ngọn , mỗi ngọn là một thắng tích , từng được ghi vào điển thờ triều Nguyễn và
khắc hình lên “ Anh Đỉnh “ ở Kinh đô Huế.
Còn Đan Nhai ( sách cổ chép Đơn hay Đan Thai ) là xã Hội Thống bây giờ .
Đan Nhai là hải môn của Cửa Hội , cửa sông Lam ( Ngàn Cả ) chảy giữa Nghi Lộc
và Nghi Xuân . Sách “ Nghi Xuân địa chí “ của lê văn Diễn mô tả : “ Những tháng
cuối xuân sang hè , trời nắng tạnh , các loại thuyền đánh cá lớn nhỏ , cùng với
thuyền buôn từ Bắc đến , vào cửa sông có hàng mấy trăm chiếc . Buồm thuyền no
gió , dập dờn qua lại hàng đàn …khác nào như đàn bướm đang vờn hoa , bày cá
đang dỡn nước …Thật là một nơi thắng lãm hiếm có “.
Hồng Sơn – Đan Nhai là hai bức tranh toàn cảnh Sơn – Hải ( Thủy ) rộng lớn
. Có 2 bức “ Song Ngư hí thủy ( Đôi cá dỡn nước ) – “ Cô độc lâm lưu “ ( Nghé
lẻ lội sông ), là trích từ 2 bức tranh lớn đó ra , nói về 2 cảnh sơn – Thủy cụ
thể , nhỏ xinh như 2 hòn non bộ.
Song Ngư – Hòn Ngư , là đảo phía ngoài Cửa Hội , cách bờ 5 km , nay thuộc
huyện Nghi Lộc – Nghệ An .Đảo dài khoảng 1.500 m , có 2 đỉnh cao 108 m và 128
m. Do đó đứng nhìn xa giống như 2 con cá đùa dỡn giữa sóng nước . Vua Lê Thánh
Tôn , trong bài thơ “ Vịnh Đan Nhai hải môn “ ( Cửa Hội ) có câu : Đoạn tục
Song Ngư tử thúy điền – Biếc xanh dứt nối ngọn Song Ngư .
Cô Độc là trái núi nhỏ, nằm tách ra riêng ở mé sông Lam , thuộc nhóm Ngữ Mã
trong dãy Hồng Lĩnh. Do hình núi nên dân gian tưởng tượng ra là Con nghé
lẻ loi sắp lội xuống sông ( Cô độc lâm lưu ) . Núi còn có tên là “ Khu độc “ (
Con nghé đang nhảy ) . dân địa phương xã Xuân Hồng gọi là Núi bà ( có lẽ là
Tháp Sơn ở gần đó có đền thờ bà Chúa Liễu ). Trên đỉnh núi có tảng đá lớn , mặt
rộng gần trượng , giữa có 1 lỗ sâu gọi là “ Đá Cối “ . Tương truyền đó là dấu
tích Ninh quận công Trịnh Toàn giã gạo quân lương.
Cặp đôi thứ 3 là một bến đò , một cái bãi trên sông Lam : Giang đình cổ độ
( bến cổ Giang đình ) – Quần Mộc binh sa ( Bãi bằng Quần mộc ) .
Giang Đình là 1 bến đò có từ xưa , gọi là đồ Tả Ao ( Thuộc làng Tả Ao ) ,
trên bến là chợ Tả Ao. Hội Xuân quận công Nguyễn Nghiễm , thân sinh ra thi hào
Nguyễn Du khi trí sĩ, người ta dựng Giang Đình trên bến đò để đón rước , mở hội
ăn mừng . Để ghi lại sự kiện mang lại vinh dự cho địa phương , người ta đổi tên
bến đò và khu chợ thành Giang Đình . về sau , Nguyễn Du có nhắc lại việc này
qua bài thơ “ Giang Đình hữu cảm “
Ức tích ngô ông tạ lão thì ,
Phiêu phiêu bố trí thử giang nữ .
( Nhớ cụ ta khi cáo lão về ,
Mé sông này rộng ngựa cùng xe.)
Còn Quần Mộc tức là Cồn Mộc , nghĩa là bãi sa bồi , đất tốt , cây rậm .Ngôi
làng trên bãi bồi này cũng gọi là Quần Mộc . Sau này đổi thành “ báu Lâm “ (
Rừng cây quý ) , thuộc tổng Xuân Viên , nay là Xuân Giang . Sách “ Nghi Xuân
địa chí “ chép : Cồn Mộc , bãi chiến trường ngày xưa …Hồi đó quân Đàng Trong và
quân Đàng Ngoài đánh nhau ở đây…Trước đây hàng năm đến kỳ hạch Huyện để tuyển
chọn trò đi thi thường đặt thi tại chỗ này.Triều Sơn tây chỗ này được đắp thành
lũy …
Cuối cùng là một cảnh chùa và một cảnh chợ . Uyên Trừng danh tự ( Chùa đẹp
Uyên Trừng ) và Hoa phẩm thắng triền ( Chợ lớn Hoa Phẩm ).
Uyên Trừng là tên tục của chùa Dằng, trên rú Dằng ( Uyên Trừng sơn ) ,
trong nhóm Ngũ Mã phía Tây dãy Hồng Lĩnh thuộc xã Tam Đang hạ ( sau là Tam Xuân
hạ, nay là Xuân Hồng ) .Uyên Trừng là gọi theo tên núi , tên địa phương , còn
tên chính thức là chùa Hoa Tạng, từ đời Thiệu Trị, kiêng húy đổi ra là Ba Tạng.
Đây là ngôi chùa lớn dựng từ thời Lý ( nay không còn ) . sách cổ đều chép :
Phía trước chùa là sông Lam núi Hồng bao quanh 3 mặt , phong cảnh thanh u ,
tĩnh mịch . Phía trước chùa có khe , có cầu , có am viện , có ao đá do nước
suối chảy vào . Bên chùa là nơi sư ở . Xưa nay du khách đã ngâm vịnh ở chùa này
nhiều. Thật là một nơi già lam bậc nhất .
Chợ Hoa Phẩm tức là chợ Chế ở xã Tam Chế , sau đổi thành Hoa Phẩm rồi Quả
Phẩm , nay là xã Xuân Lam . Ngày trước chợ sát chân núi . Đời Lê , táng mộ Lý
nguyên phi ở núi Na nên dời chợ xuống khu đất sát sông Lam . Vua Lê Thánh
Tông có bài thơ Nôm “ Vịnh làng Chế “ như sau :
…Chợ họp bên sông gẵm có chiều,
Thuyền bày trên đất xem nhiều vẻ.
Cảnh vật bằng đây họa có hai …
Các cảnh trên đấy trước , sau Bùi Dương Lịch đều có người ngâm vịnh , nhưng
chỉ có ông Bùi là làm đủ 8 bài trong “ Nghi Xuân bát cảnh “. ( SĐD ).
" ( Trích trong Hà Tĩnh đất văn vật Hồng Lam " - Thái Kim Đính.)
MỘT CHÚT TƯỞNG NHỚ VỀ TÁC GIẢ THÁI KIM ĐỈNH.
Xin theo dõi tiếp BÀI 6 - PHẦN II. LONG MẠCH CỦA HÀ TĨNH.
Thân ái. dienbatn.